intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vì sao trẻ hay bị giun lên ống mật

Chia sẻ: Longlay Paris | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

91
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Giun lên ống mật là hiện tượng giun đũa chui qua cơ vòng Oddi vào đường dẫn mật. Đây là một trong những cấp cứu thường gặp ở trẻ em, nhất là trẻ 3-7 tuổi. Số Khi trẻ quấy khóc, đau bụng vật vã cần nghĩ đến giun chui lên ống mật. lượng giun lên ống mật có thể chỉ một, vài con nhưng có trường hợp tới hàng trăm con. Giun lên ống mật là một trong những tai biến ngoại khoa thường thấy của giun đũa (tắc ruột, viêm ruột thừa, giun lên ống mật, viêm tụy...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vì sao trẻ hay bị giun lên ống mật

  1. Vì sao trẻ hay bị giun lên ống mật? Giun lên ống mật là hiện tượng giun đũa chui qua cơ vòng Oddi vào đường dẫn mật. Đây là một trong những cấp cứu thường gặp ở trẻ em, nhất là trẻ 3-7 tuổi. Số Khi trẻ quấy khóc, đau bụng lượng giun lên ống mật vật vã cần nghĩ đến giun chui có thể chỉ một, vài con lên ống mật. nhưng có trường hợp tới hàng trăm con. Giun lên ống mật là một trong những tai biến ngoại khoa thường thấy của giun đũa (tắc ruột, viêm ruột thừa, giun lên ống mật, viêm tụy cấp xuất huyết hoại tử… ) có thể dẫn đến ứ mật, giãn ống mật trong gan, kéo theo đủ loại vi
  2. khuẩn đường ruột (hay gặp E. coli, Proteus). Trẻ em hay bị viêm đường mật, và dễ hình thành sỏi mật. Về cơ chế sinh bệnh, có ý kiến cho rằng trẻ biếng ăn (do mắc một bệnh nào đó) hay bị giun lên ống mật do trong quá trình tìm kiếm thức ăn, giun đã chui vào ống mật; cũng có ý kiến cho rằng giun đũa vốn sống môi trường kiềm trong khi độ toan của dịch vị ở trẻ em lại thấp hơn người lớn nên chúng bò đi nơi khác tìm môi trường thuận lợi hơn và dễ ngược dòng, chui vào đường mật. Bệnh có thể tái phát nhiều lần nếu không được định kỳ tẩy giun và vẫn tiếp tục tái nhiễm giun. Biểu hiện lâm sàng Biểu hiện lâm sàng chủ yếu là những cơn đau bụng cấp. Diễn biến bệnh ở trẻ em và người lớn rất khác nhau: Ở giai đoạn sớm, có thể thấy trẻ đột ngột đau bụng dữ dội kèm nôn nhiều, có trẻ còn nôn ra giun. Trẻ đau từng cơn, đau lăn lộn, vật vã; có trẻ phải ôm bụng hoặc cào cấu vùng thượng vị, cắn xé quần áo hoặc nằm phủ phục, chổng
  3. mông, bắt bế vác lên vai, bụng tỳ vào vai mẹ chạy quanh nhà. Rồi đột nhiên cơn đau dịu đi, trẻ mệt lả, đẫm mồ hôi, mắt nhắm rồi cơn đau khác tái diễn. Cứ như vậy mỗi ngày có đến 15-20 cơn. Khám thấy bụng hơi chướng, có phản ứng ở một phần tư bụng trên-phải, dưới bờ sườn phải và điểm dưới mũi ức rất đau, có thể thấy khối u (búi giun) ở vùng thượng vị. Khoảng 1 tuần sau trẻ có dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân: thân nhiệt dao động, buổi chiều sốt 38-39oC, trẻ vẫn đau liên tục nhưng có dịu hơn một chút chỉ đau âm ỉ nhưng phản ứng mạnh ở vùng thượng vị nhất là vùng hạ sườn phải, ấn vào mũi ức rất đau, có khi co cứng. Các dấu hiệu này chứng tỏ trẻ đã bị viêm nhiễm đường mật. Trẻ em hay bị viêm nhiễm, nếu không được điều trị dễ tiến triển thành áp xe gan. Vì giun không làm tắc hoàn toàn đường mật nên có thể chưa thấy trẻ vàng da, vàng mắt. Chừng 2-3 tuần sau khi có những cơn đau đầu tiên trẻ xanh xao, gày yếu, thiếu máu, sốt cao 39-40oC kéo dài, ăn kém hẳn, bụng đau nhiều hơn. Khám thấy gan to, chắc, đau nhưng dấu hiệu rung gan không rõ; nhiều khi phải chụp X
  4. quang mới thấy nếu gan to về phía trên, cần siêu âm để xác định bệnh. Xét nghiệm thấy số lượng hồng cầu giảm, bạch cầu tăng, tăng bạch cầu đa nhân trung tính, cũng có thể thấy tăng bạch cầu đa nhân ái toan; chức năng gan bị ảnh hưởng: tỉ lệ prothrombin hạ thấp, men phosphatase kiềm và men gan transminase tăng; tốc độ lắng máu tăng chứng tỏ trẻ đã bị áp-xe gan. - Ở trẻ dưới 2 tuổi, triệu chứng nhiễm trùng xuất hiện rất sớm, có thể chỉ sau vài ba ngày một tuần, trẻ đã bị áp xe gan. Trong trường hợp này, trẻ thường có triệu chứng thiếu máu kèm theo. - Ở trẻ lớn hơn (3-7 tuổi), tình trạng nhiễm trùng có phần nhẹ hơn, viêm nhiễm xảy ra muộn hơn. - Ở người lớn, bệnh cảnh lâm sàng giun lên ống mật điển hình hơn, biểu hiện bằng những cơn đau bụng gan dữ dội kèm theo nôn nhiều nhưng tình trạng viêm nhiễm lại ít hơn. Người bệnh đau vùng dưới sườn phải, đau lan ra sau lưng và đau lan lên bả vai; đau từng cơn, lăn lộn, vật vã, phải xoay người đủ các tư thế để chống lại cơn đau, nhiều khi phải nằm chổng mông, gập người mới đỡ đau. Khám thấy
  5. đau vùng dưới sườn phải và điểm dưới mũi ức cách 1,5 – 2cm về phía phải và dưới mũi ức (tương ứng với chỗ chia nhánh của ống gan trái thành ống dưới phân thùy II và III của gan trái rất đau; đặc biệt điểm sườn lưng đau (đau nhói khi ấn vào khối cơ thắt lưng ở góc sườn thứ 12); không thấy vàng da, vàng mắt. Biến chứng của áp xe gan do giun đũa: - Áp xe gan vỡ vào ổ bụng gây viêm phúc mạc toàn thể. Bệnh rất nặng. - Áp xe gan vỡ vào màng phổi gây tràn dịch màng phổi. Người bệnh khó thở, chọc dò hút ra mủ thối, có khi có trứng giun; nuôi cấy có vi trùng đường ruột. - Áp xe gan vỡ vào màng ngoài tim: rất khó chẩn đoán, trẻ tử vong nhanh. - Áp xe dưới cơ hoành thường phát hiện được bằng X quang. Chẩn đoán Việc xác định bệnh, thường phải dựa vào các triệu chứng sau:
  6. - Đau dữ dội ở bụng trên, ấn đau ở dưới mỏm xương ức; - Có thể trước đó vài ngày người bệnh đã tẩy giun; hoặc trong cơn đau có nôn ra giun, xét nghiệm thấy trứng giun trong dịch mật hoặc dịch hút tá tràng; - Chụp X quang có cản quang hoặc siêu âm vùng túi mật thấy hình giun trong túi mật, đường mật giãn, túi mật có thể to. Có ý kiến cho rằng trẻ biếng ăn (do mắc một bệnh nào đó) hay bị giun lên ống mật do trong quá trình tìm kiếm thức ăn, giun đã chiu vào ống mật; cũng có ý kiến cho rằng giun đũa vốn sống trong môi trường kiềm trong khi độ toan của dịch vị ở trẻ em lại thấp hơn người lớn nên chúng bò đi nơi khác để tìm môi trường thuận lợi hơn và dễ ngược dòng, chui vào đường mật. Về điều trị Ở giai đoạn đầu nên điều trị nội khoa: nghỉ ngơi, ăn đủ chất, cho thuốc giãn cơ Oddi, thuốc lợi mật, tẩy giun; chưa nên dùng thuốc kháng sinh. Theo dõi chặt chẽ để có kết luận chẩn đoán chính xác và phát hiện sớm dấu hiệu nhiễm trùng để xử trí kịp thời.
  7. Việc điều trị ngoại khoa chỉ đặt ra khi điều trị nội khoa không kết quả hoặc bệnh diễn biến lâu có nguy cơ biến chứng. Khi đã có chỉ định mổ, cần phải chuẩn bị chu đáo, nâng cao thể trạng, chống nhiễm trùng, và chăm sóc tốt sau mổ.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2