intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xảo thuật che giấu nợ xấu của các ngân hàng

Chia sẻ: Uchiha Kin | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:6

64
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu Xảo thuật che giấu nợ xấu của các ngân hàng giới thiệu tới các bạn những nội dung về xảo thuật kế toán trong xử lý nợ xấu; xảo thuật kế toán trong cho vay vượt trần lãi suất; xảo thuật kế toán trong kinh doanh ngoại hối.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xảo thuật che giấu nợ xấu của các ngân hàng

  1. CÁC XẢO THUẬT TRONG XỬ LÝ NỢ XẤU NGÂN HÀNG 1. Xảo thuật kế toán trong xử lý nợ xấu. a. “Thủ thuật” hạch toán và đánh giá nợ Trong những năm trước, để có thể đẩy mạnh được hoạt động tăng trưởng  tín dụng và lách các quy định của NHNN, nhiều ngân hàng thương mại đã đẩy  mạnh hoạt động cho vay nhưng lại không hạch toán vào mục Cho vay với khách  hàng.    Thay vào đó, nhiều khoản mục khác trên bảng cân đối kế toán lại “phình to  ra” do các ngân hàng thương mại (NHTM) có thể đã lách các hoạt động cho vay vào  các khoản mục này như mục Các tài sản có khác (trong đó có khoản phải thu, tài  sản có khác), Chứng khoán đầu tư (trong đó có chứng khoán nợ do các tổ chức kinh  tế phát hành), Uỷ thác đầu tư… Nhiều tài sản trong nhóm này có tính chất tương tự  như tín dụng nhưng không được các NHTM trích dự phòng hay phân loại nhóm nợ  do không có quy định cụ thể. Điều này đã làm giảm bớt các khoản nợ quá hạn và  nợ xấu của các NHTM do các NHTM chỉ thực hiện phân loại nợ với các khoản cho  vay trên mục Cho vay khách hàng. Ngoài ra, để không phải điều chỉnh nhóm nợ với các khoản cho vay, nhiều  NHTM có thể đã chuyển từ việc cho vay sang mua trái phiếu do các tổ chức kinh tế  phát hành. Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Hoàng Anh Gia Lai (HAG) đã phát hành  thành công 850 tỉ đồng trái phiếu vào ngày 17.8.2012. Số trái phiếu phát hành lần  này để cơ cấu lại các khoản nợ ở các ngân hàng. Trong thương vụ này, BIDV và  công ty chứng khoán BIDV thu xếp phát hành, còn đối tượng mua là các NHTM nơi  HAG có các khoản nợ. Ví dụ sai phạm của ACB về 464,7 tỷ đồng cho vay một tổng công ty nhà  nước cùng với 500 tỷ đồng trái phiếu phát hành bởi tổng công ty này và gần 136 tỷ  đồng lãi trái phiếu phải thu được phân loại là nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) mà không  chuyển sang nhóm nợ có chất lượng thấp hơn theo tinh thần chỉ đạo của Thủ  tướng trong Quyết định phê duyệt Đề án cơ cấu tổng công ty này giai đoạn 2012 –  2015.  ACB cho biết, số tiền 464,7 tỷ đồng đã được gia hạn. Khoản vay này được  sử dụng với mục đích mua, đóng tàu biển. b. Ủ nợ xấu bằng công ty quản lý nợ và khai thác tài sản ­ AMC
