YOMEDIA
ADSENSE
TƯƠNG QUAN GIỮA GÓC NỀN SỌ VÀ XƯƠNG HÀM DƯỚI
124
lượt xem 8
download
lượt xem 8
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu sự thay đổi do tăng trưởng của góc nền sọ và mối tương quan giữa góc nền sọ và xương hàm dưới ở trẻ từ 3 đến 13 tuổi. Phương pháp: Mẫu nghiên cứu bao gồm 503 phim sọ nghiêng của trẻ 3-13 tuổi (60 trẻ 3 tuổi, 87 trẻ 5 tuổi, 71 trẻ 7 tuổi, 130 trẻ 9 tuổi, 94 trẻ 11 tuổi và 61 trẻ 13 tuổi), được lấy từ nhóm mẫu của dự án nghiên cứu hình thái sọ mặt răng của trẻ từ 3-18...
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: TƯƠNG QUAN GIỮA GÓC NỀN SỌ VÀ XƯƠNG HÀM DƯỚI
- TƯƠNG QUAN GIỮA GÓC NỀN SỌ VÀ XƯƠNG HÀM DƯỚI TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu sự thay đổi do tăng tr ưởng của góc nền sọ và mối tương quan giữa góc nền sọ và xương hàm dưới ở trẻ từ 3 đến 13 tuổi. Phương pháp: Mẫu nghiên cứu bao gồm 503 phim sọ nghiêng của trẻ 3-13 tuổi (60 trẻ 3 tuổi, 87 trẻ 5 tuổi, 71 trẻ 7 tuổi, 130 trẻ 9 tuổi, 94 trẻ 11 tuổi và 61 trẻ 13 tuổi), được lấy từ nhóm mẫu của dự án nghiên cứu hình thái sọ mặt răng của trẻ từ 3-18 tuổi tại khoa Răng Hàm Mặt- ĐHYD. Dựa vào bản vẽ nét của phim sọ nghiêng, đo đạc góc nền sọ (BaSN) và góc đánh giá độ nhô và độ mở của xương hàm dưới (SNB, SBaMe). Các đặc điểm nghiên cứu được đo đạc số trung bình và độ lệch chuẩn ở tại các thời điểm cắt ngang lúc 3 tuổi, 5 tuổi, 7 tuổi, 9 tu ổi, 11 tuổi và 13 tuổi đồng thời phân tích mối tương quan của các đặc điểm từ 3 đến 13 tuổi. Kết quả và kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt của góc nền sọ từ 3- 13 tuổi. Tuy nhiên có mối tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê (p
- Method: The study included 503 lateral cephalograms of children at age 3 (60); 5 (87); 7 (71); 9 (130); 11 (94) and 13 (61). Tracing landmarks (S, Ba, Me, N, B) and meaasuring cranial base angles was done by an orthodontic expert from the Faculty of Odonto-Stomatology at Ho Chi Minh city VietNam. The study measured the degree of protrusion and divergence of mandibular components (SNB and SBaMe) in relation to the cranial base angle (BaSN). Results and Conclusion: The results of the study demonstrated that the cranial base angle (BaSN) remained relatively constant from age 3 to 13. On the other hand, the protrusion and divergence of mandibular components (SNB and SBaMe) showed a statistically significant negative correlation to the cranial base angle (BaSN). MỞ ĐẦU Sự tăng trưởng của khối sọ – nền sọ và ảnh hưởng của nó đến sự tăng trưởng và phát triển của phức hợp hàm trên- hàm dưới là vấn đề quan tâm và đã được nhiều tác giả trên thế giới và trong nước đề cập đến. Các tác giả đã nghiên cứu và đưa ra các số liệu trung bình của các nhóm dân tộc, chủng tộc khác nhau cũng như mối liên quan giữa các đặc điểm sọ mặt. Theo Bjork (1955)(2), sự thay đổi hình dạng rõ rệt của nền sọ trong giai đoạn phôi thai có vẻ liên quan rõ rệt với độ nhô của xương hàm dưới nhưng mối liên quan này chưa được phân tích chi tiết. Jarvinen (1984)(8) đã chứng minh sự thay đổi của góc nền sọ NSAr có liên quan với sự thay đổi của góc SNA. Enlow và cộng sự
