intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vận dụng phương pháp ngoại giao “tâm công” của Hồ Chí Minh trong việc phát triển kỹ năng gây thiện cảm

Chia sẻ: Hân Hân | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

87
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong ngoại giao, Người sử dụng rất nhiều phương pháp, trong đó nổi bật là phương pháp ngoại giao tâm công, chính phương pháp này đã giúp Hồ Chí Minh gây được thiện cảm từ người đối diện, thậm chí cảm hoá được kẻ thù. Vì vậy, học tập và vận dụng phương pháp này trong việc phát triển kỹ năng gây thiện cảm trong giao tiếp của sinh viên hiện nay là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vận dụng phương pháp ngoại giao “tâm công” của Hồ Chí Minh trong việc phát triển kỹ năng gây thiện cảm

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM<br /> <br /> SỐ 01 THÁNG 10 NĂM 2013<br /> <br /> VẬN DỤNG PHƢƠNG PHÁP NGOẠI GI O “TÂM CÔNG” CỦA HỒ CHÍ MINH<br /> TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG GÂY THIỆN CẢM<br /> PPLYING HO CHI MINH’ HE RT FOREIGN METHOD IN DEVELOPING<br /> LIKING COMMUNICATIVE SKILL OF STUDENTS<br /> Nguyễn Thị Tƣờng Duy*<br /> TÓM TẮT<br /> Hồ Chí Minh không những là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới mà còn là nhà ngoại<br /> giao tài ba, khéo léo. Trong ngoại giao, Ngƣời sử dụng rất nhiều phƣơng pháp, trong đó nổi bật là phƣơng pháp<br /> ngoại giao tâm công, chính phƣơng pháp này đã giúp Hồ Chí Minh gây đƣợc thiện cảm từ ngƣời đối diện, thậm<br /> chí cảm hoá đƣợc kẻ thù. Vì vậy, học tập và vận dụng phƣơng pháp này trong việc phát triển kỹ năng gây thiện<br /> cảm trong giao tiếp của sinh viên hiện nay là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa.<br /> ABSTRACT<br /> Ho Chi Minh is not only hero of Vietnamese nation and culture famous man in the world but also is talent<br /> diplomat. In diplomacy, he used a lot of medods. In those medods, heart foreign medod is the most salient. Ho<br /> Chi Minh is loved even he also convert his enemy by using that way. So, students apply Ho Chi Minh‟ heart<br /> foreign medod in developing liking communicative skill of them is necessary and meaning today.<br /> <br /> 1. Truyền thống ngoại giao hòa hiếu của<br /> dân tộc Việt Nam - một trong những<br /> nguồn gốc hình thành phƣơng pháp<br /> ngoại giao tâm công của Hồ Chí Minh<br /> Việt Nam là nƣớc có vị trí quan<br /> trọng trong giao lƣu quốc tế và có vị trí địa<br /> chiến lƣợc đặc biệt ở Đông Nam Á, là cửa<br /> ng đi vào Đông Nam Á nói riêng và<br /> Đông Á nói chung, phía Bắc giáp với<br /> Trung Quốc rộng lớn, phía Tây và Tây<br /> Nam giáp với Lào, Campuchia, phía Đông<br /> và Nam nhìn ra biển Thái Bình Dƣơng. Vị<br /> trí địa lý này tạo điều kiện thuận lợi cho<br /> nƣớc ta tiếp xúc với nhiều quốc gia, dân<br /> tộc khác nhau. Tranh thủ thuận lợi này,<br /> ông cha ta đã không bỏ lỡ những cơ hội để<br /> Việt Nam tiếp xúc với các nƣớc bên ngoài,<br /> với mong muốn bày tỏ tình thân thiện và<br /> tìm kiếm cơ hội phát triển cho Việt Nam.