JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2015-0056<br />
Social Sci., 2015, Vol. 60, No. 10, pp. 47-54<br />
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
ỦY BAN KHÁNG CHIẾN HÀNH CHÍNH MIỀN NAM TRUNG BỘ<br />
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954)<br />
<br />
Nguyễn Thị Thanh Hương<br />
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Quy Nhơn<br />
<br />
Tóm tắt. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương Đảng<br />
và Chính phủ, Ủy ban kháng chiến miền Nam Trung Bộ được thành lập. Đây là một trong<br />
những sáng kiến đặc biệt của Chính phủ về mặt tổ chức nhằm chỉ đạo cuộc kháng chiến<br />
của nhân dân Nam Trung Bộ trong giai đoạn cách mạng mới. Bài viết này làm rõ quá trình<br />
thành lập, hệ thống tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam<br />
Trung Bộ trên tất cả các lĩnh vực, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng<br />
lợi.<br />
Từ khóa: Nam Trung Bộ, Ủy ban kháng chiến hành chính, kháng chiến chống thực dân<br />
Pháp.<br />
<br />
1. Mở đầu<br />
Viết về đề tài Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ (UBKCHCMNTB) đã<br />
có một số tác phẩm, công trình nghiên cứu đề cập đến như: Tác phẩm Khu V- 30 năm chiến tranh<br />
giải phóng [6], Tập 1 - Kháng chiến chống thực dân Pháp, Quân khu V xuất bản 1986, tác phẩm<br />
Nam Trung Bộ kháng chiến (1945-1975) [19] của Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ biên<br />
soạn năm 1992, đã đề cập đến sự kiện UBKCHCMNTB được thành lập, những hoạt động trên<br />
các lĩnh vực có sự chỉ đạo, điều hành của UBKCHCNTB. Các công trình nghiên cứu lịch sử địa<br />
phương của các tỉnh Nam Trung Bộ như: Lịch sử Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nãng, Quảng<br />
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Đăclăk. . . cũng đã đề<br />
cập đến sự điều hành, tổ chức lãnh đạo của UBKCHCMNTB đến các địa phương. Tuy nhiên các<br />
công trình trên chưa làm rõ quá trình thành lập của UBKCHCMNTB, hệ thống tổ chức của nó và<br />
quá trình hoạt động, lãnh đạo nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ trên các lĩnh vực đạt nhiều thành<br />
tựu to lớn của UBKCHCNTB. Bài viết này tác giả làm rõ những vấn đề mà các tài liệu trước đó<br />
chưa đi sâu tìm hiểu. Làm rõ sự ra đời, tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính<br />
miền Nam Trung Bộ góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của<br />
Chính phủ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954).<br />
Trên cơ sở tập hợp các nguồn tài liệu thành văn, tài liệu nhân chứng, tài liệu gốc lưu trữ tại<br />
Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, tại các Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng các tỉnh, tác giả đã sử dụng<br />
các phương pháp lịch sử, phương pháp logic và các phương pháp liên ngành khác để hoàn thành<br />
<br />
Ngày nhận bài: 15/7/2015 Ngày nhận đăng: 10/11/2015<br />
Liên hệ: Nguyễn Thị Thanh Hương, e-mail: thanhhuongsudhqn@gmail.com<br />
<br />
<br />
<br />
47<br />
Nguyễn Thị Thanh Hương<br />
<br />
<br />
bài viết. Có thể nói việc tìm hiểu sự ra đời, tổ chức và hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành<br />
chính miền Nam Trung Bộ góp phần quan trọng vào việc nghiên cứu lịch sử Chính phủ trong giai<br />
đoạn kháng chiến chống Pháp của dân tộc.<br />
<br />
2. Nội dung nghiên cứu<br />
2.1. Sự ra đời của Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ<br />
Cách mạng tháng Tám thành công lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi<br />
thành lập, cùng với việc thiết lập cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền ở Trung ương, Nhà nước đã<br />
đồng thời tiến hành việc thiết lập và củng cố hệ thống chính quyền ở các địa phương. Nền tảng<br />