- (1971)(6); Enlow và Mc Namara (1973)(7) đã cho thấy nền sọ như là nền tảng cho sự phát triển của phức hợp hàm mặt và kích thước hộp sọ giữa ảnh hưởng đáng kể đến tương quan của phức hợp mũi – hàm trên và hàm dưới. Anderson và Popovich (1983)(1) ghi nhận những trường hợp góc nền sọ mở (góc nền sọ tăng) có khuynh hướng tương quan khớp cắn hạng II Angle. Như vậy dựa theo các tài liệu nghiên cứu của các tác giả rõ ràng cấu trúc nền sọ ảnh hưởng đến hình thể và sự phát triển của phức hợp hàm mặt(3,4,11,13,22). Thordarson và cộng sự (2006)(19) đã khuyên sử dụng các số liệu phân tích trên phim sọ nghiêng của trẻ trong thời kỳ răng sữa có thể giúp chẩn đoán sớm và thiết lập kế hoạch điều trị những bất hài hòa hàm mặt. Các nghiên cứu về sự tăng trưởng của người nói chung đa số được nghiên cứu cắt ngang tại một số thời điểm ở các lứa tuổi khác nhau. Các nghiên cứu dọc sự tăng trưởng tương đối hiếm. Ở Việt Nam, Hoàng Tử Hùng (1991)(9,10); Trần Thúy Nga (1999)(21) đã nghiên cứu các đặc điểm sọ mặt ở trẻ em từ 3-5 (6) tuổi theo phương pháp nghiên cứu dọc trên phim sọ nghiêng đã cho thấy có mối tương quan giữa góc nền sọ và độ nhô mặt. Trong nghiên cứu này chúng tôi nghiên cứu đặc điểm góc nền sọ với xương hàm dưới và mối tương quan của hai đặc điểm này của trẻ em từ 3- 13 tuổi. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Mẫu nghiên cứu gồm các nghiên cứu cắt ngang 503 trẻ em từ 3 – 13 tuổi tại các thời điểm 3 tuổi (60 trẻ); 5 tuổi (87 trẻ); 7 tuổi (71 trẻ); 9 tuổi (130 trẻ); 11tuổi (94
- trẻ) và 13 tuổi (61 trẻ). Các đối t ượng được chụp phim sọ nghiêng, vẽ nét và đo đạc để xác định sự phát triển của nền sọ và hệ thống sọ mặt. - Tiêu chuẩn chọn mẫu + Còn đủ răng trên cung hàm. + Có ông-bà, cha-mẹ là người Việt Nam, dân tộc Kinh. + Mặt nhìn nghiêng chấp nhận được với hai môi khép kín ở tư thế tự nhiên. Trang thiết bị Loại phim sử dụng: Phim tia X hiệu Kodak Dental Film cỡ 8 x 10 (T.MartTM CAT 2589852) (20,3 x 25,4cm) được tăng cường độ nhạy của phim với tia X bằng cassette hiệu Kodak Lanex Regular Screen 8x10 inch có chứa cửa sổ để ghi mã số của đối tượng nghiên cứu. Máy chụp phim: Hiệu PANEX – EX số hiệu X100 EC-9405, với loại ống đầu dài 65KVP, 10mA trong thời gian từ ½ đến 1½ giây. Kỹ thuật chụp phim Đối tượng đuợc chụp phim ở tư thế đứng, với đầu ở tư thế tự nhiên, hai môi khép kín, răng ở cắn khít trung tâm. Đầu bên trái của đối tượng nghiên cứu tiếp xúc với phim để giảm độ phóng đại và độ méo lệch. Chùm tia X đi qua tai ngoài vào thẳng góc với phim. Khoảng cách từ đầu côn đến mặt phẳng dọc giữa của đối tượng nghiên cứu là 1,52m.