<br /> Tuy nhiên, trong lịch sử, mối quan<br /> hệ giữa dân tộc ta với các dân tộc khác<br /> không phải lúc nào cũng hòa bình, phẳng<br /> lặng. Có những khoảng thời gian rất dài<br /> nƣớc ta bị dân tộc này, dân tộc khác gây<br /> <br /> hấn và đem quân xâm lƣợc. Trong hoàn<br /> cảnh đó, cách giải quyết ƣu tiên và xuyên<br /> suốt của ta là chủ trƣơng thƣơng lƣợng,<br /> hoà bình. Và khi xung đột chấm dứt, ta lại<br /> chủ động giao hảo với họ nhằm mục đích<br /> đem lại cuộc sống an bình cho nhân dân.<br /> Phong cách ứng xử này đã trở thành truyền<br /> thống ngoại giao nhân văn, hoà hiếu của<br /> dân tộc ta. Truyền thống quý báu đó đƣợc<br /> thể hiện trƣớc hết ở tƣ tƣởng hòa hiếu,<br /> trọng nhân nghĩa, đề cao sự khoan dung,<br /> độ lƣợng. Đó là triết lý và là bản chất của<br /> ngoại giao truyền thống Việt Nam.<br /> Trong ứng xử, tổ tiên ta rất khéo léo<br /> vận dụng phƣơng châm “nƣớc chảy đá<br /> mòn”, vừa cƣơng lại vừa nhu, cứng rắn<br /> nhƣng rất uyển chuyển, linh hoạt. Trong<br /> quan hệ bang giao cũng vậy, ngƣời Việt<br /> Nam luôn bày tỏ sự hòa hiếu, tôn trọng lẫn<br /> nhau, luôn ứng xử khiêm nhƣờng, nhã<br /> nhặn và mềm dẻo. Ngay cả khi buộc phải<br /> tiến hành chiến tranh để đánh đuổi kẻ thù<br /> bạo ngƣợc, dân tộc ta cũng luôn tìm cách<br /> giải quyết cuộc xung đột bằng con đƣờng<br /> <br /> *ThS. Nguyễn Thị Tƣờng Duy– Khoa LLCT<br /> - Trƣờng ĐH Công nghiệp Thực phẩm Tp.HCM<br /> <br /> 54<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM<br /> <br /> hòa bình, thƣơng lƣợng. Vì lợi ích lâu dài<br /> của toàn dân tộc, hòa bình cho đất nƣớc và<br /> sự bình yên trong đời sống ngƣời dân, nên<br /> khi cuộc kháng chiến chống giặc ngoại<br /> xâm của nhân dân ta giành thắng lợi, ông<br /> cha ta vẫn sẵn sàng dâng sớ cầu hòa, thậm<br /> chí còn chịu nhận tƣớc phong của các triều<br /> đại phong kiến phƣơng Bắc. Chẳng hạn,<br /> vào thời Lý, sau khi đánh bại quân Tống ở<br /> sông Nhƣ Nguyệt, Lý Thƣờng Kiệt đã chủ<br /> động cử sứ sang doanh trại giặc đề nghị<br /> giặc hạ chiếu rút lui đại binh về nƣớc thì ta<br /> sẽ lập tức sang “tạ tội” và tu cống. Chủ<br /> trƣơng dùng “biện sĩ bàn hòa” của Lý<br /> Thƣờng Kiệt đã có tác dụng quan trọng<br /> trong việc tạo lập hòa hiếu giữa hai bên.<br /> Việc giữ cho đất nƣớc tạm yên trong<br /> hai mƣơi lăm năm hòa hoãn của nhà Trần<br /> đã thể hiện r tầm vóc và thiện chí hòa hảo<br /> của ngoại giao Đại Việt. Sau ba lần đại<br /> thắng quân Nguyên – Mông lừng lẫy,<br /> chúng ta hoàn toàn có thể đứng trên tƣ thế<br /> của ngƣời chiến thắng, nhƣng nhà Trần đã<br /> kịp thời nhận thức là phải giữ gìn “giang<br /> sơn mãi mãi vững âu vàng” bằng những<br /> hoạt động ngoại giao mềm mỏng. Nhà<br /> Trần chủ động cử sứ giả đi hòa giải, viếng<br /> thăm và chịu cống lễ. Không chỉ trong lần<br /> chiến thắng Nguyên - Mông đầu tiên mà<br /> trong cả ba lần đại thắng đội quân xâm<br /> lƣợc này nhà Trần đều có hành động tƣơng<br /> tự nhƣ vậy. Sự tài tình trong ứng xử ngoại<br /> giao của nhà Trần đã góp phần làm tan rã<br /> hoàn toàn ý đồ xâm lƣợc nƣớc ta của nhà<br /> Nguyên, kết thúc chiến tranh, khôi phục<br /> hòa hiếu giữa hai nƣớc.