intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Văn hóa đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ: Phần 2

Chia sẻ: Vô Trần | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:85

22
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nối tiếp nội dung phần 1, phần 2 cuốn sách "Văn hóa đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ" trình bày các nội dung 3 chương cuối bao gồm: Chạm khắc ở đình làng, về lễ hội gắn với đình làng. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Văn hóa đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ: Phần 2

  1. @riưQM&3 CHẠM KHẮC Ở ĐÌNH LÀNG T rong kiến trú c cổ tru y ền của người Việt, trước đây, n h ữ n g m ảng p hù điêu thư ờ ng chỉ được nhìn nh ận với chức n àn g tra n g trí để làm đẹp là chính - đó là lối nhìn dưới góc độ tiếp cận giản đơn, lấy giá trị tạo hình đcm th u ần làm trọng. Nhìn n h ậ n n h ữ n g m ảng chạm theo cách đó chỉ mới thấy cái hình, cái "hiển" m à chưa th ấy được nội dung chứa đựng m ang tín h ''m ậ t" tro n g đó, m ang giá trị cao hơn nhiều. Có nghĩa là, giá trị có tín h biểu tượng g ắn với không gian tâm linh mới là tin h th ầ n chủ y ếu của n ghệ th u ậ t tru y ền th ố ng Việt. Người ta có th ể tìm th ấ y ở nơi đây n h ữ n g ước vọng tru y ền đời thuộc tư duy nông nghiệp, nh ữ ng m ối q u an hệ với cả vũ trụ và cả th ế giới n h â n sinh của ông cha ta, rồi n h ữ n g ho ạt cảnh luôn làm náo nức tâ m hồn n h â n th ế của m ọi thời. Như vậy, ở đó người xưa đã hội đủ tài n ă n g để "thao diễn" dòng chảy của tâm tư qua hình thức chạm chìm , nổi, bong kênh, lộng. M ặt khác ngay từ rất sớm người Việt đ ã chú ý tới hình th ứ c đồng hiện, không phân chia ra n h giới cụ th ể cho m ột m ảng chạm , để trê n đó (cùng m ột m ặt gỗ) có n h iều không gian với các đề tài riêng, chúng không có m ối liên h ệ trự c tiếp về nội dung với nhau. Chỉ cần quan sát kỹ càng m ột chút, người xem đã có khả n ăn g p h ân định m ột cách rà n h rẽ các đề tài tro n g cái m ớ 116
  2. "bòng bong" ấy, Suy cho cùng có th ể gọi chính xác hơn, đây là m ột dạng n g h ệ th u ậ t điêu khắc được diễn ra trên không gian hai chiều và tin h th ầ n của nó vượt ra ngoài yếu tố chỉ để đơn th u ần làm đẹp cho kiến trúc, ỏ n h iề u ngồi đ ìn h của ngưòi Việt, ngoài h ìn h thứ c nghệ th u ậ t n h ư kể trê n bao giờ cũng có hệ thống đồ th ờ dưới hình thứ c chạm trò n th uộc không gian 3 chiều, đó là tư ợ ng th ờ và những đồ th ờ liên quan. T rong m ộ t kiến trúc m ang yếu tố tôn giáo tứx ngưỡng, thì hầu hết h ìn h th ứ c điêu khắc và đồ thờ được coi n h ư linh hồn của kiến trú c đó, nó đảm bảo m ột nhịp sống tâm linh v à là mối liên kết trực tiếp giữ a đời thư ờng với cõi siêu nhiên, giữa con người với th ần th án h . T rong h ệ th ố n g chạm đá thì đình làng không phổ biến các loại bia n h ư ở ch ù a và đền, hầu như hiện nay chưa tìm được m ột tấm bia nào tro n g tấ t cả các ngôi đình có niên đại th ế kỷ XVII. Theo tài liệu H án Nôm, có m ộ t số bia đinh ở thời Mạc như ng thư ờng nói về v ấn đề khác, n h ư việc dựng cầu, làm chợ v.v... m à th ậ t sự không đ ề cập đến ngôi đình làng, chỉ đ ến khoảng nửa cuối th ế kỷ XVII th ì bia của đình mới nói về vấn đề tu bổ... Có th ể th ấ y đó là bia của đình Thổ H à (Việt Yên, Bắc Giang), bia đ ìn h c ổ Mễ (Đáp c ầ u , Bắc Ninh), bia đình H ữu Bằng (Thạch Thất, H à Nội)... Nhìn chung từ th ế kỷ này trở về sau, bia đình th ư ờ ng liên q u an đến việc tu bổ, đóng góp của cư dân làng xã, n h iều khi cũ n g có cả bia h ậu thần, song chủ yếu các bia hậu th ầ n này chỉ n ảy nở vào giai đoạn kinh tế tư n h ân tro n g xã hội được p h át triển , có n ghĩa là niên đại của chúng tậ p tru n g vào cuối th ế kỷ XVIII và n h ấ t là từ th ế kỷ XIX về sau... về h ìn h thứ c, các bia kể trê n thường có khối trụ vuông có m ũ hoặc bia b ẹt. Nhìn chung dáng của tấm bia cũng không khác 117
