intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vi phẫu thuật u ependymoma khổng lồ trong tủy sống

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

49
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này nhằm đánh giá lại các triệu chứng lâm sàng và phương pháp chẩn đoán khối u ependymoma của tủy sống với kích thước lớn và chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp cho khối u này. Mời các bạn cùng tham khảo đề tài qua bài viết này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vi phẫu thuật u ependymoma khổng lồ trong tủy sống

Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br /> <br /> VI PHẪU THUẬT U EPENDYMOMA KHỔNG LỒ TRONG TỦY SỐNG<br /> Võ Văn Nho*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Để đánh giá lại các triệu chứng lâm sàng và phương pháp chẩn đoán khối u ependymoma của tủy<br /> sống với kích thước lớn và chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp cho khối u này.<br /> Phương pháp: MRI cột sống có đối quang từ là một phương pháp chẩn đoán khá tốt hiện nay đối với<br /> ependymomas tủy sống. Vi phẫu thuật là một phương pháp tối ưu hiện nay và cũng là phương pháp xâm lấn tối<br /> thiểu, ít gây tổn thương các mô xung quanh và khả năng phục hồi thần kinh sau mổ cao. Tập vật lý trị liệu sau<br /> mổ lâu dài là cần thiết.<br /> Kết quả: Với 14 trường hợp được phẫu thuật có kích thước khổng lồ, chiều dài dài nhất là 12 đốt sống ngực,<br /> trong đó có 1 khối u ependymomas tủy cổ xâm lấn hành não. Tất cả 14 u ependymomas đã được lấy toàn bộ u.<br /> Riêng có 1 trường hợp u ependymoma tủy ngực dài từ D1 đến D12 đã liệt hoàn toàn chân phải và yếu nặng<br /> chân trái trên 10 tháng trước khi mổ, sau mổ không hồi phục chân phải và chân trái có cải thiện một phần nhỏ.<br /> Một trường hợp u ependymoma tủy cổ có xâm lấn hành não, được mổ lấy toàn bộ u với triệu chứng thần kinh<br /> vẫn không thay đổi so với trước mổ, bệnh nhân vẫn đi lại được và hồi phục vận động, cảm giác ngày càng tốt hơn<br /> 6 tháng sau đó. Một trường hợp u ependymoma cổ - ngực từ C4 đến D6 đã được phẫu thuật lấy toàn bộ u, sau<br /> mổ chân và tay yếu hơn so với trước mổ. 3 ngày sau mổ đã hồi phục dần cả hai tay, một tuần sau hai chân cũng<br /> bắt đầu hồi phục, 3 tháng sau bệnh nhân đã tự đi lại được tốt hơn và trở lại công việc gần bình thường sau 9<br /> tháng. Một trường hợp u ependymoma khác từ đốt sống D5 đến D12 được phẫu thẫu thuật lấy toàn bộ u và đã<br /> hồi phục tốt sau mổ. Hai trường hợp u ependymomas từ D4 đến D12 và trường hợp còn lại u ependymoma từ<br /> D7 đến D9 cũng đã được lấy toàn bộ u và hồi phục khá tốt sau mổ. Một bệnh nhân nữ, trẻ với ependymoma từ<br /> D12 đến S2 đã được lấy toàn bộ u và cải thiện tốt sau mổ. Các trường hợp khác cũng được lấy toàn bộ u và đang<br /> cải thiện ngày càng tốt hơn<br /> Kết luận: U ependymoma khổng lồ trong tủy sống là một loại thương tổn khá phức tạp và nhiều thách thức<br /> đối với các nhà ngoại khoa thần kinh. Điều trị vi phẫu thuật là một biện pháp tối ưu hiện nay.<br /> Từ khóa: ependymoma, nội tủy<br /> <br /> ABSTRACT<br /> MICROSURGERY IN LARGE INTRAMEDULLARY EPENDYMOMAS<br /> Vo Van Nho* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 16 - Supplement of No 4 - 2012: 438 - 443<br /> Objectives: In order to evaluate the clinical sympmatologies and the diagnostic measure of the<br /> intramedullary ependymomas with large sizes and choose the best procedure for these tumors.<br /> Method: Spinal MRI with gadolinium as the best procedure to diagnose the intramedullary ependymomas .<br /> Until now, microsurgery is the best procedure as minimally invasive surgery in order to be able to remove these<br /> tumors<br /> Results: With 14 surgical cases having large sizes, 12 dorsal spines were the longest size and the<br /> shortest one was 3 , including cervical, thoracic and lumbo-sacral region. There was a case extending to the<br /> medulla oblongata was operated on to remove tumor totally but eventually not changed the neurologic<br /> * Bệnh viện Chợ Rẫy – Bệnh viện Ngoại Thần kinh Quốc tế TPHCM<br /> Tác giả liên lạc: PGS TS Võ Văn Nho<br /> ĐT: 0903958522<br /> <br /> 438<br /> <br /> Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> symptoms. After 6 months, this patient has improved better day by day. Besides, another patient had<br /> intramedullary ependymomas from D1 to D12 has paralyzed the right leg, the weakness of left leg over 10<br /> months. After removing tumor totally, the right leg was still not changed but the left one has improved<br /> partly. In addition, one more patient with an intramedullary ependymomas from C4 to D6 was operated on<br /> to remove tumor completely. As result, limbs was weaker than comparing to before surgery. However, they<br /> have improved better 5 days after. Splendidly, this patient could walk and returned to daily works as usual<br /> after 9 months. Another patient had an ependymoma from D5 đến D12 that was removed tumor totally and<br /> she has improved better after operation. Two cases of ependymomas from D4 to D11 and from D7 to D9 also<br /> resected tumors totally and have improved better after operation. A young female patient with ependymoma<br /> from D12 to S2 removed tumor totally and has improved good function after surgery. Other cases also<br /> resected tumors completely and have been improving better and better.<br /> Conclusion: Large intramedullary ependymomas were a surgical challenge. Spinal MRI is necessary and<br /> very important to make exact diagnosis. At present, microsurgery as optimal procedure resecting the tumors<br /> completely and bringing very favourable results for patients.<br /> Từ khóa: Ependymoma, intramedullary<br /> <br /> TỔNG QUAN<br /> U ependymoma nội tủy là u xuất phát từ tế<br /> bào màng não thất, đặc biệt vùng chóp cùng tủy<br /> sống ( filum terminale ) thường gặp hơn, ngoài<br /> vùng này thỉnh thoảng vẫn xuất hiện khối u ở<br /> các vị trí khác như: tủy cổ - hành não, cổ - ngực<br /> và vùng ngực. Ở người lớn loại mixopapillary<br /> ependymomas chiếm tỉ lệ 40-50% của u ống nội<br /> tủy, loại mixopapillary xuất phát từ khối tế bào<br /> màng não thất trong não thất IV và trong vùng<br /> chóp cùng tủy sống. Ở người lớn, u này thường<br /> có dự hậu tốt khi phẩu thuật cắt bỏ toàn bộ khối<br /> u. Riêng ở trẻ em, u có dư hậu kém hơn mặc dù<br /> cũng được cắt bỏ toàn bộ u như người lớn và có<br /> khả năng bùng phát nhanh hơn.<br /> Mixopapillary ependymomas phát triển<br /> chậm trong đa số các trường hợp, ở lứa tuổi 3040 chiểm tỉ lệ cao. Đau lưng là dấu hiệu không<br /> thường gặp trong đa số các bệnh nhân với<br /> ependymomas, triệu chứng đau vùng đốt sống<br /> thường không điển hình, dễ nhầm lẫn với triệu<br /> chứng đau thông thường do thoái hóa cột sống<br /> hay do bệnh lý của các khớp đốt sống hoặc<br /> nhầm lẫn với những thương tổn khác. Đa số<br /> những u này phát triển kéo dài nằm trong nhu<br /> mô tủy sống, phần lớn tại đầu trên của u thường<br /> có nang giống như hình người đội mũ hay nút<br /> chai. Khi u phát triển chèn ép tủy sống sẽ ảnh<br /> <br /> Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br /> <br /> hưởng đến tổn thương bó tháp của chân hoặc<br /> cả tay lẫn chân tùy theo vị trí khối u. Phần lớn<br /> các trường hợp khối u ependymomas to có<br /> ảnh hưởng đến cảm giác và nếu chèn ép tủy<br /> lâu ngày sẽ gây teo cơ ở tay hoặc chân. Cũng<br /> có những trường hợp làm ảnh hưởng đến rối<br /> loạn cơ vòng hậu môn và bàng quang gây rối<br /> loạn đi tiểu và tiêu.<br /> <br /> PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Sử dụng MRI có đối quang từ để chẩn đoán<br /> khối u trong tủy sống là một phương pháp rất<br /> tốt để xác định chiều dài và kích thước khối u.<br /> Đánh giá đầy đủ các dấu hiệu thần kinh liên<br /> quan đến vị trí khối u trước và sau mổ để so<br /> sánh kết quả phẫu thuật.<br /> Vi phẫu thuật là một biện pháp tối ưu<br /> nhằm lấy đi toàn bộ khối u, tránh gây ra<br /> nhiều tổn thương các mô xung quanh nhất là<br /> những vi mạch nuôi dưỡng chất xám tủy<br /> sống, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phục<br /> hồi sau mổ nhanh hơn.<br /> Đánh giá kết quả hồi phục thần kinh sau mổ<br /> là một quá trình cần phải theo dõi lâu dài, ít<br /> nhất là trên một năm.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Trong 14 trường hợp ependymomas<br /> khổng lồ trong tủy sống thuộc khu vực tủy<br /> cổ, tủy ngực và thắt lung-cùng. Có một<br /> <br /> 439<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> trường hợp u tủy cổ từ C1 đến C7, có nang<br /> lan đến hành tủy, trước mổ có yếu nhẹ 2 tay<br /> và 2 chân, bệnh nhân vẫn đi lại được. Sau khi<br /> phẫu thuật lấy toàn bô u, tình trạng lâm sàng<br /> không thay đổi. Trên 6 tháng tình trạng thần<br /> kinh cải thiện tốt hơn, bệnh nhân này đã trở<br /> lại công việc hầu như hoàn toàn bình thường.<br /> Một trường hợp khác với ependymoma<br /> vùng tủy cổ-ngực từ C4 đến D6, tình trạng lâm<br /> sàng khá nặng, hai tay và hai chân đã có dấu<br /> hiệu teo cơ, rối loạn cảm giác, đi lại phải có sự<br /> hỗ trợ. Khi phẫu thuật lấy toàn bộ u với chiều<br /> dài khối u trên 18cm, sau mổ 2 tay và 2 chân yếu<br /> hơn, nhưng 3 ngày sau mổ bắt đầu có dấu hiệu<br /> cải thiện vận động cả tay lẫn chân nhưng ở mức<br /> độ chậm. 3 tháng sau mổ, bệnh nhân này đã đi<br /> lại một mình, và 6 tháng sau đó cải thiện vận<br /> động và cảm giác tốt hơn rất nhiều. Đến nay,<br /> bệnh nhân đã trở lại công việc gần bình thường.<br /> Một trường hợp ependymomas vùng ngực có<br /> chiều dài từ D1 đến D12 , liệt chân phải và yếu<br /> chân trái nặng trên 10 tháng đã được mổ lấy<br /> toàn bộ u. Sau mổ không hồi phục chân phải,<br /> chân trái có cải thiện rất ít. Một trường hợp<br /> khác, u ependymoma vùng tủy ngực từ D7 đến<br /> <br /> D9 đã được lấy toàn bộ u và đã cải thiện 2 chân<br /> khá tốt sau mổ.<br /> Một trường hợp khác với u ependymomas<br /> tủy ngực từ D5 đến D12 đã được phẫu thuật lấy<br /> toàn bộ u. Kết quả sau mổ, hai chân yếu hơn<br /> trước mổ rồi 4 ngày sau đó bắt đầu cải thiện trở<br /> lại vận động và cảm giác hai chân. Ba tuần sau<br /> mổ, bệnh nhân tự đi lại được và cải thiện thần<br /> kinh ngày càng tốt hơn. Đến tháng thứ 6 bệnh<br /> nhân tự đi lại khá vững vàng và làm được công<br /> việc nhà. Cũng một trường hợp gần tương tự<br /> ependymoma từ D4 đến D12 đã được lấy toàn<br /> bộ u và đã cải thiện khá tốt sau mổ 3 tháng,<br /> trường hợp nầy trước mổ vẫn còn đi lại được<br /> không cần sự trợ giúp<br /> Hai trường hợp khác được phẫu thuật vào<br /> tháng 5, 2011, một ependymoma từ đoạn thấp<br /> hành tủy đến C5 đã được phẫu thuật lấy toàn bộ<br /> u, sau mổ phải được thở máy hỗ trợ trên một<br /> tháng; trường hợp thứ hai ependymoma từ D8<br /> đến D12 tái phát và cũng được mổ lấy toàn bộ u,<br /> sau mổ tình trạng lâm sàng vẫn như trước mổ<br /> và đã cải thiện vận động và cảm giác khá tốt sau<br /> phẫu thuật. Các trường hợp còn lại đang cải<br /> thiện lâm sàng ngày càng tốt hơn sau mổ<br /> <br /> Bảng 1: Kết quả phẫu thuật ependymomas<br /> STT<br /> <br /> Bệnh nhân<br /> <br /> Giới<br /> <br /> Tuổi<br /> <br /> Vị trí<br /> <br /> 1<br /> <br /> Từ Thi Mỹ V<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> 56<br /> <br /> C1-C7<br /> <br /> 2<br /> <br /> Trần Mỹ Tr<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> 34<br /> <br /> D5-D12<br /> <br /> 3<br /> <br /> Lê Thanh V<br /> <br /> Nam<br /> <br /> 36<br /> <br /> C4-D6<br /> <br /> 4<br /> <br /> Trần Văn Th<br /> <br /> Nam<br /> <br /> 46<br /> <br /> D1-D12<br /> <br /> 5<br /> <br /> Nguyễn Thị H<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> 30<br /> <br /> D4-D12<br /> <br /> 6<br /> <br /> Nguyễn Thị Th<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> 58<br /> <br /> D7-D9<br /> <br /> 7<br /> <br /> Mey Sok L<br /> <br /> Nữ<br /> <br /> 28<br /> <br /> C1 – C5<br /> <br /> 8<br /> 9<br /> 10<br /> 11<br /> 12<br /> <br /> Huỳnh Thanh B<br /> Nguyễn Thị Nh<br /> Samuk<br /> Đoan Bao Th<br /> Tran Van V<br /> <br /> Nam<br /> Nữ<br /> Nam<br /> Nữ<br /> Nam<br /> <br /> 37<br /> 56<br /> 30<br /> 37<br /> 43<br /> <br /> D8 – D12<br /> C1 – C4<br /> D12 – L2<br /> D12 – S2<br /> D4 – D8<br /> <br /> 440<br /> <br /> Triệu chứng thần kinh<br /> Yếu nhẹ tay & chân<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Yếu chân phải<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Yếu tay & chân<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Liệt chân trái, yếu chân phải.<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Yếu cả 2 chân<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Yếu cả 2 chân<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Yếu tứ chi nặng<br /> Rối loạn cảm giác<br /> Yếu 2 chi dưới<br /> Tê 2 chi trên<br /> Yếu và tê 2 chi dưới<br /> Yếu 2 chân<br /> Yếu nhẹ 2 chân<br /> <br /> Lấy toàn<br /> bộ u<br /> <br /> Kết quả<br /> <br /> +<br /> <br /> Phục hồi tốt<br /> <br /> +<br /> <br /> Phục hồi tốt<br /> <br /> +<br /> <br /> Phục hồi tốt<br /> <br /> +<br /> <br /> Không phục hồi<br /> <br /> +<br /> <br /> Phục hồi tốt<br /> <br /> +<br /> <br /> Phục hồi tốt<br /> <br /> +<br /> <br /> Chưa phục hồi<br /> <br /> +<br /> +<br /> +<br /> +<br /> +<br /> <br /> Đang phục hồi<br /> Phục hồi tốt<br /> Đang phục hồi<br /> Phục hồi tốt<br /> Phục hồi chậm<br /> <br /> Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br /> STT<br /> <br /> Bệnh nhân<br /> <br /> Giới<br /> <br /> Tuổi<br /> <br /> Vị trí<br /> <br /> Triệu chứng thần kinh<br /> <br /> 13<br /> 14<br /> <br /> Nguyễn Van N<br /> Nguyễn Hoàng M<br /> <br /> Nam<br /> Nam<br /> <br /> 34<br /> 60<br /> <br /> D5 – D9<br /> D7 – D11<br /> <br /> yếu nặng 2 chân<br /> Yếu nặng 2 chân<br /> <br /> Ependymoma C1 – C7 (trước mổ)<br /> <br /> Lấy toàn<br /> bộ u<br /> +<br /> +<br /> <br /> Kết quả<br /> Phục hồi nhanh<br /> Phục hồi nhanh<br /> <br /> Ependymoma C1 – C7 (sau mổ lấy toàn bộ u)<br /> <br /> Epenymoma D4 –D12 (trước mổ)<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Ependymomas trong tủy sống là một loại<br /> thương tổn thường gặp ở người lớn như<br /> những loại u khác như: astrocytomas,<br /> haemangiomas. Các u ependymomas thường<br /> xuất hiện vùng chóp cùng, đa số vùng tủy<br /> ngực lan đến vùng chóp cùng; ngoài ra cũng<br /> có thể gặp những u nầy tại vùng tủy cổ hoặc<br /> tại chùm đuôi ngựa. Trong 14 trường hợp của<br /> chúng tôi, có một trường hợp ependymoma<br /> từ C1 đến C7 với một nang to nằm ngay trên<br /> C1 xâm lấn vào hành não như người đội nón<br /> mà Ken C New đã đề cập(12); chúng tôi gọi<br /> hình ảnh trên như là nón của người đầu bếp.<br /> Đây là một u chiếm toàn bộ chiều dài tủy<br /> sống cổ và cũng là một thách thức không nhỏ<br /> <br /> Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Epenymoma D4 –D12 (sau mổ lấy toàn bộ u)<br /> đối với các phẫu thuật viên thần kinh, bởi vì,<br /> bệnh nhân nầy trước mổ vẫn đi lại được với<br /> hai tay còn hoạt động gần như bình thường,<br /> chỉ có rối loạn cảm giác nông. Cộng hưởng từ<br /> (MRI) có đối quang từ (Gadolinium) giữ vai<br /> trò quan trọng giúp khảo sát hình thái và thiết<br /> lập một chẩn đoán u ependymomas trong tủy<br /> sống. Ngoài ra, các dấu hiệu lâm sàng cần<br /> phải được đánh giá đầy đủ và chính xác để<br /> theo dõi sự phục hồi thần kinh sau mổ. Nếu<br /> khối u chèn ép trong thời gian dài gây liệt<br /> hoàn toàn chân hoặc tay, dù khối u đó đã<br /> được loại bỏ nhưng khả năng hồi phục cũng<br /> rất hạn chế, đôi khi không hồi phục. Theo<br /> kinh nghiệm riêng của chúng tôi, nếu những<br /> khối u ependymomas trong tủy sống có dấu<br /> <br /> 441<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 16 * Phụ bản của Số 4 * 2012<br /> <br /> hiệu thần kinh còn khá tốt nên được mổ lấy u<br /> sớm và nếu lấy toàn bộ u thì tốt hơn, dù ngay<br /> sau mổ dấu thần kinh có kém hơn trước mổ<br /> nhưng khả năng hồi phục vẫn rất cao như<br /> trong 14 trường hợp của chúng tôi, kinh<br /> nghiệm của chúng tôi cũng phù hợp với nhận<br /> định của Brotchi(2,3), McCormick(10) và<br /> Cooper(5). Đối với trường hợp khối u<br /> ependymoma từ C1 đến C7 đã xâm lấn vào<br /> hành não đã được lấy đi toàn bộ qua kính vi<br /> phẫu thuật, đã hạn chế tối đa tổn thương các<br /> mạch máu nhỏ, nhất là các vi tuần hoàn nuôi<br /> dưỡng các mô chất trắng và chất xám. Cho<br /> nên, sau mổ chức năng thần kinh vẫn như<br /> trước mổ và tiếp tục cải thiện tốt hơn sau 6<br /> tháng.<br /> Đối với những u có kích thước lớn và dài<br /> khi bóc tách những u này ra khỏi vùng tủy bình<br /> thường phải tránh không va chạm nhiều đến mô<br /> lành làm ảnh hưởng đến kết quả hồi phục sau<br /> mổ. Trong 14 trường hợp ependymomas khổng<br /> lồ, có một trường hợp khối u vùng tủy ngực dài<br /> từ D1 đến D12 với liệt hoàn toàn một chân bên<br /> trái và yếu chân phải trên 10 tháng. Sau mổ chân<br /> trái không hồi phục do khối u chèn ép lâu gây<br /> hủy hoại dẫn truyền thần kinh của bó tháp<br /> thẳng nên không còn khả năng hồi phục, mặc<br /> dù khối u đã được loại bỏ hoàn toàn (1,2,3,5). Do<br /> đó, những khối u ependymomas cần phải được<br /> phẫu thuật sớm khi dấu hiệu thần kinh chưa<br /> quá nặng, khả năng hồi phục sẽ có nhiều triển<br /> vọng hơn, với kinh nghiệm riêng của chúng tôi<br /> cũng phù hợp với nhận định của Cooper and<br /> Epstein(4), Brotchi(2,3). Đối với một trường hợp<br /> khác phức tạp hơn, một u ependymoma từ C4<br /> đến D6 với yếu hai tay và hai chân ở mức độ<br /> nặng, rối loạn cảm giác nông, teo cơ mô cái hai<br /> bàn tay nhưng chưa rối loạn cơ vòng trước mổ.<br /> Trường hợp nầy được phẫu thuật lấy toàn bộ<br /> khối u, sau mổ hai chân và hai tay yếu hơn<br /> nhiều so với trước mổ, nhưng 3 ngày sau mổ hai<br /> tay đã cải thiện tốt hơn, rồi một tuần sau đó hai<br /> chân tiếp tục phục hồi dần. Ba tháng sau bệnh<br /> nhân tự đi lại được, sau chín tháng đã cải thiện<br /> tốt hơn rõ rệt, rồi tiếp tục làm việc lại gần bình<br /> <br /> 442<br /> <br /> thường. Vi phẫu thuật là một phương pháp tối<br /> ưu hiện nay để loại bỏ những ependymomas<br /> khổng lồ trong tủy sống. Điều cần lưu ý khi<br /> phẫu thuật những khối u trong tủy sống không<br /> nên sử dụng đốt điện lưỡng cực để cầm máu,<br /> nếu quá cần thiết nên sử dụng đốt điện lưỡng<br /> cực với nhiệt độ rất thấp để tránh gây tổn<br /> thương mô tủy. Phần lớn chảy máu từ những vi<br /> mạch, chỉ sử dụng Gelfoam tạm thời sẽ cầm<br /> được máu dễ dàng mà không làm tổn thương<br /> đến mô tủy, giúp khả năng cải thiện chức năng<br /> sau mổ nhanh hơn. Vi phẫu thuật với độ phóng<br /> đại lớn nhằm bảo tồn bền vững những mạch<br /> máu cực nhỏ, vừa không gây tổn thương đến<br /> những vi mạch vừa không làm tổn thương mô<br /> tủy trắng và xám là một thuận lợi vô cùng quan<br /> trọng, giúp phục hồi chức năng thần kinh<br /> nhanh chóng sau mổ mà còn có thể đạt đến mức<br /> độ hồi phục cao .<br /> Như trường hợp u ependymoma từ D4<br /> đến D12 với yếu nhẹ chân phải và rối loạn<br /> cảm giác nông hai chân, không rối loạn cơ<br /> vòng, đã được phẫu thuật lấy toàn bộ khối u.<br /> Sau mổ, liệt hai chân, rối loạn cơ vòng, một<br /> tuần sau mổ hồi phục nhẹ 2 chân. Ba tuần sau<br /> đó, bệnh nhân tự đi lại một mình, cơ vòng<br /> phục hồi tốt. Sau 6 tháng tự làm được các<br /> công việc trong gia đình. Tuy là một khối u<br /> khổng lồ, nếu được phẫu thuật sớm với kính<br /> vi phẫu thuật có thể làm hạn chế các tổn<br /> thương thần kinh, mạch máu và những mô<br /> lành xung quanh, giúp khả năng hồi phục<br /> nhanh, đạt kết quả khá tốt như mong đợi.<br /> Điều nầy cũng phù hợp với kinh nghiệm của<br /> Aryes(1), Ferrante(6), Fourney(7), Hanbali(8), Lee(9)<br /> và Tubbs(13)<br /> Đối với những u ependymomas thường<br /> các triệu chứng ban đầu rất nghèo nàn, đôi<br /> khi không tìm thấy dấu hiệu đau tương ứng ở<br /> đốt sống, thời gian sau đó mới ảnh hưởng đến<br /> cảm giác và vận động. Nếu bắt đầu có dấu<br /> hiệu rối loạn cảm giác nhẹ ở tay hoặc chân thì<br /> MRI là một phương pháp rất hữu ích để tầm<br /> soát những khối u trong tủy sống, trong đó có<br /> u ependymomas. Nếu chẩn đoán sớm, khối u<br /> <br /> Chuyên đề Phẫu thuật Thần Kinh<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2