YOMEDIA
ADSENSE
U nguyên bào nuôi tái phát nguy cơ cực cao sau điều trị 7 năm: Báo cáo 1 trường hợp và tổng quan y văn
1
lượt xem 0
download
lượt xem 0
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết báo cáo 1 trường hợp U nguyên bào nuôi tái phát nguy cơ cực cao xuất hiện 7 năm sau điều trị: bệnh nhân vào viện xét nghiệm βhCG huyết thanh tăng rất cao với tổn thương di căn gan, phổi kích thước lớn. Chúng tôi trình bày ngắn gọn tổng quan y văn.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: U nguyên bào nuôi tái phát nguy cơ cực cao sau điều trị 7 năm: Báo cáo 1 trường hợp và tổng quan y văn
- BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP U nguyên bào nuôi tái phát nguy cơ cực cao sau điều trị 7 năm: báo cáo 1 trường hợp và tổng quan y văn Nguyễn Văn Thắng1, Đào Minh Hưng1*, Nguyễn Thái Giang2, Phạm Trí Hiếu1 1 Bệnh viện Phụ sản Trung ương 2 Trường Đại học Y Hà Nội doi: 10.46755/vjog.2024.4.1758 Tác giả liên hệ (Corresponding author): Đào Minh Hưng, email: daominhhung19081995@gmail.com Nhận bài (received): 20/9/2024 - Chấp nhận đăng (accepted): 04/10/2024 Tóm tắt U nguyên bào nuôi là nhóm bệnh lý tân sản ác tính hoặc có tiềm năng ác tính của nguyên bào nuôi. Hầu hết bệnh nhân UNBN tái phát trong năm đầu tiên, các trường hợp tái phát sau 5 năm là hiếm gặp. U nguyên bào nuôi tái phát có tiên lượng xấu do rất khó điều trị, tỷ lệ tái phát cao và tỷ lệ sống sau 5 năm thấp. Hóa trị với phác đồ đa hóa chất như EMACO (Etoposide, Methotrexate, Actinomycin D, Cyclophosphamide và Vincristine) là biện pháp quan trọng nhất để tăng tỷ lệ thoái lui bệnh và giảm tỷ lệ tái phát của bệnh nhân UNBN đã tái phát. Phác đồ bắt đầu với hóa chất EP (etoposide, cisplatin) liều thấp, đang được áp dụng tại nhiều trung tâm hiện nay, nhằm hạ thấp tỷ lệ tử vong do vỡ các nhân di căn của bệnh nhân UNBN nguy cơ cực cao nếu như bệnh nhân điều trị với phác đồ đa hóa chất tiêu chuẩn như EMACO từ ban đầu. Chúng tôi báo cáo 1 trường hợp U nguyên bào nuôi tái phát nguy cơ cực cao xuất hiện 7 năm sau điều trị: bệnh nhân vào viện xét nghiệm βhCG huyết thanh tăng rất cao với tổn thương di căn gan, phổi kích thước lớn. Chúng tôi trình bày ngắn gọn tổng quan y văn. Từ khóa: U nguyên bào nuôi, U nguyên bào nuôi tái phát, hóa trị. Extremely high-risk recurrent gestational trophoblastic tumor after an interval of 7 years: case report and literature review Nguyen Van Thang1, Dao Minh Hung1*, Nguyen Thai Giang2, Pham Tri Hieu1 1 National Hospital For Obsterics And Gynecology 2 Hanoi Medical University Abstract Gestational trophoblastic tumor is a category of malignant neoplasms or potentially malignant neoplasms arising from trophoblasts. Most patients of recurrent Gestational trophoblastic tumors recur within 1 year of completion of treatment and rarely after 5 years of follow-up. The patient with recurrent Gestational trophoblastic tumor has a poor prognosis because being difficult to treat and has high rates of recurrence. Multi‐agent combination chemotherapy such as EMACO (Etoposide, Methotrexate, Actinomycin