  3. gì bia ở ch ù a và đền, kể cả hình .thức tra n g trí cũng đ ều th eo m ột bố cục hoặc hoa văn chung. 3.1. Tượng tròn trong đình H ầu n h ư tro n g m ọi đình cổ, với đ úng tư cách đình làng, thì không có tư ợng của T h àn h hoàng làng. Tới khoảng th ế kỷ XIX, việc th ờ tự ở m ột số đình có sự th ay đổi, h iện tư ợng sinh hoạt của cộng đồng theo lối xưa giảm đi, yếu tố thờ tự th eo kiểu "đền" được nảy sinh v à p h át triể n m ạn h dần, người dân đ ến lễ bái ở đìn h thư ờng xuyên hơn, ngai và bài vị nhiều khi không đáp ứng được yêu cầu của tín đồ, đó là điều kiện để m ột số đ ìn h nảy sinh tư ợng th ờ n h ân dạng (đình thờ Lý Thường Kiệt ở Nam Đồng, Đ ống Đa, đình Lệ Mật ở q u ận Long Biên, Hà Nội là nhữ ng ví dụ cụ thể). Các tư ợ ng này chủ yếu chỉ có tín h ch ất tượng trư ng, gần gũi kiểu thứ c của tượng Ngọc Hoàng, Đức Ông... trong chùa, song cơ bản là n h ữ n g tượng dưới dạng q u an văn m ang giá trị n ghệ th u ậ t ở m ức tru n g bình, chi tiết hoa v ăn trê n tượng được th ể hiện theo dòng tru y ền th ố n g để nói lên uy lực của vị th ần . Ngoài tư ợng n h ân dạng th ì phổ biến hơn tro n g đình là các tượng linh v ật m à chủ yếu tập tru n g vào hình tư ợng rồng, lân, bên cạnh đó là hạc và rù a gắn với đồ thờ. N ếu nh ư ở chùa, rồng và lân đã x u ất hiện từ th ế kỷ 11, thì ở đ ìn h làng chúng ra đời m uộn tới xấp xỉ 5 th ế kỷ. Vào th ế kỷ XVI người ta đ ã tim gặp được n h ữ n g tư ợng rồ n g gắn trê n các bộ p h ận kiến trú c m à ít gặp hìn h tư ợng này ở n h ữ n g vị trí riê n g biệt ngoài trời bằn g ch ất liệu đá (hiện tư ợng này th ư ờ n g gặp ở đền) m à ch ủ yếu làm bằn g chất liệu gốm có kích thước khá hơn. H ình tượng rồng Có th ể n g h ĩ đến n h iều rồ n g thời Mạc (thế kỷ XVI) bằng đ ất nung, điển h ìn h ở ch ù a Mui và đ ền Và, n h ư n g ở kiến trú c đình 118
  4. thì hầu n h ư vẫn rấ t hiếm gặp chúng ở trên các góc mái. Chỉ tới th ế kỷ XVII và XVIII đôi khi chúng đã có m ặt dưới dạng th àn h bậc tại trước cửa đình và thư ờng được bố trí đôi rồng nguyên con ở gian giữa và rồng m ây ở hai bên. Thực sự ở trê n nóc đình hiện chỉ thấy rồng được đắp bằng vôi vữa với niên đại vào cuối th ế kỷ XIX và đầu th ể kỷ XX m à thôi. Rồng thường được biểu hiện dưới dạng m ột đầu không th â n n h ư n g có đuôi là cụm vân xoắn lớn, còn gọi là si vẫn. T rong bố cục này chúng có dạng của th u ỷ quái M akara hoá th â n th à n h rồng, với m ũi sư tử , m ang nở, m iệng hé ngậm bờ nóc, đôi khi p h u n ra m ộ t dòng nước cuộn tì trê n bờ này, rồ n g có sừ n g nai, tai th ú và th ô n g thường sau m ang là 5 lọn tóc dưới dạng đao đuôi nheo và bằng vào điều tra hồi cố ở nhiều địa phương, ch ú n g ta tạm hiểu đó là biểu tượng của nhữ ng tia chớp to ả về năm phương tạo nên m ư a n h u ần m uôn cõi (Đông - T â y - Nam - Bắc và T rung phương), biểu hiện về m ột ước vọng cầu được m ùa. Từ sau 5 cụm tóc này có m ột vân xoắn lớn vượt lên chạy ngược đến đỉn h đầu rồi lộn về phía sau và cuộn lại dưới d an g hình bầu dục Thực ra hình tượng n h ư nêu trê n đã từ ng gặp ở các kiến trú c khác có n iên đại từ th ế kỷ XVI, n hư ng trong n h ữ n g đ ìn h của th ế kỷ này thì chưa thấy chúng x u ất hiện. Cũng vào khoảng cuối th ế kỷ XIX và th ế kỷ XX trê n nhiều bờ nóc của đình, đ ã gặp đôi rồng chầu m ặt trời hoặc m ặt trăng. H iện tư ợ ng nêu trê n hầu như khống có ò các ngôi đình trê n đ ất Bắc từ n ử a đầu th ế kỷ XIX về trước. Một số n h à nghiên cứu văn hó a nghệ th u ậ t ngờ rằn g đây là m ột hiện tượng b ắt nguồn từ n g h ệ th u ậ t Huế ngược ra. N hững con rồng trê n nóc đó thường đơn giản, đều được đắp bằng vôi vữa, nhiều khi gắn m ản h sành sứ, p h ần n h iều ch ú n g trở n ên lênh khênh với th â n hình khá m ản h m ai, đôi khi cũng được th ể hiện dưới dạng hồi long hay được kết hợp với đôi phư ợ ng ở phía sau v.v... Nhìn chung nhữ ng con rồng này chư a bao giờ đ ạ t được giá trị n g h ệ th u ậ t cao. 119
  5. Lân Nếu n h ư ở chùa, đ ền chúng ta đã gặp nhiều lân bằng đá, bằng gỗ đ ặ t ngồi bên cửa hay chầu bàn th ờ thì ở đình n h ữ n g con lần đ ứ n g chân trê n m ặ t đ ấ t thư ờ ng rấ t hiếm , có lẽ phải tới cuối th ế kỷ XVII và đầu th ế kỷ XVIII chúng mới được dè d ặt x u ấ t hiện ở n h ữ n g vị trí "cối cửa" của n g h i m ôn hoặc gian giữa của đình (đình Kim Liên, H à Nội, đình Đ ình Bảng, Bắc Ninh). N hững con lân này được chạm dưới hình thứ c béo tốt để biểu hiện sức m ạnh, m ặt ch ú n g thư ờng quay n h ìn vào giữa với m ắt tròn, lồi, m ũi sư tử, răn g nhe, n h iều chi tiế t khác thuộc th ế kỷ XVII, XVIII được chú ý n h iều là d ạn g đao m ác... Lân thư ờng tạc "tròn", th ế nằm phủ phục, th ân để trơn, trê n lưng khoét lỗ để làm cối đỡ trụ cửa. T rong ý n g h ĩa tâm linh, người xưa cũng m ong m uốn thông q u a n h ữ n g con lân n ày với h ìn h thức nhìn vào giữa để nhằm kiểm so át tâm hồn kẻ h à n h hương... có nghĩa ră n đe và nhắc nhở người ta khi tiếp cận với T hành hoàng làng thì cần h ế t sức n ghiêm chỉnh và th à n h kính. Lân còn được th ể hiện trê n kiến trúc gỗ (như ở đình làng H ữu Bằng) và nh iều bộ ph ận trê n cao (đỉnh cột, trê n mái). T rên nghi m ôn tứ trụ th ì hai cột giữa bao giờ cũng lớn hơn hai cột bên và tạo th à n h hệ th ố n g ba cửa. Không gian giữa hai cột lón là của thần, để đỉnh m ỗi cột đó thư ờng đ ặt bốn con phượng n h ìn về 4 hướng, lưng hội sá t lại n h ư hội dòng sinh khí bốn phương để chảy qua th â n cột m à trà n vào th ế gian cho m uôn loài sinh sôi. Hai cột bên đã tạo ra hai cửa ra vào của th ế nhân, khi vào tiếp cận T hánh cần phải giữ cho tâm th an h , lòng tĩn h với sự kinh cẩn từ tro n g tâm , điều đó cần phải được chứ ng giám , n ên trê n đầu cột nhỏ này người ta đắp hoặc gắn lân để kiểm soát. N hững con lân ở đầu cột n h ỏ đó thư ờng được đắp bằng vôi vữ a theo kiểu tru y ền thống, hoặc n h iều khi chịu sự ản h hường của hình tượng sư tử hý cầu kiểu T rung H oa... H iếm có lân trê n đ ỉn h cột làm bằng đá, hay g ắn đ ất 120
  6. nung. N goài Ý nghĩa kiểm soát tâm hồn kẻ hàn h hương, nhiều khi tro n g n h ận thứ c người xưa, con ỉân còn biểu hiện cho sức m ạnh tầ n g trên , cho trí tu ệ..., n ên người xư a cũng đưa nó lên trên m ái dưới dạng tượng tròn. Vị trí của chúng thư ờng nằm ở "khúc ngư ỷnh" tro n g th ế chạy xuống, nhin vào giửa sân, đó là những con xô/con náp. Vào th ế kỷ XVII, chúng ta đã gặp lân dưới dạng th â n hươu có chân khá cao, m ắt quỷ, m iệng lang, sừng nai, tai thú, cổ rắn, vẩy cá chép... Đôi khi cũng có vẩy kép... Đáng quan tâ m là điểm xuyến trê n th â n chúng có n hữ ng đao m ác và vân xoắn... n h ư đã tạo n ên sức linh của con v ật tần g trê n và uy lực vô b iên của nó. Vào cuối th ế kỷ XIX và đầu th ế kỷ XX, nhữ ng con lân trê n m ái thư ờ ng chỉ được đắp bằng vôi vữa hoặc làm theo d ạn g gốm m en n h iều m àu theo kiểu "Sư tử hý cầu", đôi khi có d áng tu ỳ tiện n h ư lân ở trê n đỉnh của nghi m ôn tứ trụ. Phượng, hạc, rùa H iện nay chưa tìm được nhữ ng linh v ật này dưới dạng chạm trò n bằnq đá m à chỉ tìm thấy chúng dưới dạng bằng gỗ m à thôi. Cùng là loài chim thiếng, n hư ng hiện nay chúng ta mới chỉ thấy phượng được tạc theo h ìn h thức khối trò n có niên đại vào th ế kỷ XVII, m à m ột điển h ìn h là đôi phượng ở đình Phú Gia, Phú Thượng, Tây Hồ, Hà Nội, đền Trần Khát Chân, T hanh Hóa, đình Dục Tú, c ổ Loa, Hà Nội và m ột vài nơi khác. X uất hiện chậm hơn vài chục n ăm là dạn g hạc, chủ yếu là hạc đứng trê n rù a củ a khá n h iều đìn h đền, n h ữ n g cặp linh v ật này thư ờng khá lớn, cao từ lm 5 0 trở lên. Trong nh ận th ứ c xưa thì phượng th ư ò n g được tạc đ ứ n g chân trê n đế kiểu khối hình hộp chữ n h ật có chạm nổi dạng hồ sen, h ãn hữ u cũng có phượng đứng trên lưng rùa, riên g hạc th ì hầu h ế t có chân đế là rùa. Trong bố cục này cách th ể hiện giữa hạc v à phượng cũng có nhiều n é t riêng, song chúng đều m an g tư cách tượng cho tần g trên , về nguyên tắc phượng phải có m ỏ khoằm , theo kiểu diều hâu, m ắt giọt lệ, 121
  7. tóc trĩ, cổ rắn, vẩy cá chép (nhiều khi có vẩy nhọn đầu cũng như để tư ợng trư n g cho lông vũ) cánh cụp, đuôi công, chân được tạc vẩy đến khuỷu, ống chân cao, ngón chim ưng (ba trư ớc m ộ t sau), m óng vu ố t nhọn. Phượng thư ờng được th ể hiện béo tố t hơn hạc, đuôi dài và th ư ờ n g điểm xuyết những đao nhỏ ở trê n th ân , như phượng tại đìn h Phú Gia có những đao m ác khá đ iển hình m ang niên đại vào n h ữ n g năm 60, 70 của th ế kỷ XVII. 3.2. Chạm khắc trên đình (phù điêu) H iện nay, nhiều người nhìn chạm trổ trê n di tích nói chung nh ư m ộ t h ìn h thứ c tran g trí cho kiến trúc. Do chỉ x u ấ t p h á t từ nh ận thứ c đó, nên giá trị tâm linh của các m ảng chạm ph ần nào bị giảm hẳn. N hưng từ lâu nhiều nhà nghiên cứ u dân tộc học nghệ th u ậ t đã nh ìn th ấy cái động trong cái tĩn h , th ấy được ý nghĩa ẩn tàn g vẫn còn níu kéo tâm hồn nhữ ng tín đồ khi tiếp cận, bởi thự c tế các m ảng chạm đó nhiều khi đã có m ột giá trị biểu tư ợng sâu xa để duy trì nh ận thức và ước vọng tru y ền đời của tổ tiên. Các m ảng chạm này, về hình thức cũng đã p h ản ánh về m ột khía cạn h nào đó của tâm hồn dân tộc. Trong "không gian" của m ảng chạm , thư ờng người xưa ít khi dành ra n h ữ n g khoảng trống, n h ấ t là n hữ ng khoảng trống có tín h tư tư ởng. Một đặc điểm khác cũng trong không gian đó, có nghĩa trê n m ộ t giải ván nong hoặc lá gió, hay m ột khối chạm khắc nào đó thư ờ ng ít khi thấy được th ể hiện chỉ m ột đề tài ng h ệ th u ậ t m à n h iều khi lại đan x en n h ữ n g đề tài khác nhau, không liên q u an tới nhau. Trong tạo h ìn h dân tộc, bố cục đồng hiện chủ y ếu được phổ biến m ạn h từ khoảng th ế kỷ XVI (thời Mạc) về sau, đó là giai đoạn m à nghệ th u ậ t chạm khắc dân dã hình th à n h và p h á t triể n ở các di tích, n h ấ t là ở ngôi đình, cụ th ể là đình Tây Đ ằng. Một ví dụ cụ th ể ở đìn h này, cùng trê n m ột m ảnh gỗ nhỏ, đã th ấ y x u ất hiện cảnh tra i gái "tìn h tự ", th ì sá t cạnh đó lại là m ản g chạm m ang đề 122