cho việc tạo lập hệ thống chính quyền ở các địa phương là Sắc lệnh số 63/SL của Chính phủ cách<br />
mạng lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (22/11/1945) [14].<br />
Miền Nam Trung Bộ sau Cách mạng tháng Tám gồm 12 tỉnh, trải dài trên 1000 km, từ Đà<br />
Nẵng đến tỉnh Bình Thuận, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Vì vậy, sau khi xâm lược Nam<br />
Bộ, thực dân Pháp đưa quân ra đánh chiếm khu vực này. Nhiều tỉnh của Nam Trung Bộ rơi vào tay<br />
thực dân Pháp, chỉ còn 4 tỉnh giữ vững được tự do gồm: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú<br />
Yên. Do ở xa Trung ương lại bị kẻ thù bao vây bốn phía nên ngay từ cuối năm 1945 công tác kiểm<br />
tra, tổ chức bộ máy chính quyền, điều hành cuộc kháng chiến ở Nam Trung Bộ đã được Trung<br />
ương Đảng đặc biệt quan tâm. Ngày 1/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh số 70, cử Bộ<br />
trưởng Bộ Lao động Lê Văn Hiến làm việc với phái viên của Chính phủ do đồng chí Võ Nguyên<br />
Giáp dẫn đầu vào kiểm tra tình hình bộ đội ở chiến trường Nam Trung Bộ và truyền đạt chỉ thị<br />
của Trung ương Đảng, Chính phủ cho các chiến khu và các tỉnh [15]. Đầu năm 1946, Chính phủ<br />
ra quyết định thành lập Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam và Ủy ban Kháng chiến miền<br />
Nam Trung Bộ. Đến tháng 11/1946, Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã<br />
cử đồng chí Phạm Văn Đồng làm Đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ tại Nam Trung Bộ với<br />
trọng trách động viên tổ chức và lãnh đạo nhân dân kháng chiến, kiên trì chiến đấu và quyết tâm<br />
đánh thắng kẻ thù ngay trên mặt trận Nam Trung Bộ, tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân,<br />
củng cố và bảo vệ vùng giải phóng [19;98-99]. Cùng với việc kiểm tra, chỉ đạo công cuộc kháng<br />
chiến trên địa bàn, Chính phủ đã hết sức quan tâm đến việc tổ chức xây dựng và điều hành kháng<br />
chiến của các cấp chính quyền ở miền Nam Trung Bộ.<br />
Đầu năm 1947, trong cả nước, bên cạnh Ủy ban Hành chính (1/1946) còn có Ủy ban kháng<br />
chiến (12/1946). Sự tồn tại song song hai hệ thống ủy ban đều thực hiện chức năng chính quyền đã<br />
dẫn tới tình trạng chồng chéo, trùng lặp trong công tác chỉ đạo kháng chiến. Vì thế, ngày 1/10/1947<br />
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Sắc lệnh số 91/SL, quyết định hợp nhất Ủy ban Kháng chiến với Ủy<br />
ban Hành chính từ cấp tỉnh đến cấp xã thành Ủy ban Kháng chiến Hành chính [16]. Thực hiện Sắc<br />
lệnh trên, từ đầu năm 1948 đến giữa năm 1948 trên toàn miền Nam Trung Bộ việc hợp nhất hai<br />
ủy ban đã cơ bản hoàn thành. Sau khi các địa phương đã hoàn thành hợp nhất, ngày 1/9/1948, Ủy<br />
ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ và Nha đại diện Ủy ban hành chính Trung Bộ đã<br />
tiến hành hợp nhất thành cơ quan chính quyền duy nhất với tên gọi là Ủy ban Kháng chiến Hành<br />
chính miền Nam Trung Bộ (UBKCHCMNTB). Đây là cơ quan chính quyền cấp miền, điều hành<br />
trực tiếp và toàn diện công cuộc kháng chiến kiến quốc trên địa bàn Nam Trung Bộ.<br />
UBKCHCMNTB được thành lập có nhiệm vụ: lãnh đạo, tổ chức điều hành quân dân Nam<br />
Trung Bộ thực hiện vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Nó giống như một Chính phủ địa phương<br />
(vừa chịu sự lãnh đạo của Chính phủ Trung ương nhưng vừa có tính độc lập nhất định). Trong suốt<br />
9 năm kháng chiến chống Pháp, mặc dù ở xa Trung ương nhưng UBKCHCMNTB đã tự lực, tự<br />
cường lãnh đạo quân dân 12 tỉnh chiến đấu anh dũng và giữ vững được vùng tự do rộng lớn gồm 4<br />
tỉnh. Tại vùng tự do, nhân dân đã xây dựng chế độ mới - chế độ dân chủ nhân dân và trở thành hậu<br />
<br />
48<br />
Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp...<br />
<br />
<br />
phương vững chắc chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần to lớn vào thắng lợi chung<br />
của dân tộc đánh bại thực dân Pháp xâm lược.<br />
<br />
2.2. Hệ thống tổ chức của Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ<br />
Cùng với sự ra đời, việc xây dựng và phát triển tổ chức đóng vai trò quan trọng đối<br />
với UBKCHCMNTB trong lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp. Có thể nói, từ ngày<br />
1/9/1948, UBKCHCMNTB được thành lập cho đến cuối tháng 12/1948 hệ thống tổ chức của<br />
UBKCHCMNTB không ngừng được kiện toàn và phát triển. Ngoài bộ phận văn phòng, còn có 25<br />
sở, ban, ngành chịu sự lãnh đạo của UBKCHCMNTB [18;4]. Các bộ phận này phụ trách bao quát<br />
trên các lĩnh vực như: kinh tế, quân sự, an ninh, chính trị, xã hội, giáo dục, y tế, đối ngoại. . .<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1. Sơ đồ hệ thống tổ chức của UBKCHCMNTB [4]<br />
<br />
Công tác lãnh đạo của UBKCHCMNTB đối với các sở, ban, ngành chuyên môn từ cuối<br />
năm 1948 đã đi vào nề nếp và hoạt động ngày càng có hiệu quả. Một số sở, ban, ngành không<br />
còn bó hẹp hoạt động ở bốn tỉnh vùng tự do mà bắt đầu mở rộng gây cơ sở trong các vùng bị địch<br />
tạm chiếm. Nhờ vậy đã góp phần thúc đẩy công cuộc “kháng chiến - kiến quốc” trên địa bàn Nam<br />
Trung Bộ.<br />
Sau Hiệp định Giơnevơ, do đặc điểm của tình hình đất nước có thay đổi nên tại phiên họp<br />
<br />
49<br />
Nguyễn Thị Thanh Hương<br />
<br />
<br />
vào trung tuần tháng 9/1954, Hội đồng Chính phủ đã quyết định đổi tên Ủy ban kháng chiến hành<br />
chính các cấp thành Ủy ban Hành chính [9;88]. Sau thời gian 100 ngày kí Hiệp định Giơnevơ,<br />
UBKCHCMNTB bàn giao cho đối phương quản lí về hành chính các tỉnh Quảng Nam, Phú Yên<br />
và nửa tỉnh Quảng Ngãi. Phạm vi quản lí hành chính của chính quyền ta đến hạn bàn giao cuối<br />
cùng vào tháng 5/1955 đã thu hẹp chỉ còn tỉnh Bình Định và nửa tỉnh Quảng Ngãi. Do đó ngày<br />
13/12/1954, Ủy ban Hành chính miền Nam Trung Bộ ban hành Nghị định số 796/MN-TOC công<br />
nhận thành lập UBHC liên tỉnh Bình Định - Quảng Ngãi để trực tiếp điều khiển các ngành chuyên<br />
môn liên tỉnh và các UBHC các huyện còn lại trong tỉnh Bình Định - Quảng Ngãi [11]. Ủy ban<br />
Hành chính liên tỉnh Bình Định - Quảng Ngãi hoạt động đến tháng 5/1955 thì kết thúc. Như vậy,<br />
sự ra đời của UBKCHCMBTB cùng với hệ thống cơ quan chuyên môn giúp việc ngày càng hoàn<br />
thiện đã trở thành một trong những nhân tố góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống<br />
Pháp trên địa bàn Nam Trung Bộ.<br />
<br />
2.3. Hoạt động của Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ trong<br />
kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954)<br />
Từ khi ra đời và hoạt động, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Nhà nước,<br />
UBKCHCMNTB đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân các tỉnh miền Nam Trung Bộ tiến hành cuộc<br />
kháng chiến toàn dân, toàn diện, đạt được những thành tích to lớn trên tất cả các lĩnh vực.<br />
2.3.1. Về kinh tế - tài chính<br />
Cách mạng tháng Tám thành công chưa được bao lâu thì thực dân Pháp lại quay trở lại xâm<br />
lược nước ta. UBKCHCMNTB đã chỉ đạo nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ thực hiện nhiệm vụ<br />
vừa kháng chiến, vừa phải xây dựng một nền kinh tế tự cấp tự túc.<br />
* Về nông nghiệp: Phát động phong trào tăng gia sản xuất, khai hoang, mở rộng diện tích<br />
canh tác, trồng thêm vụ hoa màu, xây dựng các công trình thủy nông (đê, đập) đảm bảo nước tưới<br />
cho đồng ruộng, cải tiến kĩ thuật nâng cao năng suất cây trồng. . . Hướng dẫn đồng bào dân tộc<br />
dùng phân bón ruộng, phòng chống bệnh dịch, bảo vệ mùa màng, thực hiện phong trào định canh,<br />
định cư ổn định sản xuất. Tính đến cuối năm 1950, diện tích đất canh tác được tưới nước ở bốn<br />
tỉnh tự do tăng thêm 62.000 ha [4;7], gấp hai lần diện tích tưới của các công trình thủy lợi trước<br />
1945. Sản lượng lúa trên diện tích gieo trồng cũng tăng lên. Năm 1953, tổng sản lượng lương thực<br />
bốn tỉnh tự do đã tăng 2.378 tấn so với 2 năm trước đó. Nếu tính tổng sản lượng quy thóc đầu<br />
người (tổng số dân là 2.610.016 người) thì năm 1953 toàn vùng tự do đã đạt chỉ tiêu 300kg lương<br />
thực/người [7;5]. Số lương thực đó đã giải quyết được nhu cầu lương thực cho nhân dân đồng thời<br />
chi viện cho lực lượng vũ trang. Đây là thành công của Nam Trung Bộ trong việc thực hiện chủ<br />
trương tự cấp tự túc về lương thực.<br />
Chính quyền còn thi hành chính sách ruộng đất như: giảm tô, tức, chia lại công điền cho<br />
công bằng, dân chủ. Trong những năm 1948-1950, dưới sự chỉ đạo của Ban Canh nông miền Nam<br />
Trung Bộ, toàn vùng tự do đã thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và Chính phủ. Tính đến<br />
tháng 10/1950 ở bốn tỉnh tự do Liên khu V, điền chủ đã thực hiện giảm trên diện tích 250.640 mẫu<br />
và 291.719 tá điền được giảm tô. Riêng 2 tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi đã thực hiện giảm tô cho<br />
27.686 tá điền, giảm được 1962 tấn lúa. Năm 1953, đã giảm 10.625 tấn lúa cho 70.000 tá điền thu<br />
1.462 mẫu ruộng của Pháp và Việt gian chia cho dân cày. Chia cho trung, bần cố nông là 140.492<br />
mẫu công điền [7;7]. Chính sách ruộng đất của UBKCHCMNTB đã đem lại quyền lợi kinh tế thiết<br />
thực cho nông dân, bồi dưỡng lực lượng nhân dân và lực lượng kháng chiến, củng cố niềm tin của<br />
người dân đối với Đảng và Chính phủ. Trên cơ sở đó củng cố khối liên minh công nông vững chắc.<br />
* Về công nghiệp: UBKCHCMNTB đã huy động nhân dân di chuyển máy móc, sơ tán vào<br />
<br />
<br />
50<br />
Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp...<br />
<br />
<br />
rừng sâu, xây dựng các xưởng quân giới, chế tạo vũ khí chống giặc. Trong những năm 1948 - 1950,<br />
ở các tỉnh tự do, ngoài hai cơ sở công nghiệp quốc doanh là Xưởng cơ khí Liên khu V và Xí nghiệp<br />
dệt quốc doanh Việt Thắng, các cơ sở công nghiệp quốc phòng đã có bước phát triển. Cả 4 tỉnh<br />
đều có các xưởng sản xuất vũ khí và đã sản xuất được lựu đạn, bộc phá, kíp mìn, súng phóng bom,<br />
súng Bazoka, súng cối. . . Năm 1949 đã sản xuất được 135 tấn bao gồm 31 loại vũ khí phục vụ<br />
nhu cầu chiến trường Nam Bộ. Năm 1953, mức sản xuất đã đạt 350 tấn vũ khí các loại, đáp ứng về<br />
cơ bản nhu cầu vũ khí cho lực lượng vũ trang [10;133]. Tại các tỉnh tự do, nghề dệt phát triển nhờ<br />
phong trào trồng bông kéo sợi dệt vải được phát động trong dân. Diện tích trồng bông ở bốn tính<br />
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên năm 1946 chỉ có 3000 mẫu đến năm 1950 tăng lên<br />
12.000 mẫu, với sản lượng 2000 tấn/năm. Công nghiệp làm giấy cũng phát triển, đến năm 1950<br />
có 87 xưởng giấy [3;4]. Các ngành nghề thủ công phục vụ dân sinh phát triển mạnh mẽ: làm nước<br />
mắm, muối, xà phòng, đầu dừa, đồ gốm, dệt chiếu, sản xuất nông cụ,. . .<br />
* Về tài chính: Nhân dân các tỉnh Nam Trung Bộ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà<br />
nước đóng góp ngân sách thông qua “Tuần lễ vàng” (17 - 24/9/1945). Trong Tuần lễ vàng, đồng<br />
bào Nam Trung Bộ đã đóng góp được 217kg vàng, trong đó Quảng Nam là tỉnh đi đầu với số lượng<br />
52 kg, Bình Định 22 kg, Đà Nẵng 30 kg [17;8]. Nhân dân ở đây cũng đã lập các quỹ nuôi quân, hũ<br />
tiết kiệm, quỹ nông sản để ủng hộ kháng chiến.<br />
Ngày 12/6/1947, Đại diện Chính phủ Trung ương tại miền Nam đã ra Nghị định số 1/ CP-<br />
