intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

tưu duy kinh tế việt nam phần 2

Chia sẻ: Thái Duy Ái Ngọc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

74
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

những câu đó, và thêm một mệnh đề “Đúng như đồng chí... đã nói...” hoặc “Nghị quyết... đã khẳng định rằng...”, thì câu đó sẽ “thiêng” hơn. Có một đặc điểm nữa của các văn kiện về đường lối và chính sách là: Hầu hết các văn bản của Nghị quyết đều phải thể hiện sự đoàn kết trong Đảng và thể hiện tính thống nhất về chính trị tư tưởng trên các vấn đề lớn. Chính vì thế, hầu hết các văn...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: tưu duy kinh tế việt nam phần 2

  1. những câu đó, và thêm một mệnh đề “Đúng như đồng chí... đã nói...” hoặc “Nghị quyết... đã khẳng định rằng...”, thì câu đó sẽ “thiêng” hơn. Có một đặc điểm nữa của các văn kiện về đường lối và chính sách là: Hầu hết các văn bản của Nghị quyết đều phải thể hiện sự đoàn kết trong Đảng và thể hiện tính thống nhất về chính trị tư tưởng trên các vấn đề lớn. Chính vì thế, hầu hết các văn bản của Nghị quyết, Chỉ thị đều có một số đặc điểm: 1/ Trong những thời kỳ trước đổi mới, các văn bản thường nặng về những mong muốn chủ quan, do đó mỗi trang thường có hàng chục chữ “phải”, “cần”, “ra sức”, “đẩy mạnh”, “kiên quyết”... Còn các biện pháp cụ thể thì thường phải có các Thông tư hướng dẫn kèm theo. 2/ Để thể hiện được sự trung thành với những nguyên tắc cơ bản về chính trị, bao giờ cũng phải dành một phần đáng kể để trình bày những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin, trích dẫn các nhà kinh điển, các lãnh tụ..., làm cơ sở cho việc đưa ra những đường lối chủ trương mới. 3/ Những đường lối và chủ trương mới dù còn có những cách nhìn khác nhau về chi tiết, vẫn phải được thể hiện dưới hình thức thống nhất, đồng thuận. Để thể hiện tính thống nhất những vấn đề còn có nhiều ý kiến khác nhau thì văn bản phải được viết một cách “cân đối”, không thiên lệch về bên này hay bên kia. Thí dụ:“ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp...”, “chống bảo thủ trì trệ đồng thời chống chủ quan nóng vội”... Cách hành văn như thế không tránh khỏi tính chất nước đôi, không rõ ràng trong các văn bản. Chính vì thế, sau khi đã có Nghị quyết, thường phải tiến hành một bước tiếp theo là học tập Nghị quyết. Những cuộc học tập này được tiến hành trong toàn Đảng, được phổ biến từ trên xuống tới cơ sở. Trung ương Đảng thường cử những cán bộ thuộc các ngành tuyên huấn, có khi chính là thành viên của Ban Bí thư, thấp hơn là các trợ lý của Tổng Bí thư, xuống các cơ sở, các trường, các ngành, các địa phương để phổ biến Nghị quyết. Giai đoạn này chính là nơi khắc phục tính chất nước đôi, mập mờ. Đó là những lời giải thích cụ thể ý nghĩa trực tiếp của Nghị quyết và Chỉ thị của Trung ương. Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ ban hành các chính sách cụ thể. Một số quyết sách lớn thì phải đưa ra Quốc hội thông qua (nhưng sự thông qua này dường như chỉ có ý nghĩa hình thức). Sau khi được Quốc hội thông qua thì các chính sách đó được đưa vào thực thi... 30
  2. Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong Đó là xét về mặt nguyên tắc của mối quan hệ giữa lập pháp và hành pháp, còn trong thực tế, thì trước đây đã có không ít những chủ trương được đưa ra bởi một vài cá nhân, có khi chỉ là Chỉ thị miệng của một cán bộ lãnh đạo cấp cao, không thông qua một tổ chức lập pháp nào, nhưng cũng có giá trị pháp lệnh và được thi hành trong thực tế. Có thể nêu lên hai thí dụ tiêu biểu trong vô số trường hợp: 1/ Chủ trương cho vượt biên “bán chính thức”, nộp vàng cho Nhà nước để đóng tàu ra đi vào năm 1979, cho đến