<br /> Tƣ tƣởng hòa hiếu một lần nữa đƣợc<br /> nêu cao trong cuộc kháng chiến chống<br /> quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn.<br /> Những nhà lãnh đạo cuộc khởi nghĩa luôn<br /> mong muốn “giữ hòa hiếu cho hai nƣớc,<br /> <br /> NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY<br /> <br /> tắt muôn đời chiến tranh”, cho nên dù<br /> chiến thắng vẻ vang, Lê Lợi vẫn sai ngƣời<br /> sang cầu hòa viếng thăm, tặng vật phẩm để<br /> cốt xây dựng quan hệ bang giao thân thiện<br /> với nhà Minh.<br /> Đến thời Quang Trung – Nguyễn<br /> Huệ, dù quyết tâm “đánh cho sử tri nam<br /> quốc anh hùng chi hữu chủ”[3, tr. 353]<br /> nhƣng trƣớc khi đánh giặc và cả sau khi đã<br /> thắng giặc, Quang Trung đều tính ngay tới<br /> việc giao hiếu với nhà Thanh để dẹp “nỗi<br /> hờn rửa nhục” của họ. Đúc kết lịch sử<br /> bang giao của dân tộc, nhà sử học Phan<br /> Huy Chú khẳng định: “Trong việc trị nƣớc,<br /> hòa hiếu với nƣớc láng giềng là việc lớn,<br /> mà những khi ứng thù thì lại rất quan hệ,<br /> không thể xem thƣờng”[1, tr. 44].<br /> Có thể nói, tinh thần hòa hiếu, yêu<br /> chuộng hòa bình luôn đƣợc thể hiện xuyên<br /> suốt trong quá trình đấu tranh ngoại giao<br /> của ông cha ta mà các thời đại của Lý<br /> Thƣờng Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung,... là<br /> những mốc điển hình. Hòa hiếu luôn là tƣ<br /> tƣởng nhất quán trong phƣơng cách của<br /> nền ngoại giao Việt Nam. Mục đích duy<br /> nhất của hòa hiếu là bảo đảm độc lập dân<br /> tộc, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền<br /> quốc gia và cuộc sống yên bình, hạnh phúc<br /> của nhân dân. Hồ Chí Minh đã tiếp thu<br /> truyền thống quý báu này, làm phong phú<br /> thêm tƣ tƣởng ngoại giao của Ngƣời, đặc<br /> biệt là đó là một trong những nguồn gốc<br /> quan trọng giúp Ngƣời định hình một<br /> phƣơng pháp ngoại giao mang đậm dấu ấn<br /> Hồ Chí Minh - phƣơng pháp ngoại giao<br /> tâm công<br /> 2. Phƣơng pháp ngoại giao tâm công của<br /> Hồ Chí Minh<br /> Hồ Chí Minh là ngƣời kế thừa, vận<br /> dụng sáng tạo có hiệu quả tinh thần hoà<br /> hiếu, trọng nhân nghĩa và khoan dung độ<br /> lƣợng của ngoại giao Việt Nam truyền<br /> 55<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM<br /> <br /> thống. Ngƣời đã phát triển nó lên một tầm<br /> cao mới, định hình một phƣơng pháp ngoại<br /> giao mà chính nghĩa đƣợc đặt làm nòng<br /> cốt, lấy tình thƣơng, lòng độ lƣợng làm sức<br /> mạnh lay động lƣơng tri con ngƣời. Đó là<br /> phƣơng pháp ngoại giao “tâm công”.