- Tất cả các phim được chụp bởi duy nhất một kỹ thuật viên tại bộ môn tia X, khoa RHM, ĐHYD TP.HCM. Điều này giúp giảm thiểu sai số do thay đổi kỹ thuật chụp phim. Vẽ nét trên phim sọ nghiêng Tất cả các phim sọ nghiêng đạt yêu cầu nghiên cứu (phim chụp phải rõ nét, chụp đúng kỹ thuật, khớp cắn ở tư thế cắn khít trung tâm) đều do một người vẽ nét trên giấy vẽ nét chuyên dùng trong chỉnh hình răng mặt với viết chì đường kính nhỏ 0,5 mm. Để vẽ nét: đặt phim lên hộp xem phim với mặt quay sang phải; sử dụng giấy can 0,003 matte và viết chì đầu nhọn 0,5mm vẽ lại các cấu trúc cần nghiên cứu theo phương pháp vẽ nét đã được thống nhất trên thế giới (nếu cấu trúc có hai hình ảnh, vẽ theo đường giữa của hai hình ảnh). Các điểm chuẩn - Điểm S: tâm của hố yên xương bướm. - Điểm N: điểm trước nhất của đường khớp trán-mũi. - Điểm Ba: điểm dưới nhất của bờ trước lổ chẫm. - Điểm B: điểm lõm nhất của bờ xương ổ răng hàm dưới. - Điểm Me: điểm dưới nhất của cằm trên mặt phẳng dọc giữa. Các số đo góc
- - BaSN: góc nền sọ. - Góc S-Ba-Me: mô tả độ phát triển về phía dưới của cằm hay hàm dưới so với nền sọ sau. - SNB: mô tả độ nhô của xương hàm dưới so với nền sọ. Cách đo trên phim + Tổng cộng 503 phim của 60 trẻ 3 tuổi ; 87 trẻ 5 tuổi; 71 trẻ 7 tuổi; 130 trẻ 9 tuổi; 94 trẻ 11tuổi và 61 trẻ 13 tuổi. Tất cả các phim được vẽ và scan vào máy vi tính. + 10% của 503 phim được chọn ngẫu nhiên để vẽ và đo lại với phương pháp như trên. Nếu sai số do 2 lần thực hiện đ ược đánh giá là 0,5 mm cho các số đo kích thước và 0,5 cho các số đo về góc thì các sai số này chấp nhận được trong phân tích phim sọ nghiêng. Xử lý số liệu Các số liệu, dữ kiện thu thập được nhập vào máy vi tính và được lưu giữ lại: + Các số liệu được phân tích thống kê theo chương trình SPSS for Window để tính số trung bình, độ lệch chuẩn, các giá trị lớn nhất và nhỏ nhất. + Tính hệ số tương quan giữa góc nền sọ (Ba-S-N) và hướng phát triển (độ mở) của xương hàm dưới (S-Ba-Me) và độ nhô của xương hàm dưới (SNB)bằng hệ số tương quan Pearson.
- Hình 1: Bảng vẽ nét: điểm chuẩn S, Ba, Me, N, B. Các góc BaSN, SBaMe, SNB. KẾT QUẢ Sự thay đổi các giá trị trung bình của các số góc nền sọ, độ mở và độ nhô của xương hàm dưới trên phim sọ nghiêng của trẻ 3, 5, 7, 9, 11 và 13 tuổi được trình bày trong bảng 1 và biểu đồ 1. Góc BaSN là 128,810 ở trẻ 3 tuổi và 127,810 ở trẻ 13 tuổi; góc SBaMe là 100,420 ở trẻ 3 tuổi và 100,410 ở trẻ 13 tuổi; và tương tự góc SNB là 78,040 ở trẻ 3 tuổi và 80,410 ở trẻ 13 tuổi. Không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số đo góc BaSN và SBaMe giữa các nhóm tuổi (p>0,05). Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về giá trị trung bình của góc SNB giữa các nhóm tuổi, trong đó sự khác biệt thấy rõ (p
- Tuổi (n) 3 (60) 5 (87) 7 (71) 9 (130) 11 (94) 13 (61) M SD M SD M SD M SD M SD M SD BaSN* 128,81 4,61 128,81 4,49 129,55 4,82 129,63 4,55 128,95 4,37 127,81 5,09 SBaMe* 100,42 4,63 99,81 4,12 99,22 5,23 98,86 4,77 99,17 4,98 100,41 5,10 SNB* 78,04 3,30 77,83 2,91 77,72 2,90 78,35 3,02 79,18 3,22 80,41 3,46 * Phân tích ANOVA một yếu tố (pBaSN= 0,171; pSBaMe= 0,174 và pSNB