  8. tài "ngồi khóc cho m ăng m ọc". Tuy vậy, tính đồng hiện trong chạm khắc có th ể chỉ đến đỉnh cao thuộc giai đoạn ''n g h ệ th u ậ t đìn h làng" vào cuối th ế kỷ XVII. Khoảng cuối th ế kỷ XIX, đầu th ế kỷ XX, tín h đồng h iện phẩn nào giảm để các m ảng chạm m ang tín h hoạt cảnh liên thông găn với các đề tài có sự tích riêng, như đề tài về Đ inh Tiên Hoàng, Q uan Âm Thị Kính hay Tây du ký... Nhìn ch u n g theo thời gian, các m ảng chạm được diễn ra có sự thay đổi dần về kỹ th u ật, nếu như ở thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ... kể cả chạm trê n đá hay trê n gỗ, thư ờng được th ể hiện dưới dạng chạm nổi, rấ t ít khi chạm chìm, vói hình thứ c tỉ mỉ, trau chuốt, đặc kín (thời Lý). Sau đó, đôi khi trê n m ảng chạm cũng có n h ữ n g khoảng trố n g nhỏ (cuối thời T rần và Lê sơ), song các m ảnq trố n g này chủ yếu là không gian phù trợ cho n hữ ng đề tài chính chứ không phải m ang tín h tư tưởng như của người Trung Hoa, có khi lấy các đề tài chạm khắc (không m ang tín h trọng tâm ) để p h ản án h m ột ý niệm sâu xa. Ở thời Mạc trở về sau, những đường chạm nhỏ chỉ được th ể hiện phù trợ cho những m ảng lớn, chẳng hạn như chúng là đường diềm hai bên sống đuôi con th ú ... Thời này hình chạm được tập tru n g vào các n ét lớn hơn thời trước, đó là n h ữ n g hệ vân xoắn, n hữ ng đao để làm n ền cho n h ữ n g đề tài chủ đạo, nhằm m ục đích th iên g hóa hoặc để đạt m ộ t ý n g hĩa sâu xa nào đó... Với n hữ ng ý thứ c nh ư vậy, vói kỹ th u ậ t n gày càng p h át triển và rộng khắp, cụ th ể là ngoài chạm nổi là cơ bản th ì hiện tư ợng chạm bong kênh, chạm lộng đã được th ự c hiện với tay ng h ề khá điêu luyện, để lại cho chúng ta n hữ ng tác p hẩm tương đối hoàn chỉnh. N hững ví dụ cụ thể n h ư chạm th ủ n g đã x u ất h iện từ thời Mạc, rồi nhữ ng đao rồng th eo kiểu bong k ênh ở trê n kiến trúc như tại các đầu dư của bộ vì, hay chạm lộng ở cửa v õ n g ... C hạm khắc trê n bộ vì và n h ữ n g vị trí khác đã để lại m ột nh ận thức rấ t sâu đậm tro n g Ý thức của n h ữ n g người được tiếp 123
  9. cận, khiến n h iều khi tâm tư người xem vượt ra ngoài nghệ th u ậ t đơn th u ầ n để tìm th ấy m ột số vấn đề thuộc lịch sử và xã hội đương thời gắn với các m ảng chạm đó. Nhìn chung các m ảng chạm đ ã n ân g giá trị n g h ệ th u ậ t của ngôi đình lên rấ t cao. 3.2.1. Kỹ thuật chạm khắc C hạm khắc trê n đình là m ột yêu cầu cần th iế t để trá n h đi n h ữ n g n é t th ô cứng của cấu kiện, đồng thời cũng nhằm phản án h n h ữ n g ước vọng của con người trong nh iều mối quan hệ m ang tín h tâm linh và xã hội. Suốt cả m ộ t thời gian dài, qua n h iều th ế kỷ, dưới thời Lý, thời Trần và thời Lê sơ, chúng ta chỉ còn tìm được rấ t ít đồ chạm trên chất liệu gỗ, lác đác như ở các v án lá gió thuộc c ồ n Chè (Nam Định), chùa Thái Lạc (H ưng Yên) và ch ù a Bối Khê (Hà Nội). Cả ba địa điểm này đều có niên đại thời T rần, còn đồ gỗ nói chung của thời Lý và thời Lê sơ h iện nay chưa tìm được. Nhìn chung, trê n cả đồ gỗ và đồ đ á của ba thời kỳ này mới chỉ gặp các p hù điêu liên quan đến kiến trúc, với kỹ th u ậ t chạm nổi và p h ần nào chạm chìm. Từ th ế kỷ XIV trở về sau đã tìm được n h iều hình chạm khắc trê n các ngôi tháp, lăng mộ bằng đá. Thực ra n g h ệ th u ậ t tạo hình ở nước ta, về cơ bản, được nuôi dưỡng chủ y ếu bởi kinh tế tập th ể, rấ t hiếm có nhữ ng nh à hảo tâm giàu có và trí tuệ biết nuôi dưỡng n hữ ng tran g khách tro n g n h à (hầu n h ư không có quý tộc cha tru y ền con nối, dạng người n h ư M ạnh Thường Quân). Vì th ế không có n h ân tố "biết chơi" hỗ trợ tích cực, đứng đằng sau "nghệ sĩ", khiến nghệ sĩ, m à thự c sự là n h ữ n g nghệ nh ân xưa, không có đủ tâm và lực để sán g tạo ra n h ữ n g sản phẩm m ang giá trị điển h ìn h tỉ mi, tinh tế, vi diệu n h ư của T rung Hoa. Nghệ n h ân V iệt thường không m ấy khi được ghi tê n vào sản phẩm của m ình. Họ không đủ thời gian để tạo n ê n n h ữ n g tác phẩm cực kỳ điêu luyện, dù cho nghệ th u ậ t tạo h ìn h Việt trê n kiến trúc ph ần nh iều có giá trị biểu tượng v à ch ú n g là sản phẩm chung của cả cộng đồng, cá tín h của 124
  10. nghệ n h â n th ư ờ n g chỉ được ẩn vào các giá trị kỹ th u ậ t chứ không phải n ằm tro n g sự sán g tạo nghệ th u ậ t riên g biệt. Tình hình như nêu trê n cho th ấy trê n đồ đá chỉ là sự nối tiếp kỹ th u ậ t chạm khắc cu a thời g ian trước, còn trên đồ gỗ dễ đục chạm hơn, n h ất là ở đ ìn h làng, đ ã cho phép p h át triển ký th u ậ t chạm khắc từ nổi, chìm san g kết hợp với bong kênh, thậm chí cả chạm lộng. Tuy nh iên về đề tài vẫn chỉ nằm trê n dòng chảy chung. Có chăng sự khác b iệt thư ờng x u ất p h át bởi sự biến động (nhiều hơn) của lịch sử và xã hội. 3.2.2. Những bộ phận chạm khắc trên kiến trúc N hư p h ần trê n đã trìn h bày, kiến trú c hiện còn của người Việt ít n h iều gắn với tôn giáo tín ngưỡng, tro n g lĩnh vực tâm linh ít n h ấ t ch ú n g lệ thuộc vào hai n ét lớn: th ứ n h ấ t chưa đẩy th ần linh lên cao, th ứ hai là tính dàn trải theo m ặ t bằng, kể cả nhữ ng hạn chế khác n h ư ch ất liệu co bản là đá, gỗ và kết cấu của kiến trúc th ư ờ n g dưới d ạn g lắp ghép. Ngoài ra còn nhiều điều kiện khác n ữ a khiến cho các th àn h phần cấu kiện của kiến trúc thực sự ít b ền vững, h ìn h thức của chúng thư ờng ng ắn và m ập. Một trớ trê u của bộ khu n g này là không tạo được sự th a n h thoát, n ên đã làm h ạn chế giá trị nghệ th u ậ t kiến trúc. Đổ giải q u y ết "m âu th u ẫn " này, trong kiến trúc, ngoài m ột số ít được chạm khắc th ẳn g vào các cấu kiện, th ì chủ yếu các m ản g chạm khắc chỉ nằm ở kết cấu ghép vào. Đ en thời Mạc, chạm khắc trê n kiến trúc gỗ n h ấ t là ở ngôi đình tìm th ấy được nh iều hơn. Tuy nhiên, về cơ bản, chúng vẫn chủ yếu nằm trên các bộ p h ận g ắn vào kiến trúc là chính, thời này cũng đã thấy x u ất h iện n h iều d ần hiện tượng đục th ẳn g vào cấu kiện như chạm trê n bẩy, v án dong, trê n n hữ ng con chèn, con chống, đấu ba chạc... Đ ồng thời đã tìm được khá nhiều đầu dư đội bụng câu đầu có chạm trổ. Còn trê n nhữ ng rường, cột, câu đầu vẫn hiếm 125
  11. có dấu v ế t chạm khắc nghệ th u ật, ngoài m ộ t vài vân xoắn lơn ở các đầu rường của vì nóc và cốn. Tình trạ n g n h ư n êu trên , về cơ bản, cũng vẫn th ấy ở các th ế kỷ sau. Song, từ n ử a cuối thế kỷ XVII, ngoài n h ữ n g vân xoắn lớn nổi khối ở các đ ầu rường thì h ìn h tư ợng đao m ác cũng đ ã x u ấ t hiện ở phần đ ầu câu đ ầu của đình, dù cho thự c sự chưa nh iều lắm . Đôi khi ở p h ần giữa m ặt bên của câu đầu cũng đã th o án g có hình chạm , n h ư m ột bông cúc cách điệu m ãn khai, hay m ột đề tài nào đó, v ừ a đủ, để trán h đi sự khô cứng của cấu kiện.(1) Càng về sau, vào thế kỷ XVIII và XIX thì p h ần đầu quá giang của đình đã được chạm nh iều hơn, rộng hơn và lan dần vào giữa, h àn g chữ ghi về niên đại của đình hay m ộ t dòng chữ m ang yếu tố ước vọng nh ư "Càn, Nguyên, H anh, Lợi, Trinh" trở nên phổ biến hơn. H ình thứ c chữ ghi niên đại khởi dựng hoặc tu bổ cũng tìm được ở dạ xà nóc. về cơ bản từ giữa th ế kỷ XIX trở về trước, ở m ặ t bên th â n của câu đầu hoặc quá giang hiếm có h iện tư ợ ng chạm kín đặc m à chủ yếu chỉ điểm xu y ết ở hai đầu và tru n g tâm (hãn h ữ u có m ột vài đường chỉ soi ở m ép). Cuối th ế kỷ XIX đầu th ế kỷ XX đôi khi cũng đã gặp được h iện tư ợng chạm gần kín m ặt bên của quá giang, x à nách và m ặt bên xà đai/xà lòng. H iện tượng n êu trê n đây n h ư m ột dòng chảy chung của chạm khắc trê n kiến trú c Việt. Song ở th ế kỷ XVII, trê n m ột số di tích, ý th ứ c chạm trổ ở m ặ t ngoài của kiến trú c đ ã được qu an tâm đặc biệt, m à chủ yếu thuộc m ấy vùng vốn v ẫn nổi tiếng về n ghề chạm n h ư tại Nam Định với cửa đ ền Xám, đ ền Trần K hát C hân (T hanh Hóa)... (1> Trong một số trường hợp đặc biệt, như ở đình Hung Lộc (Nam Định), ? rường vì nóc kê sát vào nhau, tạo thành một mặt phẳng đã đuợc chạm khắc lon đặc các hình tượng rồng. 126
  12. 3.2.3. Đề tài chạm khắc cơ bản của đình Thời M ạc (thế kỷ XVI) Hiện nay, các n h à n g h iên cứu văn hóa nghệ th u ậ t mới chỉ tìm được n h ử n g ngôi đinh có n iên đại từ th ế kỷ XVI về sau. Vì th ế khi bàn về chạm khắc, chúng tôi chỉ có th ể mở cuộc "hành hương" vào lĩn h vực này từ thời Mạc. Từ thời Lê sơ về trước hầu n h ư chúng ta chưa tìm được m ột kiến trú c đầy đ ủ nào để biết được nghệ th u ậ t chạm khắc trê n đó. Chỉ tới nử a cuối th ế kỷ XVI dưới thời Mạc mới gặp được m ột số ngôi đìn h (và chùa) để n h ận b iết về n h ữ n g giá trị của ng h ệ th u ậ t chạm khắc. Trước hết, chính từ chạm khắc của thời Mạc m à có thể n g h ĩ tới thờ i Lê sơ n h ư m ộ t giai đoạn bản lề chuyển đổi từ phong cách n g h ệ th u ậ t chịu n h iề u ảnh hưởng của phương Nam, với gốc Ân Độ, sang m ột phong cách chịu ảnh hưởng nhiều của phương Bắc với gốc T rung Hoa. Tuy n h iên dưới th ế kỷ XV, thực sự h iện nay m ới chỉ tìm th ấy n g h ệ th u ậ t chạm khắc phần nào g ắn với n h ữ n g kiến trú c của triề u đình m à chưa thấy m ở rộng ra xã hội, chúng chỉ đủ sức tạo sự sang tran g cho tạo hình. Trong 100 n ăm dưới thời Lê sơ, sự p h á t triể n của nghệ th u ậ t chạm khắc có bị h ạn chế, nó xa lìa dần với tru y ền thống Lý và Trần. Song, thời n ày cũng không h o àn toàn dập khuôn m ỹ th u ậ t Trung Iloa, mà mặt nào tự nó cũng tạo điều kiện cho một dòng nghệ th u ậ t có p h ần p h ản án h tâm th ứ c gắn với vũ trụ và n h ân sinh của d ân tộc, ch ú n g b ắt buộc phải Việt hóa để phù hợp và tồn tại. Ở thời Mạc, nghệ th u ậ t chạm khắc nổi b ật trê n kiến trú c với ch ất liệu gỗ, h ìn h thứ c này được diễn ra ở bộ vì nóc, cốn, lá gió, các đ ấu, con ch ồ n g kiểu cánh gà... Kiến trú c đình ở thời này hầu n h ư ch ư a có tư ờ n g bao và h ệ th ố n g ván bư ng ở ngưỡng, nên n g h ệ th u ậ t chạm khắc chỉ n h ậ n b iết được gắn với các bộ phận chính (hiện tư ợ n g chạm th ẳn g vào các kết cấu của kiến trú c vẫn 127
  13. còn h ạ n chế). T rong n h ữ n g đ ìn h được xác n h ận vào n iên đại thờ i Mạc có m ộ t số h ìn h tư ợ ng th ư ờ n g x u y ên gặp, đó là rồng. C h ú n g được th ể h iện ở ván lá đề của vì nóc, ở các đ ầu dư, đầu đ òn ta y kê trê n đ ấu b a chạc làm nơi "ngồi" của các th iê n th ầ n , rồi ở các con chồng kiểu cánh g à đầu cột quân, n h iều khi cũng gặp ch ạm nổi trê n v án lá gió n h ư dưới d ạn g cá hoá rồ n g chầu m ặ t trờ i kiểu ho a cúc cách đ iệu (như ở đình Lỗ H ạnh, Bắc G iang), h a y đôi rồ n g cuộn th â n với n h a u ở cốn để n â n g m ộ t chiếc h o à n h phi đề "H oàng đế v ạn tuế". T ất cả nhữ ng con rồng trê n gỗ n ày đa p h ần đ ã Việt hóa khá m ạn h m ẽ, dù cho m ặ t nào vẫn có d án g dấp rồ n g thời Minh. So với thời Lê sơ th ì ch ú n g ấm áp h ơ n với m ắ t to hơn, m õm n g ắn lại, th â n m ập, đặc biệt có n h ữ n g đao m ảnh, dài lượn sóng n h ẹ bay ra từ m ắt và khuỷu rồi đè lên th â n , chạy về phía sau. về n h ữ n g đề tài khác, ngoài hình tư ợng rồng, chúng ta cũng đã gặp được một số phượng chạm trên gỗ như ở đình Tây Đ ằng. Đó là đôi phư ợ ng m úa trê n n ền của n hữ ng cụm v ân xoắn dưcri d ạn g dây leo. H ình tượng này được lồng trong ván lá đề của vì nóc. Tại vị trí này, ở chùa Bối Khê có đôi phượng cũng đ ã tạc tro n g lá đề, song được diễn ra dưới dạng ng ậm hoa. Người xưa th ể h iệ n ch ú n g với n h ữ ng động tác khá sinh động, con cao con th ấp , m ở rộ n g hai cánh, m à phối hợp giữa hai con tạo th à n h m ột đư ờng v iền nghệ th u ậ t viên m ãn. Phượng đã vượt ra ngoài k h u ô n khổ có tín h n g u y ên tắc quy phạm của các thời gian trư ốc v à sau. M ột con phư ợng khác đầy tín h ch ất dân gian đã được làm ở vì nóc đ ìn h Thổ Hà, trê n m ặt ngoài ván lá đề và không m ộ t chi tiế t p h ù trợ. Con phư ợ ng đứ ng ch ên h vênh, m ột m ình, tro n g tư th ế m ú a. Người ta có cảm giác đ ầu phượng gần gũi với đầu quạ cách điệu, th â n nhỏ, trơn, chân thấp, hai cánh dang rộng lưa th ư a v ài chiếc lông, b a dải lông đuôi q u ặt ngược bay lên trên . T hực sự h ìn h tư ợng rấ t đơn giản n h ư n g bố cục lại khá ch u ẩn m ự c với n é t khái q u á t cao, đầy gợi cảm. 128
  14. Lân, đình T r ù n g T hư ợng, T h â n trí tuệ (người và lân), G a V iễn, N in h Bình, T K XVII đình P h ong C ốc, Q u á n g N in h , T K XVII (T ư liệu: V M T ) (T ư liệu: V M T ) V ẹt, đình Phú Gia, T ừ Liêm, H à N ộ i, TK XVII (T ư liệu: T ạp chí Di sán V ăn hóa)
  15. C h ạ m khắc rồng, đình A n c ố , Thái Bình, T K XVII (T ư liệu: V M T ) T hối tiêu, đình H ư ơ n g C anh, Bình X uyên, V ĩn h P húc, T K X V II ( T ư liệu: V M T )
  16. C h ạ m khắc rồng, đình An c ổ , Thái Bình, TK XVII (T ư liệu: V M T ) Trị tội, đình P h ư ơ n g C hâu, Ban nguồn sữa ngọt, đình V ĩn h T ư ờng, B a Vì, H à N ội, T K X V I I Vĩnh Phuc, TKL X V IĨ (T ư liệu: V M T ) (T ư liệu: V M T )
  17. Đ ấu thú, đình T â y Đ ầ n g , Ba Vì, H à N ộ i, T K X V I ( T ư liệu: V M T ) Phượng, trên bộ vì nóc, đình Lỗ H ạn h , H iệp Hòa, Bắc G ia n g , T K XVI (T ư liệu: V M T )
  18. Lân trên vì nóc, đình T h ô Hà, Việt Y ên, Băc G iang, T K XVII ( T ư liệu: V M T ) Bản vẽ rồng, lân, đình Lồ H ạnh, Hiệp Hòa, Bắc G iang, T K XVỈ ( T ư liệu: V M T )
  19. P h ư ợ n g trên sập thờ, đ ìn h Phú Gia, Bản rập p hư ợ ng trêr bộ vì, T ừ L iê m , Hà N ội, T K X V II đình T h ổ Hà, Bắc G iang T K X V I I (T ư liệu: T ạ p chí Di sản V ăn hóa) (T ư liệu: V M T H ư ơ u, đ ìn h L ỗ H ạnh, N g ự a thần, đình Tá/ Đằng, H iệp H ò a , B ắc G ia n g , T K X V I B a Vì, H à Nội, TC X V I ( T ư liệu: V M T ) ( T ư liệu: V M ')
  20. Rồng, trên cửa, đình Lỗ Hạnh, H iệp Hòa, B ắc G iang, T K XVI (T ư liệu: V M T ) Lào N h â n v à b à Đ anh, đình T â y Đ ằn g , Ba V ì, H à N ội, T K XVI (T ư liệu: V M T )
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1