D, Cyclophosphamide, and Vincristine) is the most important method to increase cure rates and to decrease recurrent rates of patients with recurrent gestational trophoblastic neoplasia. The use of induction low-dose etoposide 100 mg/m(2) and cisplatin 20 mg/m(2) (EP; days 1 and 2 every 7 days) to reduce early death rate due to rupture of metastatic nodules before commencing EMA/CO in patients with extremely high – risk recurrent gestational trophoblastic neoplasia is applied in many centers today. Here, we report a case of Recurrent choriocarcinoma after an interval of 7 years. The patient was hospitalized and tested for very high serum βhCG with large liver and lung metastatic lesions. We present a brief review of the literature. Keywords: Gestational trophoblastic tumor, recurrent gestational trophoblastic tumor, chemotherapy. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Yếu tố quan trọng đầu tiên liên quan đến khả năng U nguyên bào nuôi (UNBN) là nhóm bệnh lý tân sản tái phát của UNBN là điểm số nguy cơ khi đánh giá ban ác tính hoặc có tiềm năng ác tính của nguyên bào nuôi. đầu. Trong đó bệnh nhân UNBN được đánh giá là nguy Tỷ lệ tái phát của bệnh nhân mắc UNBN là 6,5%, trong khi cơ cao dựa theo thang điểm Hiệp hội Sản phụ khoa thế tỷ lệ tái phát lần 2 và lần 3 đối với những bệnh nhân đã giới (FIGO) là khi có tổng điểm ≥ 7 điểm và UNBN nguy từng tái phát tăng lên tới 33,3% [1], [2]. cơ cực cao khi tổng điểm ≥ 13 điểm (thang điểm này Hầu hết bệnh nhân UNBN xuất hiện tái phát trong gồm tiêu chí: tuổi, tiền căn thai, thời gian xuất hiện khối u năm đầu tiên, trong khi trường hợp bệnh tái phát muộn từ khi kết thúc thai kỳ, nồng độ βhCG huyết thanh trước sau 5 năm là hiếm gặp [3]. điều trị và đặc điểm của tổn thương UNBN). Điểm số 152 Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):152-155. doi:10.46755/vjog.2024.4.1758
- nguy cơ FIGO càng cao thì nguy cơ tái phát sau điều trị dõi. Bệnh nhân tự bỏ theo dõi 2 năm nay do tình hình càng tăng. Các yếu tố khác làm tăng nguy cơ tái phát dịch bệnh. gồm: ít hơn hai đợt hóa trị liệu củng cố sau khi βhCG 3 tháng trước khi nhập viện, bệnh nhân đau bụng huyết thanh giảm xuống dưới 5 IU/L, khoảng thời gian thượng vị âm ỉ, kèm theo mệt mỏi nhiều. Khi nhập viện, giữa tiền sử mang thai trước đó và thời điểm hóa trị liệu bệnh nhân tỉnh táo, đau âm ỉ vùng thượng vị, không ra > 12 tháng, khoảng thời gian từ thời điểm bắt đầu điều máu âm đạo, huyết áp: 110/75 mmHg, mạch: 84 lần/ trị hóa trị đến khi đạt được nồng độ βhCG huyết thanh phút, thân nhiệt: 36,5 độ C. Các xét nghiệm sinh hóa, bình thường > 14 tuần [4], [5]. huyết học bình thường. βhCG huyết thanh: 900.938 IU/L. UNBN tái phát có tiên lượng xấu do khó điều trị, tỷ Các xét nghiệm chức năng gan và AFP trong giới hạn lệ tái phát lại cao, tỷ lệ sống sau 5 năm giảm. Hóa trị bình thường, HbsAg và HIV âm tính. Siêu âm: ở hạ phân với phác đồ đa hóa chất như EMACO là biện pháp quan thùy VII của gan có các khối u kích thước 50 – 54mm. X trọng nhất để tăng tỷ lệ thoái lui bệnh