Trường Đại Học Nguyễn Tất Thành<br />
Khoa Tài Chính Ngân hàng<br />
Ths : Lê Thị Hải Đường<br />
Tham gia viết bài báo<br />
<br />
Đề tài : Việt Nam với Cơ hội và thách thức trong tuân thủ các quy định về<br />
thuế quan và phi thuế quan tham gia Hiệp định TPP.<br />
<br />
Hiệp định Đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình dương (TPP) kỳ vọng sẽ được<br />
ký kết vào cuối năm 2015 với mục tiêu tiến tới loại bỏ từ 90% trở lên các rào<br />
cản về thuế quan cho hàng hóa, dịch vụ của đối tác tham gia Hiệp định. Việt<br />
Nam hy vọng sẽ được hưởng lợi nhiều từ TPP nhưng cũng gặp không ít khó<br />
khăn đang ở phía trước. Bài viết đề cập đến những cơ hội và thách thức mới<br />
của Việt Nam khi phải thực hiện các quy định về thuế quan và phi thuế quan<br />
trong khuôn khổ Hiệp định.<br />
Một số vấn đề cơ bản của TPP<br />
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP hiện nay có 12<br />
nước tham gia bao gồm :<br />
Hiệp định này đầu tiên được ký kết ngày 3/6/2005, có hiệu lực từ<br />
28/5/2006 giữa 4 nước Singapore , Chile, New Zealand, Brunei (do vậy Hiệp<br />
định này còn gọi là P4).<br />
Đến nay, TPP đã có sự tham gia của 8 nước gồm Australia, Brunei,<br />
Canada, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Mỹ, Singapore, Nhật<br />
Bản và Việt Nam.<br />
Phạm vi điều chinh của TPP được xem là “ Bị quy định” bởi ít nhất gồm<br />
3 yếu tố sau<br />
1.1 TPP là một hiệp định thương mại tự do có phạm vi rất rộng và nhiều<br />
rào cản bị dỡ ,bỏ ví dụ như rào cản về thuế quan sẽ cắt giảm nhiều hơn , rào cản<br />
về phi thuế quan, như phạm vi về dịch vụ , đầu tư lao động môi trường sẽ được<br />
mở cửa nhiều hơn.<br />
1.2 TPP là một hiệp định thương mại mở đón đi vào sâu hơn, đa dạng<br />
hóa hơn các lĩnh vực trước ddosddawcj biệt là các vấn đề phi thuế quan ,, như<br />
xuất xứ , hàng hóa các biện pháp phòng vệ thương mại, sở hữu trí tuệ , mua<br />
sắm công , chính sách công, Chính sách cạnh tranh<br />
1.3 TPP là một hiệp định mở cửa tự do trong các lĩnh vực<br />
Thuế quan : Cắt giảm hầu hết các dòng thuế ít nhất là 90% thực hiện<br />
ngay hoặc thực hiện các lộ trình rất ngắn<br />
Dịch vụ : tăng mức độ mở của dịch vụ các lĩnh vực dịch vụ đặc biệt là<br />
dịch vụ tài chinh.<br />
Đầu tư: Tăng cường các quy định liên quan đến đầu tư nước ngoài ,và<br />
bảo vệ nhà đầu tư .<br />
Quyền sở hữu trí tuệ tăng mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cao<br />
hơn so với múc trong WTO<br />
Siết chặt các yêu cầu về VSDTvaf rào cản kỹ thuận<br />
Cạnh tranh và mua sắm có tăng cường cạnh tranh.<br />
Các vấn đề lao động tăng quyền lập hội , quyền đàm phán về lao động<br />
không sử dụng lao động<br />
Cơ hội và kỳ vọng mới<br />
Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập TPP và nguyên tắc đàm phán đã<br />
được qua các vòng đàm phán, TPP sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng hơn tất cả các<br />
Hiệp định trước đây, đó là: Đẩy mạnh giao thương hàng hoá giữa các nước<br />
thành viên thông qua việc cắt giảm tối đa các dòng thuế (tối thiểu 90%), trong<br />
đó ưu tiên thực hiện ngay hoặc có lộ trình rất ngắn; Thị trường dịch vụ có mức<br />
độ mở cửa cao hơn cam kết WTO, đặc biệt là dịch vụ trong lĩnh vực tài chính…<br />
Sự điều chỉnh nêu trên và thực tiễn cho thấy, gia nhập TPP Việt Nam sẽ gặp<br />
không ít thách thức nhưng cũng đón nhận không ít cơ hội và kỳ vọng:<br />
Một là, việc gia nhập TPP tạo thuận lợi cho hàng hoá xuất khấu của Việt<br />
Nam tiếp tục tăng trưởng cao do mở rộng được thị trường xuất khẩu, đáng chú ý<br />
là 2 thị trường lớn Nhật Bản và Hoa Kỳ. Nếu Nhật Bản đồng ý nới lỏng hoặc<br />
chấp thuận mở cửa thị trường nông sản thì các ngành hàng được hưởng lợi là<br />
dệt may, giày dép, đồ gỗ và nông sản (đây là những ngành hàng mà kim ngạch<br />
xuất khẩu vào các nước thành viên TPP đang chiếm tỷ trọng lớn).<br />
Hai là, việc tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam có điều kiện cân bằng cơ cấu<br />
nhập khẩu hàng hoá trong mối quan hệ giữa các khu vực thị trường, không<br />
ngoại trừ việc giảm kim ngạch nhập khẩu từ các thị trường hiện tại (ví dụ Trung<br />
Quốc, Hàn Quốc) có thể giúp chúng ta giảm bớt sự lệ thuộc nếu như xảy ra các<br />
sự cố không mong đợi.<br />
Ba là, quy tắc xuất xứ nội khối tạo nên sức ép, đồng thời mở ra cơ hội<br />
tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ các nước thành<br />
viên để các nước cùng tận dụng được cơ hội tăng xuất khẩu vào TTP, nhất là<br />
các thị trường lớn như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada. Đây cũng là cơ hội tốt cho<br />
chúng ta phát triển công nghiệp phụ trợ, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá từ nguyên<br />
liệu trong nước hoặc nguyên liệu nhập khẩu từ các nước thành viên.<br />
Bốn là, trên cơ sở kết quả và kinh nghiệm thực thi cam kết WTO và các<br />
FTA hiện tại, cam kết sâu rộng hơn trong TPP một mặt cho phép sử dụng các<br />
thành quả đã đạt được, mặt khác cũng tạo thêm sức ép đẩy nhanh việc chuyển<br />
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng theo chương trình đã đề ra.<br />
Năm là, việc gia nhập TPP với các cam kết cao đòi hỏi phải tiếp tục đẩy<br />
mạnh cải cách thể chế sẽ có tác động tích cực đối với việc tiếp tục hoàn thiện<br />
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngoài ra,<br />
một khi gia nhập TPP với các điều kiện, cam kết có lộ trình, Việt Nam cũng<br />
được các nước thành viên công nhận nền kinh tế thị trường, trên cơ sở đó có thể<br />
giảm thiểu được những rủi ro do bị điều tra hoặc áp đặt thuế chống phá giá, ít<br />
nhất là trong nội khối TPP.<br />
Mục tiêu lớn nhất khi tham gia TPP là tăng cường lợi thế xuất khẩu sang<br />
các nước TPP thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm thuế cho hàng hóa<br />
Việt Nam. Tuy nhiên, điều này chỉ đạt được nếu hàng hóa của Việt Nam đáp<br />
ứng đầy đủ các yêu cầu cao và phức tạp về quy tắc xuất xứ, bắt buộc phải có<br />
nguyên liệu hoặc giá trị chủ yếu từ các nước thành viên.<br />
Nhận diện thách thức và rào cản<br />
Bên cạnh những cơ hội và kỳ vọng nêu trên, những thách thức cần được nhận<br />
diện rõ hơn trên mọi lĩnh vực, đó là:<br />
Thứ nhất, đối với sản xuất trong nước: Các ngành sản xuất và hàng hoá<br />
của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh bình đẳng với các nước trong khối khi thuế<br />
nhập khẩu giảm về 0%; Thị trường dịch vụ, đầu tư phải mở cửa, mua sắm chính<br />
phủ sẽ phải tuân theo khuôn khổ TPP. Sức ép liên quan đến giảm thuế nhập<br />
khẩu hàng hoá về mức thuế 0% sẽ chủ yếu đến từ các nước mà Việt Nam chưa<br />
có các Hiệp định FTA, bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Mexico và Peru.<br />
Những ngành sản xuất của Việt Nam dự kiến sẽ không được hưởng lợi và<br />
gặp nhiều khó khăn là ô tô, xe máy. Tiếp đến là các mặt hàng nông sản như thịt<br />
lợn, thịt bò, đường. Liên quan đến mở cửa thị trường dịch vụ và đầu tư, sức ép<br />
cạnh tranh đến từ các ngành chính là ngân hàng, thương mại bán lẻ. Bảo hiểm<br />
và viễn thông cũng sẽ bị tác động nhưng không rõ nét vì Việt Nam đã mở cửa<br />
trong cam kết WTO.<br />
Về mua sắm chính phủ trong khuôn khổ TPP, tác động của việc mở cửa<br />
thị trường tuy ảnh hưởng nhưng ở mức chấp nhận được. Xét về tổng thể, cộng<br />
đồng DN Việt sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn với các<br />
DN nước ngoài.<br />
Thứ hai, đối với nông nghiệp và nông thôn: Đối với thị trường trong<br />
nước, việc chấp nhận phải mở cửa, loại bỏ 100% dòng thuế nhập khẩu đối với<br />
nông sản, trong khi rào cản kỹ thuật chưa hoàn chỉnh hoặc không cao, dẫn đến<br />
sự gia tăng nhanh chóng mă ̣t hàng nhập khẩu từ các nước TPP vào Việt Nam<br />
với giá cả cạnh tranh. Khi đó, DN trong nước sẽ phải đố i mă ̣t với sự cạnh tranh<br />
gay gắt, thị phần hàng nông sản nô ̣i điạ sẽ bị thu hẹp, thậm chí có nguy cơ mất<br />
thị phần, thua ngay trên sân nhà.<br />
Thứ ba, đối với xuất khẩu nông sản: Là đất nước sản xuất nông nghiệp,<br />
Việt Nam có nhu cầu cao trong việc yêu cầu các đối tác mở cửa thị trường cho<br />
nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, khó khăn thực tế là các nước tham gia đàm phán<br />
TPP đều có xu hướng đàm phán hạn chế hoặc giữ bảo hộ với nông sản. Rào cản<br />
kỹ thuật của các nước sẽ khắt khe hơn, trong khi năng lực cạnh tranh của Việt<br />
Nam còn yếu, khó tận dụng lợi ích từ việc giảm thuế quan, cho dù thuế suất<br />
nhập khẩu nông sản vào các nước đó là 0%. Thực tế cũng đã cho thấy, hàng<br />
nông sản xuất khẩu của Việt Nam đã bị cản trở bởi hàng rào kỹ thuật thương<br />
mại và các biện pháp vệ sinh dịch tễ về kiểm dịch thực vật, kiểm tra dư lượng<br />
kháng sinh, hoá chất trong thực phẩm, thuỷ sản… Với các tiêu chuẩn khắt khe<br />
hơn, các nước TPP vẫn có thể ngăn chặn khả năng xuất khẩu nông sản của Việt<br />
Nam, thậm chí còn nhiều rủi ro hơn so với hàng rào thuế quan.<br />
Thứ tư, đối với ngân sách nhà nước từ cắt giảm thuế nhập khẩu: Việc<br />
giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn tới giảm thu ngân sách đối với hàng hoá nhập khẩu<br />
nhưng không lớn so với thách thức đối với các ngành sản xuất, bởi:<br />
- Một là, phần lớn các mặt hàng trong đàm phán là những mặt hàng Việt<br />
Nam đã thực hiện cam kết theo khuôn khổ 8 Hiệp định hương mại tự do song<br />
phương và đa phương ở các mức độ khác nhau như: ASEAN (AFTA), ASEAN<br />
và các nước (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc - Niuzilân, Ấn Độ), Hiệp<br />
định kinh tế toàn diện Việt Nam – Nhật Bản, Khu vực tự do Việt Nam – Chilê.<br />
Ngoài ra, một số hiệp định song phương và đa phương quan trọng khác cũng<br />
đang được triển khai đàm phán, trong đó có nội dung cam kết cắt giảm thuế<br />
quan.<br />
- Hai là, trong hầu hết các Hiệp định thương mại mà Việt Nam đã ký kết<br />
và đang thực hiện, mức độ tự do hoá khá cao, khoảng trên 85% số dòng thuế và<br />
hiện nay nhiều Hiệp định đã vào giai đoạn cắt giảm. Riêng hiệp định thương<br />
mại tự do ASEAN, vào năm 2015 có khoảng 93% số dòng thuế nhập khẩu ở<br />
mức thuế suất 0% và 7% số dòng thuế còn lại sẽ chuyển về mức 0% vào ngày<br />
01/01/2018. Như vậy, cho dù cam kết mục tiêu dỡ bỏ 100% số dòng thuế trong<br />
TPP thì cũng không tác động đáng kể làm giảm thu NSNN từ thuế nhập khẩu.<br />
- Ba là, với việc cắt giảm thuế nhập khẩu, mở cửa thị trường nội khối<br />
TPP thì hàng hoá nhập khẩu từ các nước đối tác chắc chắn có tăng lên và do đó,<br />
số thu từ thuế giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu đương nhiên cũng tăng<br />
theo, thậm chí còn tăng nhiều hơn cả số hụt thu do cắt giảm thuế nhập khẩu.<br />
Thứ năm, đối với cải cách doanh nghiệp: Có thể nói nền kinh tế Việt<br />
Nam, đặc biệt là khu vực DN đang ở thời kỳ khó khăn nhất, mặc dù đang có dấu<br />
hiệu chuyển biến tích cực trong những tháng gần đây. Sự suy kiệt của cộng<br />
đồng DN nói chung cùng với những món công nợ lớn tồn đọng lâu ngày, các<br />
món đầu tư ngoài ngành cũng như năng lực và thực tiễn quản trị thiếu hiệu quả<br />
của khối DNNN là một thách thức lớn đối với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản<br />
xuất và đầu tư để đón cơ hội xuất khẩu vào thị trường TPP. Các cuộc đàm phán<br />
với các nước đối tác đã và đang đặt ra không ít vấn đề xung quanh lĩnh vực cải<br />
cách DNNN và yêu cầu tăng tỷ trọng nắm giữ phần vốn của nhà đầu tư nước<br />
ngoài trong các DN ở những lĩnh vực quan trọng hoặc có nhiều lợi thế trong<br />
cạnh tranh.<br />
Thực tế hiện nay, ở Việt Nam là nhiều DN và phần lớn người dân chưa<br />
quen việc tuân thủ các quy định của pháp luật và bị ảnh hưởng bởi sức ỳ của<br />
nền kinh tế. Sau gần 30 năm đổi mới, tuy làm thay đổi hành vi kinh doanh của<br />
đại bộ phận doanh nghiệp trong nền kinh tế nhưng không ít DNNN vẫn dựa vào<br />
các nguồn lực sẵn và dựa nhiều vào cơ quan chủ quản để có được những cơ chế<br />
riêng. Các món nợ xấu khá lớn với sự thiếu hụt tài sản thế chấp hoặc tài sản thế<br />
chấp “tồn kho” đang được định giá cao hơn giá trị thực chính là khó khăn lớn<br />
nhất trong tái cơ cấu DNNN. Tất cả vấn đề này đang là thách thức lớn đối với<br />
khối DNNN hiện nay khi Việt Nam chính thức tham gia vào TPP.<br />
Thứ sáu, trong thực thi cam kết về quyền sở hữu trí tuệ: Cam kết này sẽ<br />
lớn hơn rất nhiều so với khi Việt Nam gia nhập WTO. Việc áp dụng tiêu chuẩn<br />
mới trong TPP sẽ tạo ra những rào cản kỹ thuật, kể cả xuất xứ nguyên liệu nội<br />
khối, tiêu chuẩn về lao động và môi trường, quyền lợi của nhà đầu tư… Trong<br />
khi đó, các quy định chặt chẽ về sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ trong Hiệp<br />
định TPP đề cập đến tất cả nội dung như: Từ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền<br />
tác giả, bằng sáng chế, bí mật kinh doanh đến việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ,<br />
nguồn gien và tri thức truyền thống… Như vậy, các yêu cầu chặt chẽ về sở hữu<br />
trí tuệ sẽ là thách thức lớn đối với Việt Nam. Bởi, Việt Nam đang được xem là<br />
một trong những quốc gia vi phạm bản quyền cao (Năm 2003, Việt Nam đứng<br />
thứ nhất trên thế giới về vi phạm bản quyền với tỷ lệ vi phạm bản quyền là 93%.<br />
Năm 2011 tỷ lệ vi phạm bản quyền của Việt Nam tuy đã giảm xuống nhưng vẫn<br />
ở mức cao với 81%, đứng hạng 22 trên thế giới).<br />
Thứ bảy, đối với đầu tư và để tuột lợi ích cho “hàng xóm”: Quy tắc xuất<br />
xứ hàng hóa trong TPP được hiểu là: Các sản phẩm xuất khẩu từ một thành viên<br />
của TPP sang các thành viên khác đều phải có xuất xứ "nội khối". Những ngành<br />
nào, sản phẩm nào, sử dụng các nguyên liệu nhập khẩu từ các nước thứ ba,<br />
ngoài thành viên TPP đều không được hưởng các ưu đãi thuế suất 0%. Với quy<br />
tắc xuất xứ hàng hóa trong các Hiệp định thương mại tự do khác, chúng ta chỉ<br />
phải đáp ứng quy tắc chuyển đổi mã số hàng hóa. Ví dụ, để sản xuất được mũ<br />
giày thì chúng ta được phép nhập khẩu từ bên ngoài khu vực mậu dịch tự do tất<br />
cả các nguyên phụ liệu mà không trùng với mã HS của mũ giày đó. Tuy nhiên,<br />
trong khuôn khổ hiệp định TPP lại quy định về hàm lượng giá trị khu vực, theo<br />
đó một sản phẩm phải đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 55% tổng giá trị trở lên và chỉ<br />
được phép sử dụng tối đa 45% nguyên vật liệu từ các nước ngoài khối.<br />
Như vậy, với quy tắc xuất xứ nội khối như trên thì các DN Việt Nam<br />
muốn hưởng các ưu đãi trong TPP chỉ có thể chọn 2 hướng đi:<br />
Một là, các ngành gia công chế biến như dệt may, da giày, điện tử, gỗ...<br />
hiện nay đang nhập khẩu nguyên liệu từ các nước thứ 3 ngoài TPP cần được rà<br />
soát lại, để tăng cường sử dụng các nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu các<br />
nguyên liệu của các nước trong TPP.<br />
Hai là, các ngành sản xuất hiện nay ở trong nước cần phải nâng cao năng<br />
lực cạnh tranh với các hàng hóa nhập khẩu từ các nước TPP với thuế suất 0%.<br />
Mục tiêu lớn nhất khi tham gia TPP là tăng cường lợi thế xuất khẩu sang các<br />
nước TPP thông qua việc các nước này miễn hoặc giảm thuế cho hàng hóa Việt<br />
Nam. Tuy nhiên, điều này chỉ đạt được nếu hàng hóa của Việt Nam đáp ứng đầy<br />
đủ các yêu cầu cao và phức tạp về quy tắc xuất xứ, bắt buộc phải có nguyên liệu<br />
hoặc giá trị chủ yếu từ các nước thành viên. Trong khi đó, việc sản xuấ t hàng<br />
hóa xuất khẩu hiện nay la ̣i đang phu ̣ thuô ̣c rất lớn vào nguyên liệu nhập khẩu từ<br />
các nước ngoài TPP (như Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước ASEAN).<br />
Mặc dù TPP còn đang đàm phán, nhiều DN FDI đã mạnh tay rót vốn vào những<br />
lĩnh vực Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để đón đầu cơ hội, trong khi hầu hết<br />
DN Việt Nam còn mơ hồ về TPP. Bên cạnh đó, cũng đã có những DN nội<br />
nhanh tay tranh thủ đầu tư xây dựng các nhà máy sợi nhưng với thiết bị, công<br />
nghệ nhập khẩu từ Trung Quốc và cả bông để kéo sợi sau này… Nếu như không<br />
kiểm soát được giá cả, luồng vốn cũng như các yếu tố quản lý khác, không<br />
ngoại trừ việc DN để tuột khỏi tay mình hay “hiến tặng” cho nước khác lợi ích<br />
từ TPP mà cả đất nước đang cố gắng đàm phán.<br />
Ths : Lê Thị Hải Đường<br />
Khoa Tài Chính Ngân hàng<br />