- Có một sự tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê giữa góc nền sọ với hướng phát triển (độ mở) và độ nhô của xương hàm dưới (p
- 3-13 tuổi với giá trị trung bình 1000. Tuy nhiên độ nhô hàm dưới lại tăng dần theo tuổi: lúc 3 tuổi SNB = 78,040 đến 13 tuổi tăng thành 80,410 . Rõ ràng, góc nền sọ và xương hàm dưới (SNB) hầu như không thay đổi từ lúc trẻ 3 tuổi đến 11 tuổi. Giá trị của SNB này thực sự tăng khi trẻ trên 11 tuổi, điều này có nghĩa là xương hàm dưới chỉ bắt đầu nhô ra trước đáng kể khi trẻ lớn hơn 11 tuổi. Tương quan giữa nền sọ và xương hàm dưới Anderson và Popovich (1983)(1), Jarvinen (1984)(8), Segner (1989)(17) đã cho thấy có mối tương quan chặt giữa góc nền sọ và phức hợp hàm mặt(2,3,5,16). Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy có mối tương quan khá chặt giữa góc nền sọ với xương hàm dưới theo chiều đứng và chiều trước sau. Góc nền sọ (BaSN) có tương quan nghịch với góc hàm dưới (SBaMe) (r = - 0,744). Điều này có nghĩa khi nền sọ gập góc ra trước (góc nền sọ giảm), góc hàm dưới sẽ tăng hay hàm dưới có khuynh hướng phát triển theo hướng mở. Ngược lại khi nền sọ duỗi ra sau (góc nền sọ tăng), góc hàm dưới giảm hay hàm dưới có khuynh hướng phát triển theo hướng đóng. Điều này hợp lý theo quy luật của tự nhiên đó là đạt đến sự hài hòa. Không những khuôn mặt bên ngoài của con người tăng trưởng và phát triển theo một tỉ lệ hài hòa, những cấu trúc bên trong xương sọ- mặt cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nếu góc nền sọ và góc hàm dưới tạo thành ba cạnh của một tứ giác thì cạnh còn lại của tứ giác sẽ là tầng trước mặt. Để khuôn mặt đạt đến sự hài hòa trong quá trình tăng trưởng và phát triển, những cấu trúc bên dưới (xương, răng) cũng có
- những sự bù trừ. Như chúng ta thấy có hiện tượng bù trừ răng – xương ổ răng theo chiều đứng và chiều trước sau để giảm sự bất hòa giữa hai xương nền hàm trên và hàm dưới theo chiều trước sau và chiều đứng. Trong nghiên cứu này chúng ta lại thấy có cả hiện tượng bù trừ giữa góc hàm dưới và góc nền sọ khi góc nền sọ tăng, góc hàm dưới giảm ngược lại khi góc nền sọ giảm, góc hàm dưới tăng. Điều này giúp giảm thiểu sự thay đổi của tầng mặt trước. Độ nhô hàm dưới được đánh giá trong nghiên cứu này qua góc SNB. Góc nền sọ BaSN có tương quan nghịch với góc SBaMe và cả với góc SNB. Điều này có nghĩa khi góc nền sọ tăng, cả độ nhô và độ mở của hàm dưới đều giảm, ngược lại khi góc nền sọ giảm, cả độ nhô và độ mở hàm dưới đều tăng. Hiện tượng tăng hoặc giảm của cả độ nhô và độ mở của hàm dưới khi góc nền sọ giảm hoặc tăng giúp hạn chế sự thay đổi nhiều của tầng trước mặt. Điều này khẳng định thêm tính chất hài hòa trong sự phát triển. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy: 1/ Góc nền sọ không đổi có ý nghĩa thống kê trong quá trình tăng trưởng và phát triển từ 3-13 tuổi. 2/ Độ nhô xương hàm dưới tăng dần theo tuổi. 3/ Không có sự khác biệt có ý nghĩa về độ mở xương hàm dưới (hướng phát triển của xương hàm dưới) từ 3-13 tuổi.
- 4/ Có mối tương quan nghịch giữa góc nền sọ với độ nhô và độ mở của xương hàm dưới trong quá trình phát triển từ 3-13 tuổi.
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn