Lời nói đầu
Hoạt động ngoại thương góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của nền kinh tế
Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên cán cân ngoại trưởng của chúng ta cho
đến nay hầu như chưa được cân đối, phải thường xuyên nhập siêu có nghĩa là trị giá
nhập khẩu lớn hơn giá trị xuất khẩu. Điều này không hẳn là sự tác động xấu đến nền
kinh tế. Đối với đất nước ta đang trong thời kỳ đầu mở cửa nền kinh tế chuyển dần
từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nghèo
nàn, khoa học công nghệ lạc hậu. Nhập khẩu là một giải pháp để khắc phục bổ sung
những khiếm khuyết đó, tạo nên bước đột phá đưa nền sản xuất của nước nhà dần
theo kịp các nước trong khu vực và thế giới, là bước đệm tạo tiền đề cho xuất khẩu
hàng hoá dịch vụ trong tương lai.
Thực tế kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của các công ty Việt Nam hiện nay chưa
thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn. Có nhiều vướng mức xuất phát từ bản
thân doanh nghiệp và nhà nước cần phải khắc phục kịp thời.
Nhận thấy được vai trò của hoạt động nhập khẩu nên trong thời gian thực tập ở
công ty MESCO tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt
động nhập khẩu của Công ty MESCO" với kiến thức và sự hiểu biết còn hạn hẹp
nhưng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra ý kiến đóng góp của mình với mong muốn hoạt
động nhập khẩu của công ty ngày càng được hoàn thiện, hoạt động có hiệu quả đạt
được mục tiêu của công ty hoàn thành kế hoạch Bộ đã giao cho.
Chương I: Một số vấn đề lý luận về hoạt động xuất nhập khẩu
I. Khái niệm, vai trò của hoạt động nhập khẩu
1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt động kinh
doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ vượt qua biên
giới của một quốc gia. Nó gồm có hai bộ phận cơ bản cấu thành là nhập khẩu và
xuất khẩu. Hai bộ phận này có mối quan hệ mật thiết bổ sung lẫn nhau nhờ sự phối
hợp nhịp nhàng giữa chúng mà thương mại quốc tế mở ra những cơ hội mới cho tất
cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn thế giới. Người tiêu dùng có nhiều
sự lựa chọn lớn hơn đối với các hàng hoá dụch vụ ngoài ra nó còn là nhân tố quan
trọng tạo ra công ăn việc làm ở nhiều nước. Trong đó nhập khẩu được hiểu là quá
trình hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức nước ngoài được một nước mua nhằm phục
vụ quá trình sản xuất, tiêu dùng hoặc tái xuất khẩu nhằm mục tiêu thu lợi nhuận.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nghị quyết hội nghị lần thứ IX của Ban cháp hành trung ương Đảng khóa IX đẫ xác
định: tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội
nhập kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập WTO. Để thực
hiện tốt chủ trương này, một mặt phải biết phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế
trong nước, tranh thủ mọi nguồn ngoại lực để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam, mặt khác cũng hết sức quan trọng đó là
hoàn thiện các biện pháp quản lý nhập khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng yêu cầu sớm
gia nhập WTO. Điều này cho thấy vai trò của nhập khẩu hàng hoá rất quan trọng
đối với sự phát triển của một quốc gia điều này được thể hiện cụ thể qua những
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất nhờ có hoạt động nhập khẩu mà người tiêu dùng trong nước có đựa sự lựa
chọn lớn hơn đối với hàng hoá dịch vụ, nó bổ sung những thiếu hụt về cầu do sản
xuất trong nước không có khả năng sản xuất từ đó đáp ứng được nhu cầu của thị
trường nội địa, nâng cao mức sống của người dân, đa dạng hoá mặt hàng về chủng
loại.
Thứ hai, nhập khẩu sẽ phá vỡ tình trạng độc quyền trong nước, phần lớn các mặt
hàng nhập khẩu thường có tính cạnh tranh cao về chất lượng sản phẩm, kiểu dáng,
giá cả… vì vậy các nhà sản xuất trong nước muốn tồn tại được cần phải tìm mọi
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành để tăng khả năng cạnh
tranh với hàng ngoại nhập, từ đó tình trạng độc quyền bị xoá bỏ và người hưởng lợi
chính là người tiêu dùng trong nước. Nhập khẩu cũng là chiếc cầu nối giữa nền kinh
tế trong nước với nền kinh tế thế giới, nhất là đối với Việt Nam trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế. Nó là một trong những công cụ hữu hiệu giúp chúng ta xoá bỏ
nền kinh tế tự cung tự cấp để tiến tới nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, nhập khẩu giúp các nước nâng cao được trình độ khoa học công nghệ, kỹ
thuật tiên tiến của các nước công nghiệp trên thế giới. Vì nhập khẩu thường xảy ra
đối với các nước kém phát triển có trình độ khoa học kỹ thuật thấp kém, không có
khả năng sản xuất được các mặt hàng có hàm lượng chất xám cao, hoặc do trình độ
thiết bị máy móc lạc hậu nên sản xuất với chi phí cao. Trước thực trạng đó họ phải
tiến hành nhập khẩu. Thông qua hoạt động nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại, các
sáng kiến kỹ thuật được chuyển giao giữa các quốc gia nhờ vậy mà các nước kém
phát triển có thể bắt kịp trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới góp phần vào hoạt
động sản xuất trong nước phát triển.
Thứ tư, nhập khẩu thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Thông qua hoạt động nhập khẩu
các máy móc thiết bị hiện đại được nhập về, các nguyên liệu có chi phí thấp. Các
yếu tố này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành sản phẩm qua đó tăng ưu thế cạnh tranh không những trên thị trường nội địa
mà còn ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu. Đặc biệt là đối với các nước kém phát
triển có giá nhân công rẻ như Việt Nam đây là một lợi thế lớn.
Thứ năm, nhập khẩu nó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của một nước diễn ra
nhanh hơn. Vì nhập khẩu sẽ làm cho môi trường cạnh tranh diễn ra gay gắt, các chủ
thể kinh tế phải luôn tự đổi mới hoàn thiện mình mới mong đứng vững trên thị
trường. Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể yếu kém sẽ bị loại khỏi cuộc chơi,
chỉ có chủ thể mạnh áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến mới tồn tại được điều này
nó kéo theo sự phát triển của xã hội.
Thứ sáu, thông qua hoạt động nhập khẩu các chủ thể kinh tế giữa các quốc gia có cơ
hội giao lưu học hỏi kinh nghiệm của nhau, tạo điều kiện cho quá trình phân công
lao động và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển đồng thời tận dụng được
lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Vì mỗi quốc gia đều có lợi thế so sánh nên hoạt
động nhập khẩu nó tạo điều kiện thuận lợi cho cả hai bên trên cơ sở hợp tác hoá
cùng có lợi.
Thứ bảy, nhập khẩu nó đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng
trong nước, góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng trong nước diễn ra
thường xuyên và ổn định vì không phải lúc nào thị trường trong nước cũng cung
cấp được các yếu tố đầu vào đáp ứng cho sản xuất trong nước diễn ra. Ví như Việt
Nam phải nhập khẩu phôi thép nên không có nhập khẩu sản xuất trong nước sẽ trì
trệ. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày càng tăng vì vậy nhập khẩu sẽ
khắc phục được hiện tượng mất cân đối giữa cung và cầu trong nước.
Nói tóm lại hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển nền
kinh tế của một quốc gia. Thông qua hoạt động nhập khẩu quan hệ hợptác kinh tế
quốc tế ngày càng được mở rộng, góp phần tăng năng suất lao động, trình độ phân
công lao động ngày càng cao, đời sống người dân được nâng cao về vật chất lẫn
tinh thần. Điều này được thể hiện rõ ở các nước kém và đang phát triển điển hình
như Việt Nam. Chúng ta đã chủ động tiến hành hoạt động nhập khẩu để phục vụ
cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; thúc đẩy cơ giới hoá nông
nghiệp, tác động đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, sinh học hoá, phục vụ công nghiệp chế
biến nông lâm thuỷ sản để nâng cao chất lượng phục vụ cho xuất khẩu. Thúc đẩy sự
ra đời của ngành công nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp may mặc… tạo ra những
sản phẩm có giá trị cao.
3. Các hình thức nhập khẩu
Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu khá phổ biến đối với các doanh nghiệp
nhưng do trình độ phát triển ngày càng cao, do sự tác động của điều kiện kinh
doanh, điều kiện môi trường nên các doanh nghiệp đã sáng tạo ra nhiều hoạt động
nhập khẩu sao cho phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp tuỳ
theo điều kiện của mình là lựa chọn hình thức phù hợp. Sau đây là một số hình thức
nhập khẩu mà doanh nghiệp Việt Nam thường áp dụng.
3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động độc lập của công ty, khi tiến hành nhập khẩu theo
phương thức này doanh nghiệp phải tự mình nghiên cứu thị trường trong và ngoài
nước, tính toán chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu có lợi nhuận. Tuân thủ theo
chính sách pháp luật quốc gia và quốc tế. Hình thức nhập khẩu trực tiếp hai bên
(bên nhập khẩu và bên xuất khẩu) trục tiếp giao dịch với nhau, việc mua bán không
ràng buộc lẫn nhau. Trong đó bên nhập khẩu phải:
- Phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động, phải tự nghiên cứu thị trường,
chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận, lưu kho, chi phí quảng cáo, chi phí tiêu thụ
hàng hoá và thuế giá trị gia tăng.
- Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp được tính hạn ngạch nhập khẩu và khi tiêu thụ
hàng hoá nhập khẩu sẽ được tính vào doanh số và phải chịu thuế giá trị gia tăng.
- Để tiến tới ký kết hợp đồng hai bên thường phải qua một quá trình giao dịch,
thương lượng với nhau về điều kiện giao dịch.
- Độ rủi ro của hoạt động nhập khẩu này thường cao hơn các hoạt động nhập khẩu
khác nhưng lợi nhuận lại cao hơn.
3.2. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu phải thông qua trung gian. Bên trung
gian nhận sự uỷ thác của doanh nghiệp tiến hành giao dịch, đàm phán với đối tác
nhập khẩu để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ thác. Nhập khẩu uỷ
thác có những đặc điểm chủ yếu sau:
Bên nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không phải nghiên
cứu thị trường công việc này thuộc bên uỷ thác. Bên nhận sự uỷ thác chỉ đứng ra đại
diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bên đối tác nước ngoài, ký kết hợp
đồng và làm thủ tục nhập hàng, thay mặt bên uỷ thác khiếu kiện, đòi bồi thường với
đối tác nước ngoài khi có sự vi phạm hợp đồng gây thiệt hại.
Quyền lợi mà bên nhận uỷ thác có được từ bên uỷ thác là phí uỷ thác. Thông thường
doanh nghiệp nhận uỷ thác được hưởng một khoản thù lao trị giá 0,5% đến 1,5%
tổng giá trị hợp đồng và phải nộp thuế thu nhập trên nguồn thu này, khi tiến hành
nhập khẩu doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không
tính vào doanh số và nộp thuế giá trị gia tăng.
Việc sử dụng trung gian giúp cho doanh nghiệp giảm được mức độ rủi ro do những
người trung gian thường hiểu biết về thị trường, pháp luật và tập quán địa phương.
Do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán tránh bớt rủi ro cho người uỷ thác.
Mặt khác các nhà trung gian thwongf có cơ sở vật chất nhất định nên khi sử dụng
họ, người uỷ thác đó phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Tuy nhiên khi sử dụng
doanh nghiệp uỷ thác họ bị chia rẽ lợi nhuận, mất sự liên lạc trực tiếp với thị trường
3.3. Nhập khẩu song song
Đề cập đến nhập khẩu song song là đề cập đến hoạt động thương mại gắn liền với
hàng hoá chứa đựng đối tượng SHCN (Sở hữu công nghiệp) được bảo hộ, nhập
khẩu song song được hiểu là một nhà nhập khẩu không có mối liên hệ nào với chủ
đối tượng SHCN, tiến hành hành vi nhập khẩu một hàng hoá nhất định chứa đựng
đối tượng SHCN nói trên đã được cung cấp bởi một nhà phân phối được cấp
licence hoặc chủ đối tượng SHCN. Như vậy, một loại hàng hoá chứa đựng đối
tượng SHCN sẽ được ít nhất hia nhà khác nhau cung cấp trên một thị trường và chỉ
có một trong các nhà phân phối này được đồng ý chủ sở hữu đối tượng SHCN về
việc thực hiện hành vi thương mại đối với đối tượng SHCN đó.
Đặc điểm của nhập khẩu song song:
- Chủ SHCN và nhà nhập khẩu không có mối liên hệ nào.
- ít nhất có hai nhà phân phối cung cấp trên một thị trường được chỉ định bở
CSHCN
- Liên quan trực tiếp đến hai mảng quan trọng của thương mại hiện đại đó là: tự do
thương mại và việc bảo hộ quyền SHCN.
Nhập khẩu song song làm xuất hiện xung đột lợi ích giữa các bên liên quan. Do có
hành vi nhập khẩu song song mà bên có quyền với đối tượng SHCN không khai
thác hết được quyền của mình đối với đối tượng SHCN. Nhưng nhập khẩu song
song mang lại lợi ích rất thiết thực đối với thị trường: Khuyến khích tự do cạnh
tranh, vì vậy việc cho phép nhập khẩu song song hay không sẽ dẫn đến khả năng bắt
buộc phải lực chọn giữa việc bảo hộ nguyên tắc tự do cạnh tranh và việc bảo hộ
quyền SHCN. Đây là một mảng của thương mại hiện đại, đối mặt với vấn đề này
mỗi quốc gia đều đưa ra quan điểm của mình. Nhìn chung vấn đề nhập khẩu song
song được giải quyết linh hoạt ở các nước khác nhau.
3.4. Nhập khẩu đối lưu
Nhập khẩu đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó nhập khẩu
gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán không bằng tiền mặt mà dùng hàng hoá có giá
trị tương đương để trao đổi hay còn gọi nhập khẩu theo phương thức hàng đổi hàng.
Loại hình nhập khẩu này có những đặc điểm sau:
- Trong mỗi hợp đồng có những điều kiện ràng buộc lẫn nhau khiến cho người nhập
khẩu cũng đồng thời là người xuất khẩu.
- Điều kiện cân bằng phải cân bằng về mặt hàng, về giá cả, cân bằng về mặt tổng
giá trị hàng giao cho nhau và cân bằng về điều kiện giao hàng.
- Người nhập khẩu cùng một lúc thu lãi từ hai hoạt động: nhập khẩu và xuất khẩu
điều này làm lợi cho cả hai bên.
- Trong quá trình trao đổi hàng hoá dịch vụ hai bên phải quy định thống nhất lấy
một đồng tiền làm vật ngang giá chung cho quá trình trao đổi.
3.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động mua hàng hoá từ nước ngoài về nhưng mục đích
không phải để tiêu dùng trong nước mà xuất khẩu sang nước thứ ba nhằm thu một
khoản ngoại tệ lớn hơn. Mặt hàng này chưa qua chế biến ở nước mình mà được xuất
khẩu trực tiếp sang nước thứ ba. Như vậy, hoạt động nhập khẩu tái xuất luôn thu hút
ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước nhập khẩu.
Đặc điểm của hoạt động tái xuất:
- Người kinh doanh tái xuất phải ký hai hợp đồng một hợp đồng nhập khẩu và một
hợp đồng xuất khẩu không chịu thuế XNK
- Hàng hoá có thể chở thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu nhưng nước
tái xuất nhận tioền từ nước nhập khẩu và thanh toán tiền cho nước xuất khẩu.
- Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tái xuất quy định dùng phương thức thư tín
dụng giáp lưng. Kinh doanh theo hình thức này đòi hỏi sự nhạy bén tình hình thị
trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong hợp đồng mua bán.
3.6. Nhập khẩu gia công
Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu nhập nguyên
liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra thành phẩm, giao lại
cho bên đặt gia công và nhận thù lao
Đặc điểm của hình thức này:
- Hoạt động nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất
- Cả hai bên cùng có lợi: bên đặt gia công giúp họ tận dụng được nguyên liệu và gia
công rẻ của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia công giúp tạo công ăn việc
làm trong nước, tiếp nhận được thiết bị công nghệ mới.
- Bên nhận gia công chịu mọi chi phí và rủi ro của quá tình sản xuất gia công.
- Hoạt động này về phương thức thanh toán người ta có thể áp dụng nhiều phương
thức thanh toán như: nhờ thu, thành toán bằng thư tín dụng
Trên đây ta xét một số hình thức nhập khẩu cơ bản. Trong đó nhập khẩu trực tiếp là
hoạt động phổ biến nhất và tồn tại lâu đời nhất. Trải qua nhiều biến đổi của x• hội
hoạt động nhập khẩu có nhiều hình thức được sáng tạo ra nhằm đáp ứng nhu cầu
thay đổi đó. Việc áp dụng hình thức nào là tuỳ thuộc và điều kiện và trình độ cũng
như năng lực của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia. Đứng trước thực trạng đó mỗi
quốc gia mỗi tổ chức quốc tế đều đưa ra quan điểm của mình. Bởi đây là một vấn
đề nhạy cảm liên quan đến thương mại của mỗi quốc gia, cho nên không phải quốc
gia nào cũng có được quan điểm rõ ràng nhất quán. Nhìn chung vấn đề nhập khẩu
được giải quyết hết sức linh hoạt ở các nước khác nhau.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
Hoạt động thương mại nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đều chịu ảnh
hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau như: kinh tế, chính trị, luật pháp văn hoá, xã
hội… Các yếu tố này sẽ gây ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến hiệu quả kinh
doanh. Nhìn chung ta có thể chia nhóm ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu là
nhóm chủ quan và nhóm khách quan.