NĐ cho phép UBKCHCMNTB phát hành tín phiếu để chủ động về vấn đề tài chính. Triển khai<br />
chủ trương trên, UBKCHCMNTB quyết định cho in hai loại Tín phiếu: loại phát hành tại các tỉnh<br />
tự do Nam - Ngãi - Bình - Phú, và một loại in ở căn cứ Ô Rô (Bình Thuận) để lưu hành ở các<br />
tỉnh cực Nam. Cho đến năm 1950, bạc Tín phiếu và bạc Việt Nam lưu hành và sử dụng ở Nam<br />
Trung Bộ tổng cộng đã lên đến 3.500 triệu đồng [4;6]. Từ năm 1948, thực hiện chủ trương của<br />
UBKCHCMNTB tăng thu, giảm chi, thực hành tiết kiệm, quản lí việc thu trong mọi ngành mọi<br />
cấp nên tình hình tài chính ở các địa phương được cải thiện một bước. Đến năm 1951, thực hiện<br />
chính sách tài chính mới, Nhà nước đã ban hành 7 loại thuế nhằm tăng ngân sách cho nhà nước<br />
trong đó thuế nông nghiệp là nguồn thu chính, chủ yếu. Với chính sách thuế mới đã góp phần giải<br />
quyết khó khăn về tài chính cho toàn miền Nam Trung Bộ [4;7].<br />
* Ngành giao thông vận tải đã phục vụ đắc lực cho kháng chiến và dân sinh. Từ đầu năm<br />
1948, các tuyến giao thông đường sắt, đường Quốc lộ, tỉnh lộ được tu sửa và mở rộng. Từ năm<br />
1951-1954, để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và chi viện chiến trường, công tác xây dựng và<br />
bảo vệ hệ thống giao thông vận tải được chú trọng. Mặc dù hệ thống giao thông là mục tiêu bị<br />
địch thường xuyên đánh phá nhưng ta vẫn duy trì được các tuyến giao thông, đảm bảo vận chuyển<br />
lương thực, hàng hóa cung cấp cho nhân dân và chiến trường.<br />
2.3.2. Về văn hóa - xã hội<br />
Sau Cách mạng tháng Tám, mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến nhưng dưới sự chỉ đạo,<br />
điều hành của UBKCHCMNTB công tác văn hóa - giáo dục đã không ngừng phát triển với nhiều<br />
hình thức.<br />
Phong trào Bình dân học vụ đã thu hút hàng triệu người đi học. Chỉ tính riêng 4 tỉnh tự do<br />
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, năm 1947 đã có 654.000 người thoát nạn mù chữ<br />
(chiếm 40% dân số). Đến năm 1949, toàn vùng tự do đã có 1.260.000 người từ 8 tuổi trở lên thoát<br />
nạn mù chữ [8;6]. Đầu năm 1953, toàn vùng tự do có 758 lớp với 12.621 học viên. Tính đến tháng<br />
6/1954, bốn tỉnh tự do đã mở được 5.976 lớp Bình dân học vụ với 92.140 học viên [1;4]. Để nâng<br />
cao trình độ văn hóa cho cán bộ công nhân viên, nhiều lớp bổ túc văn hóa được mở ở các tỉnh. Đến<br />
năm 1953 toàn miền đã mở 719 lớp với 26.342 học viên là cán bộ xã, thôn, cán bộ quân dân chính<br />
đảng [2;11].<br />
<br />
51<br />
Nguyễn Thị Thanh Hương<br />
<br />
<br />
Hệ thống giáo dục phổ thông cũng được chú trọng phát triển ở cả vùng tự do và vùng bị tạm<br />
chiếm. Tính toàn miền, mỗi niên khóa có 3000 lớp mở và năm 1954 có 3258 lớp với gần 140.000<br />
học viên. Hệ thống giáo dục phổ thông ở các tỉnh có bậc tiểu học (cấp I), bậc trung học (cấp II) có<br />
các trường công lập, tư thục, bình dân và chuyên khoa (cấp III). Đầu năm 1954 ở cấp I có 3.258<br />
lớp với gần 140.000 học sinh. Cấp II, III phổ thông, có 45 trường với 198 lớp và 10.098 học sinh<br />
cấp II và 265 học sinh cấp III. Nếu tính cả học sinh vỡ lòng, cấp I, cấp II, cấp III cộng lại thì năm<br />
1954 có 228.455 học sinh [2;12]. Đây là thành tích to lớn trên trên mặt trận văn hóa- giáo dục mà<br />
Đảng bộ, chính quyền nhân dân bốn tỉnh vùng tự do đạt được. Nội dung chương trình giảng dạy có<br />
những thay đổi căn bản nhằm mục đích nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân, giáo dục tình yêu<br />
quê hương, đất nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, lao động cần cù sáng tạo cho thế hệ thanh<br />
thiếu niên.<br />
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ được phát động thường xuyên đóng vai trò quan trọng<br />
trong việc tuyên truyền, động viên tinh thần sản xuất và kháng chiến của quân, dân. Nhiều hoạt<br />
động văn hóa nghệ thuật mang bản sắc dân tộc của miền Nam Trung Bộ được triển khai và được<br />
nhân dân hưởng ứng nhiệt tình như: Hát bài chòi (với những tác phẩm tiêu biểu: Hai bốn đồng<br />
tiền, Anh hùng Ngô Mây, Hầm chông du kích...), hát tuồng (có các tác phẩm Chị Ngộ, Giảm tô,<br />
Gương liệt nữ. . . ). Nhiều tác phẩm văn học được Giải thưởng Phạm Văn Đồng như: về thơ ca có<br />
bài thơ Nhân dân một lòng của Tế Hanh, Ca dao kháng chiến của Nguyên Hồ; về truyện kí có Bát<br />
cơm Cụ Hồ của Nguyễn Thành Long, về tiểu thuyết có Con Trâu của Nguyễn Văn Bổng [12;127].<br />
Vào tháng 6/1946, UBKCHCMNTB đã thành lập Đài phát thanh ở Nam Trung Bộ. Trụ sở của Đài<br />
lúc đầu đóng ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, đến năm 1948 rời vào huyện An Lão, tỉnh Bình<br />
Định. Mỗi ngày đài phát sóng hai buổi vào 6h và 18h [19;122]. Nội dung phát thanh hàng ngày<br />
gồm hai phần chính là tin tức và bình luận (bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp). Đài phát thanh Nam<br />
Trung Bộ là một phương tiện tuyên truyền quan trọng của UBKCHCMNTB, là vũ khí sắc bén trên<br />
mặt trận tư tưởng làm nhiệm vụ tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa<br />
thông tin kịp thời đến nhân dân. Những hoạt động văn hóa nghệ thuật đã phục vụ thiết thực cho<br />
chủ trương của UBKCHCNTB trong việc tuyên truyền, động viên, khích lệ nhân dân kháng chiến<br />
kiến quốc thắng lợi.<br />
Công tác xuất bản, phát hành sách báo cũng được chú ý để phục vụ nhu cầu tinh thần của<br />
nhân dân. Trong 3 năm (1952 - 1954) ở toàn miền đã có 5.570.000 cuốn sách được xuất bản, không<br />
kể 350.000 cuốn sách giáo khoa của ngành giáo dục, riêng báo Nhân dân trong 3 năm đã phát hành<br />
94.000 tờ, báo Cứu quốc 1.580.000 tờ [2;13].<br />
Công tác y tế chăm sóc sức khỏe của nhân dân, cán bộ, bộ đội cũng được quan tâm.<br />
UBKCHCMNTB đã phát động phong trào vệ sinh yêu nước, thực hiện khẩu hiệu “Tam tinh”<br />
(ăn sạch, uống sạch, ở sạch) và “Tứ diệt” (diệt ruồi, muỗi, chuột, chấy rận). Hàng năm các Ti y tế<br />
đều tiến hành tiêm phòng dịch và chủng đậu cho dân. Năm 1953, có 61 vạn người được chủng đậu<br />
và 54 vạn người được tiêm phòng dịch tả. Hệ thống cơ sở y tế được mở rộng đến cơ sở thôn xã.<br />
Trong 2 năm 1953 - 1954 đã khám bệnh cho 270.000 người và điều trị 20.000 người [2;14]. Tại<br />
các tỉnh tự do, các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, rượu chè, mê tín, dị đoan bị đẩy lùi.<br />
2.3.3. Về quân sự<br />
Sau khi xâm chiếm Nam Bộ, Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng, đến tháng 10/1945, Pháp<br />
đem quân tấn công Nha Trang, từ đây cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Trung Bộ bắt đầu.<br />
Trước sức mạnh tấn công của địch, chiến thuật chủ yếu cả ta trong giai đoạn này là phòng ngự với<br />
mục đích tiêu hao sinh lực địch, bảo tồn lực lượng ta, thực hiện đi từ du kích chiến là chính đến vận<br />
động chiến. Vận dụng nhiều cách thức và các loại vũ khí đánh địch như: dùng cuốc xẻng, lựu đạn,<br />
đòn xóc, chông, cạm bẫy, lấy súng giặc giết giặc, phá hoại thành phố, đường giao thông, đào hầm<br />
<br />
<br />
52<br />
Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Trung bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp...<br />
<br />
<br />
bí mật với khẩu hiệu “Vườn không nhà trống”. . . Tại các tỉnh Nam Trung Bộ, phong trào chống<br />
bắt lính và tuyên truyền địch vận cũng diễn ra mạnh mẽ. Hoạt động vận động thanh niên không đi<br />
lính cho giặc, đã đi thì trở về với gia đình được tiến hành khắp nơi.<br />
Phong trào đi dân công phục vụ tiền tuyến đã thu hút hàng chục vạn dân công tham gia.<br />
Dân công vận tải lương thực, thực phẩm, đạn dược bằng gánh gồng, xe đạp thồ, ghe thuyền,. . . Tính<br />
chung trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, tỉnh Phú Yên đã động viên gần 55.000 lượt dân công<br />
với 1.500.000 lượt ngày công. ở Bình Định, từ năm 1952-1954 đã huy động 8 triệu ngày công phục<br />
vụ khắp các mặt trận Tây Nguyên, Quảng Nam - Đà Nẵng, Khánh Hòa [4;11].<br />
Năm 1954, tại Nam Trung Bộ có nhiều trận thắng lớn về quân sự góp phần vào thắng lợi<br />
chung của dân tộc, những trận thắng của ta đã giải phóng được nhiều vùng rộng lớn như Điện Bàn<br />
(Quảng Nam), Hòn Khói (Khánh Hòa), Lương Sơn, Tánh Linh (Ninh Thuận). Tại trận đánh An<br />
Khê (1953), ta tiêu diệt 6 đại đội địch (diệt 245 tên, bắt 326 tên), thu 900 súng [19;178]. Sau thắng<br />
lợi này đơn vị giải phóng An Khê được trao tặng cờ quyết chiến quyết thắng của Chủ tịch Hồ Chí<br />
Minh và Huân chương kháng chiến của Chính phủ, Huân chương Quân công Hạng Nhất của Bộ<br />
Tổng Tư lệnh. Đặc biệt, tháng 1/1954 các tỉnh Nam Trung Bộ đã phối hợp đánh bại cuộc hành<br />
quân Atlăng nhằm xóa bỏ vùng tự do liên khu V của thực dân Pháp. Thắng lợi của quân ta đã góp<br />
phần làm phá sản kế hoạch quân sự Nava - cố gắng cuối cùng của thực dân Pháp trong chiến tranh<br />
xâm lược Việt Nam và góp phần vào chiến thắng Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc chiến tranh xâm<br />
lược của Pháp ở Đông Dương.<br />
Bên cạnh những thành tích to lớn đó, trong quá trình chỉ đạo, điều hành thực tiễn cách mạng<br />
của UBKCHCNMNTB cũng có những sai lầm, khuyết điểm. Điều này thể hiện rõ qua hai sự kiện<br />
xảy ra ở vùng tự do. Sự kiện thứ nhất là “Vụ biến Sơn Hà” (năm 1950), do sai lầm của một số<br />
cán bộ địa phương trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở Sơn Hà đã động<br />
chạm đến phong tục, tập quán, tài sản của đồng bào dân tộc thiểu sót. Thực dân Pháp cùng bọn<br />
phản động đã lợi dụng điều đó để kích động nhân dân gây ra những vụ bạo loạn chống phá cách<br />
mạng. UBKCHCMNTB đã sai lầm trong giải quyết vụ việc ngay từ đầu là dùng vũ lực và giải<br />
quyết không triệt để. Sau đó đã sửa sai bằng cách đẩy mạnh vận động chính trị, giáo dục, tích cực<br />
sản xuất giúp dân ổn định đời sống. [13;116] Sự kiện thứ hai là “Vận động gây quỹ chuyển sang<br />
tổng phản công” (năm 1950). Do nhận thức chưa thấu đáo chủ trương của Đảng cho rằng ta sẽ<br />
chuyển sang tổng phản công vào cuối năm 1950 nên UBKCHCMNTB đã ra sức động viên cao độ<br />
nhân tài, vật lực cho kháng chiến [19;149]. Các tỉnh thi đua nhau đăng kí mức đóng góp đã tạo ra<br />
cuộc vận động quỹ mang tính áp đặt nặng nề. Mức huy động vượt quá khả năng đóng góp của dân<br />
gây ra sự xáo trộn lớn ở nông thôn. Đến tháng 4/1951, Bác Hồ đã chỉ ra nguyên nhân sai lầm và<br />
yêu cầu phải sửa chữa triệt để.<br />
<br />
3. Kết luận<br />
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), sự ra đời và hoạt động của<br />
UBKCHCMNTB có vai trò hết sức quan trọng đối với cuộc kháng chiến của quân dân Nam<br />
Trung Bộ. UBKCHCMNTB đã tổ chức, lãnh đạo, vận động quân dân Nam Trung Bộ thực hiện tốt<br />
khẩu hiệu: “Kháng chiến toàn dân, toàn diện”, “Vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Hoạt động của<br />
UBKCHCMNTB trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội. . . đã đem lại hiệu quả cao:<br />
khai thác và tận dụng được các tiềm năng, truyền thống cách mạng của địa phương, xây dựng và<br />
phát triển kinh tế tự cấp tự túc, ổn định đời sống nhân dân đồng thời chi viện cho tiền tuyến. . .<br />
Chính những thành tích đó đã tạo nên sức mạnh tổng hợp quyết định đến thắng lợi của cuộc kháng<br />
chiến chống thực dân Pháp trên địa bàn miền Nam Trung Bộ nói riêng và trên cả nước nói chung.<br />
<br />
<br />
<br />
53<br />
Nguyễn Thị Thanh Hương<br />
<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
<br />
[1] Báo cáo công tác giáo dục 1954 của Khu Giáo dục Liên khu V và các Ti giáo dục liên minh tỉnh<br />
Bình-Ngãi. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III. Đơn vị bảo quản 517.<br />
[2] Báo cáo của UBKCHCMNTB về thành tích 10 năm xây dựng chính quyền 1945-1954. Tài liệu lưu trữ<br />
tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia III. Đơn vị bảo quản 97.<br />
[3] Báo cáo tình hình chung ở Liên khu V năm 1950. Cục lưu trữ - VP Trung ương Đảng. Đơn vị bảo quản<br />
174.<br />
[4] Báo cáo tình hình Liên khu V từ 1949-1954. Lưu trữ tại Ban Tuyên giáo Ninh Thuận. Cặp 11, đơn vị<br />
bảo quản 175.<br />
[5] Báo cáo tình hình miền Nam Trung Bộ năm 1947 của đại diện Ủy ban Hành chính Trung Bộ. Trung<br />
tâm lưu trữ Quốc gia III. Đơn vị bảo quản 01.<br />
[6] Bộ tư lệnh Khu 5- 30 năm chiến tranh giải phóng (1945 – 1975), tập 1, Kháng chiến chống thực dân<br />
Pháp, 1986.<br />
[7] Chương trình công tác và báo cáo tình hình chung UBKCHCMNTB năm 1953. Trung tâm lưu trữ Quốc<br />
gia III, Đơn vị bảo quản 188.<br />
[8] Chương trình và báo cáo tình hình hoạt động UBKCHC và các Sở chuyên môn ở Nam Trung Bộ. Trung<br />
tâm Lưu trữ Quốc gia III. Đơn vị bảo quản 07.<br />
[9] Công báo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 9 năm 1954.<br />
[10] Lịch sử Quân giới Quân khu V (1945 - 1975). Nxb Quân đội nhân dân 1995, tr, 102.<br />
[11] Nghị định số 796/ MN- TOC thành lập Ủy ban hành chính liên tỉnh Bình Định – Quảng Ngãi, Phòng<br />
UBKCHCMNTB, Tập lưu Nghị định năm 1954, Hồ sơ 519 (cũ). TTLT Quốc gia III.<br />
[12] Phong Lê (chủ biên), 1985. Cách mạng – kháng chiến và đời sống văn học (1945-1954), tập 1. Nxb<br />
Tác phẩm mới.<br />
[13] Quảng Ngãi, 1988. Lịch sử chiến tranh nhân dân 30 năm (1945 – 1975). Nxb Tổng hợp Nghĩa Bình,<br />
tr.116<br />
[14] Sắc lệnh 63/SL, ngày 22/11/1945 của Chủ tịch nước về chính quyền nhân dân địa phương. Phòng Thủ<br />
tướng, Hồ sơ A/Q 01, tr. 97.<br />
[15] Sắc lệnh 70/ SL, ngày 1/12/1945 của Chủ tịch nước về kiểm tra tình hình chiến trường Nam Trung Bộ.<br />
Lưu tại phòng Lịch sử quân sự Quân khu V.<br />
[16] Sắc lệnh số 91/SL ngày 1/10/1947 của Chủ tịch nước về việc hợp nhất Ủy ban kháng chiến và Ủy ban<br />
hành chính thành Ủy ban kháng chiến hành chính. Phòng UBKCHCMNTB, Hồ sơ số A/ Q 04.<br />
[17] Tạp chí Xưa và Nay, số 72 năm 2000, tr.8.<br />
[18] UBKCHCMNTB, 1949. Chương trình và báo cáo tình hình hoạt động của Ủy ban kháng chiến<br />
hành chính và các sở chuyên môn ở miền Nam Trung Bộ 1948. Trung tâm lưu trữ QG III, Phòng<br />
UBKCHCMNTB, đơn vị bảo quản 07.<br />
[19] Viện Lịch sử Đảng, Hội đồng biên soạn Lịch sử Nam Trung Bộ kháng chiến, 1992. Nam Trung Bộ<br />
kháng chiến 1945-1975, Hà Nội.<br />
<br />
ABSTRACT<br />
Administrative Resistance Committee of South Central<br />
in the resistance against French colonialism (1945-1954)<br />
After the August Revolution in 1945, implementation of the leadership of the Central Party and the<br />
Government, the Resistance Committee of South Central has been established. This is one of the special<br />
initiatives of the Government in terms of the organization to direct the Resistance of the people of South<br />
Central in the new revolutionary period. This article clarifies the process of establishment, organization<br />
systems and operation of Administrative Resistance Committee of South Central on all fields, contributing<br />
to the victory in resistance against the French colonialism.<br />
Keywords: Resistance Committee, Administrative Committee, Resistance Committee of South<br />
Central, South Central.<br />
<br />
<br />
54<br />