  2. Mặc dù pháp luật không cho phép mua bán nợ giữa ngân hàng với các công ty  con trực thuộc thế nhưng để giảm tỷ lệ nợ xấu thì hiện nay các ngân hàng vẫn có  thể lách luật dưới hình thức: công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) trực  thuộc ngân hàng sẽ nhận uỷ thác thu hồi nợ thay cho ngân hàng dưới hình thức hợp  đồng uỷ thác, nhưng sau đó công ty AMC này sẽ thực hiện trả nợ thay cho khách  hàng rồi sau đó tiến hành thủ tục thu hồi nợ theo uỷ thác sau (một biến tướng của  việc mua bán nợ giữa ngân hàng và công ty con). Nhưng đồng thời việc hạch toán  này khách hàng sẽ không biết và vì thế khách hàng vẫn phải tiếp tục thực hiện  nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng.   Về mặt nghiệp vụ hạch toán, phía ngân hàng nhận được tiền trả của AMC  và hạch toán bù trừ vào khoản dự thu, trong khi AMC thì chi số tiền này ở khoản  mục tạm ứng cho việc thực hiện hợp đồng uỷ thác và treo vào khoản phải thu. Như  vậy, trong nhất thời thì ngân hàng có thể thoát khỏi khoản nợ xấu này, còn AMC thì  có một hợp đồng uỷ thác đang thực hiện với một khoản tạm ứng tương ứng với giá  trị uỷ thác của ngân hàng mẹ. c. Sở hữu chéo. Thủ thuật kế toán nằm ở chỗ, ngân hàng này đã chuyển nợ xấu sang các  ngân hàng khác, các công ty khác có cổ phần chi phối, sau đó hạch toán các khoản  này thành các khoản phải thu trên báo cáo tài chính của mình. Như vậy, các khoản  phải thu đó nhẽ ra là nợ xấu nhưng lại xuất hiện dưới dạng các tài sản khác. “Về  mặt kế toán là hoàn toàn có thể làm được, không có gì là vi phạm nhưng làm được  điều này là nhờ vào cơ cấu sở hữu. Nói cách khác, sở hữu chéo giúp vô hiệu hoá các  quy định an toàn”  Ngoài ra, sở hữu chéo cũng vô hiệu hoá các quy định về vốn pháp định của các  NHTM thông qua tăng vốn ảo; khiến đánh giá không đúng tài sản “có” rủi ro, từ đó  làm tăng hệ số đủ vốn CAR không thực chất; vô hiệu hoá quy định về giới hạn tín  dụng thông qua cho vay người liên quan; vô hiệu hoá về giới hạn đầu tư, góp vốn  thông qua đầu tư chứng khoán. 2. Xảo thuật kế toán trong cho vay vượt trần lãi suất Theo đúng quy định thì NH chỉ được trả lãi cho khách hàng ở mức lãi suất trần  theo quy định của NHNN. Nếu trả lãi cao hơn thì sai quy định, không được chấp  nhận. Do đó, khi NH hứa hẹn lãi 16%­17% thì trên hợp đồng chỉ ghi 12% theo đúng 
  3. quy định. Khách hàng được nhận thêm khoản tiền khác tương ứng với 4%­5%.Làm  cách nào để ra 4%­5%.  a.  Tự phạt Nếu trả thêm cho khách hàng các khoản tiền khác ngoài lãi suất thì NH phải có lý  do hợp lý mới được chấp nhận, mới được đưa vào chi phí hợp lý. Lấy lý do gì?. Chi  phí khuyến mãi, quảng cáo… phải tuân thủ đúng mức khống chế nên NH không thể  tùy tiện mà vung tiền khuyến mãi.   Dùng thủ thuật “tự phạt mình”. Cụ thể, NH tự lùi thời hạn trả lãi cho khách,  xem như NH vi phạm nghĩa vụ trả lãi và bị phạt vì chậm trả lãi. Theo đó, NH bù  cho khách phần tiền phạt này tương ứng với lãi suất vượt. Xét về mặt sổ sách, chứng từ thì chuyện bị phạt là chuyện hợp pháp! Vì vậy mà các  NH không bị xem là vi phạm, dù tổng các khoản tiền trả cho khách đã cao hơn mức  lãi trần. b.  KH vừa vay vừa gởi tiết kiệm.  Họ dùng thủ thuật vừa vay vừa gửi tiết kiệm, hoặc ký quỹ lại. Ví dụ, khách  hàng có nhu cầu vay 1000 tỉ đồng, lãi suất trần là 15%/năm. Thế nhưng một khi NH  đã huy động tiền gửi vào với lãi suất cao thì không thể cho vay với lãi suất thấp  hơn được. Thế nên NH sẽ cho vay ở mức 18%/năm, nôm na vay 1000 tỉ đồng phải  trả lãi 180 tỉ đồng. NH không thể ghi trên hợp đồng là 18% được. Do đó, NH làm hợp đồng cho  khách vay 1500 tỉ đồng, ghi lãi suất 15%/năm. Nghĩa là khách phải trả lãi là 225 tỉ  đồng (150 tỉ đồng x 15%). Kế đến, NH làm thủ thuật cho khách hàng gửi tiết kiệm  lại 500 tỉ đồng với lãi suất 9%/năm. Tiền lãi tiết kiệm là 45 tỉ đồng. Lấy 45 tỉ đồng  này trả nợ cho phần 225 tỉ đồng lãi vay. Như vậy, khách hàng thực nhận tiền vay 1000 tỉ đồng và thực trả lãi là 18 tỉ đồng  (225 tỉ­45 tỉ). Sẽ rất mâu thuẫn khi một người vừa gửi tiết kiệm lấy lãi thấp, lại vừa đi  vay trả lãi cao. Ai cũng thấy bất thường cả nhưng không có quy định nào cấm một người vừa gửi  tiết kiệm mà lại vừa đi vay. Thế nên hiện tượng này tồn tại. Giả sử chúng ta đặt quy định cấm thì sao? Người ta sẽ tìm một ông A, bà B, ông  chú, đứa cháu… nào đó rồi cho đứng tên trên hợp đồng gửi tiết kiệm thì cũng vậy  thôi! c.  Đỡ đầu chạy hạng
  4. NH thích cho nhau vay chứ không cho DN vay.Trở lại thời điểm 5­6 năm  trước, có những hồ sơ vay mà trong đó, tài sản thế chấp đã được nâng giá lên hàng  chục lần, sau đó được cho vay thế chấp. Cho ai vay? Là cho chính những công ty  con, nhóm công ty gia đình của những ông chủ NH đó vay. Họ vay làm gì? Để đổ tiền vào bất động sản. Thế nhưng rủi thay bất động sản hai  năm nay bị đình trệ. Vì vậy đến hạn trả tiền NH mà bên vay không có tiền để trả.  Khi NH không được người vay trả tiền thì cũng không có tiền để trả cho người dân  từng gửi tiền. Cái này gọi là thanh khoản kém. Nếu thanh khoản kém, NH đó có thể bị xếp vào nhóm 4 (là nhóm phải bị sáp  nhập), sẽ bị NHNN đưa vào diện kiểm soát đặc biệt. Ai cũng biết bị kiểm soát thì rất khó làm ăn! Thế nên NH phải tìm cách “chạy” xếp  hạng. NH sẽ đi vay trên thị trường liên NH để có tiền trả cho khách đúng hạn. Món  nợ vay liên NH chưa đến kỳ hạn phải trả. Nhờ đó, NH không bị xếp vào diện phải  kiểm soát đặc biệt nữa. Thế nhưng đâu phải dễ vay trên thị trường liên NH, muốn vay được thì phải có “đỡ  đầu”. Cách mà các NH hiện dùng là tìm một NH lớn, có uy tín, đứng ra đỡ đầu cho  khoản vay. Thực tế, có NH thực chất là ở nhóm 4 nhưng đã “chạy” và được xếp vào nhóm  2 (nhóm được tiếp tục tăng trưởng tín dụng). Điều này sẽ tạo ra nguy cơ tiềm ẩn  rất xấu cho nền kinh tế.Tại sao NH lớn lại muốn “đỡ đầu” cho NH kia, nếu NH kia  cứ yếu kém thì sẽ khiến NH lớn bị “lây nợ”Họ cũng có những lợi ích riêng.. Thế  nhưng con diều hâu không biết có một anh thợ săn trong bụi rậm đang rình mình. 3. Xảo thuật kế toán trong kinh doanh ngoại hối Hợp thức hóa lách lãi suất Nhiều NHTM vẫn cho doanh nghiệp mua USD vượt trần và tỷ lệ vượt trần   được tính vào các loại phí khác nhau. Như vậy dù các NHTM báo cáo lỗ trong kinh  doanh ngoại hối nhưng chỉ là lỗ  kỹ  thuật tính theo tỷ  giá do NHNN quy định. Còn   thực tế hoạt động này đang là kênh kiếm lợi của các NHTM. Một lãnh đạo NH tiết lộ, 9 tháng năm 2011 chi phí huy động vốn thực tế của  các NHTM trong khoảng 17­19%/năm, thậm chí có NHTM lên đến 20%/năm. Nhưng từ  cuối quý III năm 2100 khi NHNN siết trần lãi suất huy động và  “soi kỹ” các khoản hạch toán ngoại bảng lẫn ủy thác đầu tư trong báo cáo tài chính   của các NHTM. Do vậy, các NHTM đã hạch toán chi phí huy động lãi suất vượt  
  5. trần qua mảng kinh doanh ngoại hối và vàng, dẫn đến hoạt động kinh doanh  ở  2  mảng này bị lỗ. Đặc biệt, gần đây một số  NHTM bắt đầu lách trần lãi suất huy động bằng  việc mua hợp đồng vàng có kỳ hạn với khách hàng. Về lý thuyết khi mua hợp đồng  kỳ hạn vàng với giá cao hơn giá hiện hữu, NHTM sẽ phải chấp nhận một khoản lỗ  trong kinh doanh mua bán vàng. Và như  vậy việc lách trần lãi suất đã được hợp   thức hóa. 4. Xảo thuật kế toán trong kinh doanh liên ngân hàng. a. Xảo thuật trong cho vay liên ngân hàng Do NHNN hạn chế  cho vay tín dụng liên ngân hàng để  tránh tình trạng nguồn vốn   được bơm ra chạy lòng vòng giữa ngân hàng khiến nguồn vốn không chảy vào nền kinh  tế, các ngân hàng đã dùng những xảo thuật để  kiếm lời hoặc giải quyết vấn đề  thanh   khoản như sau; ­ Không hạch toán khoản tiền cho vay lẫn nhau vào khoản mục “ cho vay các TCTD  khác”. Ví dụ như tại ngân hàng ACB khoản tiền này được hạch toán vào mục “tiền gửi có  kì hạn tại các TCTD khác” ­ Ủy thác cho nhân viên gửi tiền vào các tổ chức tín dụng. Điển hình là sai phạm của   ACB: Tại báo cáo tài chính bán niên có soát xét của ACB, kiểm toán lưu ý ACB về  khoản tiền 718,9 tỷ đồng tiền gửi có kỳ hạn mà ngân hàng đã ủy thác cho nhân viên   gửi tại một ngân hàng thương mại cổ phần và 36,5 tỷ đồng các khoản lãi phải thu   liên quan đã bị quá hạn. Về vấn đề này, ACB cho biết đã ủy thác cho nhân viên gửi tại một ngân hàng và 36,5   tỷ đồng tiền lãi phải thu quá hạn. Đây là khoản tiền mà ngân hàng đã ủy thác cho 19 nhân  viên của ACB thực hiện việc gửi tiền có kỳ hạn tại Ngân hàng TMCP Công Thương Việt  Nam.  b. Xảo thuật với hệ số an toàn vốn Không chỉ là nơi ăn đong thanh khoản của các NH yếu kém, thị trường LNH còn là nơi  các NH sử dụng để biến báo hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR). Tại thông tư 13 được  NHNN ban hành ngày 20/05/2010, CAR của các ngân hàng được nâng từ 8% lên 9%. Công  thức tính CAR = [(Vốn cấp I + vốn cấp II) / (tài sản đã điều chỉnh rủi ro)] * 100%. Để tăng CAR thì có nhiều cách, hoặc tăng tử số hoặc giảm mẫu số trong công thức  hoặc điều chỉnh cả tử số và mẫu số. Cách dễ dàng mà các NH sử dụng là tăng cả tử và  mẫu số thêm cùng 1 lượng thì giá trị phân số sẽ tăng lên.
  6. Ví dụ một ngân hàng A để tăng vốn tự có cấp II sẽ làm hợp đồng vay 20 ngàn tỉ  đồng  thời hạn 10 năm trên liên ngân hàng đối với ngân hàng B. Sau đó ngân hàng B cũng thực  hiện hợp đồng tương tự với ngân hàng A với ngày khác so với hợp đồng ban đầu. Như vậy, với thủ thuật cho vay chéo, không vi phạm quy định của NHNN tại bảng cân  đối của cả 2 NH tài sản có và tài sản nợ đều tăng 20 ngàn tỉ đồng. Với thời hạn hợp đồng  vay là 10 năm thì rủi ro hiện tại là bằng 0. Theo cách tính hệ số an toàn vốn tối thiểu chắc  chắn cả 2 NH đều tăng. Tuy nhiên sau ngày 01/09/2012 khi thông tư 21 chính thức có hiệu lực thì thủ thuật này  sẽ khó thực hiện hơn khi mà Điều 10 của thông tư quy định thời gian tối đa cho vay LNH  dưới 1 năm.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0