4.1. Các yếu tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan tự bản thân doanh nghiệp có thể điều chỉnh khắc phục được,
nó thuộc bản thân doanh nghiệp. Các nhân tó này có tác động tích cực hay tiêu cực
đến hoạt động kinh doanh, hoạt động nhập khẩu điều này phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như: vốn, nguồn nhân lực, về xây dựng thể chiế chính sách phát triển thị trường,
về kết cấu hạn tầng thương mại, về hình thành kênh phân phối lưu thông, hoạt động
sản xuất kinh doanh và về tổ chức doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần phải tự đánh giá đùng khả năng của mình để đề ra những mục
tiêu phù hợp cần đạt tới và cách thức để mục tiêu đó. Một kế hoạch chiến lược được
thiết lập và phát triển cho toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp nói chung và
hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy là cơ sở đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả. Sự phối hợp giữa các bộ phận sẽ diễn ra nhịp nhàng thông suốt nếu bộ máy tổ
chức có cơ cấu hợp lý. Trong đó yếu tố con người đóng vai trò quan trọng đối với
sự thành bại của một doanh nghiệp. Một đội ngũ cán bộ có trình độ có kỷ luật
nghiệp vụ thành thạo, có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động xuất nhập khẩu giúp
cho doanh nghiệp tránh được nhiều thiếu sót trong quá trình tiến hành thủ tục nhập
khẩu, dự kiến trước được tình hình biến đổi trên thị trường xuất nhập khẩu để đề ra
biên pháp, chính sách xuất nhập khẩu phù hợp.
Một hệ thống kênh phân phối tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí,
hàng hoá tiệu thụ nhanh và kịp thời đến khách hàng. điều này ảnh hưởng tới tình
hình nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì khi hàng hoá tiêu thụ mạnh có nghĩa là sản
xuất sẽ được mở rộng doanh nghiệp vì vậy mà nhu cầu nhập khẩu phục vụ cho sản
xuất tiêu dùng tốt hơn.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh đều cần đến vốn. Nguồn vốn
mà doanh nghiệp có được bằng nhiều cách: vốn tự có, vốn góp và vốn vay hoặc lợi
nhuận tái đầu tư. Quy mô sản xuất kinh doanh ít nhiều phụ thuộc vào nguồn vốn mà
doanh nghiệp có được nó là cơ sở để đảm bảo khả năng thanh toán đối với lượng
hàng hoá nhập khẩu.
Kết cấu hạ tầng thương mại đảm bảo cho hàng hoá giữ được phẩm chất. Nếu doanh
nghiệp có kết cấu hạ tầng thương mại tố sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh được
những thiệt hại, rủi ro sẽ diễn ra đối với hàng hoá như: đổ vỡ, sự tác động của môi
trường tự nhiên…
4.2. Các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nó không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp điều này buộc
doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi hoặc tuân thủ các nguyên tắc và quy luật.
Các yếu tố khách quan cơ bản gồm có những yếu tố sau:
* Yếu tố thuộc về môi trường chính trị như: Tác động của hệ thống luật pháp, hệ
thống các công cụ chính sách của nhà nước, cơ chế điều hành của chính phủ.
Một doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế phải chịu sự điều
chỉnh của hệ thống luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế nhằm điều chỉnh hành
vi kinh doanh của doanh nghiệp. Tất cả các văn bản luật chỉ rõ doanh nghiệp được
kinh doanh hàng hoá gì? Cấm kinh doanh hàng hoá gì? Chất lượng hàng hoá phải
đảm bảo gì? Có bị kiểm soát hay không?
Hệ thống công cụ chính sách của nhà nước tác động không nhỏ tới hoạt động XNK
của doanh nghiệp. Công cụ chính sách rất nhiều bao gồm những công cụ chính
sách chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân và các chính sách đặc thù về từng lĩnh
vực. Các chính sách điển hình có: chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính
sách tiền tệ, chính sách XNK, chính sách phát triển thị trường. Tất cả các chính sách
đó đều liên quan đến khuyến khích hay hạn chế hoạt động XNK của doanh nghiệp
do đó chúng buộc các doanh nghiệp phải tính đến khi ra các quyết định XNK.
Cơ chế điều hành của nhà nước cũng tác động lớn đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Cơ chế điều hành của chính phủ sẽ liên quan trực tiếp tới tính hiệu
lực của luật pháp và chính sách kinh tế. Nếu một chính phủ mạnh, điều hành chuẩn
mực và tốt sẽ khuyến khích kinh doanh chính đáng. Nếu không điều hành tốt hoạt
động XNK sẽ mất phương hướng thí dụ như số lượng, thời điểm, giá cả… Hàng hoá
nhập khẩu không được điều hành tốt có thể làm cho thị trường trong nước biến
động và gây khó dễ cho kinh doanh.
* Đối thủ canh tranh
Doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh phải đối mặt với nhiều đói thủ cạnh tranh
trong và ngoài nước. Cùng với sự lớn mạnh của nền sản xuất trong nước khoảng
cách giữa các doanh nghiệp ngày càng thu hẹp, nhiều sản phẩm, ngành lĩnh vực có
chất lượng cao có khả năng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, hàng hoá
trong nước có khả năng thay thế hàng ngoại nhập. Trước thực trạng đó doanh
nghiệp phải tính đến đến sự lớn mạnh của sản xuất trong nước để xem xét khả năng
nhập khẩu chủng loại hàng hoá đó có thực sự cạnh tranh với hàng hoá trong nước
hay không. Không phải mặt hàng nào nhập khẩu đều có thể chiếm ưu thế cạnh tranh
với hàng nội. ở Việt Nam tính từ năm 2000 đến nay tốc độ tăng trưởng của nhập
khẩu thấp hơn tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu, nếu so sánh trên cùng một mặt
hàng của một số mặt chủ yếu thì tốc độ xuất khẩu thành phẩm cao hơn tốc độ xuất
khẩu nguyên liệu bán thành phẩm, nếu loại trừ mặt hàng tạo nên tăng đột biến kim
ngạch nhập khẩu thì nhập khẩu tăng 18,6% thấp hơn so với tăng xuất khẩu là
27,3% còn nếu lại bỏ yếu tố biến động giá cả bất thường thì kim ngạch nhập khẩu
tăng 11,9% thấp 2 lần so với tốc độ tăng nhập khẩu. Tất cả các yếu tố trên đây phản
ánh nội lực kinh tế đất nước ngày càng phát triển.
* Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế trước hế phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế chung về cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cầu vùng. Tình hình đó tạo nên sự hấp dẫn về thị trường đối
với các thị trường khác nhau. Nhập khẩu thực tế của doanh nghiệp có thể bị ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố trong nước và quốc tế. Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn
khủng hoảng, tỷ lệ lạm phát cũng như thuế kháo tăng buộc các doanh nghiệp phải
đắn đo khi đưa ra các quyết định nhập khẩu hay không vì nó sẽ ảnh hưởng đến yếu
tố đầu ra, có thể sẽ làm tăng giá thành sản phẩm tác động tiêu cực đến khả năng
cạnh tranh. Tình hình sẽ trái ngược lại khi mà nền kinh tế trở lại thời kỳ phục hồi và
tăng trưởng.
* Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm hệ thống các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng nhiều mặt tới
nguồn lực đầu vào cần thiết cho các nhà hoạt động sản xuất kinh doanh. Sự thiếu
hụt nguồn nguyên vật liệu thô, sự gia tăng chi phí năng lượng ngày càng trở nên
nghiêm trọng, đòi hỏi các nhà sản xuất phải tập trung sử dụng nguồn nguyên liệu
thay thế. Chất thải công nghiệp, chất thải rắn, chất thải không được tái chế đang là
vấn đề nan giải cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Cùng với quy định chặt chẽ về
bảo vệ môi trường đòi hỏi các doanh nghiệp tìm kiếm đầu vào từ các nước khác làm
ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp.
* Môi trường công nghệ kỹ thuật
Môi trường công nghệ kỹ thuật bao gồm các nhân tố gây tác động ảnh hưởng đến
công nghệ mới, sáng tạo sản phẩm và cơ hội thị trường, nó là nhân tố quan trọng
nhất tạo ra thời cơ và đe doạ các doanh nghiệp. Công cuộc cạnh tranh về kỹ thuật
công nghệ mới không chỉ cho phép các công ty chiến thắng trên phạm vi toàn cầu
mà làm thay đổi bản chất của sự cạnh tranh. Bởi vì nó tác động mạnh mẽ đến chi
phí sản xuất, năng suất lao động, ảnh hưởng đến các biện pháp cụ thể của hoạt động
thương mại nói chung và nhập khẩu nói riêng. Các nhà hoạt động kinh doanh phải
nắm bắt và hiểu rõ được bản chất của những thay đổi trong môi trường công nghệ
kỹ thuật cùng nhiều phương thức khác nhau mà mỗi công nghệ mới có thể phục vụ
cho đòi hỏi sản xuất của công ty đồng thời cảnh giác các khả năng xấu có thể xảy
ra.
* Hệ thống tài chính ngân hàng
Hệ thống tài chính ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu
nó can thiệp sâu vào hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp chi phối tới hoạt động
này. Nó là cơ sở là chỗ dựa cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh; cung
cấp vốn cho doanh nghiệp, đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp diễn ra
thuận lợi và nhanh chóng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh
doanh ngoài ra với hệ thống ngân hàng tài chính đủ mạnh sẽ làm tăng uy tín của
doanh nghiệp đối với các bạn hàng
II. Nội dung của nhập khẩu
1. Nghiên cứu thị trường
Khái niệm thị trường có thể xét nhiều góc độ khác nhau, từ có có định nghĩa khác
nhau. Theo quan điểm của kinh tế học thì thị trường là tổng thể cung và cầu đối với
1 lại hàng hoá nhất định trong một thời gian và không gian cụ thể. Theo định nghĩa
này giả thiết cơ sở là tổng cung và cầu về 1 loại hàng hoá trên thị trường vận động
theo những quy luạt riêng và điều tiết thị trường thông qua quy luật cung cầu. Nếu
đứng trên giác độ quản lý 1 doanh nghiệp, khái niệm thị trường phải được gần với
các tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường như người mua, người bán, người phân
phối… Với những hành vi cụ thể của họ. Vậy so sánh hai khái niệm trên đây thì
khái niệm trên mang nặng tính lý thuyết còn khái niệm dưới giác độ doanh nghiệp
không phải bao giời cũng tuân theo quy luật cứng nhắc dựa trên lý thuyết vì hành vi
của người mua và người bán chịu tác động của yếu tố tâm lý và điều kiện giao dịch.
Vậy đứng trên giác độ doanh nghiệp thì "thị trường là tập hợp những khách hàng
tiềm năng của doanh nghiệp".
Từ khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm thị trường quốc tế của doanh nghiệp
"thị trường quốc tế của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng nước ngoài tiềm
năng của doanh nghiệp đó". Theo khái niệm này thì số lượng và cơ cấu nhu cầu của
khách hàng nước ngoài đối với sản phẩm của doanh nghiệp cũng nhưng sự biến
động của các yếu tố đó theo không gian và thời gian là đặc trưng cơ bản của thị
trường quốc tế của doanh nghiệp. Số lượng và cơ cấu nhu cầu chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, vĩ mô và vi mô đòi hỏi mỗi doanh nghiệp
phải nghiên cứu một cách tỷ mỉ. Thị trường quốc tế nó phức tạp hơn nhiều so với
thị trường nội địa do có sự khác biệt về hệ thống chính trị - văn hoá- luật pháp và
các yếu tố do môi trường địa lý quy định do đó nó chứa định rủi ro cao hơn đối với
hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, vì vậy đòi hỏi
doanh nghiệp phải am hiểu luật pháp, văn hoá và hệ thống chính trị nhằm hạn chế
những thiệt hại có thể gặp phải.
Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh hàng hoá XNK ngoài phải nghiên cứu thị
trường nội địa cần phải nghiên cứu thị trường nước ngoài. Vì vậy nội dung nghiên
cứu thị trường gồm có thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
1.1. Nghiên cứu thị trường nội địa
Khi tiến hành nghiên cứu thị trường nội địa các doanh nghiệp phải tiến hành nghiên
cứu các khía cạnh sau:
* Nghiên cứu nhu cầu của thị trường
Doanh nghiệp phải xác định được nhu cầu tiêu dùng hàng hoá trong nước, dự kiến
mua hàng của khách hàng, nghiên cứu xem khách hàng cần những đặc tính nào và
đánh giá như thế nào đối với từng đặc tiếnh của hàng hoá. Chừng nào mà nhà kinh
doanh hiểu rõ được khách hàng sẽ cần loại hàng hoá gì? hàng hoá đó phải có những
đặc điểm gì? Điều đặc trưng quan trọng nhất? Để tạo ra nó phải tốn chi phí bao
nhiêu? Tương ứng với nó là mức giá nào? Thì khi đó họ mới hy vọng kinh doanh có
hiệu quả và mang lại lợi nhuận.
* Nghiên cứu cơ cấu mặt hàng nhập khẩu
Việc nghiên cứu cơ cấu mặt hàng nhập khẩu là rất cần thết đối với doanh nghiệp
tiến hành kinh doanh nhập khẩu. Khi nghiên cứu vấn đề này cần xem xét thực trạng
mặt hàng hiện tại trong nước như thế nào về khía cạnh: tình hình tiên dùng mặt
hàng đó, số lượng các nhà cung ứng nước ngoài, tình hình sản xuất trong nước,
chính sách mà nhà nước áp dụng cho các mặt hàng nhập khẩu đó để lựa chọn lĩnh
vực kinh doanh có khả năng hấp dẫn khách hàng nhất.
* Nghiên cứu giá hàng
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá nhập khẩu. Vấn đề giá cả rất
nhạy cảm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp đến quyết định mua
hàng của khách hàng. Nó chịu tác động của nhiều yếu tố bao gồm các yếu tố bên
trong và bên ngoài, trở thành công cụ hữu hiệu cho mục tiêu kinh doanh hàng hoá
nhập khẩu phục vụ đắc lực cho chiến lược kinh doanh của công ty.
* Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
ảnh hưởng của cạnh tranh có thể xem xét phân tích khía cạnh sau:
- Tương quan so sánh giữa giá thành giữa công ty và đối thủ cạnh tranh trong cùng
lĩnh vực hoạt động
- Mức độ ảnh hưởng của đối thủ và hàng hoá cung ứng sẽ áp dụng các chính sách,
chiến lược như thế nào?
- Luôn theo dõi sát sao các động thái kinh doanh của đối thủ nhằm có sách lược đối
phó kịp thời với những thay đổi đó của đối thủ, biết được họ đang kinh doanh ở thị
trường nào?
1.2. Nghiên cứu thị trường nước ngoài
thị trường nước ngoài phức tạp hơn nhiều đối với thị trường nội địa do có sự khác
biệt về hệ thống kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội - luật pháp và phong tục tập
quán. Điều này đòi hỏi những người làm công tác nghiên cứu thị trường phải hiểu
sâu sắc về các yếu tố trên điều quan trọng là phải thông thạo nghiệp vụ. Thông
thường khi nghiên cứu thị trường nước ngoài thường tập trung vào các vấn đề trọng
tâm sau:
* Nghiên cứu khả năng cung ứng của thị trường nước ngoài: Đây là chỉ tiêu quan
trọg tác động đến sự ổn định kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình kinh
doanh. Mỗi nhà cung ứng nước ngoài không bao giời là một nhà cung ứng thuần
nhất doanh nghiệp không nên lựa chọn 1 nhà cung ứng duy nhất mà nên tìm nhiều
nhà cung ứng nhằm phân tác rủi ro trong quá trình nhập khẩu, đa dạng hoá nguồn
nguyên liệu đầu vào đảm bảo khả năng cung ứng nguồn đầu vào ổn định phục vụ
cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra thông suốt không bị gián đoạn. Một khía
cạnh quan trọng cần được nghiên cứu là sự biến động theo thời gian của các nhà
cung ứng biểu hiện qua số lượng tăng giảm, giá cả hàng hoá nk của hàng hoá đó.
Nó đã phản ánh triển vọng phát triển của các nhà cung ứng trong tương lai để doanh
nghiệp có thể xác định sự thích ứng trong lượng cung cấp và các chính sách thương
mại hợp lý.
* Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế - chính trị - luật pháp - văn hoá
và phong tục tập quán của mỗi quốc gia
Khi nghiên cứu thị trường của các nhà cung ứng nước ngoài doanh nghiệp phải tiến
hành nghiên cứu các nhân tố trên. Vì mỗi nước có luật pháp, hệ thống văn hoá kinh
tế chính trị riêng áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu nhằm khuyến khích hay hạn
chế hàng hoá xuất khẩu đó nó ảnh hưởng đến quan hệ giao dịch giữa các bên.
Sự khác biệt về văn hoá sẽ ảnh hưởng đến cách thức giao dịch sẽ được tiến hành thí
dụ như một số nước trong giao dịch thanh toán bằng tiền mặt, một số nước thanh
toán bằng thẻ… Điều này sẽ gây cản trở cho hoạt động XNK và doanh nghiệp cần
phải thích nghi với môi trường văn hoá mà định tiến hành nhập khẩu.
Nhân tố thuộc môi trường chính trị - luật pháp cần phải tập trung vào một số vấn đề
chủ yếu sau:
- Sự ổn định chính trị: Mỗi một quốc gia khi thay đổi thể chế chính trị có thể kéo
theo mọi sự thay đổi khác như áp dụng chính sách thương mại mới hay mức thuế
mới.
- Sự điều tiết về tiền tệ: Những quy định về quản lý ngoại hối sẽ gây khó khăn cho
hoạt động XNK nói riêng và hoạt động thương mại nói chung.
- Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền: Tức là mức độ mà chính quyền nước xuất
khẩu điều hành hệ thống hữu hiệu để hỗ trợ các doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu.