<br /> Ngoại giao “tâm công” có thể hiểu là<br /> phƣơng pháp ngoại giao “đánh vào lòng<br /> ngƣời”, tức là phƣơng pháp ngoại giao<br /> dùng nhân nghĩa, đạo lý, lẽ phải để thuyết<br /> phục và cảm hóa đối phƣơng, khơi gợi<br /> lòng nhân trong mỗi con ngƣời, gây đƣợc<br /> thiện cảm nơi ngƣời đối thoại.<br /> Sinh thời, trong bất kỳ bài nói hay<br /> bài viết nào của mình, Hồ Chí Minh chƣa<br /> bao giờ nhắc đến cụm từ này. Nhƣng quá<br /> trình hoạt động ngoại giao đầy tính nhân<br /> văn và đầy tình ngƣời của Ngƣời đã định<br /> hình nên một phƣơng pháp ngoại giao mới<br /> mà chúng ta gọi là ngoại giao tâm công.<br /> Nội dung cơ bản của phƣơng pháp<br /> ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh chính là<br /> dựa trên cơ sở của chủ nghĩa nhân văn và<br /> lòng nhân ái giữa con ngƣời với con ngƣời,<br /> hƣớng tới mục tiêu hòa bình, hữu nghị.<br /> Theo Ngƣời: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi<br /> khác, nhƣng có một điều thì dân nào cũng<br /> phải giống nhau. Ấy là dân nào cũng ƣa sự<br /> lành và ghét sự dữ” [4, tr. 351]. Trong hoạt<br /> động cách mạng nói chung hay trong hoạt<br /> động ngoại giao nói riêng và cả trong<br /> những ứng xử đời thƣờng, Hồ Chí Minh<br /> luôn đối xử với mọi ngƣời bằng thái độ<br /> bao dung, bác ái. Riêng với ứng xử ngoại<br /> giao, Ngƣời đặc biệt chú trọng đến yếu tố<br /> nhân nghĩa, thấy đƣợc đây chính là điểm<br /> tƣơng đồng giữa các dân tộc, có tác dụng<br /> thức tỉnh “lƣơng tri nhân loại”, là cơ sở để<br /> tranh thủ đƣợc sự ủng hộ của quốc tế đối<br /> với cuộc chiến đấu vì chính nghĩa của dân<br /> tộc Việt Nam. Đọc đáp từ trong buổi chiêu<br /> đãi của Thủ tƣớng Pháp G. Bidault (2-71946), Ngƣời nói: “Chúng ta đều đƣợc<br /> <br /> NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY<br /> <br /> kích thích bởi một tinh thần, triết lý Đạo<br /> Khổng và triết lý phƣơng Tây đều tán<br /> dƣơng một nguyên tắc: kỷ sở bất dục vật<br /> thi ƣ nhân”. Tôi tin rằng trong những điều<br /> kiện ấy, Hội nghị sắp tới sẽ đi đến những<br /> kết quả tốt đẹp” [8, tr. 397]. Trong các<br /> cuộc tiếp xúc đối ngoại, tiếp xúc với mọi<br /> lớp ngƣời ở các cƣơng vị và thuộc các dân<br /> tộc khác nhau, Hồ Chí Minh luôn tạo cho<br /> mọi ngƣời cảm giác gần gũi, thân tình và<br /> họ thƣờng bị thuyết phục không chỉ bởi<br /> nội dung, ngôn ngữ mà chủ yếu là ở thái<br /> độ bình dị, chân thành.<br /> Một khía cạnh nữa của phƣơng pháp<br /> ngoại giao tâm công Hồ Chí Minh là luôn<br /> tôn trọng ngƣời đối diện, biết khơi dậy<br /> điểm mạnh trong mỗi con ngƣời, biết phân<br /> biệt “bạn, thù”. Suy rộng ra với các dân<br /> tộc, Hồ Chí Minh luôn phân biệt nhân dân<br /> của nƣớc đi xâm lƣợc với những kẻ cầm<br /> quyền gây chiến. Đối với Hồ Chí Minh,<br /> chỉ những kẻ hiếu chiến, dã man mới là kẻ<br /> thù chính, còn những ngƣời dân vô tội thì<br /> vẫn có thể là bạn của dân tộc Việt Nam,<br /> cho nên ra sức tranh thủ sự đồng tình ủng<br /> hộ của họ là vô cùng cần thiết. Ngƣời đã<br /> khơi dậy đƣợc những tình cảm tốt đẹp của<br /> nhân dân Pháp, nhân dân Mỹ, thuyết phục<br /> họ đứng về phía nhân dân Việt Nam, ủng<br /> hộ nhân dân Việt Nam trong công cuộc<br /> đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất đất<br /> nƣớc. Ngƣời nói: “Nhân dân Pháp có<br /> truyền thống cách mạng tốt đẹp, trƣớc đây<br /> đã ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của<br /> toàn thể nhân dân Việt Nam nay lại tỏ r<br /> sự đồng tình và ủng hộ cuộc đấu tranh<br /> chính nghĩa của nhân dân miền Nam và<br /> cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống<br /> nhất nƣớc Việt Nam trên cơ sở hiệp định<br /> Giơnevơ, nhân dân Việt Nam rất biết ơn<br /> nhân dân Pháp về mối cảm tình đó”[7, tr.<br /> 230]. Với nhân dân Mỹ, Hồ Chí Minh<br /> khẳng định: “Chúng tôi không có xích<br /> 56<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM<br /> <br /> mích gì với nhân dân Mỹ, chúng tôi muốn<br /> sống hòa bình và hữu nghị với nhân dân<br /> Mỹ”[5, tr. 117] . Dù quyết liệt chống thực<br /> dân Pháp, đế quốc Mỹ và vạch trần tội ác<br /> của chúng, nhƣng đối với nhân dân Pháp,<br /> nhân dân Mỹ tiến bộ, Hồ Chí Minh luôn<br /> khơi dậy niềm tự hào dân tộc của họ, luôn<br /> đánh giá đúng những ƣu điểm và những<br /> cống hiến của họ đối với nhân loại. Ngƣời<br /> nói: “Chúng tôi muốn có những quan hệ<br /> hữu nghị và anh em với nhân dân Mỹ mà<br /> chúng tôi kính trọng vì nhân dân Mỹ là<br /> một dân tộc tài năng, đã có nhiều cống<br /> hiến cho khoa học nhất là gần đây đã lên<br /> tiếng phản đối cuộc chiến tranh xâm lƣợc<br /> miền Nam Việt Nam”[5, tr. 253].<br /> Để thực hiện phƣơng pháp ngoại giao<br /> hƣớng tới lòng nhân, tranh thủ lòng ngƣời<br /> một cách có hiệu quả, Hồ Chí Minh rất chú<br /> ý tới cách thức thực hiện nó.<br /> Thứ nhất, Ngƣời cho rằng, muốn ngoại<br /> giao thành công thì phải chú ý đến tác<br /> phong, trang phục và phải có kiến thức<br /> chuyên môn. Thật sự, sự lịch lãm, tinh tế<br /> và vốn kiến thức uyên bác là một điểm<br /> mạnh đã đem lại sự thành công cho Hồ Chí<br /> Minh trong mọi hoạt động ngoại giao.<br /> Không phải ngẫu nhiên mà trong vƣờn Phủ<br /> Chủ Tịch, Bác trồng rất nhiều cây ăn trái<br /> và nhiều hoa hồng, Ngƣời luôn tặng hoa<br /> hoặc trái cây cho khách quốc tế khi họ đến<br /> thăm Ngƣời. Còn khi tiếp khách, Ngƣời<br /> không bao giờ quên tặng hoa cho phụ nữ.<br /> Nhà báo Fracoise de Corrèze đã không bao<br /> giờ quên hành động của Hồ Chí Minh: khi<br /> cuộc họp báo năm 1946 kết thúc, nhân trên<br /> bàn có trang trí lọ hoa hồng, Ngƣời đã lấy<br /> một bông hồng tặng chị vì chị là nhà báo<br /> nữ. Tuần báo Regard đã đăng tấm hình ghi<br /> nhận khoảnh khắc đó với lời bình: “ Gần<br /> bốn mƣơi năm đấu tranh cách mạng mà<br /> vẫn lịch thiệp nhƣ thƣờng”[7, tr. 251]. Sau<br /> <br /> NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY<br /> <br /> này, khi hay tin Bác mất, Fracoise de<br /> Corrèze đã ôm bó hồng đến Đại sứ quán ta<br /> ở Paris viếng Bác và khóc nức nở. Đặc<br /> biệt, Hồ Chí Minh đã sử dụng có hiệu quả<br /> vốn tri thức của mình trong quan hệ ngoại<br /> giao. Chẳng hạn, do tận dụng đƣợc ƣu thế<br /> am tƣờng về văn hoá Trung Hoa, truyền<br /> thống trung, tín, lễ, nghĩa mà ngƣời Trung<br /> Quốc rất tự hào, Hồ Chí Minh đã tạo dựng<br /> đƣợc mối quan hệ tốt đẹp với nƣớc láng<br /> giềng to lớn này. Vào ngày sinh lần thứ 74<br /> của Chủ tịch Mao Trạch Đông năm 1967,<br /> trên trang nhất Nhân dân nhật báo đăng bút<br /> tích của Hồ Chí Minh viết bằng chữ Hán “<br /> Kính chúc Mao Chủ Tịch vạn thọ vô<br /> cƣơng”. “ Vạn thọ vô cƣơng” là khẩu hiệu<br /> chung của nhân dân Trung Quốc chúc<br /> tụng, tôn vinh lãnh tụ của mình.<br /> Thứ hai là dùng lý lẽ kết hợp với tình<br /> cảm, cảm hóa trái tim ngƣời đối thoại bằng<br /> tấm lòng nhân hậu, phải bày tỏ sự chân<br /> thành thật sự. Hồ Chí Minh thƣờng dùng<br /> lý lẽ tự nhiên song đầy sức thuyết phục để<br /> khơi gợi tình cảm nhân văn của ngƣời đối<br /> thoại, thuyết phục họ chấp nhận lẽ phải.<br /> Bằng ứng xử nhạy bén, tinh tế và rất mực<br /> khiêm nhƣờng, những lập luận, lẽ phải mà<br /> Hồ Chí Minh nêu ra nếu không cảm hóa<br /> đƣợc lòng ngƣời thì nó cũng khiến cho<br /> ngƣời ta không có lý lẽ nào để phản bác<br /> lại, nếu không làm cho ngƣời ta vui vẻ<br /> chấp nhận thì cũng khiến cho họ không thể<br /> hận thù. Đối với từng đối tƣợng, từ tƣớng<br /> lĩnh cho đến binh lính, Ngƣời luôn tỏ r<br /> thái độ chân tình, mềm mỏng, nhân ái,<br /> thân tình và hữu nghị. Trong điện mừng<br /> gởi Tổng thống De Gaulle (14/7/1967,<br /> Ngƣời viết: “Tôi chân thành cám ơn Ngài<br /> đã ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh chính<br /> nghĩa của nhân dân Việt Nam chống xâm<br /> lƣợc Mỹ để bảo vệ quyền dân tộc của mình<br /> theo đúng hiệp nghị Giơnevơ. Chúc tình<br /> 57<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ THỰC PHẨM<br /> <br /> hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân<br /> dân Pháp ngày càng phát triển”[7, tr. 232].<br /> Hồ Chí Minh cũng để lại trong lòng binh<br /> lính và sĩ quan Pháp niềm xúc động dạt<br /> dào bằng những cử chỉ giản dị, thân thiện.<br /> Bản thân là chủ tịch nƣớc nhƣng Hồ Chí<br /> Minh sẵn sàng bắt tay với từng sĩ quan<br /> Pháp, bày tỏ lòng biết ơn trang trọng, nồng<br /> hậu của Ngƣời đối với chính phủ và nhân<br /> dân Pháp. Đặc biệt Ngƣời đã khơi gợi<br /> đƣợc tình cảm thân thuộc sâu kín trong<br /> lòng mỗi ngƣời lính Pháp, khiến họ phải<br /> cảm động, bùi ngùi và đánh thức đƣợc<br /> lƣơng tâm của họ. Khi đứng trƣớc sĩ quan,<br /> binh lính Pháp, Hồ Chí Minh đã chuyển<br /> những tình cảm và nguyện vọng của những<br /> ngƣời thân của họ đến với họ bằng những<br /> lời lẽ chân thành: “Tôi cũng xin nói thêm,<br /> thời gian ở Pháp, tôi có dịp đƣợc tiếp xúc<br /> với nhiều ông bố, bà mẹ, những ngƣời chị,<br /> ngƣời vợ cô đơn của những sĩ quan binh<br /> lính Pháp đang làm nhiệm vụ ở Đông<br /> Dƣơng. Họ đều có mong muốn những<br /> ngƣời con, ngƣời chồng của họ mạnh<br /> khỏe, bình yên, sớm trở về để đƣợc đoàn<br /> tụ với gia đình, xây dựng lại quê hƣơng.<br /> Tôi đã hứa với họ khi về đến Việt Nam sẽ<br /> nhanh chóng truyền đạt lại những nguyện<br /> vọng thiết tha của họ tới các bạn”[6,tr. 93].<br /> Lời nói của Ngƣời có sức cảm hóa mạnh<br /> đến mức “một vài khẩu súng tuột khỏi tay<br /> rơi, hàng ngũ đội danh dự của Pháp xáo<br /> động”[6,tr. 192]. Đối với tù binh, Hồ Chí<br /> Minh cũng hết sức độ lƣợng, Ngƣời nói<br /> với tù binh Pháp rằng: “Các bạn thân<br /> mến… nhân dân Việt Nam xem các bạn<br /> nhƣ những ngƣời bạn và tìm mọi cách để<br /> cuộc sống các bạn đƣợc tốt hơn”, Ngƣời<br /> còn nhắn nhủ với tù binh châu Phi: “Trong<br /> số các bạn thế nào chẳng có ngƣời còn cha<br /> mẹ già và con nhỏ. Hãy gửi tới họ những<br /> cái hôn thắm thiết của già Hồ”[6,tr. 192].<br /> <br /> NGUYỄN THỊ TƢỜNG DUY<br /> <br /> Thứ ba, để thực hiện thành công<br /> phƣơng pháp ngoại giao “tâm công”, Hồ<br /> Chí Minh luôn bày tỏ sự nhã nhặn; phong<br /> thái giản dị; ngôn từ súc tích, khiêm tốn,<br /> phù hợp với tâm lý, tính cách của từng đối<br /> tƣợng giao tiếp. Ngƣời ứng xử rất linh<br /> hoạt, nhạy bén, phù hợp với từng đối<br /> tƣợng, Bác căn dặn cán bộ ngoại giao cần<br /> có thái độ và cách ứng xử phù hợp với tâm<br /> lý, tính cách của từng đối tƣợng giao tiếp.<br /> Ngƣời luôn căn dặn: “làm ngoại giao thì<br /> phải nhanh trí, biết đối đáp có lý lẽ, buộc<br /> đối phƣơng phải chịu, mới giữ gìn đƣợc<br /> quốc thể” [7, tr. 256]. Tuy nhiên, Ngƣời<br /> cũng nhắc nhở: khi nói và viết phải chú ý<br /> bốn vấn đề có liên quan chặt chẽ với nhau,<br /> đó là: Nói, viết cái gì? Nói, viết cho ai?<br /> Nói, viết để làm gì? Nói, viết nhƣ thế<br /> nào?” [5, tr. 576]. Và yêu cầu: “ chƣa điều<br /> tra, chƣa nghiên cứu, chƣa biết r , chớ nói,<br /> chớ viết”, “ những vấn đề chƣa đƣợc kết<br /> luận, chúng ta cần phải hết sức thận trọng<br /> trong mọi lời nói và việc làm, nếu không<br /> sẽ ảnh hƣởng không tốt”[4, tr. 185].<br /> Tóm lại, tinh thần hoà hiếu, trọng<br /> đạo lý và tình ngƣời của ngoại giao Việt<br /> Nam truyền thống đã thâm nhập và ăn sâu<br /> vào nhà ngoại giao kiệt xuất Hồ Chí Minh.<br /> Nó đƣợc biến hoá huyền diệu thành<br /> phƣơng pháp ngoại giao tâm công mà cho<br /> đến nay những giá trị lung linh của nó<br /> không hề bị thời gian che mờ. Phƣơng<br /> pháp ngoại giao “tâm công” đầy tình ngƣời<br /> này chỉ có thể đƣợc thực hiện một cách tự<br /> nhiên ở Hồ Chí Minh. Những lời lẽ hợp<br /> đạo lý, những lời nói chân thành của<br /> Ngƣời không phải là những hình thức giả<br /> tạo, mà nó xuất phát từ con ngƣời với tấm<br /> lòng nhân ái thật sự, xuất phát từ nguyện<br /> vọng về một nền hòa bình hữu nghị bền<br /> vững và lâu dài cho thế giới. Ngoại giao<br /> tâm công xứng đáng là dấu son đẹp trong<br /> lịch sử ngoại giao Việt Nam.<br /> 58<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2