và giảm tỷ lệ tái quang phổi: ½ dưới phổi trái có khối mờ kích thước 140 phát [4], [6]. Ở những bệnh nhân UNBN nguy cơ cao, x 90mm. Cộng hưởng từ sọ não không phát hiện nốt và EMACO thường là phác đồ hóa trị liệu tiêu chuẩn. Để khối bất thường nội sọ. giảm thiểu khả năng tử vong sớm ở những bệnh nhân Chẩn đoán UNBN tái phát nguy cơ cực cao được đặt nguy cực cao, khuyến cáo gần đây của hiệp hội ung thư ra với điểm nguy cơ là 21 điểm theo FIGO. Nguy tử vong châu âu (ESMO) và Mạng lưới ung thư toàn diện quốc do vỡ các nhân di căn của bệnh nhân là rất cao, chúng gia Hoa Kỳ (NCCN) đã đề xuất sử dụng hóa chất EP liều tôi quyết định điều trị hóa chất phác đồ EP liều thấp 3 thấp trước khi điều trị phác đồ đa hóa chất tiêu chuẩn chu kỳ liên tiếp trước khi chuyển sang phác đồ EMACO như EMACO [7], [8]. tiêu chuẩn. Hiện nay, nhiều nước và hiệp hội đã có các đề xuất Sau 3 chu kỳ EP, bệnh nhân đáp ứng tốt với nồng độ mới về phác đồ điều trị và khoảng thời gian theo dõi βhCG huyết thanh từ 900.938 IU/L giảm xuống 15.004 sau điều trị ở bệnh nhân UNBN, tuy nhiên số liệu còn IU/L, đồng thời toàn trạng bệnh nhân ổn định, không xuất hạn chế. Chúng tôi báo cáo 1 trường hợp UNBN tái phát hiện các biến cố như vỡ nhân di căn hay nhiễm trùng nguy cơ cực cao 7 năm sau điều trị: với nồng độ βhCG hoặc thiếu máu, trong khi các chỉ số hóa sinh máu (AST, huyết thanh tăng rất cao kèm tổn thương di căn gan, ALT, Bilirubin toàn phần, Bilirubin trực tiếp và creatinin phổi kích thước lớn, được điều trị theo phác đồ EP liều huyết thanh) đều nằm ở giới hạn bình thường trong xét thấp 3 chu kỳ liên tiếp trước khi chuyển sang phác đồ nghiệm sau mỗi đợt điều trị. hóa chất EMACO. 3. BÀN LUẬN 2. BÁO CÁO BỆNH ÁN 3.1. Về thời gian theo dõi tái phát sau điều trị bệnh Bệnh nhân nữ 45 tuổi, tiền sử y tế của bệnh nhân và u nguyên bào nuôi gia đình bình thường. Bệnh nhân của chúng tôi là 1 trường hợp hiếm gặp Bệnh nhân được chẩn đoán bệnh UNBN và điều trị tại với chẩn đoán bệnh UNBN tái phát muộn sau 7 năm khoa Phụ Ung thư Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm sau điều trị. Theo tác giả Yujia Kong và cộng sự nghiên 2016, bệnh nhân đã được cắt tử cung với kết quả giải cứu trên 1827 UNBN điều trị tại Bệnh viện Đại học Y phẫu bệnh là chửa trứng xâm nhập và được điều trị hóa Liên minh Bắc Kinh từ năm 2004 đến 2017, kết quả cho chất sau mổ với phác đồ đơn hóa chất Methotrexate. thấy thời gian tái phát trung bình là 3 tháng, phần lớn Sau đó do kháng với phác đồ Methotrexate bệnh nhân các trường hợp tái phát (78,8%) xảy ra trong vòng 1 được chuyển sang phác đồ đa hóa chất EMACO. Bệnh năm sau khi kết thúc điều trị và chỉ có 2 bệnh nhân tái tiến triển tốt và nồng độ βhCG huyết thanh giảm xuống phát sau 5 năm theo dõi [5]. Những báo cáo gần đây dưới ngưỡng sau 4 chu kỳ hóa chất EMACO nhưng chỉ từ Vương quốc Anh ở 4201 bệnh nhân cho thấy nguy được điều trị hóa chất củng cố thêm 1 chu kỳ trước khi cơ tái phát lớn nhất xảy ra trong năm đầu tiên sau khi xuất viện. Bệnh nhân khám lại thường xuyên tại viện và hoàn thành điều