- Các quy định mang tính chất pháp lý bắt buộc và quản lý cần phải được xem xét
kỹ lưỡng như: Cấm đoán hoặc kiểm soát đối với một số hàng hoá và dịch vụ, cấm
một số phương thức hoạt động thương mại, cấm kiểu kiểm soát giá cả…
* Nghiên cứu giá cả hàng hoá quốc tế
Doanh nghiệp tiến hành kinh doanh mục tiêu là lợi nhuận đạt được. Nhân tố ảnh
hưởng đến lợi nhuận có nhiều trong đó giá cả hàng hoá. Nếu doanh nghiệp nhập
hàng với giá cao đồng nghĩa với chi phí sẽ tăng lên phần lợi nhuận sẽ giảm xuống.
Khi đó muốn có lãi doanh nghiệp phải nâng giá bán điều này làm giảm khả năng
cạnh tranh.
Yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải nghiên cứu tình hình biến động giá cả
hàng hoá trên thế giới để đưa ra mức giá nhập khẩu phù hợp, tránh tình trạng nâng
giá cao quá mức so với giá cả thị trường. Các nhân tố ảnh hưởng tới hàng hoá quốc
tế gồm có các nhân tố cơ bản sau:
- Cung về cầu hàng hoá đó trên thị trường thế giới: Đây là yếu tố lớn ảnh hưởng đến
giá cả hàng hoá. Nếu cầu thị trường lớn trong khi nguồn cung lại khan hiếm sẽ đẩy
mức giá lên cao theo quy luật cung cầu.
- Cạnh tranh: Trạng thái cạnh tranh trên thị trường cung ứng giúp cho việc xác định
mức giá, nó ảnh hưởng đến lượng bán của nhà cung ứng vì vậy tuỳ theo mức độ
cạnh tranh đến đâu mà giá cả sẽ được quy định.
- Trong điều kiện địa lý khác nhau, đồng tiền thanh toán khác nhau và phương thức
thanh toán khác nhau… đều ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá. Đặc biệt là sự suy yếu
của một số ngoại tệ mạnh như USD làm ảnh hưởng tới mậu dịch toàn cầu.
- Lạm phát: Lạm phát ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá của một quốc gia thể hiện sự
mất giá của đồng tiền quốc gia đó.
- Luật pháp và chính trị: Một số quốc gia nhằm khuyến khích xuất khẩu hàng hoá ra
nước ngài họ sẽ tiến hành hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nước. Khi chính phủ can
thiệp vào thị trường tiền tệ thì tình hình cạnh tranh cũng thay đổi mặt khác biểu thuế
xuất nhập khẩu cũng sẽ khác nhau giữa các quốc gia điều này ảnh hưởng đến giá cả
hàng hoá sản phẩm giữa các nước.
Nói tóm lại doanh nghiệp khi nghiên cứu giá cả hàng hoá quốc tế cần phải biết kết
hợp các nhân tố của thị trường quốc tế và mục tiêu của doanh nghiệp nhằm tìm ra
một mức giá tối ưu đối với loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó.
2. Lập phương án kinh doanh
Sau khi đã tiến hành nghiên cứu thị trường trong nước và thị trường quốc tế doanh
nghiệp đã nắm được tình hình thực tế của thị trường và bản thân doanh nghiệp trên
cơ sở đó lập ra phương án kinh doanh nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh của
mình. Để đạt được lợi nhuận tối đa doanh nghiệp cần lập ra phương án tối ưu nhất
để đạt được trạng thái mong muốn.
Công việc cần làm trong khâu này là:
+ Phân tích đánh giá tình hình thị trường và nhà cung ứng nước ngoài. Mục tiêu của
bước này là thông qua so sánh nhiều thị trường nhà cung ứng để chọn ra một số nhà
cung ứng hấp dẫn đối với doanh nghiệp. Trước hết để tiết kiệm thời gian và chi phí
cần giới hạn việc đánh giá bằng cách loại bỏ ngay một số thị trường hiển nhân là
không hấp dẫn đối với doanh nghiệp vì nhiều nguyên nhân thuộc về bản thân sản
phẩm cũng là tiêu chuẩn loại bỏ ngay một số thị trường cung ứng.
Sau khi loại bỏ những thị trường cung ứng hoàn toàn không có triển vọng, các nhà
cung ứng còn lại được đánh giá một cách khái quát theo những khía cạnh sau:
- Môi trường chính trị
- Môi trường kinh tế - môi trường văn hoá
- Môi trường cạnh tranh
* Phân tích khả năng của doanh nghiệp
Đứng trước đối thủ cạnh tranh doanh nghiệp cần thiết lập được bản đánh giá tương
đối về điểm mạnh và điểm yếu của mình. Một mặt doanh nghiệp có năng lực nào
vượt trội, tình trạng hiện tại hoặc tiềm năng của doanh nghiệp như thế nào, nguồn
lực mà doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh có thể huy động từ bản thân hoặc từ
nguồn nào khác bên ngoài doanh nghiệp.
* Sau khi phân tích khả năng nhà cung ứng và khả năng doanh nghiệp bước tiếp
theo là lựa chọn mặt hàng nhập khẩu phù hợp với điều kiện kinh doanh. Mặt hàng
này phải đảm bảo đáp ứng được yêu cầu đề ra mà hai bên thoả thuận: giá cả, chất
lượng, bao bì đóng gói…
* Xác định đối tượng tiến hành giao dịch bao gồm:
- Địa điểm và thời gian giao dịch
- Tên công ty đại diện giao dịch
- Khối lượng và giá cả giao dịch
- Hình thức giao hàng và phương thức thanh toán
* Xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường là tổng thể luôn gồm một số lượng rất lớn các khách hàng với những nhu
cầu đặc tính mua và khả năng tài chính rất khác nhau vì vậy doanh nghiệp cần xác
định đoạn thị trường để tiêu thụ sản phẩm sao cho có hiệu quả nhất cần chú ý các
điểm sau:
- Khách hàng mà doanh nghiệp nhằm vào phải rõ ràng cụ thể
- Phải đo lường được có nghĩa là quy mô và hiệu quả của thị trường phải đo lường
được tính khả thi,
- Doanh nghiệp phải nhận biết và phục vụ đoạn thị trường đã phân chia theo tiêu
thức nhất định.
* Xác định giá giao dịch
Giá cả hàng hoá nhập khẩu do hai bên tự thoả thuận. Nhưng bên nhập khẩu phải căn
cứ vào các yếu tố sau đây để đưa ra mức giá tối thiểu nhằm tối đa hoá lợi ích:
- Phân tích giá hàng hoá cùng chủng loại trên thị trường trong nước và quốc tế tại
thời điểm hiện tại hoặc giá cả có thể tham khảo của đối thủ cạnh tranh đã nhập về.
- Giá phải đảm bảo được mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra như: mục tiêu lợi nhuận
đạt được sau khi trừ các khoản chi phí, thuế…
* Đánh giá hiệu quả mang lại và khắc phục những hạn chế làm giảm hiệu quả kinh
doanh
Hàng hoá nhập về kinh doanh trên thị trường kết quả thu được có thể lỗ hoặc l•i do
có nhiều yếu tố phát sinh trong quá trình kinh doanh. Sau khi tiêu thụ hàng hoá cuối
kỳ cần tổng kết đánh giá hiệu quả kinh doanh, tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng
đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp để đề ra các biện pháp khắc phục.
3. Tổ chức tiến hành nhập khẩu hàng hoá
3.1. Giao dịch và đàm phán
Về vấn đề giao dịch doanh nghiệp có thể lựa chọn phương thức giao dịch cao cho
phù hợp với khả năng của chính bản thân doanh nghiệp. Trong hoạt động ngoại
thương các doanh nghiệp thường áp dụng các phương thức giao dịch sau đây:
* Giao dịch thông thường: Tức là những phương thức bán phổ biến nhất, thường
thấy nhất. Được chia làm hai loại trực tiếp và qua trung gian.
- Giao dịch trực tiếp: Bên mua và bên bán trực tiếp giao dịch với nhau, việc mua và
việc bán không ràng buộc lẫn nhau.
- Giao dịch qua trung gian: Mọi việc thiết lập mối quan hệ giữa người mua và người
bán phải thông qua người thứ ba gọi là trung gian gồm có đại lý và môi giới.
* Buôn bán đối lưu: Là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó xuất
khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua. Mục đích
của xuất khẩu không phải thu về một khoản ngoại tệ mà thu về một lượng hàng có
giá trị tương đường.
* Các phương thức giao dịch đặc biệt:
- Đấu giá quốc tế: Đây là phương thức giao dịch đặc biệt được tổ chức công khai tại
một nơi nhất định, tại đó sau khi xem trước hàng hoá, những người đến mua và
cạnh tranh giá cả và cuối cùng hàng hoá sẽ được bán cho người nào đó trả giá cao
nhất.
Trong buôn bán quốc tế, những mặt hàng đem ra đấu giá thường là những mặt hàng
khó tiêu chuẩn hoá.
- Đấu thầu quốc tế: là phương thức giao dịch đặc biệt trong đó người mua (người
gọi thầu) công bố trước các điều kiện mua hàng để người bán (người dự thầu) báo
giá cả và các điều kiện trả tiền, sau đó người mua sẽ chọn mua của người báo giá rẻ
nhất và điều kiện tín dụng phù hợp hơn với những điều kiện mà người mua đã nêu.
* Giao dịch tại Sở giao dịch hàng hoá
Sở giao dịch hàng hoá là một thị trường đặc biệt tại đó thông qua những người môi
giới do Sở giao dịch chỉ định, người ta mua các loại hàng hoá có khối lượng lớn, có
tính chất đồng loại, có phẩm chất có thể thay thế được nhau.
Sở giao dịch hàng hoá thể hiện tập trung quan hệ cung cầu về mặt hàng giao dịch
trong một khu vực, ở một thời điểm nhất định.
* Giao dịch tại hội chợ và triển lãm
Hội chợ là thị trường hoạt động định kỳ, được tổ chức vào một thời gian và ở vào
một địa điểm cố định trong một thời hạn nhất định, tại đó người bán đem trưng bày
hàng hoá của mình và tiếp xúc với người mua để ký kết hợp đồng mua bán.
Triển lãm là việc trưng bày giới thiệu những thành tựu của một nền kinh tế hoặc
một ngành kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật…
b) Đàm phán
Đàm phán là một cuộc đối thoại giữa 2 hoặc nhiều bên về một vấn đề liên quan đến
các bên cả quyền lợi và nghĩa vụ đạt đến sự nhất trí giữa các bên. Doanh nghiệp có
thể lựa chọn một trong các hình thức đàm phán sau:
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua điện thoại
- Đàm phán trực tiếp
Khi tiến hành đàm phán thông thường các doanh nghiệp phải trải qua các giai đoạn
sau:
- Giai đoạn chuẩn bị: giai đoạn này có vai trò hết sức quan trọng nó quyết định quá
nửa của cuộc đàm phán. Các công việc phải làm là:
+ Chuẩn bị mục đích
+ Chia các mục tiêu ra các mục tiêu bộ phận
+ Lựa chọn địa điểm đàm phán, thời gian
+ Dự kiến được chương trình đàm phán
+ Đưa ra các kịch bản khác nhau
+ Tìm hiểu điểm mạnh điểm yếu của đối phương
+ Lựa chọn thành viên của đoàn đàm phán
- Giai đoạn thảo luận
Đây là giai đoạn các bên trao đổi ý kiến với nhau về vấn đề quan tâm. Giai đoạn này
gồm các công việc sau:
+ Bố trí chỗ ngồi đàm phán
+ Tóm tắt lý do và trao đổi ý đồ
+ Tìm hiểu ý đồ và mục tieu của đối phương
+ Cần xác định người có thực quyền trong đàm phán
+ Trình bày yêu cầu để đối tác hiểu và ghi lại nội dung cuộc đàm phán
- Giai đoạn đề xuất
Đây là giai đoạn các bên đưa ra đề xuất theo mục tiêu của cuộc đàm phán. Các đề
xuất này thường có điều kiện khác nhau và các bên thương lượng với nhau theo
từng phần từng điểm nhằm đi đến thống nhất. Nội dung của giai đoạn này là đề xuất
theo điều kiện. Các đề xuất có liên quan với nhau.
- Giai đoạn thoả thuận
Giai đoạn này các bên nếu thống nhất được các vấn đề thì ký kết hợp đồng nếu
không thoả thuận được thì các bên nghỉ ngơi, giải trí để tạo không khí thân thiện các
công việc có thể làm trong thời gian nghỉ ngơi là:
+ Đưa ra một số cách tiếp cận mới
+ Thay đoàn làm phán.
3.2. Ký kết hợp đồng
Sau khi đàm phán các bên đã thoả thuận thống nhất được các nội dung bước tiếp
theo là ký kết hợp đồng. Thủ tục gồm có:
- Xác định người có thẩm quyền ký kết hợp đồng: là cá nhân có tên trong đăng ký
kinh doanh hành nghề xuất nhập khẩu hàng hoá hoặc người được uỷ quyền hợp
pháp.
- Trình tự ký kết hợp đồng: Chia ra 2 trường hợp:
+ Các bên gặp gỡ trực tiếp: Diễn ra ngắn gọn, đơngiản sau khi đàm phán xong ký
vào bản dự thảo hợp đồng thì hợp đồng được coi là đã ký kết.
+ Các bên không gặp gỡ trực tiếp phải trải qua hai giai đoạn:
Giai đoạn đề nghị giao kết hợp đồng giai đoạn này bên đề nghị ký kết phải có đơn
đề nghị ký kết hợp đồng. Nội dung đơn không vi phạm các điều cấm của luật pháp.
Giai đoạn chấp nhận đề nghị ký kết hợp đồng: giai đoạn này đòi hỏi các bên phải
lưu ý một số quy định của hệ thống hoạt động của các nước. Các điều khoản ra
trong hợp đồng cần phải rõ ràng chặt chẽ như: ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng
phải được sự thoả thuận giữa hai bên, điều khoản về giá cả, chất lượng, điều khoản
giao hàng, thời gian và địa điểm giao hàng…
3.3. Thực hiện hợp đồng
Kể từ khi hợp đồng mua bán hàng hoá nhập khẩu được ký kết các bên phải có nghĩa
vụ thực hiện hợp đồng đúng như các điều khoản quy định trong hợp đồng. Xét dưới
góc độ là người nhập khẩu doanh nghiệp phải tiến hành các bước sau:
* Xin giấy phép nhập khẩu
Giấy phép nhập khẩu là biện pháp để nhà nước quản lý hàng nhập khẩu. Vì thế sau
khi ký kết hợp đồng doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến để thực
hiện hợp đồng đó. Mỗi giấy phép chỉ cấp cho một chủ hàng kinh doanh nhập khẩu
một số hàng nhất định. Đơn xin phép phải được chuyển đến phòng cấp giấy phép
của Bộ Thương mại.
* Tiến hành thủ tục yêu cầu ngân hàng mở L/C. Hành vi này phải được thực hiện
phù hợp với hợp đồng đã quy định và trước thời hạn giao hàng khoảng 15 ngày đến
20 ngày, đảm bảo L/C đến tay người bán kịp thời và tạo điều kiện cho người bán có
thời gian tiến hành làm thủ tục giao hàng.
* Thuê tàu lưu cước: Việc thuê tàu lưu cước được tiến hành dựa vào 3 căn cứ sau:
- Những điều khoản của hợp đồng.
- Đặc điểm hàng mua bán và điều kiện vận tải
Việc thuê tàu lưu cước đòi hỏi có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình
thị trường và tinh thông các điều kiện thuê tàu. Vì vậy, các công ty thường uỷ thác
việc thuê tàu lưu cước cho một công ty hàng hải. Nếu nghĩa vụ thuê tàu thuộc bên
nhập khẩu thì phải căn cứ vào khả năng thực tế để thuê tàu đảm bảo tàu đến địa
điểm bốc hàng đúng giờ quy định.
* Mua bảo hiểm
Hàng hoá chuyên chở trên biển thường gặp nhiều rủi ro, tổn thất. Vì vậy doanh
nghiệp nên cân nhắc tới việc mua bảo hiểm hàng hoá nhằm ngăn ngừa việc phải
gánh chịu rủi ro trong quá trình vận chuyển. Để ký kết hợp đồng bảo hiểm, cần nắm
vững các điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm A
Điều kiện bảo hiểm B
Điều kiện bảo hiểm C
- Làm thủ tục hải quan
Hàng hoá khi đi qua biên giới quốc gia để XNK phải tiến hành làm thủ tục hải quan.
Gồm 3 bước:
- Khai báo hải quan
+ Khai báo chi tiết về hàng hoá lên tờ khai
+ Nội dung tờ khai: loại hàng, tên hàng, khối lượng, giá trị, tên công cụ vận tải…
- Xuất trình hàng hoá:
- Thực hiện các quyết định hải quan.
* Nhận hàng:
Các cơ quan vận tải có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương
tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu
kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của doanh nghiệp.
Người mua có thể trực tiếp nhận hàng với tàu hoặc nhận hàng qua cảng hay uỷ thác
cho người khác thay mặt mình nhận hàng với tàu hoặc cảng.
* Kiểm tra hàng hoá:
Nhận hàng là bước đầu còn việc thừa nhận hàng chỉ có thể xảy ra sau khi đã tiến
hành kiểm tra hàng hoá. Về mặt pháp lý nhận hàng không có nghĩa là đã thừa nhận
hàng đó. Do đó người mua có trách nhiệm kiểm tra hàng có phù hợp với hợp đồng
hay không. Việc kiểm tra hàng hoá phải được kiểm tra khẩn trương và chi tiết ngay
khi tàu đến và dỡ hàng khỏi tàu.
* Thanh toán tiền hàng nhập khẩu
Người mua phải thanh toán tiền hàng đầy đủ đúng như quy định trong hợp đồng,
như đồng tiền thanh toán, số lượng tiền cần trả, phương thức địa điểm thanh toán…
Việc thanh toán có thể tiến hành trước khi nhận hàng song việc này cũng hữu hạn,
tuỳ thuộc vào nội dung của điều khoản thanh toán đã quy định trong hợp đồng.
* Khiếu nại
Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng nhập khẩu phát hiện thấy hàng
nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiếu hụt, mất mát, lần lập hồ sơ khiếu nại ngay để
khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại.
Đối tượng khiếu nại là người xuất khẩu, bên vận tải, công ty bảo hiểm hàng hoá đơn
khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất, hoá đơn, vận đơn
đường biển, đơn bảo hiểm.
Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu hàng hoá của công ty cổ phần vật tư
thiết bị (MESCO)
I. Giới thiệu chung về công ty MESCO
1. Khái quát về sự hình thành và phát triển của công ty
* Công ty Vật tư thiết bị và xây dựng là doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Thuỷ lợi
cũ nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, được thành lập ngày 9/11/1974.
Thực hiện chủ trương đổi mới doanh nghiệp của Chính phủ, ngày 7/3/2000 Bộ
trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn ký quyết định số
22/2000/QĐ/BNN-TCCB về việc chuyển công ty vật tư thiết bị và xây dựng thành
Công ty cổ phần xây dựng và vật tư thiết bị. Với gần 30 năm xây dựng và phát triển
đến nay công ty đã có những trưởng thành vượt bậc trong lĩnh vực xây dựng và kinh
doanh với những ngành nghề đa dạng như thi công xây dựng các công trình thuỷ
lợi, công trình giao thông, công trình dân dụng, công trình cấp thoát nước, điện
chiếu sáng, công trình kỹ thuật hạ tầng công nghiệp và chuyên cung cấp vật tư, lắp
đặt các thiết bị phục vụ các công trình thuỷ lợi cho toàn ngành. Công ty có đội ngũ
cán bộ công nhân có tay nghề cao.
* Địa chỉ, điện thoại:
- Địa chỉ : số 3B Thể Giao - quận Hai Bà Trưng
- Số điện thoại: 04-9780048; 04-9744906; 04-9740.548
- Số Fax : 84-4-9760548
- Email : Mesco@hn.vnn.vn
- Webste : www.mesco.vn.com
* Nước và năm thành lập: - Nước sở tại: Việt Nam
- Năm thành lập: 1974
* Người đại diện: Nguyễn Nam Linh
* Tài khoản:
- 4311101.000060 tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Hà Nội
Địa chỉ ngân hàng: Số 77 phố Lạc Trung - quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
- 7301.0562E tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội
Địa chỉ ngân hàng: Số 4B Lê Thánh Tông - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
- 4311-3000.092 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc á
Địa chỉ ngân hàng: Số 117 Đường Quang Trung - TP Vinh - Nghệ An
- 010-431100-00001989-5 tại ngân hàng Thương mại cổ phần nhà Hà Nội
Địa chỉ ngân hàng: Số B7 phố Giảng Võ - Quận Ba đình Hà Nội
* Địa chỉ các đơn vị trực thuộc:
- Xí nghiệp xây dựng và thi công cơ giới
+ Địa chỉ: Km10 thị trấn Văn Điển
+ Điện thoại: 04-8618679; 090570170
+ Đại diện: Ông Vũ Văn Cầu - Giám đốc
- Xí nghiệp Đê kè & Phát triển hạ tầng
+ Địa chỉ: Tầng 1 số 3B Thể Giao - quận Hai Bà Trưng
+ Điện thoại: 04-9740548; 091222.207
+ Đại diện: Ông Nguyễn Nam Trân - Giám đốc
- Xí nghiệp kho vận
+ Địa chỉ: Km 10 thị trấn Văn Điển
+ Điện thoại: 04-8615339; 090 435199
+ Đại diện: ông Nguyễn Hồng Nho - giám đốc
- Trung tâm thương mại:
+ Địa chỉ: Km 10 thị trấn Văn Điển
+ Điện thoại: 04-8615339
+ Đại diện: Ông Vũ Huy Bắc - giám đốc (cửa hàng 1)
Ông Hoàng Trần Tiến - giám đốc (cửa hàng 2)
- Trạm tiếp nhận vật tư - Hải phòng
+ Địa chỉ: số 8 Nguyễn Trãi - Hải Phòng
+ Điện thoại: 031.826801
+ Đại diện: Bà Bùi Thị Thu Hà - Trạm trưởng
- Văn phòng đại diện tại thành phố Đà Nẵng
+ Địa chỉ: Số 482111 Trưng Nữ Vương
+ Điện thoại: 0511.612472
+ Đại diện: Ông Nguyễn Thế Nguyên - trưởng đại diện
2. Chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty Mesco
2.1. Chức năng của công ty
Tổ chức sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm thuộc lĩnh vực kinh doanh của
công ty theo chỉ tiêu kế hoạch đề ra và theo hợp đồng kinh tế nhằm phục vụ có hiệu
quả nhu cầu thị trường.
2.2. Nhiệm vụ của công ty
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty theo
quy chế hiện hành để thực hiện mục tiêu và nội dung hoạt động của công ty.
- Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của công ty, không ngừng nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh để bảo toàn và phát triển vốn.
-Kinh doanh - sản xuất có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thị trường xây dựng trong
nước; cải tiến ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.
- Tuân thủ các chính sách, chế độ pháp luật của nhà nước có liên quan đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty; thực hiện đúng cam kết đã ký kết hợp đồng
với các bạn hàng.
- Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với người lao động và nghĩa vụ nộp thuế cho nhà
nước.
- Thực hiện chế độ hạch toán kinh tế độc lập
- Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên trong
công ty.
- Thực hiện báo cáo thống kê, báo cáo định kỳ theo quy định của công ty và của nhà
nước.
- Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động kinh doanh của công ty.
- Ưu đãi cho ngườ lao động trong doanh nghiệp:
+ Tổng số cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp: 20.968 cổ phần.
Phần giá trị được ưu đãi là: 629.061.887 đồng (sáu trăm hai chín triệu, không trăm
sáu mốt nghìn tám trăm tám bảy đồng).
+ Tổng số cổ phần ưu đãi cho người lao động nghèo trong doanh nghiệp trả dần:
4.493 cổ phần, trị giá trả dần là: 23.552.000 (Hai trăm chín ba triệu năm trăm năm
hai nghìn đồng).
- Tổ chức quản lý tiền bán cổ phần: Thực hiện theo mục V, phần thứ hai trong
thông tư số 1041998/TT-BTC ngày 18-7-1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn những
vấn đề về tài chính khi chuyển doanh nghiệp thành công ty cổ phần và mục 6 văn
bản số 3138/TC-TCDN ngày 19-8-1998 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực
hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
2.3. Quyền của Công ty MESCO
- Công ty hoạt động kinh doanh được quyền sở hữu với nhãn hiệu hàng hoá, cụ thể
là:
+ Độc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá
+ Có quyền chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng nhẫn hiệu
hàng hoá; và
+ Có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý người thứ ba xâm
phạm các quyền nói trên của mình (Điều 794,796 Bộ Luật dân sự, các điều 84, 35,
37 Nghị định 63/CP).
- Theo điều 72 bộ luật Thương mại áp dụng đối với doanh nghiệp nhập khẩu có
quyền sau:
+ Quyền chưa thanh toán toàn bộ hoặc một phần tiền hàng nếu khi nhận thấy phát
hiện thấy hàng bị hư ỏng có 1 khuyết tật và chỉ thanh toán khi người bán đ• khắc
phục nhưng hư hỏng khuyết tật đó, trừ trường hợp trong hợp đồng có thoả thuận
khác.
+ Người mua có quyền giữ lại toàn bộ hoặc một phần tiền mua hàng nếu có bằng
chứng về việc người bán lừa gạt hoặc không có khả năng giao hàng hoặc đối tượng
này là đối tượng tranh chấp giữa người bán với người thứ ba cho đến khi các tình
trạng này được giải quyết xong.
- Điều 74 luật thương mại về kiểm tra hàng tại nơi hàng đến.
Điều này quy định quyền của người mua có quyền kiểm tra hàng tại nơi hàng đến
trong một thời hạn hợp lý phù hợp với đặc tính của từng loại hàng hoá theo hợp
đồng.
- Quyền bình đẳng trước pháp luật và hợp tác trong hoạt động thương mại
- Giao dịch, ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của - pháp luật (điều
214 luật thương mại)
- Quyền được sử dụng thương phiếu (Điều 220 luật thương mại)
- Quyền tổ chức hoặc tham gia hội chợ triển lãm thương mại (Điều 210 luật TM)
- Quyền quảng cáo thương mại (Điều 187 luật TM)
2.4. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Công ty MESCO
Công ty MESCO hoạt động kinh doanh đa ngành đa lĩnh vực, được chia làm các
nhóm chính sau:
- Danh mục hàng hoá, dịch vụ (xếp theo phân loại quốc tế)
- Nhóm 35: Cung ứng vật tư, thiết bị, phụ tùng thuỷ lợi; nhập khẩu các thiết bị (vật
tư, xe máy) theo các dự án cho công trình thuỷ lợi; tư vấn về mua sắm vật tư, thiết
bị: đại lý mua đại lý bán tiêu dùng, thiết bị nội thất văn phòng; môi giới cho công
nhân và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
- Nhóm 36: Đầu tư phát triển và kinh doanh bất động sản
- Nhóm 37: Xây dựng các công trình thuỷ lợi: xây dựng công trình cấp thoát, điện
chiếu sáng, vệ sinh môi trường đô thị và nông thôn; xây dựng lắp đặt các công trình
đường dây và trạm biến áp điện thế; xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng công
nghiệp đô thị và phát triển nông thôn; trang trí nội ngoại thất và tạo kiến trúc cảnh
quan môi trường (không bao gồm thiết kế công trình) xây dựng các công trình dân
dụng và phần bao che các công trình công nghiệp; xây dựng trạm bơm; kênh
mương; lắp đặt thiết bị trạm bơm, trạm thuỷ điện, lắp ráp xe gắn máy hai bánh; lắp
đặt công trình cấp thoát nước điện chiếu sáng, vệ sinh môi trường đô thị và nông
thôn; Khai thác vật liệu xây dựng.
- Nhóm 39: Vận tải vật tư, thiết bị, vật liệu và hàng hoá bằng đường bộ
- Nhóm 41: Đào tạo, dạy nghề cho công nhân và chuyên gia Việt Nam đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài.
Trên đây là lĩnh vực hoạt động kinh doanh chủ yếu của Công ty MESCO được phân
chia thứ tự theo nhóm xếp theo phân loại quốc tế.
3. Bộ máy nhân sự và cơ sở vật chất của Công ty MESCO
3.1. Bộ máy nhân sự của Công ty MESCO
Cơ cấu tổ chức bộ máy của Công ty được thể hiện rõ qua sơ đồ sau:
Bảng 1: Danh sách hội đồng quản trị
Số TT Họ và tên Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú đối với cá nhân địa chỉ trụ sở
chính đối với tổ chức Chức danh
1 Lương Quốc Bình 92 Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội Chủ
tịch Hội đồng quản trị
2 Nguyễn Nam Linh 159 đường chùa Bộc, phường Trung Liệt, quận Đống
Đa, Hà Nội Phó chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc
3 Nguyễn Mạnh Hùng 32 tổ 31, phường Kim Liên, quận Đống Đa, Hà Nội
Uỷ viên Hội đồng quản trị kiêm Phó Tổng giám đốc
4 Thái Anh Dũng 3C phố Vọng Hà, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội Uỷ viên
Hội đồng quản trị kiêm phó Tổng giám đốc
5 Thái Duy Đô Số3B phố Thể Giao, quanạ Hai Bà Trưng, Hà Nội Uỷ viên
Hội đồng quản trị
Nguồn: Phòng kế hoạch
Trên đây là danh sách Hội đồng quản trị của Công ty MESCO và cơ cấu bộ máy tổ
chức của Công ty. Danh sách hội đồng quản trị gồm có năm người đều là phía Việt
Nam đứng ra điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong đó
người đại diện theo pháp luật của Công ty là:
Họ và tên: Nguyễn Nam Linh giới tính: (Nam)
Chức danh: Phó chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc.
Sinh ngày: 07/12/1967 Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam
Chứng minh nhân dân (hoặc hộ chiếu) số: 011398449
Ngày cấp: 31105 12002 Nơi cấp Công an Hà Nội
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 159 đường Chùa Bộc, phường Trung Liệt, quận
Đống Đa, Hà Nội.
Chỗ ở hiện tại: Nhà C9, lô 10 khu đô thị Định Công, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
Cho đến nay cơ cấu tổ chức này của công ty hoạt động tương đối hiệu quả, phân
công trách nhiệm giữa các bộ phận phòng ban rõ ràng mỗi bộ phận chặt chẽ hỗ trợ
lẫn nhau giữa các phòng ban các bộ phận. Chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban
thể hiện rõ thể như sau:
A. Hội đồng quản trị: HĐQT gồm có 5 thành viên đều mang quốc tịch Việt Nam.
Đứng đầu là Chủ tịch HĐQT do các thành viên trong HĐQT bầu ra theo nguyên tắc
bỏ phiếu và tỷ lệ vốn góp. Nhiệmvụ của HĐQT là định hướng hoạt động kinh
doanh; đề ra chiến lược kinh doanh cho công ty, bổ nhiệm các vị trí quan trọng
trong công ty như phó tổng giám đốc, giám đốc, giám sát và kiểm tra đánh giá của
cán bộ quản trị và hoạt động của doanh nghiệp.
* Ban giám đốc: Ban giám đốc của Công ty MESCO đứng đầu là Tổng giám đốc 3
phó tổng giám đốc mỗi phó tổng giám đốc phụ trách mỗi mảngkd riêng nhưng chịu
sự chi phối của tổng giám đốc. Tổng giám đốc đóng vai trò chỉ đạo, mọi hoạt động
của các phó tổng liên quan đến công tác đều phải báo cáo cho tổng giám đốc và các
phó tổng giám đốc có mối quan hệ hai chiều. Họ do HĐQT bổ nhiệm, bãi nhiệm
chịu trách nhiệm trước HĐQT và pháp luật về quản lý và điều hành doanh nghiệp.
* Các phòng ban: Phòng Hành chính quản trị, phòng Kế hoạch và Đầu tư; Phòng Kế
toán; Phòng Tư vấn MS & ĐTQT; Phòng Kế hoạch; Phòng Kỹ thuật. Các phòng
đều đảm nhận vai trò riêng của mình như tư vấn, tham mưu, lập kế hoạch cho Công
ty và trực tiếp thực hiện chỉ thị của cấp trên.
Công ty MESCO đang sử dụng mạng nội bộ để quản lý tất cả các lĩnh vực, các công
việc có liên quan đến quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Hiện
nay, tổng số cán bộ công nhân viên trong công ty là 325 người.
Thời gian làm việc trong công ty.
Giờ hành chính: - Sáng 7h30 đến 11h30
- Chiều: 13h0 đến 17h30
3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty
Cơ sở vật chất của Công ty tương đối vững chắc. Kể từ khi thành lập công ty cổ
phần từ năm 2000, hàng năm công ty đều trích từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh
để tái đầu tư và mở rộng cơ sở hạ tầng, kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ
của Công ty, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường tạo dựng uy tín trong lòng
khách hàng.
- Trụ sở giao dịch chính: Tại số 3B phố Thể giao, phòng Lê Đại Hành, quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội với diện tích 350m2. Đây là nơi dùng để giao dịch chính
đối với các bạn hàng, các phòng ban đều đặt ở đây.
- Xí nghiệp kho vận đặt tại Km10 thị trấn Văn Điển còn trạm tiếp nhận vật tư hàng
hoá nhập khẩu tại Hải Phòng. Số 8 Nguyễn Trãi, Hải Phòng với diện tích 1600m2.
Được xây dựng đạt tiêu chuẩn đảm bảo việc bảo quản hàng hoá.
- Tất cả các phòng ban đều được xây dựng khang trang, thiết bị phục vụ cho quá
trình làm việc không ngừng nâng cao. Tính đến đầu năm 2005 Công ty đã lắp đặt:
+ 36 máy vi tính
+ 105 máy Fax
+ Ô tô 15 chiếc, trong đó ô tô con 5 chiếc.
Tất cả các phòng ban đều được trang bị đầy đủ bàn ghế làm việc, bàn tiếp khách, tủ
đựng hồ sơ, tủ phục vụ cho công việc. Các máy tính trong công ty đều nối mạng
nhằm cập nhật thông tin, trao đổi thường xuyên với khách hàng diễn ra thuận lợi và
nhanh chóng thuận tiện hơn. Email và Website của công ty là:
- Email: MESCO@hn.vnn.vn
- Website: www.mesco.vn.com
Trên đây là một số đánh giá cơ bản về nhân sự và cơ sở vật chất của Công ty
Mesco. Ngoài ra công ty đều có văn phòng đại diện trải đều từ Bắc vào miền Trung.
nă4. Một số kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong nhữngm gần
đây
* Về nguồn hàng: Công ty MESCO với hoạt động kinh doanh tương đối đa dạng, đa
lĩnh vực nhưng thế mạnh của Công ty là kinh doanh các mặt hàng nhập như: xuất
nhập khẩu thiết bị cho các ngành, tư vấn mua sắm và tổ chức đấu thầu quốc tế vật tư
thiết bị thuỷ lợi và lắp máy. Kể từ khi cổ phần hoá tới nay hoạt động kinh doanh sản
xuất của doanh nghiệp ngày càng được cải thiện làm ăn có lai, tình hình cuộc sống
của công nhân viên trong công ty ngày càng được nâng cao. Về nguồn hàng công ty
hoàn toàn chủ động về nguồn hàng do công ty đa dạng hoá thị trường cung ứng
tránh tình trạng phụ thuộc vào một nhà cung ứng nhất định. Về vốn doanh nghiệp
vay vốn từ các tổ chức tín dụng đồng thời huy động vốn của các cổ đông trong công
ty, đồng thời công tác khảo sát thị trường luôn được coi trọng, chủ động nắm bắt
thông tin và xử lý thông tin, thực hiện mục tiêu mua nhanh bán nhanh không để tồn
kho dài ngày. Công ty còn lập kế hoạch sản xuất theo từng ngày nhằm kiểm soát
chặt chẽ lượng hàng hoá dự trữ bám sát với thực tế và nhất là tránh tình trạng ứ
đọng hàng hoá, đồng thời đảm bảo đủ chủng loại hàng bán.
Căn cứ vào bảng số liệu cho ta thấy công ty luôn hoàn thành xuất sắc kế hoạch đề
ra. Thực hiện việc mua và bán hàng luôn vượt mức kế hoạch chính vì công ty tìm
được nguồn cung ứng vật tư ổn định về số lượng, đảm bảo về chất lượng với giá cả
hợp lý nên công ty sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao và đảm bảo tính thích nghi
với những biến động của thị trường. Trong vòng 3 năm 2002, 2003, 2004 hàng năm
tình hình thực hiện luôn vượt kế hoạch đề ra cụ thể như sau:
Năm 2002 Kế hoạch bán hàng thực hiện được 14,56 tỉ USD vượt mức kế hoạch
35,8%
Năm 2003 kế hoạch đặt ra là 25,84 tỉ VND trong khi thực hiện 29,78% vượt mức kế
hoạch 15,3%.
Năm 2004 kế hoạch bán hàng đặt ra là 42,5 tỉ VND trong khi thực hiện bán được
58,9 tỉ VND vượt mức kế hoạch là 38,6%.
* Các chỉ tiêu kinh tế của Công ty MESCO trong những năm gần đây
Để tồn tại, đứng vững và nang cao sức cạnh tranh đồng thời tăng hiệu quả của hoạt
động sản xuất kinh doanh công ty đã điều chỉnh định mức, xây dựng được quy chế
bán hàng nên hoạt động kinh doanh đi vào nề nếp nhằm quản lý tốt về hàng và quản
lý chung toàn công ty.
Dựa vào bảng kết quả đã phản ánh thực trạng kinh doanh của doanh nghiệp trong 3
năm 2002, 2003, 2004. Lợi nhuận qua các năm đều tăng năm 2002 là 1,89 tỉ; năm
2003 là 4,2 tỉ và năm 2004 là 16,13 tỉ VND chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh
ngày càng mở rộng và phát triển. Doanh thu thuần năm 2002 đạt 14,72 tỉ VND đến
năm 2003 đạt 29,7 tỉ VND tăng tuyệt đối 14,98 tỷ VND tương ứng tăng tương đối
17% so với năm 2002. Năm 2004 doanh thu thuần của Công ty đạt được 68,9 tỉ
VND tăng tuyệt đối so với năm 2003 là 39,2 tỉ VND tăng tương đối là 31,9%. Cùng
với việc doanh thu thuần tăng lên hàng năm thì chi phí qua các năm đều tăng cụ thể:
Năm 2002 chi phí bỏ ra cho bán hàng và quản lý doanh nghiệp là 0,89 tỉ VND, năm
2003 là 3,4 tỉ VND và đến năm 2004 là 6,93 tỉ VND. Việc tăng chi phí là do công ty
mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng khối lượng hàng hoá tiêu thụ lúc đó phản ánh
khả năng tiêu thụ sản phẩm ngày càng tăng và đơn đặt hàng nhận được nhiều hơn.
Đi đôi với hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp không quên thực hiện nghĩa
vụ của mình đối với nhà nước đó là nộp ngân sách nhà nước. Với sự nỗ lực cố gắng
của toàn bộ công nhân viên trong công ty Mesco luôn là đơn vị thực hiện nghĩa vụ
nộp ngân sách nhà nước. Cụ thể là:
- Năm 2002 Công ty nộp ngân sách nhà nước 0,44 tỉ VND
- Năm 2003 Công ty nộp ngân sách nhà nước 1,08 tỉ VND
- Năm 2004 Công ty nộp ngân sách nhà nước đạt 2,14 tỉ VND
II. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Mesco trong những năm qua
1. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của Công ty Mesco
Công ty Mesco trước đây thuộc doanh nghiệp nhà nước đó Bộ Nông nghiệp quản lý
nhưng từ năm 2000 để tiến hành cổ phần hoá nhằm thực hiện chủ trương đổi mới
doanh nghiệp của Chính phủ. Công ty thực hiện chủ trương hoạt động kinh doanh
đa lĩnh vực trong đó lĩnh vực hoạt động chủ yếu là giao thông, thuỷ lợi, điện khí hoá
nhằm phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chức năng
chính của Công ty là kinh doanh trong nước và tham gia xuất nhập khẩu các loại
hàng hoá phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước vì vậy nhập khẩu là một trong
những hoạt động chính của công ty. Nhờ có hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu đã
giúp cho công ty dự trữ được các mặt hàng cần thiết, tránh tình trạng khan hiếm
hàng tạo điều kiện cho kẻ đầu cơ ép giá, ổn định được nguồn hàng cung ứng đàu
vào phục vụ cho sản xuất. Ngoài hoạt động nhập khẩu chủ yếu trên doanh nghiệp
còn tiến hành nhập khẩu các loại hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước như xe
máy. Hàng hoá nhập khẩu của công ty luôn biến động qua các năm điều này do sự
tác động chung của nền kinh tế thế giới, điều này thể hiện thông qua bảng sau:
Qua số liệu thể hiện ở bảng trên cho ta thấy tình hình xuất nhập khẩu của Công ty
trong những năm gần đây luôn biến động. Đặc biệt là năm 2002 kim ngạch nhập
khẩu đã giảm so với năm 2001 về giá trị hàng nhập khẩu. Nếu như năm 2001 giá trị
nhập khẩu đạt tỷ trọng nhập khẩu thì đến năm 2002 giá trị nhập khẩu giảm còn tỉ
trọng nhập khẩu giảm còn ….. do chịu ảnh hưởng của hai nhân tố chủ yếu sau:
- Thứ nhất do biến động chung của nền kinh tế thế giới đã làm ảnh hưởng không chỉ
riêng công ty MESCO mà đối với các ngành nghề sản xuất kinh doanh trong nước
nói chung giá cả xi măng sắt thép, nguyên vật liệu xây dựng trên thế giới đều tăng
làm ảnh hưởng đến giá cả hàng bán trong nước, nhiều công trình phải ngừng thi
công do giá nguyên vật liệu lên quá cao nhất là giá phôi thép nhập khẩu. Nhiều
doanh nghiệp trong nước thao túng tuỳ tiện nâng giáthép. Trong khi các nhà sản
xuất trong nước hiện nay quá lệ thuộc vào phôi thép nhập khẩu (80%) trong khi đó
ta chưa có quỹ bình ổn quốc gia. Năm 2003 giá thép đầy biến động đã gây khốn đốn
cho người tiêu dùng và nhà sản xuất. Các nguyên vật liệu như xi măng, tôn, gạch,
ốp lát cũng tăng giá. Trong hai tháng sau thết giá tiếp tục tăng và dự tính sẽ không
dừng lại ở đó. Giá sát thép trên thị trường tự do tăng từ 7.900đ/kg trước tết đến thời
điểm hiện tại 8.500 đồng/kg.
- Nguyên nhân thứ hai là mặc dù nhà nước đã đưa ra các biện pháp nhằm bình ổn
giá cả hàng hoá nguyên vật liệu nhưng đây chỉ là các giải pháp tình thế xét về lâu
dài thực sự không hiệu quả.
- Một thời gian dài thị trường xe máy đóng băng, thị trường trong nước giảm mạnh
do những chính sách nhà nước đề ra nhằm giải quyết vấn đề giao thông hiện nay,
nên tiêu thụ hàng này giảm mạnh. Đồng thời nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá nhà nước
đã không cho doanh nghiệp nhập khẩu nguyên chiếc đối với mặt hàng này.
Trên dây là những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự không ổn định tới hoạt động
xuất nhập khẩu của công ty trong thời gian tới.
Để hiểu rõ hơn về tình trạng hoạt động xuất nhập khẩu của Công ty MESCO sau
đây ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn, phân tích tỉ mỉ hơn dưới giác độ khác nhau của công ty
trong những năm gần đây tính từ năm 2001 đến năm 2004.
1.1. Phân tích hoạt động nhập khẩu theo thị trường
Đối với doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh việc nghiên cứu thị trường
đóng vai trò rất quan trọng. Môi trường kinh doanh tạo ra cơ hội thuận lợi và cả
những sức ép, đe doạ đến kinh doanh nhất là đối với doanh nghiệp kinh doanh hàng
hoá xuất nhập khẩu thì việc nghiên cứu thị trường là rất cần thiết. Việc nghiên cứu
thị trường để biết được nhu cầu tiêu dùng trong nước, tình trạng cạnh tranh của các
mặt hàng để lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp. Sau khi đã lựa chọn được mặt
hàng kinh doanh công ty nghiên cứu thị trường cung ứng nước ngoài để tìm hiểu giá
trị, giá cả đặc tính công dụng của hàng hoá của từng nhà cung ứng để lên phương án
kinh doanh lựa chọn đối tác. Đối với Công ty MESCO thị trường các nhà cung ứng
chủ yếu là các nước châu á: Nhật, Hàn quốc, Trung Quốc, Thái Lan và các thị
trường này có những đặc điểm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và khả năng đầu tư
của các doanh nghiệp trong nước.
Ngoài việc duy trì mối quan hệ làm ăn với các bạn hàng truyền thống công ty không
ngừng mở rộng tìm kiếm thị trường mới nhằm đa dạng hoá nguồn cung ứng đầu
vào. Trong thời gian tới công ty dự tín sẽ hướng vào thị trường Mỹ và thị trường
châu Âu để khai thác những lợi thế mà các thị trường này mang lại. Khi mà quan hệ
giữa ta và các nước này càng tốt đẹp, thuận lợi hơn và có nhiều ưu đãi đối với các
doanh nghiệp nước ta khi thiết lập quan hệ thương mại song phương giữa hai nước.
1.2. Nhập khẩu theo mặt hàng
Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty là xi măng, sắt thép, tôn, mái lợp, nhựa,
cáp điện, xe máy, hàng điện tử. Cơ bản vẫn là hàng hoá phục vụ chủ yếu cho xây
dựng các công trình công cộng, thuỷ lợi, thuỷ điện, cơ sở hạ tầng.
Nhìn vào bảng số liệu cho thấy sắt thép chiếm giá trị và tỉ trọng lớn nhất của công
ty đây là một mặt hàng chủ yếu của công ty mà doanh nghiệp tiến hành nhập khẩu
trong những năm qua nhằm phục vụ cho các công trình xây dựng. Tiếp theo là mặt
hàng xi măng nhưng mặt hàng này có xu hướng giảm trong những năm gần đây do
doanh nghiệp đã tìm mặt hàng trong nước thay thế, tuy nhiên giá trị và tỉ trọng giảm
không đáng kể. Mặt hàng biến động nhiều nhất là xe máy đã giảm mạnh do chính
sách mà nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua. Tuy những năm qua tình hình giá
cả một số loại hh chủ đạo đầy biến động, các doanh nghiệp trong nước gặp nhiều
khó khăn tuy nhiên công ty MESCO vẫn đảm bảo được số lượng nguyên vật liệu
cho sản xuất, đáp ứng kịp thời nhu cầu tiêu dùng trong nước, bàn giao công trình
hàng hoá đúng hẹn. Nhờ có chính sách hợp lý hoá nhập khẩu mà công ty đã đạt
được những thành tựu đó trong khi sản xuất trong nước lao đao do giá cả biến động.
2. Quá trình tổ chức hoạt động nhập khẩu của Công ty MESCO
Quy trình nhập khẩu của Công ty MESCO được thực hiện thông qua các bước sau
đây:
2.1. Nghiên cứu thị trường
Việc nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước do hai phòng kế hoạch và đầu tư
kết hợp với phòng tư vấn mua sắm và đầu tư quốc tế tổ chức thực hiện. Hai phòng
này có nhiệm vụ hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều tra nhu cầu thị trường về ngoài
nước, nghiên cứu kỹ đối tác nước ngài về khả năng cung ứng hàng hoá dịch vụ, đặc
tính của sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó và giá cả công dụng của nó. Mọi thông tin
về đối thủ cạnh tranh phải được phản ánh kịp thời để ban lãnh đạo có sách lược đối
phó với những biến động trên thị trường.
2.2. Lập phương án kinh doanh
Sau khi nghiên cứu kỹ thị trường trong và ngoài nước nắm rõ tình hình các mặt
hàng bước tiếp theo doanh nghiệp lập phương án kinh doanh cụ thể cho mặt hàng
đó. Phương án kinh doanh phải lập cụ thể và chi tiết đồng thời dự kiến được các vấn
đề phát sinh. Phương án kinh doanh do ban lãnh đạo cấp cao của công ty lập ra dưới
sự tư vấn đóng góp ý kiến của các phòng ban trong toàn công ty.
2.3. Đàm phán và ký kết hợp đồng
* Đàm phán
Phương án kinh doanh được phê duyệt doanh nghiệp đã lựa chọn được đối tác cho
phù hợp với mục tiêu đã đề ra, các bên tiếp xúc với nhau qua bàn đàm phán để
thương thuyết hay mặc cả các vấn đề liên quan đến hàng hoá như: giá cả, chất
lượng, công dụng, địa điểm và thời gian giao hàng… sau khi cuộc đàm phán kết
thúc các bên thống nhất được ý kiến bước tiếp theo là ký kết hợp đồng.
Bản ký kết hợp đồng thông thường đã được bên cung ứng soạn thảo sẵn với các
điều khoản liên quan đến hàng hoá về vấn đề liên quan đến khiếu nại, khiếu kiện.
Sau khi xem xét xong bản hợp đồng phù hợp với yêu cầu các bên ký kết vào bản
hợp đồng quan hệ pháp lý được xác lập kể từ khi hai bên ký vào bản dự thảo hợp
đồng và các bên có nghĩa vụ phải thực hiện đúng như yêu cầu trong hợp đồng đã•
ký kết.
2.4. Tổ chức thực hiện nghĩa vụ hợp đồng
* Bên cung ứng:
- Chuẩn bị hàng hoá: Đảm bảo phù hợp với hợp đồng, giao đúng thời hạn
- Phiếu đóng gói: phải được lập thành một số bản, trong đó có 1 bản để ngay trong
kiện hàng, bản còn lại gửi theo kèm chứng từ cho người mua và để khai báo hải
quan nếu cần.
- Giấy chứng nhận phẩm chất
- Làm đầy đủ thủ tục và xin phép xuất khẩu
- Làm thủ tục hải quan để xin phép xếp hàng xuống tàu
- Bốc xếp hàng xuống tàu tại cảng đầu tiên theo quy định trong hợp đồng vận tải.
- Làm mọi thủ tục để nhận định thanh toán tiền hàng theo đúng quy định của hợp
đồng mở L/C.
* Bên mua: Bên mua có nghĩa vụ sau:
- Làm thủ tục xin phép nhập khẩu
- Làm thủ tục mở L/C
- Sau khi mở L/C đôn đốc bên cung ứng thông báo về tình hình giao hàng, tin tàu
- Thuê tàu (nếu hợp đồng thoả thuận nghĩa vụ này thuộc người mua)
- Mua bảo hiểm
- Làm thủ tục khai báo hải quan theo yêu cầu của nhà nước
- Nhận hàng: Có thể trực tiếp nhận hàng hay nhận hàng qua cảng. Riêng đối với
Công ty MESCO nhận hàng qua cảng.
- Kiểm tra hàng
- Thanh toán tiền hàng.
Trên đây là quy trình tiến hành nhập khẩu của Công ty MESCO. Quy trình này
được tiến hành khá chặt chẽ và bài bản, mỗi giai đoạn được tập thể ban l•nh đạo
nghiên cứu rõ ràng tỉ mỉ phù hợp với quy định của hợp đồng quốc tế. Qua đây cũng
cho thấy nghiệp vụ xuất nhập khẩu của công ty ngày càng được hoàn thiện.
III. Đánh giá hoạt động nhập khẩu của Công ty trong những năm qua
Hàng năm Công ty MESCO tổng kết đánh giá hoạt động sản xuất nói chung và hoạt
động xuất khẩu nói riêng. Trên cơ sở đó để đánh giá nhận xét những điểm đạt được
và chưa đạt được nhằm khắc phục và đưa ra các giải pháp khắc phục khó khăn và
hoàn thiện hơn nữa hoạt động xuất nhập khẩu của công ty trong những năm sau:
1. Những ưu điểm
- Nhờ có hoạt động nhập khẩu mà công ty khắc phục được tình trạng thiếu hút
nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho quá trình sản xuất trong khi nguồn nguyên
liệu trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu. Có thể nói nhờ có nhập khẩu mà nguyên
liệu được bổ sung kịp thời tạo điều kiện cho quá trình sản xuất được tiến hành đúng
tiến độ, kịp thời bàn giao cho khách hàng.
- Máy móc thiết bị ngày càng được cải thiện ngày càng hiện đại hơn qua đó cho ra
những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng của khách hàng,
tạo khả năng cạnh tranh trên thị trường không chỉ về chất lượng mà về giá cả nhờ
chi phí giảm do tiết kiệm được nguyên nhiên vật liệu. Do đó uy tín của doanh
nghiệp ngày càng tăng.
- Công ty không chỉ nhập khẩu một số thị trường truyền thống mà ngày càng mở
rộng tìm kiếm nhiều nhà cung ứng nên nguồn cung ứng khá đa dạng phong phú,
phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng
được phục vụ tốt hơn.
- Nhờ có uy tín với các tổ chức tín dụng trong nước cùng với quản lý ngoại hối hợp
lý tạo điều kiện cho thanh toán tiền hàng được diễn ra thuận tiện và nhanh chóng,
đúng thời hạn yêu cầu từ phía khách hàng.
- Phần lớn các giao dịch với bạn hàng điều diễn ra bằng hình thức gián tiếp như:
bằng Fax, điện thoại, thư điện tử nên chi phí giao dịch qua đó mà giảm đáng kể so
với giao dịch trực tiếp như trước đây mà công ty áp dụng trong thời kỳ bao cấp.
- Doanh nghiệp được sự hỗ trợ tích cực của nhà nước trong việc tìm kiếm thông tin
về đối tác và thị trường nước ngoài đây là điều kiện thuận lợi cho công ty.
- Đội ngũ nhân viên trong công ty có trình độ được đào tạo chuyên môn có bài bản,
thông thạo nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ.
2. Những khó khăn và tồn tại
Bên cạnh kết quả đạt được từ hoạt động xuất nhập khẩu mà công ty đã đạt được
trong thời gian qua khó khăn mà công ty đang đối đầu vẫn còn nhiều điều bất cập
như:
- Do tiến hành hoạt động kinh doanh trên diện rộng nên hàng năm công ty cần
lượng vốn lớn để duy trì sản xuất và mở rộng phạm vi kinh doanh. Gánh nặng lãi
suất là một vấn đề lớn đối với công ty. Hàng năm doanh nghiệp phải trả l•i suất
ngân hàng một khoản khá lớn làm tăng chi phí của công ty. Mặt khác công ty cần
một lượng ngoại tệ nhất định để giao dịch mà tỉ giá hối đoái không ổn định gây khó
khăn cho doanh nghiệp trong quá trình nhập khẩu hàng hoá hơn nữa công ty chủ
yếu thanh toán bằng đồng đô la mà trong những năm qua đồng đô la luôn biến động
không ổn định. Mặt khác các ngân hàng trong nước đã đồng loạt tăng lãi suất từ
mức lãi suất phổ biến là 0,75% đến 0,9%/tháng nhích lên đến 0,95% đến 1,28%.
Mức tăng lãi suất cho vay là điều có thể thấy được trước khi các ngân hàng đều tăng
lãi suất tiền gửi từ 0,2% đến 0,3%/tháng. Tăng lãi suất ngân hàng đồng nghĩa với
tăng chi phí sản xuất tăng giá thành sản phẩm sẽ bị đẩy lên cao. Việc lãi suất ngân
hàng không ổn định gây khó khăn cho mặt tính toán ổn định cho dự án hoặc cho
việc kinh doanh của họ.
- Những dư âm của thời kỳ trước cổ phần hoá vẫn còn tồn tại. Hiện Công ty
MESCO vẫn có một số cán bộ công nhân viên thời kỳ trước đang công tác tại công
ty. Sau khi sắp xếp lại doanh nghiệp việc bố trí cán bộ như thế nào cho phù hợp là
vấn đề đối với tập thể cán bộ trong công ty.
- Vai tò của hoạt động marketing ngày càng phổ biến trong quản trị kinh doanh của
doanh nghiệp. Phương pháp quản trị này không chỉ giới hạn trong thị trường nội địa
mà còn được ứng dụng trong kinh doanh trên thị trường quốc tế. Đối với Công ty
MESCO mặc dù doanh thu hàng năm đạt được tương đối lớn nhưng chưa có phòng
marketing riêng biệt, hoạt động marketing vẫn còn do phòng kinh doanh đảm
nhiệm. Phòng kinh doanh đảm nhiệm toàn bộ công việc từ tìm nguồn hàng nhập
(xuất) cho tới khi sản phẩm được bán ra. Do vậy hoạt động marketing chưa được
chú ý chưa chuyên sâu nên hoạt động không hiệu quả.
Trên đây là những ưu điểm mà Công ty MESCO đã đạt được trong quá trình hoạt
động kinh doanh của mình. Bên cạnh những kết quả đạt được doanh nghiệp vẫn tồn
tại không ít khó khăn cản trở tới hoạt động kinh doanh của mình. Để hoạt động
ngày càng có hiệu quả cao hơn công ty phải tìm ra nguyên nhân và tìm ra giải pháp
khắc phục những bất cập đang tồn tại.
3. Nguyên nhân
Nguyên nhân ảnh hưởng đến kinh doanh sản xuất của công ty gồm có nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Nguyên nhân dễ nhận ra nhất đó là số cán bộ công nhân viên trong ccơ chế cũ vẫn
đang làm việc trong công ty. Số cán bộ này nắm giữ một số vị trí chủ chốt trong
công ty mặc dầu có trình độ nhưng do tuổi tác, kinh nghiệm nhiều nhưng được đào
tạo trong môi trường trước đây đã tỏ ra không phù hợp với nhu cầu đổi mới trong
thời đại ngày nay. Khả năng sáng tạo sự nhanh nhạy tỏ ra hạn chế. Công ty đã cổ
phần hoá được một thời gian khá dài nhưng cơ chế hoạt động vẫn chịu sự ảnh
hưởng của thời bao cấp, một số hoạt động tỏ ra không hợp với thời kỳ đổi mới
nhưng công ty vẫn chậm thay đổi tư duy và phong cách làm ăn mới nó đã làm giảm
hiệu quả hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
- Doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn công ty mở rộng kinh doanh trên nhiều
lĩnh vực. Hiện tại doanh nghiệp đang cần vốn nên gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
nguồn hàng mới.
- Việc nghiên cứu thị trường hiện tại chưa được quan tâm đúng mức, công ty chưa
thấy được rõ vai trò của hoạt động marketing.
- Mặc dù đội ngũ cán bộ có trình độ, thành thạo nghiệp vụ, thành thạo ngoại ngữ
nhưng còn thiếu kinh nghiệm, không nắm rõ luật pháp của bên đối tác đây không
chỉ là tình trạng riêng của Công ty MESCO nói riêng mà nó còn là đối với các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
- Về hình thức nhập khẩu: doanh nghiệp chủ yếu áp dụng phương thức nhập khẩu
trực tiếp, chưa đa dạng hoá phương thức nhập khẩu. Hình thức nhập khẩu này tuy
doanh thu tăng nhưng chi phí lớn, mức độ rủi ro cao làm tăng chi phí nhập khẩu như
chi phí: vận tải, xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động nhập khẩu.
- Nguyên nhân xuất phát từ cơ cấu tổ chức của bộ máy quản trị của doanh nghiệp.
Bộ máy quản trị của doanh nghiệp thành lập theo mô hình quản trị theo tuyến (đơn
tuyến). Việc sử dụng mô hình này hạn chế sử dụng những nhân viên có trình độ,
không phát huy được tính sáng tạo chủ động của cấp dưới.
* Nguyên nhân khách quan
- Giá cả hàng hoá nhập khẩu không ổn định gây khó khăn cho doanh nghiệp tiến
hành lập dự án kinh doanh, nhất là đối với các mặt hàng chủ lực: sắt thép, xi măng,
tăng giá làm tăng chi phí hàng hoá dịch vụ công trình thi công bị đình trệ, kế hoạch
bị gián đoạn.
- Lãi suất trong nước không ổn định gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc
hạch toán giá hàng bán. Doanh nghiệp nên tăng giá bán hay giữ nguyên giá để có
thể cạnh tranh là vấn đề lớn đối với công ty.
- Cơ chế quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu còn lỏng lẻo còn nhiều kẽ hở tạo điều
kiện cho hàng hoá nhập lậu tràn lan với giá rẻ chất lượng kém, gây tổn hại đến hàng
hoá nhập khẩu chính ngạch do công ty nói riêng và các công ty trong nước.
- Thủ tục hành chính còn rườm rà, nhất là thủ tục hải quan phức tạp qua nhiều khâu
gây l•ng phí thời gian, ứ đọng vốn mất thời cơ kinh doanh.
- Công ty phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh trong nước do chính phủ ban
hành chính sách cho phép các doanh nghiệp đủ tư cách pháp nhân tham gia xuất
nhập khẩu.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hoá của
công ty cổ phần xây dựng và vật tư thiết bị (MESCO)
I. Định hướng phát triển của công ty trong thời gian tới.
Sau khi ban hành nghị định 64 về việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã được
đẩy nhanh hơn gắn liền với việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước. Trong số 1.557 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp được cổ
phần hoá chỉ từ năm 2001 đến năm 2003 đã có 979 doanh nghiệp và bộ phận được
cổ phần hoá.
Tại các doanh nghiệp đã được cổ phần hoá, việc người lao động trở thành cổ đông,
làm chủ thực sự doanh nghiệp đã tạo động lực quan trọng để các doanh nghiệp phát
triển mạnh mẽ tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.
Các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều có doanh thu trung bình tăng 43%, lợi
nhuận tăng hơn 243%, vốn điều lệ tăng 1,5 đến 2 lần, cổ tức bình quân được chia
15,5% số vốn nhà nước có tại doanh nghiệp cổ phần đã tăng thêm từ 10-50% nhờ
cổ tức được chia đầu tư trở lại, thu nhập người lao động tăng 54% và số lao động
được sử dụng tăng 12%.
Đối với công ty Mesco trước đây trực thuộc nhà nước do bộ Nông nghiệp và phát
triển nông thôn quản lý. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
trong đó số vốn của nhà nước là 30% còn 70 % là vốn góp của cán bộ công nhân
viên trong công ty. Kể từ khi cổ phần hoá đến nay diện mạo của công ty đã có nhiều
chuyển biến tích cực. Công ty làm ăn ngày càng có lãi, quy mô sản xuất ngày càng
được mở rộng, tinh thần trách nhiệm cao hơn do phát huy tính làm chủ của toàn bộ
cán bộ công nhân viên nên phát huy tối đa tính sáng tạo và sự cống hiến để công ty
ngày càng lớn mạnh. Cùng với sự lớn mạnh của công ty đời sống cán bộ ngày càng
được nâng cao, thu nhập bình quân được cải thiện đáng kể.
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy số lao động được sử dụng trong công ty qua các
năm đều tăng lên.
- Năm 2002 số lao động sử dụng là 125 người
- Năm 2003 số lao động sử dụng 210 người đã tăng 85 lao động so với năm 2002
- Năm 2004 số lao động sử dụng là 325 người tăng 200 người so với năm 2002 và
tăng 115 người so với năm 2003. Việc cổ phần hoá doanh nghiệp không chỉ thu hút
tạo công ăn việc làm mà thu nhập của công nhân viên ngày càng được cải thiện cụ
thể:
Năm 2002 lương bình quân đạt 1.050.000 /công nhân/tháng
- Năm 2003 lương bình quân đạt 1.160.000/công nhân/tháng tăng so với năm 2002
con số tuyệt đối là 110.000/người/tháng tương ứng tăng tương đối 18,2% so với
năm 2003.
- Có được kết quả như trên là do sự đóng góp nỗ lực của toàn công ty cùng với sự
lanh đạo của ban lãnh đạo của công ty. Với nhưũng thành tựu đạt được công ty
không tự thoã mãn với chính mình, không chỉ dừng lại ở đó. Trong tương lai công
ty sẽ tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, nâng cao hơn nữa đời sống của
cán bộ công nhân viên với chế độ ưu đãi hơn để họ toàn tâm toàn ý cống hiến cho
công ty.
Để đạt được kết quả như mong muốn trong thời gian tới công ty đã có những định
hướng mục tiêu sau:
1. Về nguồn vốn kinh doanh.
Công ty luôn luôn chủ động trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những
năm gần đây số lượng vốn của công ty tăng lên đáng kể, điều này làm tăng hiệu quả
sản xuất của công ty. Dự kiến trong những năm tới công ty cần tăng thêm nguồn
vốn để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh dự kiến nguồn vốn cần cho ba năm tiếp
theo từ năm 2005 đến năm 2007 mỗi năm cần số vốn được thể hiện bảng sau:
Sở dĩ vốn vay ngân hàng dự kiến tăng qua các năm là do công ty cần vốn để mở
rộng sản xuất, mở rộng lĩnh vực kinh doanh. Công ty cần vốn để đầu tư vào hoạt
động sản xuất nhằm hoàn thành mục tiêu đã đề ra trong đó phần lớn nguồn vốn
được đầu tư trang bị hệ thống máy móc hiện đại đồng bộ đã tăng sản lượng cũng
như chất lượng sản phẩm và nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho các công trình
phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
2. Về chỉ tiêu nhập khẩu.
Nhằm hoàn thành kế hoạch bộ đã đề ra cho công ty trong thời gian tới với việc bảo
đảm nguồn cung ứng đầu vào ổn định, phục vụ cho các dự án hoàn thành đúng tiến
độ kế hoạch đã dự kiến. Công ty đã đưa ra chỉ tiêu kế hoạch định hướng nhập khẩu
hàng hoá từ năm 2005 đến năm 2007 như sau:
Ngoài việc tiếp tục mở rộng tìm kiếm thị trường cung ứng nước ngoài doanh nghiệp
cũng cố gắng tìm kiếm nguồn cung ứng trong nước có khả năng thay thế các nhà
cung ứng nước ngoài. Nhưng với điều kiện giá cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo chất
lượng đầu vào phục vụ đáp ứng được tình hình sản xuất.
3.Tình hình nộp ngân sách Nhà nước
Đi đôi với việc thựchiện sản xuất kinh doanh, Công ty luôn quan tâm đến việc làm
và đời sống cán bộ công nhân viên. Qua đó tạo điều kiện cho người lao động ổn
định gắn bó với Công ty, đoàn kết góp sức thực hiện kế hoạch đề ra. Bên cạnh đó
Công ty cố gắng tăng ngân sách cùng với sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh
hoàn thành chỉ tiêu bộ giao.
4. Về chất lượng sản phẩm:
Yếu tố đảm bảo cho doanh nghiệp có thể cạnh tranh hiệu quả là giá cả về chất lượng
sản phẩm, nhận thức rõ điều này một mặt doanh nghiệp tìm biện pháp giảm chi phí
sản xuất bằng việc sử dụng hiệu quả nguồn lao động trong Công ty, thực hiện tiết
kiệm nguồn nguyên liệu và tận dụng tốt các phế phẩm để tái sản xuất đồng thời đầu
tư thiết bị máy móc hiện đại nhằm nâng cao năng lực sản xuất nâng cao chất lượng
sản phẩm từ đó tạo dựng uy tín trong lòng khách hàng nâng cao hình ảnh của Công
ty.
5. Công tác thị trường và quan hệ với khách hàng.
Muốn sản xuất kinh doanh có hiệu quả không chỉ có việc nâng cao sản phẩm, giá
thành sản phẩm. Một doanh nghiệp muốn thành công trong doanh nghiệp cần phải
làm tốt công tác thị trường và duy trì được lượng khách hàng thường xuyên của
doanh nghiệp. Một trong những công cụ của công tác thị trường là đề ra một chiến
lược marketing phù hợp mục đích giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa doanh
nghiệp và khách hàng. Đối với khách hàng tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của Công ty
cần phải có chính sách chăm sóc khách hàng chu đấo như chế độ bảo hành sản
phẩm, khắc phục kịp thời những sự cố do lỗi sản phẩm gây ra nhằm tăng chỉ số hài
lòng của khách hàng. Điều này rất quan trọng trong việc tạo dựng uy tín của doanh
nghiệp đồng thời lôi kéo được khách hàng tiềm năng.
Thực tế cho thấy rằng dịch vụ hậu mãi trong các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay
là rất kém, kiến thức và thông lệ bán hàng chưa được quan tâm đúng mức mà đây
lại là mắt xích quan trọng nhất trong một mạng lưới tiếp thị
II. Giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu của MESCO.
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty MESCO đã đạt được những
thành công bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều, nhiều vướng mắc cản trở làm giảm
hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Trên cơ sở phân tích những khó khăn
vướng mắc đó một mặt doanh nghiệp tự mình tìm ra giải pháp một mặt giải quyết
một mặt Công ty cũng có những kiến nghị với cơ quan chủ quản của Nhà nước
trong đó nhân vật chính vẫn là Công ty.
1. Về phía doanh nghiệp:
* Vốn là một trong những nhân tố quan trọng để Công ty tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh và tái đầu tư mở rộng. Nguồn vốn mà Công ty MESCO có được
chủ yếu vốn đi vay từ các tổ chức tín dụng, vốn huy động từ các cổ đông. Nhờ cổ
phần hoá doanh nghiệp mà doanh nghiệp huy động được số vốn đáng kể bổ sung
vào nguồn vốn để đầu tư. Trong những năm đầu thoát khỏi bao cấp của Nhà nước
vốn cần thiết cho đầu tư rang thiết bị máy móc thiếu hụt nghiêm trọng. Tước thực
trạng đó phát huy tinh thần tập thể của toàn bộ công nhân viên trong Công ty cán bộ
lãnh đạo đã kêu gọi mọi người lưu lại một khoảng lương có nghĩa là Công ty lại một
phần lương tháng và tiền thưởng cuối năm của cán bộ công nhân viên. Số vốn góp
này giúp Công ty nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ cho các công trình dự án.
Bước sang năm 2000 thực hiện chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước củ
Đảng và Nhà nước doanh nghiệp mạnh dạn hơn tiếp tục vận động công nhân góp
vốn thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp diễn ra nhanh chóng. Đối với hoạt
động xuất nhập khẩu cần phải có khối lượng ngoại tệ nhất định để thanh toán trước
đây giao dịch với các bạn hàng c chủ yếu đến hạn thanh toán mới quy đổi ngoại tệ
thanh toán mà không có quỹ dự trù ngoại tệ. Điều này gây khó khăn trong thanh
toán và do biến động của tỷ giá hối đoái nên nhiều khi Công ty phải dùng lượng
ngoại tệ lớn hơn mức cần thiết. Để khắc phục tình trạng này Công ty đã• lập một
quỹ dữ trữ ngoại tệ đảm bảo thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu trên cơ sở tính
toán khoa học biến động của tỷ giá hối đoái.
* Đối với cán bộ công nhân viên trong Công ty luôn được quan tâm đúng mức với
chế độ ưu đãi cao nhằm khuyến khích công nhân lao động sáng tạo thành bầu không
khí lao động lành mạnh trong Công ty. Công ty sử dụng chính sách khen thưởng,
hàng năm tổ chức cho cán bộ công nhân viên đi du lịch…
Còn với cán bộ cũ từ thời kỳ trước đó Công ty có chế độ riêng chính sách riêng.
Những ai còn có khả năng có tâm huyết cống hiến cho Công ty được Công ty đào
tạo lại nâng cao trình độ tiếp tục phục vụ Công ty hoặc thuyên chuyển công tác bố
trí công việc phù hợp với khả năng của họ. Những cán bộ nào đến tuổi quá trình
cống hiến cho Công ty trong những năm qua được Công ty chỉ chế độ với chính
sách quan tâm đích đáng.
Đối với đội ngũ cán bộ trẻ Công ty luôn khuyến khích sự sáng tạo của họ, tạo điều
kiện cho họ làm việc trong môi trường cạnh tranh bình đẳng để thể hiện năng lực
của mình. Cần phải đổi mới tư duy và tác phong làm việc đối với cán bộ trong Công
ty, giáo dục nâng cao ý thức và tính kỷ luật đối với cán bộ trẻ đồng thời nêu rõ được
lợi ích thiết thực của công việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay một
số cán bộ công nhân viên chưa nhận thức rõ yêu cầu và lợi ích của việc cổ phần
hoá doanh nghiệp Nhà nước.
* Hiện nay Công ty vẫn chưa có phòng marketing hoạt động độc lập vì Công ty
chưa tin tưởng tuyệt đối vào hiệu quả mà hoạt động mà công tác marketing mang lại
so với các hoạt động khác. Tuy kinh phí dành cho hoạt động marketing vẫn tăng lên
qua các năm nhưng so với các Công ty sản xuất kinh doanh khác có tiềm lực tài
chính lớn mạnh thì kinh phí này còn khiêm tốn. Tính đến năm 2005 kinh phí dành
cho hoạt động marketing chiếm khoảng 2% doanh thu. Hiện nay hoạt động
marketing vẫn do phòng kinh doanh đảm nhiệm. Phòng kinh doanh đảm nhiệm
toàn bộ các công việc từ khâu tìm nguồn hàng nhập khẩu cho tới sản phẩm được
bán ra. Do vậy không có thời gian chuyên sâu vào lĩnh vực marketing.
Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh lại không gắn kinh
doanh của mình với thị trường. Vì trong cơ chế thị trường chỉ có như vậy doanh
nghiệp mới hy vọng tồn tại được. Nhận thức rõ điều này nhằm khắc phục những
yếu kém trong hoạt động marketing dự định trong thời gian tới Công ty sẽ tách hẳn
phòng marketing hoạt động động lập nhằm chuyên sâu hơn trong việc nghiên cứu
thị trường. Mở rộng thị trường đầu ra đồng thời tìm kiếm thị trường đầu vào đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và ổn định.
Mỗi Công ty khi tiến hành các hoạt động marketing của mình đều phải xác định
kinh phí mà mình bỏ ra. Khi tính toán kinh phí dành cho hoạt động marketing Công
ty thường tính hiệu quả kinh phí bỏ ra đó có tương ứng với tình hình tài chính của
Công ty hay không. …Tất cả những vấn đề đó Công ty tiến hành giải quyết một
cách cụ thể để từ đó đề ra kinh phí hợp lý cho hoạt động marketing của mình. ở
Công ty MESCO hàng năm thường trích ra 2 - 3% doanh thu để dành cho hoạt động
marketing và xúc tiến thương mại.
* Xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh phù hợp
Việc xây dựng và lựa chọn chiến lược kinh doanh phải căn cứ vào nhiều yếu tố.
Trong đó yếu tố chính thuộc bản thân doanh nghiệp. Chiến lược xây dựng trước tiên
phải dựa vào mục tiêu của doanh nghiệp. Mục tiêu có thể là tập trung vào một đoạn
thị trường nhất định ma doanh nghiệp có thể chiếm lĩnh có khả năng cạnh tranh trên
đoạn thị trường đó. Hoặc mục tiêu có thể là cùng một lúc thoả mãn các đoạn thị
trường khác nhau với nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau. Ngoài mục tiêu của
doanh nghiệp cần phải tính đến khả năng tài chính giới hạn của mình đồng thời căn
cứ vào các đối thủ cạnh tranh khác để xây dựng choct chiến lược đảm bảo thành
công cho Công ty. Trong hoạt động marketing thông thường doanh nghiệp áp dụng
hai loại hình chiến lược sau:
+ Chiến lược tập trung: đối với loại hình chiến lược này có ưu điểm nổi trội so với
chiến lược khác là; nó chỉ tập trung vào thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng
trên một số đoạn thị trường nhất định nên nguồn lực không bị phân tán, dàn trải,
chuyên môn hoá sản xuất và tieu hoá sản phẩm đạt được mức độ cao, hoạt động
quản lý trên thị trường đó cũng dễ dàng hơn. Mặt khác ưu thế cạnh tranh trên thị
trường đó cũng cao hơn do nguồn lực tập trung. Nhưng nhược điểm của chiến lược
này là tính linh hoạt bị hạn chế, nguy cơ rủi ro cao hơn do chỉ hoạt động trên một số
thị trường khó đối phó với những biến động của thị trường.
+ Chiến lược phân tán: với chiến lược này công ty hoạt động kinh doanh trên nhiều
thị trường khác nhau. Ưu điểm của chiến lược là tính linh hoạt cao, rủi ro hạn chế.
Nhược điểm là do xâm nhập nhiều thị trường nên nguồn lực bị phân tán nên khi khó
thâm nhập sâu vào hoạt động quản lý cũng phức tạp hơn nhiều.
Thiết nghĩ với Công ty MESCO hiện nay còn áp dụng sự kết hợp cả hai chiến lược
trên đối với hoạt động kinh doanh đáp ứng nhu cầu tiêu dùng Công ty nên tập trung
vào sản xuất kinh doanh, lĩnh vực được coi là thế mạnh xuất khẩu cũng như thị
trường nhập khẩu.
* Tiếp tục hoàn thiện các công cụ xúc tiến thương mại. Các công cụ mà Công ty
đang áp dụng là: chào hàng trực tiếp , xúc tiến bán và chào hàng gián tiếp.
+ Chào hàng trực tiếp: là công cụ đóng vai trò quan trọng nhất trong xúc tiến
thương mại của Công ty, đó là sự tiếp xúc trực tiếp của nhân viên Công ty với
khách hàng. Doanh số tăng hay không phụ thuộc chủ yếu vào trình độ hiểu biết của
đội ngũ nhân viên chào hàng này. Nhận thấy vai trò của chào hàng trực tiếp nên
Công ty đã chú trọng đến việc tuyển chọn và đào tạo kỹ năng nghiệp vụ cho nhân
viên. Hiện nay Công ty có đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm giỏi nghiệp vụ cũng
như am hiểu về mặt hàng hoạt dộng kinh doanh của Công ty. Nhiệm vụ của họ là
giải đáp các thắc mắc đồng thời tư vấn cho khách hàng về sản phẩm dịch vụ của
Công ty.
+ Xúc tiến bán: Công ty MESCO sử dụng rất nhiều dạng của xúc tiến bán như
quảng cáo tại các đại lý trực thuộc, sử dụng các loại hình quảng cáo khác.
+ Chào hàng gián tiếp: các sản phẩm của Công ty MESCO đều được bảo hành và có
chế độ hậu mãi đặc biệt. Các sự cố đều được khắc phục kịp thời được lắp đặt vận
chuyển miễn phí tới tận nơi chân công trình trong thói quen bảo hành do đó nó gây
được thiện cảm và uy tín trong lòng khách hàng. Bên cạnh đó công ty còn tham gia
các hoạt động mang tính xã hội như tài trợ cho các chương trình nhân đạo.
* Hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu.
Hiện nay không chỉ đối với MESCO mà hầu hết đối với các doanh nghiệp khâu xuất
nhập khẩu còn rất yếu. Mặc dầu MESCO có đội ngũ cán bộ trẻ có trình độ nghiệp
vụ được đào tạo cơ bản nhưng còn nhiều kinh nghiệm. Vì vậy để hoạt động nhập
khẩu có hiệu quả ngoài việc nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên Công
ty cần phải hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu. Các khâu trong quá trình phải rõ ràng
chặt chẽ trên cơ sở nghiên cứu khoa học cụ thể.
+ Khâu tính giá và quy đổi giá: việc mua bán ngoại thương phải được tiến hành trên
cơ sở giá quốc tế. Đã biết được giá cả quốc tế chúng ta phải tham khảo giá cả đựoc
hình thành ở các sở giao dịch, các trung tâm đấu giá quốc tế….Nhưng trong nhiều
trường hợp những giá trính được lại không phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh
đang giao dịch. Do đó phải quy nó về điều kiện thích hợp.
Việc quy dẫn có thể:
. Quy dẫn về cùng một đơn vị đo lường.
. Quy dẫn về cùng một đơn vị tiền tệ.
. Quy dẫn về cùng điều kiện cơ sở giao hàng.
. Quy dẫn về mặt thời gian.
. Quy dẫn về điều kiện tín dụng
+ Hợp đồng nhập khẩu:
Việc soạn thảo bản hợp đồng và ký hợp đồng nhập khẩu nói riêng và hợp đồng
ngoại thương nói chung là rất phức tạp đòi hỏi người trực tiếp tham gia soạn thảo
về ký kết phải có trình độ, sự hiểu biết phải sâu rộng như: tình hình kinh doanh, thị
trường, luật pháp quốc gia….
Nội dung của hợp đồng rất phức tạp có liên quan đến nhiều vấn đề nhiều đối tượng:
đối tượng là hàng hoá, đối tượng là bảo hiểm, thuê vận tải…do đó sự chặt chẽ trong
nội dung các điều khoản là rất cần thiết để hạn chế những rủi ro có thể gây tổn thất
cho doanh nghiệp.
+ Nghiệp vụ thuê tàu: việc thuê tàu dựa trên 3 căn cứ cơ bản.
. Điều khoản hợp đồng.
. Đặc điểm hàng bán.
. Điều kiện vận tải
Việc thuê tàu đòi hỏi phải có kinh nghiệm nghiệp vụ, có thông tin về tình hình thị
trường thuê tàu và tinh thông các điều kiện thuê tàu.
+ Điều kiện thanh toán: doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán
khác nhau như: Phương thức thư tín dụng đối ứng, ngân hàng khống chế chứng
từ…tuỳ thuộc vào uy tín của doanh nghiệp giao dịch mà Công ty có thể lựa chọn
phương thức giao dịch phù hợp. Hiện nay phương thức áp dụng phổ biến và đảm
bảo an toàn đó là phương thức mở L/C.
* Đa dạng hoá phương thức nhập khẩu, nhằm phân tán rủi ro, giảm bớt gánh nặng
rủi ro cho doanh nghiệp nên đa dạng hóa hình thức nhập khẩu. Hiện nay Công ty
MESCO tiến hành nhập khẩu chủ yếu bằng hình thức trực tiếp. Hình thức này chứa
đựng nhiều rủi ro tuy nó mang lại lợi nhuận cao hơn các hình thức khác. Ngoài hình
thức nhập khẩu như hiện nay MESCO nên áp dụng các hình thức như: nhập khẩu uỷ
thác, nhập khẩu liên doanh…trên cơ sở nghiên cứu phân tích những ưu điểm và
nhược điểm của mỗi phương thức mà lựa phương thức phù hợp với tình hình thực
tế của doanh nghiệp.
2. Về phía Nhà nước.
Nhà nước nên hỗ trợ tạo điều kiện cho các Công ty trong nước kinh doanh hoạt
động xuất nhập khẩu như: hỗ trợ thông tin, hỗ trợ tài chính, tìm kiếm thị trường cho
Công ty…
* Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là quyết định đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Việc cổ phần hoá mang lại nhiều mặt lợi ích xã hội và cho bản thân Công ty; cho
phép tăng huy động vốn xã hội, tiếp thêm máu về nguồn sinh lực mới cho doanh
nghiệp, thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và xã hội hoá trong phát triển kinh tế; tạo
thêm nhiều hàng hoá mới hấp dẫn cho thị trường chứng khoán. Nguồn xung lực tích
cực để thị trường này khởi sắc. đặc biệt việc cổ phần hoá sẽ tác động tích cực đến
quá trình cấu trúc lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước; khắc phục được tính khép
kín rời rạc biệt lập của từng khu vực doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác
nhau để hình thành tổng Công ty, những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn kinh tế
đa sở hữu, mạnh về tài chính, hiện đại về công nghệ, gắn bó, liên kết, hợp tác chặt
chẽ với nhau, hoạt động hiệu quả hơn trong thị trường nội địa và xuyên quốc gia.
Để việc cổ phần hoá hấp dẫn các nhà đầu tư đi vào thực chất và mang lại hiệu quả
kinh tế xã hội cao cần có sự chuẩn bị và tổ chức tốt công tác triển khai trên thực tế,
trong đó đặc biệt coi trọng những vấn đề sau:
- Cổ phần hoá không được biến thành tư nhân hoá, cần nắm vững mục tiêu của cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, khuyến khích tư nhân mua cổ phần.
- Định hướng, sắp xếp, phát triển doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và
hoạt động công ích.
- Sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách đối với doanh nghiệp Nhà nước.
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng Công ty Nhà nước.
- Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp.
- Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sát nhập, giải thể, phá sản doanh
nghiệp Nhà nước nói cách khác là chuyển đổi chủ sở hữu về nguyên tắc phải do thị
trường quyết định.
- Việc mua bán cổ phiếu phải công khai trên thị trường, khắc phục tinh trạng cổ
phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp.
Tóm lại, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cần được chuyển sang một
giai đoạn nâng cao về chất trên ba mặt sau:
- Từ cổ phần hoá chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ sang cổ phần
hoá những doanh nghiệp lớn, các tổng Công ty, các doanh nghiệp làm ăn có lãi.
- Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong một số lĩnh vực hạn chế sang cổ phần
hoá các doanh nghiệp ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá.
- Từ hình thức cổ phần hoá nội bộ là chính chuyển sang bán cổ phần ra bên ngoài,
kể cả cho các nhà đầu tư nước ngoài.
* Hoàn thiện các biện pháp quản lý nhập khẩu hàng hoá.
- Về thuế quan: Trong quy định hiện hành của Nhà nước về thuế đối với hàng hoá
nhập khẩu, chúng ta có ba loại thuế suất là: thuế suất ưu đãi đặc biệt, thuế suất ưu
đãi và thuế suất thông thường. Chúng ta có thể bổ sung cho các trường hợp hàng
hoá của nước ngoài bán phá giá, được nhận trợ cấp xuất khẩu vào nước ta và phân
biệt đối xử về thuế nhập khẩu đối với hàng hoá của Việt Nam. Đ• có quy định về
áp dụng hạn ngạch thuế quan. Tuy nhiên, tất cả các loại thuế trên đều tính theo
phần trăm trên kim ngạch nhập khẩu và để hạn chế gian lận thì phải quy định giá
tối thiểu để quy đinj giá tối thiểu là không phù hợp. Hiện nay, mức thuế quan nhập
khẩu bình quân của Việt Nam là trên 16%, tức là cao hơn nhiều nước trong khu
vực do đó ta không muốn chúng ta cũng phải tiếp tục cắt giảm thuế quan nhập khẩu
theo các cam kết quốc tế. Vậy làm thể nào để cắt giảm thúe quan vừa bãi bỏ các
biện pháp thuế quan không phù hợp nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu bảo hộ sản xuất
trong nước à các vấn đề đặt ra. Để thực hiện được Công ty cần có kiến nghị với Nhà
nước thực hiện một số biện páp sau:
+ Nghiên cứu sử dụng thuế tuyệt đối hoặc thuế tổng hợp một số hàng hoá nhập
khẩu hiện đang áp dụng mức thuế tối thiểu trong tính thuế. Thuế tuyệt đối được quy
định cho từng loại mặt hàng chẳng hạn 100VNĐ cho 1 kg cam kn. Thuế tổng hợp là
thuế bao gồm cả thuế đã áp dụng các loại thuế trên nên nó thành thông lệ quốc tế
Việt Nam có thể áp dụng được .
+ Mở rộng mặt hàng áp dụng chung hạn ngạch thuế quan. Theo quyết định số
91/2003/QĐ-TT của thủ tướng chính phủ về việc áp dụng thí điểm tại thông tư số
09/2003/TT-BTM quy định đã mở rộng diện mặt hàng áp dụng hạn ngạch thuế
quan là 7. Cần tiếp tục mở rộng diện mặt hàng áp dụng hạn ngạch nhập khẩu. Có
thể đưa thuế suất trong hạn ngạch tương đương thuế suất ưu đãi, nhưng thuế suất
ngoài hạn ngạch ở mức thuế đỉnh cao như các nước đã áp dụng.
+ Giảm thuế nhập khẩu nói chung nhưng có thể tăng cao lợi thuế và chi phí nội địa
đối với các mặt hàng không khuyến khích tiêu dùng. Chẳng hạn đối với xe gắn
máy và ô tô dưới 12 chỗ vẫn có thể giảm thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc và bộ
linh kiện lắp ráp nhưng phải tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, phải chịu thuế VAT, đồng
thời tăng hoặc bổ sung các khoản lệ phí trước bạ, lệ phí đăng kiểm, lệ phí lưu hành,
thuế và phí môi trường…làm như vậy nguồn thu của Nhà nước không giảm mà
vẫn phù hợp với hệ thống quốc tế.
+ Bổ sung các loại thuế thời vụ.
+ Chi tiết hoá kiểu thuế nhập khẩu cho rõ ràng và minh bạch đánh giá tình trạngáp
dụng thuế một cách tuỳ tiện do phải vận dụng biểu thuế không có hoặc không rõ
ràng. Sớm nghiên cứu để áp dụng chế độ miễn thuế tự động thay thế cho miễn thuế
rời rạc như hiện nay.
* Về biện pháp phi thuế: Theo cam kết quốc tế, các biện pháp phi thuế phải được
từng bước dỡ bỏ hoặc chuyển sang biệnpháp thuế quan. Tuy nhiên các biện pháp
phù hợp thì vẫn được áp dụng và các biện pháp mà WTO không cấm, các nước vẫn
áp dụng thì Việt Nam có thể nghiên cứu và áp dụng. Với quan didểm đó cần phải
đổi mới và hoàn thiện một số biện pháp chủ yếu sau:
+ Cụ thể hoá danh mục các mặt hàng cầm nhập khẩu và tập hợp một văn bản pháp
luật về hàng cấm nhập khẩu. Hiện nay quy định chung và danh mục các hàng cấm
được thiết kế một cách rời rạc theo yêu cầu quản lý của từng ngành hoặc lĩnh vực
dẫn đến các kẽ hở trong quản lý. Ví dụ hàn the chỉ cấm sử dụng trong chế biến
lương thực thực phẩm, cũng có nghĩa là cho phép nhập khẩu và lưu thông hàn the
trên thị trường nội địa một cách tự do. Danh mục các mặt hàng cần nhập khẩu vào
Việt Nam còn chưa rõ ràng, cụ thể và chi tiết nên chưa thuận lợi cho các cơ quan
quản lý vì doanh nghiệp thựchiện với những tồn tại như trên đòi hỏi phải có sự điều
chỉnh bổ dung và tập hợp trong một văn bản pháp luật để áp dụng tốt yêu cầu quản
lý và kiểm tra thực hiện.
+ Khẩn trương xây dựng và hoàn thiện các rào cản kỹ thuật. Trong khuôn khổ của
WTO hiệp định rào cản kỹ thuật đối với thương mại cho phép các nước thành viên
được áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ cuộc sống con người, động thực
vật và môi trường. Các biện pháp này được ban hành dưới dạng các quy định hoặc
tiêu chuẩn kỹ thuật. ở nước ta đã có nhiều quy định pháp luật để quản lý chất lượng
hàng hoá như các quy định này hoặc đã lạc hậu, hoặc là còn thiếu. Trong số 5.600
tiêu chuẩn quốc gia thì chỉ có 1.200 là hài hoá với tiêu chuẩn quốc tế. Riêng trong
chương trình hài hoà tiêu chuẩn ASEAN, Việt Nam cũng chỉ chấp nhận 56 trong
tổng số 59 tiêu chuẩn. Vì vậy cần phải đẩy nhanh tiến độ xây dựng và công nhận
hợp chuẩn. Cách thức nhanh và tốt nhất là cần tham khảo hệ thống quy định và tiêu
chuẩn của EU làm cơ sở và các quy định của họ đã được nhiều nước côngnhận.
+ Xây dựng các biện pháp quản lý hàng hoá nhập khẩu dựa trên các quy định về
môi trường trong các điều ước quốc tế về môi trường có liên quan đến thương mại.
Đồng thời, do cơ sở vật chất và trang thiết bị ở nhiều cửa khẩu Việt Nam còn hạn
chế nên không đáp ứng được yêu cầu cần kiểm tra chất lượng hoặc chưa qua kiểm
định lọt vào thị trường nội địa. Vì vậy để góp phần ngăn chặn tình trạng này và để
hạn chế nhập khẩu khi cần thiết phải sớm nghiên cứu xds quy định về cửa khẩu
thông qua đối với một số loại hàng hoá nhất định, biện pháp này WTO không cấm
và các nước trên thế giới đang áp dụng.
- Về tổ chức thực hiện: Từ một số dề xuất trên cho thấy có rất nhiều nội dung công
việc phải triển khai ngay từ bây giờ. Để đáp ứng được đòi hỏi thực tiễn cần kiến
nghị với cơ quan Nhà nước một số công việc triển khai là:
+ Khẩn trương xây dựng chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh
thần nghị quyết hội nghị trung ương 9 để làm cơ sở định hướng cho xây dựng các
biện pháp quản lý nhập khẩu cho thời kỳ đến năm 2010, để tránh tình trạng cơ chế
quản lý phải điều chỉnh thường xuyên do sớm bị lạc hậu.
+ Cần tập trung nguồn nhân lực và trí tuệ để rà soát toàn bộ hệ thống văn bản pháp
luật để sớm có kế hoạch xây dựng, bổ sung và hoàn thiện.
+ Trước mắt thành lập tại bộ thương mại cơ quan quản lý chất lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu để tham mưu cho lãnh đạo bộ và giúp cho các doanh nghiệp về những
vấn đề liên quan. Củng cố quản lý cạnh tranh để có đủ năng lực giải quyết các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh có liên quan tới những vấn đề về chất lượng sản
phẩm,...
* Nhà nước nên khuyến khích định hướng tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong các doanh nghiệp.
Ngày nay công nghệ thông tin đóng vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, quyết định các doanh nghiệp vào sự
nghiệp phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin của đất nước. Công nghệ thông
tin giúp cho doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh là một lực lượng quan
trọng hiện nay việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp Việt Nam
rất yếu kém. Để tháo gỡ bất cập đó cần phải có quy định và giải pháp thúc đẩy ứng
dụng công nghệ thông tin.
- Thứ nhất: cần sớm có chiến lược quy hoạch dài hạn và cụ thể từng giai đoạn về tài
lực, vật lực, nhân lực về ứng dụng công nghệ thông tin đối với từng loại hình doanh
nghiệp, từng doanh nghiệp gắn với chiến lược phát triển của mỗi ngành và đặc biệt
là gắn với chiến lược phát triển công nghệ thông tin của đất nước.
- Thứ hai: phải sớm tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi, cơ chế chính sách, chính
sách khuyến mãi phù hợp với đặc thù trên từng lĩnh vực công nghệ thông tin, phân
cấp một bước để thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng và triển khai các lợi thế của
công nghệ thông tin.
- Thứ ba: cần có biện pháp, các chương trình tuyên truyền, khuyến khích có hiệu
quả, nâng cao nhận thức và lợi ích thiết thực của lĩnh vực công nghệ thông tin vào
hoạt động của các doanh nghiệp.
- Thứ tư: Cần có biện pháp thu hút đầu tư trong nước và sự tham gia của Việt Kiều
ở nước ngoài cho các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp.
Đây là biện pháp quan trọng nhằm xây dựng nguồn vốn lớn, huy động nguồn nhân
lực có chất lượng cao, nhiều kinh nghiệm cho các dự án vốn có những đặc thù riêng
của công nghệ thông tin.
ứng dụng công nghệ thông tin ngày càng trở nên cần thiết và quan trọng cho sự phát
triển của mỗi doanh nghiệp cũng như cho sự phát triển của toàn xã hội. Công nghệ
thông tin sẽ tạo động lực cho các doanh nghiệp Việt Nam tiến gần hơn đến trình độ
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước và khu vực và trên thế giới, nhất là
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đến gần.
* Nhà nước cần phải có biện pháp để bình ổn thị trường như xây dựng thể chế
chính sách phát triển thị trường, kết cấu hạ tầng thương mại, hình thành kênh phân
phối lưu thông, sử dụng các tổng Công ty lớn của Nhà nước làm công cụ bình ổn thị
trường. Trong đó công cụ chính là các doanh nghiệp đóng vai trò chính để bình ổn
thị trường. Các yếu tố tổ chức sản xuất, tổ chức lưu thông, kiểm soát thị trường,
thuế có tác dụng tới quan hệ cung cầu. Còn yếu tố kiểm soát tài chính tiền tệ tác
động đến quan hệ tiền - hàng rồi qua đó tác động tới quan hệ cung cầu.
Trong đó vòng tròn một là hệ thống thể chế, chính sách, định hướng phát triển của
cơ quan quản lý tác động đến hành vi doanh nghiệp. Qua đó tác động đến quan hệ
cung - cầu ở vòng trong 2, vòng liền mạch là tổng Công ty Nhà nước, ngụ ý lực
lượng này đóng vai trò nóng cốt trong bình ổn thị trường những mặt hàng trọng yếu.
Vòng trong cách quãng là doanh nghiệp được khuyến khích mở rộng mạng lưới
kinh doanh, tham gia bình ổn thị trường nói chung.
* Phải chủ động, không ngừng đổi mới phương thức xúc tiến thương mại.
Tư duy về xúc tiến thương mại là một trong những chuyển biến lớn trong nhận thức
xã hội. Việc đã có đến 51 đơn vị xúc tiến thương mại trong cả nước dù trình độ mô
hình, tác động là khác nhau nhưng dù sao đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta
có hoạt động xúc tiến thương mại. Tuy nhiên từ thực tiễn của hoạt động xúc tiến
thương mại mấy năm qua cho thấy có một số vấn đề cần giải quyết.
Thứ nhất là vấn đề thực hiện, ba đối tượng tiến hành xúc tiến thương mại là cơ quan
Nhà nước trung ương, địa phương và doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp đóng vai
trò then chốt.
Thứ hai, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước trung ương là phải thực hiện tốt những
nhiệm vụ: quản lý Nhà nước thể hiện việc xây dựng văn bản pháp quy để quản lý
hoạt động xúc tiến thương mại, cơ quan Nhà nước trung ương còn yếu cả về khung
pháp luật lẫn kiểm tra, kiểm soát và quản lý. Bên cạnh vấn đề quản lý, cơ quan Nhà
nước trung ương cũng phải cung cấp thông tin lớn liên quan đến xúc tiến thương
mại và xác định những chiến lược trọng tâm, trọng điểm đối với những mặt hàng
cũng như địa bàn và những nơi cần xúc tiến thương mại, định ra định hướng cơ
quan Nhà nước trung ương phải chịu trách nhiệm tổ chức tiến hành những hoạt
động xúc tiến thương mại lớn và liên ngành, liên địa phương, chẳng hạn khuyến
khích kết hợp xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu ư, xúc tiến du lịch, kêté hợp với các
hoạt động văn hoá tạo nên hoạt động sôi nổi hấp dẫn để tranh thủ bạn hàng hướng
dẫn nghiệp vụ về đào tạo nguồn nhân lực cho cả hệ thống quản lý và doanh nghiệp
về phía cơ quan Nhà nước địa phương cần phải chịu trách nhiệm về những vấn đề:
- Thứ nhất phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện những quy định của Nhà nước, kiểm
tra đặc biệt là về quản lý, cung cấp thông tin và định hướng cụ thể cho từng mặt
hàng theo đặc thù của địa phương, thế mạnh của địa phương cũng như thị trường
quen thuộc của địa phương. Tỏo chức những hoạt động xúc tiến thương mại tầm cỡ
địa phương, đào tạo cụ thể cho các doanh nghiệp.
Trong hoạt động xúc tiến thương mại cần tăng hơn nữa tính chủ động ở từng cấp,
từng ngành và đặc biệt là từng doanh nghiệp.
Cần xác định các thị trường và mặt hàng trọng tâm, trọng điểm để tổ chức xúc tiến
thương mại một cách bài bản, về địa bàn có 4 thị trường lớn: Mỹ, EU, Nhật, Trung
Quốc. Về mặt hàng có hai cách tiếp cận hoặc lựa chọn mặt hàng có sẵn có tạo thêm
những chi tiết mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, hai là lựa chọn những mặt
hàng mới cần giới thiệu khuyến khích.
Phương pháp xúc tiến thương mại cần phong phú đa dạng hơn. Cần tìm kiếm thêm
qua kinh nghiệm thực tế những sáng kiến tạo nên nhiều hiệu quả như sáng kiến kết
hợp giữa xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư, xúc tiến du lịch và các hoạt động
văn hoá.
Xúc tiến nước ngoài đã được quan tâm nhiều nhưng xúc tiến trong nước chưa được
quan tâm thoả đáng. Công tác xúc tiến của chúng ta trong nước chỉ mới quan tâm
đến dừng ở hội chợ mà những hội chợ này theo nhiều đánh giá thì phần chợ nhiều
hơn phần hội, chưa mang tính chuyên nghiệp. Cục xúc tiến thương cần có những
giới thiệu bài bản về khái niệm này để nâng tính chuyên nghiệp trong hoạt dộng
xúc tiến thương mại cho địa phương, doanh nghiệp nhất là những địa phương xa.
Nếu trong công tác xúc tiến thương mại cần chi một khoản cho hoạt động đây cũng
là điều nên đáng làm.
Trong cơ chế vận hành xúc tiến thương mại cần dứt khoát với cơ chế bao cấp, mạnh
dạn chuyển sang cơ chế thị trường cố gắng hạn chế dần tiến tới triệt tiêu bao cấp.
Đồng thời kiến nghị với Nhà nước sửa quy định các doanh nghiệp chỉ được dành
7% doanh thu cho hoạt động quảng cáo hàng hoá như hiện nay. Đây là quy định
không hợp lý, ở các nước tỷ lệ này dành cho các doanh nghiệp là rất lớn. Có thể coi
đây là một trong những khâu quyết định của cạnh tranh.
Cuối cùng quyết định nhất là nguồn nhân lực làm công tác hoạt động xúc tiến
thương mại. Đây là khâu quyết định cần thiết kể lại. Cục xúc tiến thương mại cần
dành phần đích đáng trong ngân sách Nhà nước cho đào tạo nguồn nhân lực. Trong
chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia cần dành một phần đáng kể
cho công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Trên đây là một số kiến nghị của Công ty đối với các cơ quan chủ quản thuộc Nhà
nước. Nhà nước cần có giải pháp nhằm tạo điều kiện cho các Công ty trong nước
tiến hành kinh doanh xuất nhập khẩu có hiệu quả, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các
doanh nghiệp và môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm thúc đẩy sự phát triển của
doanh nghiệp trong nước đủ sức cạnh tranh trước thềm hội nhập kinh tế. Các thủ tục
hành chính cần phải được tiếp tục cải thiện tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến
hành kinh doanh diễn ra thuận lợi đồng thời tiết kiệm được thời gian nắm bắt kịp
thời cơ hội kinh doanh đồng thời tiết kiệm được chi phí nhất là trong hoạt động xuất
nhập khẩu. Nhà nước chỉ hỗ trợ phần nào thôi còn điều quan trọng là các Công ty
phải tự thân vận động là chính.
Kết luận
Thực hiện chủ trương đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp của Đảng và nhà nước đến
nay Công ty MESCO cơ bản đã hoàn thành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã
và đnag kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên bên cạnh những thành công đạt được
công ty vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc nhất là trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Mặc dù có đội ngũ cán bộ trẻ tài năng sáng tạo nhưng còn thiếu kinh nghiệm chưa
tinh thông nghiệp vụ là rào cản đối với hoạt động nhập khẩu. Sự yếu kém trong
nghiệp vụ nhập khẩu không chỉ đối với Công ty MESCO mà là thực trạng chung
của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở phân tích những yếu kém những mặt hạn chế đó vấn đề đặt ra đối với
lãnh đạo công ty là cần phải tích cực hoàn thiện nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá dưới
sự hỗ trợ của nhà nước để việc kinh doanh hàng hoá đạt hiệu quả cao tạo nên sự
chuyển biến để đưa công ty lên tầm cao mới có sự chuyển biến về chất để nâng cao
khả năng cạnh tranh trước thêm hội nhập với kinh tế thế giới.
Lời cam đoan
Với lòng biết ơn tôi xin chân thành gửi tới các thầy cô giáo đã giảng dạy tôi trong
những năm qua. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo ThS. Mai Thế
Cường và các cô chú trong Công ty MESCO những người đã nhiệt tình giúp đỡ,
cùng với sự nỗ gắng của bảng thân để tôi hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệp này.
Tôi xin cam đoan không có bất kỳ sự sao chép nào trong bản chuyên đề này mà bản
chuyên đề được hoàn thành trên cơ sở những kiến thức đã được tích luỹ trong
những năm qua và thông qua tham khảo các tài liệu có liên quan đến đề tài mà tôi
chọn nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm
Sinh viên Hoàng Minh Toán
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Tập i, II.
Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Hường. NXB. Thống kê Hà Nội - 2004.
2. Giáo trình kinh doanh quốc tế tập i, II. NXB. Lao động Hà Nội - 2003.
Chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Thị Hường.
3. Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương. NXB giáo dục Hà Nội.
Tác giả: PGS. Vũ Hữu Tửu.
4. Giáo trình marketing quốc tế. NXB giáo dục Hà Nội - 1997.
Biên soạn: PGS. Nguyễn Cao Văn.
5. Luật thương mại. NXB. chính trị quốc gia Hà Nội - 2003
6. Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam. NXB.
Chính trị quốc gia Hà Nội - 2002
7. Báo cáo tổng kết của Công ty MESCO năm 2002; 2003; 2004.
8. Số 39/2004 thương mại: Vấn đề đặt ra từ nhập khẩu.
Tác giả: Lê Văn .
- Hoàn thiện các biện pháp quản lý nhập khẩu hàng hoá đáp ứng yêu cầu chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Tác giả: PGS.TS. Đinh Văn Thành.
- Nhập khẩu song song - Giá thuốc có thực sự bình ổn.
Tác giả: Vũ Anh.
9. Số 37/2004 tạp chí thương mại.
- Sửa đổi về thi hành thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu
Tác giả: Trần Đăng Tĩnh.
- Về nhập khẩu song song
Tác giả: ThS. Nguyễn Thanh Tâm
10. Số 36/2004 Thương mại.
- Phải chủ động, không ngừng đổi mới phương thức xúc tiến tiến thương mại. Lược
ghi phát triển của phó thủ tướng Vũ Khoan tại hội nghị XTTM toàn quốc.
11. Số 34/2004 Thương mại.
- Cổ phần hoá các Tổng Công ty - lợi ích và những vấn đề đặt ra
Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong
- Nhân vật chính là doanh nghiệp
Tác giả: Quang Tùng
12. Trang Web: http://dangcongsan.vn
Bài cổ phần hoá - thực trạng và giải pháp