nay, không có một văn bản nào của phía Đảng cũng như phía Chính phủ, nhưng đã được thực thi gần như trên toàn miền Nam trong một số năm. 2/ Chủ trương tiến hành kiểm tra hành chính, tịch thu những ngôi nhà bất minh vào năm 1983 cũng như vậy, cho đến nay không tìm thấy một văn bản nào của phía Đảng cũng như phía Chính phủ về chủ trương này, nhưng trong thực tế thì một số tỉnh và thành phố đã thực hiện chủ trương này một cách khá triệt để, trong đó có Hà Nội. Đó chính là chiến dịch Z.30 đã gây những nỗi kinh hoàng trong cả nước thời kỳ đó (sẽ trình bày cụ thể vấn đề này trong các mục sau). Như vậy, trong thời kỳ này, trên con đường vận động từ tư duy đến thực tiễn, vai trò của luật pháp có phần mờ nhạt. Đó là lý do giải thích tại sao ở Việt Nam suốt một thời gian rất dài không có trường đại học Luật, thậm chí không có bộ Tư pháp. Đó cũng là một trong những lý do làm cho có những nơi, những lúc tình trạng tuỳ tiện, duy ý chí có những ảnh hưởng khá sâu rộng trên nhiều mặt của đời sống kinh tế. Sau khi đã hình thành các chính sách và đưa vào thực thi, thì các tổ chức hữu quan thuộc Trung ương Đảng cùng với các cơ quan nghiên cứu, báo chí, theo dõi tình hình, đánh giá hiệu quả của chính sách, phát hiện những chỗ chưa hợp lý, từ đó đề xuất ra biện pháp để đẩy mạnh việc thực hiện hoặc điều chỉnh chính sách nếu cần thiết. Quy trình kể trên chính là quy trình đi từ tư duy kinh tế đến chính sách kinh tế suốt từ thập kỷ 60 cho tới trước đổi mới. Những văn bản quy định mối quan hệ này thì có rất nhiều, nhưng có thể kể đến một số văn bản thể hiện đầy đủ nhất quy trình này. Trước hết là bản Chỉ thị của Ban Bí thư vào năm 1978: “Giữ nguyên tổ chức các Ban Kinh tế của Trung ương như hiện nay: 31
  3. - Ban Kinh tế – kế hoạch Trung ương: Theo dõi các mặt công tác kế hoạch, thống kê, vật tư, lao động, tài chính, ngân hàng, vật giá, nội thương và ngoại thương. - Ban Công nghiệp Trung ương: Theo dõi cơ khí luyện kim, điện than, hóa chất, dầu khí, địa chất, hải sản, lương thực thực phẩm, công nghiệp nhẹ, thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và bưu điện. - Ban Nông nghiệp Trung ương: Theo dõi nông nghiệp thủy lợi, lâm nghiệp, công tác vận động nông dân và xây dựng nông thôn. - Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương là cơ quan trực thuộc Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ, tương đương như một Ban của Trung ương và một bộ của Hội đồng Chính phủ đã được quy định theo Quyết định của Ban Bí thư số 04 ngày 10-11-1977. Theo dõi quá trình chuẩn bị những vấn đề kinh tế sẽ đưa ra bàn ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập hợp các chuyên gia có kinh nghiệm, tổ chức nghiên cứu và chuẩn bị đề án. Mọi hoạt động của các ban đều phải gắn với các hoạt động về kinh tế chung và công tác lãnh đảo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư giúp Trung ương xây dựng và quyết định chương trình công tác về kinh tế: - Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên giao nhiệm vụ, nghe báo cáo và giải quyết các kiến nghị của các Ban Kinh tế. - Đại diện các Ban Kinh tế được dự những buổi họp của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư bàn về vấn đề kinh tế có liên quan. - Các Ban Kinh tế được cung cấp tình hình và được dự cuộc họp của các cơ quan Nhà nước khi bàn những vấn đề kinh tế có liên quan. Sáu tháng hoặc một năm, các Ban Kinh tế Trung ương triệu tập các Ban Kinh tế tỉnh, thành phố họp một lần để trao đổi về tình hình, kinh nghiệm, hướng dẫn và cải tiến công tác. Các Ban Kinh tế tỉnh, thành phố thường xuyên hằng tháng, ba tháng, sáu tháng và một năm phải gửi báo cáo cho các Ban Kinh tế Trung ương có liên quan.”4 4 Chỉ thị của Ban Bí thư, số 34-CT/ TW, ngày 3 tháng 2 năm 1978, về kiện toàn các Ban Kinh tế của Đảng, tr.49-50-55. 32
  4. Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 2, khoá 5, tháng 7-1982 thì Trung ương Đảng đã quy định một cách cụ thể hơn nữa mối quan hệ giữa những cơ quan nghiên cứu, tham mưu để tập hợp những thông tin và ý kiến tới những cơ quan hoạch định chính sách. Hội nghị cũng quy định mối quan hệ giữa các cơ quan bên Đảng và các cơ quan Nhà nước trong việc hình thành các chính sách kinh tế. Ngoài ra, để thu hút trí tuệ của đông đảo quần chúng nhân, của các địa phương, các nhà nghiên cứu, Hội nghị còn đề ra những quy chế về việc tiếp xúc giữa các cán bộ lãnh đạo của Đảng với cơ sở: Có thể kể đến một số điều quy định rất cơ bản nêu ra trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 2 như sau: “Điều 20: Về chế độ chuẩn bị các quyết định: - Bộ Chính trị, Ban Bí thư sử dụng hệ thống tổ chức của Đảng, của Nhà nước và đoàn thể để chuẩn bị đề án theo chức năng của từng tổ chức. Phải bảo đảm về cơ bản đề án đã được thống nhất ý kiến trước khi tiến hành hội nghị. - Khi xét cần thiết, đề án đã được cơ quan có trách nhiệm chuẩn bị được đưa ra một Tiểu ban gồm các Ủy viên Trung ương có liên quan đến nội dung của đề án, hoặc am hiểu vấn đề đó, thảo luận để xem xét và góp ý kiến chu đáo trước khi trình Bộ Chính trị hoặc Ban Chấp hành Trung ương. - Những đề án quan trọng về kinh tế, cần tổ chức lấy ý kiến của các ngành, các cấp và cơ sở, các cơ quan nghiên cứu và chuyên gia khoa học (bằng cách mở hội nghị hoặc gửi văn bản để góp ý kiến). - Đến Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị trình bày những nội dung chính của đề án. - Hội nghị Trung ương có thể thảo luận ở hội trường hoặc kết hợp chuẩn bị ở Tiểu ban. Đoàn Chủ tịch kết luận các vấn đề đã thảo luận và lấy biểu quyết. - Ban Bí thư hoặc Hội đồng Bộ trưởng mở hội nghị cán bộ để truyền đạt hoặc chỉ gửi văn bản kèm theo kế hoạch hướng dẫn. - Những vấn đề về chính sách, chủ trương của Trung ương, thấy cần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của ngành và địa phương thì phải kịp thời báo cáo xin chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng. 33
  5. - Ban Bí thư tổ chức kiểm tra một số địa phương, cơ sở quan trọng, theo dõi việc thực hiện sơ kết, tổng kết để báo cáo kết quả. Nếu thấy có những điểm thiếu sót của Nghị quyết, Chỉ thị thì đề nghị lên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng ý kiến cần bổ sung, sửa đổi. Điều 30: Về chế độ liên hệ thực tế, tiếp xúc với quần chúng và gặp cán bộ: - Hàng năm, mỗi Ủy viên Trung ương dành khoảng 1/4 thời gian xuống cấp dưới, xuống cơ sở, gặp cán bộ. - Mỗi Ủy viên Trung ương phải có chế độ tiếp xúc với quần chúng công nhân, nông dân, trí thức để nắm được thực chất của tình hình, hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Qua liên hệ thực tế, phản ánh cho Ban Bí thư các vấn đề thấy cần. Điều 31: Chế độ làm việc với các cấp Ủy tỉnh, thành phố trực thuộc. - Ban Bí thư định chế độ làm việc để nghe báo cáo, chỉ đạo, kiểm tra, nhận xét, công tác của các cấp ủy trực thuộc và với một số huyện, một số cơ sở. - Mỗi năm hai lần Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng có chế độ vào công tác ở miền Nam để chỉ đạo các địa phương ở miền Nam. - Các cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương và của Hội đồng Bộ trưởng, Văn phòng Trung ương và Văn phòng Hội đồng Bộ Trưởng làm công tác thông tin tổng hợp trực tiếp phục vụ công việc hàng ngày của Trung ương và Chính phủ. - Kiện toàn hệ thống thống kê, các Bộ Kinh tế, Ủy ban Kế hoạch, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước và các cơ quan tài chính, ngân hàng, vật giá, các viện nghiên cứu khoa học, các cơ quan pháp chế.”5 Về mối quan hệ giữa cơ quan Đảng và cơ quan Chính phủ trong việc hình thành chính sách, Hội nghị đã quy định: “Các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng) mà trực tiếp và thường xuyên nhất là Hội đồng Bộ 5 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, tr.488-497. 34
  6. Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong trưởng, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật nhà nước.”6 Sau Hội nghị Trung ương 2, Ban Bí thư đã có Quyết định số 02 QĐ/TW quy định cụ thể về chức năng và nhiệm vụ của Ban Kinh tế Trung ương Đảng như sau: “Ban Kinh tế Trung ương Đảng có nhiệm vụ: Tổ chức nghiên cứu để cụ thể hóa những vấn đề chiến lược kinh tế – xã hội do Đại hội toàn quốc của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương đề ra. Việc xây dựng kế hoạch dài hạn, 5 năm và hằng năm vẫn do Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giúp Hội đồng Bộ trưởng làm; việc nghiên cứu của kế hoạch kinh tế dài hạn của ngành vẫn do các ngành đảm nhiệm, có sự tham gia của các Ban Kinh tế Trung ương phụ trách khối.”7 Đến giai đoạn này, đã trải qua một chặng đường quanh co từ Đại hội Đảng lần thứ IV tới những khủng hoảng kinh tế, phá rào, bung ra... nên Trung ương Đảng đã coi vấn đề đúc kết kinh nghiệm trong chỉ đạo kinh tế là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Nghị quyết của Ban Bí thư tháng 7-1982 đã nêu rõ: “Tổng kết công tác nói chung và tổng kết kinh tế nói riêng phải trở thành một phương pháp thường xuyên, định kỳ. Trên cơ sở thu thập đầy đủ tài liệu, sử dụng các cơ quan và cán bộ có liên quan, tổng kết công tác phải phân tích sâu sắc các mặt hoạt động, chỉ rõ ưu điểm và khuyết điểm, nâng cao nhận thức và cải tiến công tác, nêu ra những bài học kinh nghiệm, đạt đến kết quả. Từ nay đến cuối năm 1982 tập trung lực lượng tổng kết một số vấn đề thiết thực về chủ trương, chính sách kinh tế. Việc thực hiện các Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 6 của Trung ương (khoá IV) về phát triển sản xuất, cải tiến quản lý kinh tế, đổi mới kế hoạch hóa ở các cơ sở kinh tế trong công nghiệp, nông nghiệp; phân cấp quản lý kinh tế giữa trung ương và địa phương. 6 Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương (do Hội nghị toàn thể lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương tháng 7 năm 1982 thông qua). Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, tr.482. 7 Quyết định Số 02-QĐ/TW của Ban Bí thư, ngày 15 tháng 7 năm 1982. Về chức năng, nhiệm vụ và biên chế của Ban Kinh tế Trung ương Đảng. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, tr.509-510. 35
  7. Việc thực hiện Nghị quyết số 26- NQ/TW và Chỉ thị 109 của Bộ Chính trị về phân phối, lưu thông. Cải tạo nông nghiệp và công thương nghiệp ở miền Nam và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Giao cho Ban Kinh tế Trung ương nhiệm vụ làm cơ quan thường trực trong công tác tổng kết kinh tế.”8 Ngày 13-9-1982, Ban Bí thư đã làm việc với Ban Kinh tế Trung ương và cho những ý kiến chính như sau: “- Nghiên cứu chiến lược kinh tế: Chiến lược kinh tế (bao gồm cả chiến lược quản lý) thực chất là đường lối cụ thể về phát triển kinh tế – xã hội của Đảng trong từng thời gian. - Về tổng kết kinh tế: Ban Kinh tế Trung ương tổng hợp, phân tích, nâng cao thành đề án tổng kết chung. - Tham gia nghiên cứu những vấn đề có tính chiến lược về quan hệ kinh tế với nước ngoài và theo dõi việc thực hiện.”9 Trong việc hình thành tư duy và đưa ra những quyết sách, từ giữa thập kỷ 80 trở đi, vấn đề dư luận xã hội đã được quan tâm hơn trước. Từ những năm này một số vị lãnh đạo đã cảm nhận thấy một số sai lầm trong thời gian dài vừa qua