trị, nguy cơ tái phát giảm dần theo thời xét nghiệm βhCG huyết thanh 2 năm sau đó. Trong 3 gian và không quan sát thấy bệnh tái phát sau 7 năm. năm tiếp theo, bệnh nhân được xét nghiệm βhCG huyết Từ đó một vài tác giả cho rằng chính sách theo dõi thanh tại nhà với tần suất 3 tháng/lần (dịch vụ được cung nồng độ βhCG suốt đời ở Vương quốc Anh là không cấp bởi 1 cơ sở y tế có uy tín). Nồng độ βhCG huyết thanh cần thiết và đưa ra đề xuất nên dừng việc theo dõi lại duy trì tình trạng âm tính trong suốt thời gian 5 năm theo sau 10 năm [3]. Bảng 1. Bảng tỷ lệ tái phát theo mức độ nguy cơ thấp và cao của bệnh UNBN [3] Thời điểm tái phát Nguy cơ thấp n = 154 (%) Nguy cơ cao n = 44 (%) Năm thứ 1 112 (73) 38 (86) Năm thứ 2 19 (12) 4 (9) Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):152-155. doi:10.46755/vjog.2024.4.1758 153
- Năm thứ 3 17 (11) 0 (0) Năm thứ 4 2 (1) 1 (2) Năm thứ 5 1 (1) 0 (0) Năm thứ 6 2 (1) 0 (0) Năm thứ 7 1 (1) 1 (2) Tuy nhiên, đã có các báo cáo về các ca lâm sàng ngày 1 và 2 cứ sau 7 ngày) để giảm tử vong sớm trước của bệnh lý UNBN xuất hiện trên các phụ nữ độ tuổi mãn khi bắt đầu EMA/CO đối với UNBN nguy cơ cao [7]-[9]. kinh. Ngoài ra cũng theo tác giả Yujia Kong và cộng sự Điều này được lý giải do trong bối cảnh UNBN với trong nghiên cứu ở trên có đến 10% bệnh nhân tái phát điểm nguy cơ cao theo FIGO ≥ 7, thậm chí nguy cơ cực sau 2 năm [5]. cao với điểm nguy cơ ≥ 13, việc sử dụng với phác đồ EP Bệnh nhân của chúng tôi trong nghiên cứu sau 5 liều thấp hơn so với chế độ hóa chất tiêu chuẩn nhằm năm theo dõi nồng độ βhCG huyết thanh đều nằm dưới mục đích giảm thể tích khối u dần dần, do đó giảm thiểu ngưỡng chẩn đoán, bệnh nhân tự ý bỏ theo dõi mà không nguy cơ tử vong vì tình trạng xuất huyết hoặc hội chứng có được sự tư vấn của bác sĩ điều trị. Kết quả sau 7 năm ly giải u [9]. bệnh nhân nhập viện với tình trạng bệnh UNBN nguy cơ Alifrangis và cộng sự tiến hành một nghiên cứu hồi cao tái phát và đã có tổn thương di căn đa cơ quan. cứu tại Bệnh viện Charring Cross, Vương quốc Anh từ Trường hợp này là ví dụ cho thấy việc theo dõi bệnh năm 1979 đến năm 2010, nhóm bệnh nhân nguy cơ cao suốt đời theo các khuyến cáo của các hiệp hội ung thư và cực cao được điều trị hóa trị phác đồ EP liều thấp ban châu Âu (ESMO) và Mạng lưới ung thư toàn diện quốc đầu có tỷ lệ tử vong sớm giảm còn 0,7% so với 7,2% của gia Hoa Kỳ (NCCN) có lẽ là cần thiết [7], [8]. Về chế độ nhóm bệnh nhân trước năm 1995 [10]. Tác giả Charleen theo dõi sau điều trị, ở Vương quốc Anh, hCG được theo Chan Wah Hak và cộng sự nghiên cứu việc điều trị ban dõi hàng tuần trong 6 tuần sau hóa trị, sau đó hCG trong đầu với EP liều thấp trên 37 trường hợp là UNBN có nguy huyết thanh và nước tiểu hai tuần một lần cho đến 6 cơ cao và 24 trường hợp là “nguy cơ cực cao”. Tỷ lệ bệnh tháng, trước khi chuyển sang chỉ đánh giá nước tiểu, ban nhân thoái lui bệnh sau hóa trị cảm ứng EP liều thấp đầu hàng tháng, nhưng cuối cùng giảm xuống chỉ còn cao hơn so với liệu pháp EMACO từ ban đầu, là 71,4% sáu tháng một lần sau 5 năm theo dõi. so với 58,8% [9]. Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng Xét về yếu tố liên quan đến tái phát ở bệnh nhân này 4/2021 đến tháng 11/2021 đã điều trị khỏi cho 5 bệnh chúng tôi nhân thấy: điểm số nguy cơ thời điểm điều trị nhân UNBN nguy cơ cực cao, điểm FIGO ≥ 13 điểm. Các hóa chất lần đầu là không cao (4 điểm), bệnh nhân có bệnh nhân này đã được điều trị phác đồ EP liều thấp 3 kháng hóa chất Methotrexate phải chuyển điều trị phác chu kỳ liên tiếp trước khi chuyển sang phác đồ EMACO. đồ EMACO và chỉ được điều trị 01 đợt hóa chất củng cố. Không bệnh nhân nào gặp biến chứng vỡ nhân di căn Hiện nay để giảm nguy cơ tái phát ở bệnh nhân UNBN hay nhiễm trùng hoặc thiếu máu. Nồng độ β HCG huyết các hiệp hội hiệp hội ung thư châu Âu (ESMO) và Mạng thanh giảm sau 3 đợt EP đều đạt trên 97% [11]. lưới ung thư toàn diện quốc gia Hoa Kỳ (NCCN) đều Bệnh nhân trong nghiên cứu được nhận định là nằm khuyến cáo điều trị từ 02 – 03 đợt hóa chất củng cố. trong nhóm nguy cơ cực cao với số điểm 21 theo thang Bệnh nhân bị UNBN tái phát đặc biệt khi được phát điểm nguy cơ của FIGO, và nguy cơ tử vong do vỡ nhân hiện muộn do không được theo dõi với các biểu hiện như di căn hiện hữu, nên phác đồ EP liều thấp được đặt ra với ngất, nhức đầu, ho ra máu, ho, đau màng phổi, v.v… do 3 chu kỳ liên tiếp trước khi chuyển sang phác đồ EMACO các tổn thương di căn tại não, gan, phổi có nguy cơ tử tiêu chuẩn. vong rất cao do vỡ tổn thương di căn, đồng thời đối mặt Bệnh nhân đã đáp ứng tốt với điều trị, nồng độ βhCG với khả năng thất bại khi điều trị. Những dấu hiệu này huyết thanh giảm nhanh sau 3 đợt điều trị hóa chất phác thường xuất hiện trên những bệnh nhân tự ý bỏ theo dõi, đồ EP liều thấp, đồng thời không xuất hiện các biến cố do vậy nhấn mạnh việc tư vấn bệnh nhân tốt về quá trình như vỡ nhân di căn hay nhiễm trùng hoặc thiếu máu (các theo dõi sau điều trị [4]. biến cố chính gây tử vong sớm trên bệnh nhân điều trị 3.2. Về điều trị UNBN nguy cơ cao phác đồ đa hóa chất tiêu chuẩn) Ở những bệnh nhân UNBN nguy cơ cao, EMACO Hiện tại bệnh nhân đang được điều trị phác đồ đa thường là phác đồ hóa trị tiêu chuẩn. Các lựa chọn thay hóa chất tiêu chuẩn EMACO sau 3 chu kỳ điều trị hóa thế, bao gồm TP/TE (paclitaxel, cisplatin/ paclitaxel, chất EP liều thấp. Xét nghiệm βhCG huyết thanh sẽ được etoposide), BEP (bleomycin, etoposide, cisplatin) [6]. định lượng hàng tuần. Sau khi xét nghiệm βhCG huyết Tuy nhiên trong những khuyến cáo gần đây của hiệp thanh trở về dưới ngưỡng chẩn đoán bệnh nhân có thể hội ung thư châu âu (ESMO) và Mạng lưới ung thư toàn được điều trị củng cố 2 - 3 chu kỳ hóa chất nhằm giảm diện quốc gia Hoa Kỳ (NCCN) đề xuất sử dụng liều thấp khả năng tái phát. Trong quá trình điều trị nếu xuất hiện etoposide 100 mg/m(2) và cisplatin 20 mg/m(2) (EP; tình trạng kháng hóa chất, bệnh nhân sẽ được đánh giá 154 Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):152-155. doi:10.46755/vjog.2024.4.1758