là: Chủ quan, duy ý chí, ít quan tâm lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, đơn phương đưa ra những quyết định rồi tự cho là phù hợp với lợi ích của nhân dân, không có những kênh thông suốt để truyền tải những thông tin phản hồi từ cuộc sống... Một tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lấy dân làm gốc đã bị sao nhãng trong một thời gian khá dài, nay được đề cao như một nguyên tắc hàng đầu của tư duy và phong cách lãnh đạo. Chính theo tinh thần đó, Ban Bí thư đã có chủ trương thành lập Viện Nghiên cứu dư luận xã hội để phục vụ cho việc nghiên cứu đường lối chính sách. Thông báo số 11/QĐ/TW ghi rõ:“Viện Dư luận xã hội có nhiệm vụ tổ chức việc nghiên cứu dư luận nhân dân đối với những vấn đề cơ bản của đất nước để báo cáo với các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước...”10 8 Chỉ thị của Ban Bí thư Số 05-CT/TW, ngày 15 tháng 7 năm 1982. Về tiếp tục tổng kết công tác kinh tế. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, tr.515-518. 9 Thông báo Số 10-QĐ/TW, ngày 30 tháng 9 năm 1982. Ý kiến của Ban Bí thư về công tác của Ban Kinh tế Trung ương. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, tr.640-641. 10 Thông báo Số 11-TB/TW, ngày 16 tháng 10 năm 1982. Ý kiến... Như trên, tr.667. 36
  8. Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong Tuy nhiên, trong thực tế thì Viện này chưa ra đời, nó mới chỉ là dự kiến. Sau đó vì còn rất nhiều ý kiến khác nhau về vai trò và chức năng của nó nên nó vẫn ở tình trạng có giấy khai sinh nhưng chưa chào đời. 3. Vai trò của hệ thống các trường Đảng Trong sự hình thành đội ngũ cán bộ trên tất cả các lĩnh vực trong nước, hệ thống các Trường Đảng đóng vai trò rất quan trọng. Đó là đặc điểm chung của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Khác với các xã hội phương Tây là nơi mà việc đào tạo mọi loại cán bộ, từ các viên chức cấp cao đến những nguyên thủ quốc gia đều được thực hiện ở các trường dân sự, trong các nước xã hội chủ nghĩa, theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện và triệt để, thì phải có một hệ thống đào tạo riêng của Đảng để đảm bảo sự thống nhất về chính trị, về các quan điểm cơ bản trên tất cả các vấn đề trọng yếu của đất nước. Đó là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của cách mạng và của kháng chiến. Chính những tri thức cơ bản tiếp thu từ các trường Đảng đã giúp cho các cán bộ lãnh đạo ở các cấp đều có cách nhìn thống nhất về những vấn đề cơ bản: Quan điểm, lập trường, cách đánh giá các sự kiện trong nước và thế giới, thái độ đối với kẻ thù, đối với bạn đồng minh, đối với đồng chí... Theo quy định chung của Ban Bí thư, tất cả các cán bộ lãnh đạo ở các cấp đều phải theo học một khoá ở trường Đảng khoảng 1 năm. Đó là tiêu chuẩn bắt buộc để có thể đảm đương các cương vị lãnh đạo chủ chốt của đất nước như Bộ trưởng, Thứ trưởng, Vụ trưởng, Trưởng ban các Ban của Trung ương, Bí thư và Chủ tịch của các tỉnh, Bí thư và Chủ tịch của các huyện, Giám đốc các xí nghiệp, Cục trưởng, Vụ trưởng, Viện trưởng... Kể cả những cán bộ không làm công tác Đảng mà làm công tác chính quyền cũng phải theo học trường Đảng (trừ những người ngoài Đảng, nhưng họ thường không đóng vai trò quan trọng về chính trị). Ngoài những lớp chính khoá có tính chất bắt buộc, còn có những lớp tập huấn để cập nhật những kiến thức mới về tình hình lý luận, tình hình thực tiễn trong nước và trên thế giới cho các cán bộ chủ chốt bên Đảng và Nhà nước. Những lớp này thường được tổ chức trong khoảng thời gian từ 3 đến 6 tháng. Trong lĩnh vực nghiên cứu và giảng dạy thì một số cán bộ trẻ, có năng lực còn được cử đi đào tạo tại những lớp học của Trường Đảng Liên Xô (AON) để cập nhật những kiến thức cơ bản về hệ thống lý luận chung của các nước xã hội chủ nghĩa, về những vấn đề mới nảy sinh trên thế giới... 37
  9. Hệ thống các trường Đảng ở Việt Nam đã ra đời ngay từ thời kháng chiến chống Pháp vào đầu thập kỷ 50. Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc, thì hệ thống Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc được chính thức hình thành và có chương trình đào tạo có hệ thống. Tính từ thập kỷ 70 cho đến đầu thập kỷ 80, hơn một triệu lượt người được theo học trong hệ thống các trường Đảng.11 Từ sau ngày giải phóng miền Nam, hệ thống Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc được mở rộng trên phạm vi cả nước. Trong đó có Trường Nguyễn Ái Quốc Trung ương I đặt tại Hà Nội và Trường Nguyễn Ái Quốc II đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Nguyễn Ái Quốc III đặt tại Đà Nẵng. Các trường này có trách nhiệm đào tạo theo cả 2 hệ thống: Hệ thống cao cấp gồm các cán bộ cấp Bộ, Thứ trưởng, Bí thư và Chủ tịch tỉnh. Hệ thống trung cấp gồm các cán bộ lãnh đạo cấp huyện và các xí nghiệp. Nội dung học tại các trường Đảng gồm 3 bộ phận chính: Chủ nghĩa Marx-Lenin. Bộ môn này gồm 3 chương trình cơ bản là: Triết học Marx-Lenin, Kinh tế học Marx-Lenin, Chủ nghĩa Cộng sản khoa học. Trong bộ môn Chủ nghĩa Marx-Lenin, học viên được trang bị những tri thức cơ bản về thế giới, về lịch sử, về sự vận động của thiên nhiên và của xã hội, các quy luật của sự vận động đó, những tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, tính ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa... Xây dựng Đảng gồm: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam và Lịch sử phong trào công nhân quốc tế. Trong bộ môn này các học viên được trang bị kiến thức một cách có hệ thống về quá trình đấu tranh cách mạng của Đảng, đường lối chủ trương cách mạng của Đảng qua các thời kỳ, các nghị quyết của các Đại hội và các Hội nghị Trung ương quan trọng nhất. Qua đó, học viên được trang bị lập trường chính trị và tư tưởng của Đảng và cách nhìn nhận các vấn đề theo quan niệm của Đảng. Khoa học quản lý: Quản lý kinh tế, luật pháp, hành chính... Ngoài ba bộ phận cơ bản kể trên, học viên còn được trang bị một số kiến thức về các lĩnh vực cụ thể như cách mạng khoa học kỹ thuật, nông nghiệp và nông thôn, xã hội học, văn hóa văn nghệ... Có thể nói ít có một xã hội nào trong lịch sử có một hệ thống đào tạo toàn diện và có hệ thống về chính trị và tư tưởng như thế đối với tất cả 11 Quyết định của Ban Bí thư Số 15-QĐ/TW ngày 2/1/1983 về công tác trường Đảng. Văn kiện Đảng toàn tập, tập 44, 1983, tr.1. 38
  10. Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong các loại cán bộ chủ chốt từ trung ương xuống đến địa phương. Tính thống nhất đó là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo sức mạnh của Đảng. Tuy nhiên, cùng với những ưu điểm kể trên, đã từng có thời kỳ do không cập nhật được với nhịp phát triển của thực tế, hệ thống đào tạo này đã có hiện tượng xơ cứng, trì trệ trong cách nhìn, trong cách ứng xử đối với những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Thấy rõ tình hình đó, ngày 2/1/1983, Ban Bí thư đã có Quyết định số 15-QĐ/TW về công tác của các trường Đảng, trong đó đặt vấn đề phải cải tiến hệ thống giáo dục của các trường Đảng. Quyết định này đánh giá: “Phương pháp giảng dạy còn sách vở, truyền thụ một chiều, chưa phát huy tính chủ động của người học, phương pháp giảng dạy còn thiếu và đơn giản... Nhiệm vụ cách mạng hiện nay đòi hỏi phải tiến hành cải cách giáo dục lý luận, chính trị, trước hết là cải tiến công tác đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt của Đảng và Nhà nước, làm cho đội ngũ đó có đủ phẩm chất và năng lực, đặc biệt là năng lực tổ chức thực tiễn.”12 * * * Nhìn chung về lộ trình đi từ thực tiễn tới tư duy và từ tư duy đến chính sách trong thời kỳ trước đổi mới có một số nhược điểm mà đến Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã nhìn nhận lại và tự phê phán. Những nhược điểm đó là: - Hệ thống những kênh truyền dẫn thông tin phản hồi còn có nhiều hạn chế. Trong khi những kênh từ trên xuống được tổ chức tương đối chặt chẽ, thì những kênh phản hồi từ thực tiễn tới lãnh đạo, vì nhiều lý do khác nhau, thường là trì trệ, thậm chí sai lệch. - Sự hình thành những quan điểm, rồi từ đó đi tới những chính sách cụ thể, nhiều khi mang tính chủ quan, duy ý chí. Nhược điểm đó là do nhiều nơi, nhiều lúc thiếu sự bàn bạc tập thể để lựa chọn những phương án tối ưu. Đã từng có những quyết định rất quan trọng được đưa ra bởi một vài người, mà nhiều khi chỉ là chỉ thị miệng, không có văn bản chính thức. Chính tình trạng nể nang, nhiều khi là do sức nặng của quyền uy một chiều, đã làm mất khả năng rà soát mọi khía cạnh của các quyết định. 12 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 44, đd, tr.2-3. 39
  11. - Cùng với những nhược điểm kể trên, cũng phải kể đến những áp lực từ bên ngoài của những mô hình có sẵn. Những nguyên tắc chung về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong các Bản Tuyên bố chung của các Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế tại Moskva năm 1957 và 1960 là những khuôn mẫu bắt buộc cả về lý thuyết lẫn về đường lối mà nước nào làm trái sẽ bị toàn phe xã hội chủ nghĩa trừng phạt. Những hệ thống lý thuyết, những sách giáo khoa của các nước XHCN, những trước tác của nhiều nhà lãnh đạo các nước đó... cũng có một sức mạnh nhất định trong việc hình thành tư duy và chính sách trong nước. Thí dụ như chủ trương phân biệt tư sản dân tộc và tư sản mại bản, coi một bên là ta, một bên là địch, đã từng được coi là một luận điểm kinh điển. Thực ra đó chỉ là một luận điểm riêng của Mao Trạch Đông, không hề có trong hệ thống lý luận kinh điển của kinh tế học Marx-Lenin... Từ ngày đất nước đổi mới đến nay, nhất là từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, tính chất và ý nghĩa của nhiều công đoạn vận hành kể trên đã được cải thiện đáng kể. Tuy sự lãnh đạo toàn diện và triệt để của Đảng vẫn thực hiện đúng như trong điều 4 của Hiến pháp, nhưng sự lãnh đạo đó được điều chỉnh cho có hiệu quả hơn: - Đảng chỉ đề ra và xác định chiến lược và đường lối chung cho sự phát triển của đất nước, trong đó có sự phát triển về kinh tế. Còn việc thực thi các đường lối và chính sách đó, vạch ra những biện pháp cụ thể là trách nhiệm của phía các cơ quan Chính phủ. - Trong việc nghiên cứu để hình thành các chính sách cũng như đường lối kinh tế, vai trò của các nhà khoa học, của các cơ quan nghiên cứu thuộc bên Chính phủ được coi trọng hơn. Các Ban của Đảng được tinh giản, vì đó không phải là nơi có khả năng tổ chức nghiên cứu một cách sâu rộng các vấn đề kinh tế ngày càng trở nên phức tạp. - Cùng với vai trò của các nhà nghiên cứu trong nước, vai trò của các tổ chức nghiên cứu quốc tế, vai trò của các nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài... đã được chú ý lắng nghe và trong thực tế đã có những đóng góp rất quan trọng vào việc hình thành các chính sách kinh tế. - Vai trò của Quốc hội đã được đề cao hơn trước: Quốc hội không chỉ là nơi chuẩn y các đường lối chủ trương và chính sách, mà còn là nơi có quyền thẩm định, phê bình, đề xuất những ý kiến của nhân dân để điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với cuộc sống. Tập sách này sẽ trình bày về lộ trình đó ở Việt Nam trong giai đoạn từ 1975 đến nay. 40
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2