- lại và thực hiện phác đồ điều trị tiếp theo. Kết quả điều Clin. Oncol. Off. J. Am. Soc. Clin. Oncol. Jan. 2013, vol. trị cho thấy phác đồ EP kết hợp với EMACO đã làm giảm 31, no. 2, pp. 280–286, doi: 10.1200/JCO.2012.43.1817. nguy cơ vỡ nhân di căn và nguy cơ tử vong sớm của bệnh 11. Hằng P. T., Thắng N. V., Hương L. T. T., and Mai B. T. nhân u nguyên bào nuôi rất cao này. C. Báo cáo 5 trường hợp u nguyên bào nuôi nguy cơ rất cao được điều trị khởi đầu bằng phác đồ EP liều thấp. 4. KẾT LUẬN Tạp Chí Phụ Sản. 4, 2021, vol. 19, no. 4, Art. no., doi: UNBN tái phát sau điều trị thường xuất hiện sớm, chủ 10.46755/vjog.2021.4.1301. yếu trong năm đầu tiên, tuy nhiên vẫn có bệnh nhân tái phát muộn nên việc theo dõi sau điều trị để phát hiện tái phát nên duy trì suốt đời. Sử dụng phác đồ cảm ứng EP liều thấp cho bệnh nhân UNBN nguy cơ cao và cực cao trước khi điều trị phác đồ đa hóa chất tiêu chuẩn như EMACO làm giảm tỷ lệ tử vong sớm, đặc biệt khi bệnh nhân có nhiều tổn thương di căn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ môn Phụ sản Đại học Y Hà Nội. Khối u nguyên bào nuôi. Sản phụ khoa. 2004. 1, 248-289. 2. N. J. Sebire and M. J. Seckl. Gestational trophoblastic disease: current management of hydatidiform mole. BMJ. Aug. 2008, vol. 337, p. a1193, doi: 10.1136/bmj. a1193. 3. K. Balachandran et al. When to stop human chorionic gonadotropin (hCG) surveillance after treatment with chemotherapy for gestational trophoblastic neoplasia (GTN): A national analysis on over 4,000 patients. Gynecol. Oncol., Oct. 2019, vol. 155, no. 1, pp. 8–12, doi: 10.1016/j.ygyno.2019.07.024. 4. Y. Sun, Y. Xiang, X. Wan, and X. Yang. Factors related to recurrence of choriocarcinoma and evaluation of treatment outcomes. Zhonghua Fu Chan Ke Za Zhi. May 2006, vol. 41, no. 5, pp. 329–332,. 5. Y. Kong et al. Management and risk factors of recurrent gestational trophoblastic neoplasia: An update from 2004 to 2017. Cancer Med. 2020, vol. 9, no. 7, pp. 2590–2599, doi: 10.1002/cam4.2901. 6. M. Alazzam, J. Tidy, R. Osborne, R. Coleman, B. W. Hancock, and T. A. Lawrie. Chemotherapy for resistant or recurrent gestational trophoblastic neoplasia. Cochrane Database Syst. Rev., vol. 2016, no. 1, p. CD008891, Jan. 2016, doi: 10.1002/14651858.CD008891.pub3. 7. M. J. Seckl et al. Gestational trophoblastic disease: ESMO Clinical Practice Guidelines for diagnosis, treatment and follow-up. Ann. Oncol. Off. J. Eur. Soc. Med. Oncol. Oct. 2013, vol. 24 Suppl 6, pp. vi 39-50, doi: 10.1093/annonc/mdt345. 8. Gestational Trophoblastic Neoplasia Version 1.2023 — December 20, 2022 NCCN. 9. C. Chan Wah Hak et al. Emergency Etoposide-Cisplatin (Em-EP) for patients with germ cell tumours (GCT) and trophoblastic neoplasia (TN). BMC Cancer, Aug. 2019, vol. 19, p. 770, doi: 10.1186/s12885-019-5968-7. 10. C. Alifrangis et al. EMA/CO for high-risk gestational trophoblastic neoplasia: good outcomes with induction low-dose etoposide-cisplatin and genetic analysis. J. Nguyễn Văn Thắng và cs. Tạp chí Phụ sản 2024; 22(4):152-155. doi:10.46755/vjog.2024.4.1758 155
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn