Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội ở trường Đại học Lao động – Xã hội (cơ sở II)
lượt xem 5
download
Bài viết đi sâu phân tích và đưa ra một vài nhận xét để chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng mạng lưới thực hành, thực tập cho các trường đào tạo ngành công tác hướng tới chuyên nghiệp phù hợp với xu thế phát triển xã hội.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội ở trường Đại học Lao động – Xã hội (cơ sở II)
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0051 Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 214-222 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn XÂY DỰNG MẠNG LƯỚI CƠ SỞ THỰC HÀNH, THỰC TẬP HƯỚNG TỚI CHUYÊN NGHIỆP HÓA NGHỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI (CƠ SỞ II) Phạm Thanh Hải và Vũ Thị Lụa Trường Đại học Lao động – Xã hội (Cơ sở II), Thành phố Hồ Chí Minh Tóm tắt. Việc xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập có vai trò rất quan trọng, là cầu nối để sinh viên áp dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn. Đây là một phần không thể thiếu trong đào tạo công tác xã hội. Thực tế hiện nay có rất nhiều trường đào tạo công tác xã hội thiếu mạng lưới các cơ sở để đưa sinh viên đến thực hành, thực tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng đội ngũ nhân viên công tác xã hội sau này. Trên cơ sở đó, bài viết đi sâu phân tích và đưa ra một vài nhận xét để chia sẻ kinh nghiệm trong việc xây dựng mạng lưới thực hành, thực tập cho các trường đào tạo ngành công tác hướng tới chuyên nghiệp phù hợp với xu thế phát triển xã hội. Từ khóa: Thực hành, mạng lưới cơ sở thực hành. 1. Mở đầu Trong những năm gần đây, các hoạt động nhằm phát triển nghề công tác xã hội (CTXH) theo hướng chuyên nghiệp hóa được chú ý đẩy mạnh. Trong đó, hoạt động đào tạo đang được ưu tiên đầu tư. Vấn đề đào tạo đội ngũ nhân viên xã hội có kiến thức, thái độ và kĩ năng thực hành chuyên nghiệp là một nhu cầu cấp bách. Để đáp ứng được nhu cầu này rất cần sự hỗ trợ, hợp tác của các cơ sở xã hội với nhà trường trong suốt quá trình đào tạo. Cơ sở xã hội là nơi thuận lợi để cho sinh viên áp dụng được những khối kiến thức đã học vào từng đối tượng cụ thể. Khi đi thực hành, thực tập (THTT) sinh viên được học từ các nhân viên xã hội những điều cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp sau này. Việc xây dựng mạng lưới cơ sở THTT cho sinh viên được xem là rất quan trọng trong đào tạo CTXH, và thực tế hoạt động đào tạo thực hành CTXH vẫn còn hạn chế, do phần lớn các trường chưa xây dựng được mạng lưới các cơ sở phục vụ đào tạo ngành CTXH. Chính vì vậy việc nghiên cứu “Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội ở trường Đại học Lao động – Xã hội (CS II)” là một công việc hết sức thiết thực. Việc nghiên cứu này sẽ giúp cho các trường đào tạo sinh viên ngành CTXH xác định được nhu cầu, khả năng và có cơ sở xây dựng được mạng lưới tiếp nhận sinh viên đến THTT của các cơ sở xã hội trong tương lai. Ngày nhận bài: 1/1/2016. Ngày nhận đăng: 5/5/2016 Liên hệ: Phạm Thanh Hải, e-mail: haipham1009@gmail.com 214
- Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội... Trong bài viết này, chúng tôi tập trung trình bày kết quả về thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng mạng lưới thực hành, thực tập nghề công tác xã hội ở các cơ sở xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khách thể và phương pháp nghiên cứu Bài viết này dựa trên một số kết quả nghiên cứu được trích ra từ đề tài: “Đánh giá về nhu cầu nhận sinh viên ngành công tác xã hội thực tập tại các cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”. Cuộc nghiên cứu được tiến hành ở 40 cơ sở xã hội trong số 80 cơ sở hiện đang tiếp nhận sinh viên đến thực hành, thực tập. Về khách thể bao gồm: 15 giảng viên từ các trường đào tạo CTXH ở thành phố Hồ Chí Minh (Đại học Lao động – Xã hội (CSII), Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Mở, Đại học Tôn Đức Thắng, Đại học Văn Hiến), 15 kiểm huấn viên tại các cơ sở xã hội, là những người được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm huấn viên và đã từng hướng dẫn sinh viên THTT, 10 sinh viên đã qua THTT tại các cơ sở xã hội. Đề tài sử dụng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với ba bảng hỏi khác nhau cho cán bộ lãnh đạo, giảng viên và kiểm huấn viên đối với mỗi cơ sở xã hội. Số liệu được xử lí bằng cách lập các bảng chéo giữa hai biến định tính hoặc giữa biến định lượng và định tính để đánh giá nhu cầu nhận sinh viên vào thực hành, thực tập ở các cơ sở. Đồng thời đề tài tiến hành 10 cuộc phỏng vấn sâu và phỏng vấn nhóm sinh viên đã qua thực hành, thực tập tốt nghiệp tại các cơ sở xã hội. Việc sử dụng kết hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để đảm bảo đánh giá được quy mô của vấn đề cũng như chiều sâu của vấn đề. 2.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Vai trò của việc xây dựng mạng lưới thực hành, thực tập đối với sinh viên ngành công tác xã hội Mạng lưới thực hành, thực tập (THTT) có vai trò rất quan trọng, là cầu nối để sinh viên áp dụng kiến thức lí thuyết vào thực tiễn. Đây là một phần không thể thiếu trong các trường đào tạo về CTXH. Trong quá trình THTT tại các cơ sở xã hội là dịp để các Trường nhìn nhận lại sản phẩm đào tạo của mình để thay đổi cho phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Quá trình THTT ở các cơ sở xã hội giúp cho sinh viên có rất nhiều cơ hội để trải nghiệm: “làm việc với người thật, việc thật, tiếp cận được phương pháp làm việc hiệu quả, thái độ, kĩ năng giao tiếp, trình bày trước đám đông, biết lập kế hoạch, lượng giá. . . ”. Như vậy, sinh viên nào xác định được tầm quan trọng của việc THTT sẽ tạo một “tiền đề” vững chắc cho công việc tương lai, và thành công đã đến với rất nhiều bạn. Đây là chia sẻ của bạn Hoàng Nữ Khánh L – Sinh viên lớp B2 – CTXH, hiện nay đang làm ở Trung tâm Y tế Dự Phòng Quận 8. Kết quả kháo sát cho thấy, có 82,7% các cơ sở xã hội nhận sinh viên đánh giá là rất cần thiết. Các ý kiến đều đánh giá tầm quan trọng của quá trình thực tập của sinh viên trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo đã đề ra. Đây là quá trình kết hợp giữa lí luận với thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội; là cơ hội để sinh viên vận dụng các kiến thức học tại trường vào thực tiễn đa dạng với nhiều đối tượng khác nhau biểu hiện tâm sinh lí khác nhau. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm nghiên cứu tiến hành phỏng sâu sinh viên ngành CTXH Lê Công Kh đã ra trường và đang làm việc ở một số cơ sở xã hội cho biết: “Việc xây dựng mạng lưới để sinh viên đến THTT ở các 215
- Phạm Thanh Hải và Vũ Thị Lụa cơ sở xã hội là rất cần thiết đây là cơ hội để sinh viên gắn lí thuyết với thực tiễn, trong quá trình THTT sinh viên được làm việc với người thật, việc thật và để sinh viên tiếp cận dần dần với thực tế, tránh bỡ ngỡ, lúng túng trước khi ra trường”. Bên cạnh đó, việc xây dựng mạng lưới THTT cũng là nơi giúp cho sinh viên bổ sung thêm kiến thức các hiểu biết về nghề nghiệp, đối tượng, các hoạt động chăm sóc trợ giúp cho các đối tượng yếu thế và các đối tượng khác có nhu cầu. . . Việc THTT tại các cơ sở, giúp sinh viên bước đầu sử dụng kiến thức đã được học để giải quyết công việc thực tế. Đồng thời, sinh viên có dịp củng cố kiến thức của mình, kiểm tra kết quả học tập trong nhà trường, kịp thời bổ sung kiến thức và kĩ năng còn thiếu hình thành các kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp. 2.2.2. Thực trạng việc xây dựng mạng lưới thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội ở trường Đại học Lao động – Xã hội (CS II) a. Mạng lưới cơ sở tiếp nhận sinh viên đến thực hành, thực tập Để nâng cao chất lượng đào tạo CTXH hướng tới chuyên nghiệp, trường Đại học Lao động - Xã hội (CSII) đã xây dựng được mạng lưới cơ sở THTT đảm bảo được chất lượng rộng khắp ở Tp.HCM. Đây thực sự là một thế mạnh của trường trong đào tạo ngành CTXH so với nhiều cơ sở đào tạo khác và đem lại những điều kiện thuận lợi góp phần quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên ngành CTXH tại trường, nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới của sự nghiệp giáo dục, đào tạo [2]. Việc xây dựng mạng lưới cơ sở THTT của Trường dựa vào danh sách các cơ sở xã hội hiện có tại Tp.HCM trong những năm qua đã tiếp nhận sinh viên đến THTT từ các trường có đào tạo sinh viên ngành CTXH, các cơ sở này phải đảm bảo được về điều kiện vật chất, đa dạng hóa về đối tượng và có những người đã được bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm huấn viên và đã từng hướng dẫn sinh viên thực tập tại cơ sở của mình. Biểu đồ 1. Cơ sở tiếp nhận sinh viên thực hành, thực tập Kết quả nghiên cứu cho thấy, mạng lưới cơ sở THTT bao phủ hầu hết các quận huyện của Thành phố. Trong đó, số lượng cơ sở xã hội ở Quận 3 chiếm tỉ lệ nhiều nhất 9 cơ sở, quận 1 là 6 cơ sở. . . Đây là một vấn đề rất thuận lợi, vì hầu hết cơ sở xã hội ở trung tâm thành phố nên sinh viên có thể sắp xếp được thời gian để tới thực tập. Mặt khác, một số quận gần trung tâm thành phố 216
- Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội... như: Gò Vấp, Bình Thạnh, Thủ Đức cũng có nhiều cơ sở đóng trên địa bàn. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các trường đào tạo ngành CTXH thiết lập được mạng lưới các cơ sở tiếp nhận sinh viên đến THTT. Ngoài ra, một số cơ sở xã hội ở địa bàn các tỉnh gần Thành phố có nhu cầu nhận sinh viên thực tập như: Long An, Tiền Giang, Đồng Nai, Bình Dương . . . Lĩnh vực hoạt động của các cơ sở xã hội nhận sinh viên đến THTT rất đa dạng và phong phú. Trong đó, lĩnh vực hoạt động tiếp nhận, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em chiếm tỉ lệ nhiều nhất. Chỉ có một số cơ sở xã hội tập trung vào một số đối tượng cụ thể như: Người già, trẻ em, người khuyết tật, người tâm thần, đối tượng yếu thế trong xã hội. Ngoài ra, một số cơ sở khác hoạt động trong lĩnh vực tham vấn, điều trị, truyền thông HIV, trị liệu tâm lí, hỗ trợ, dạy nghề... Bên cạnh đó, Trường cũng chú trọng đến đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm huấn viên tại các cơ sở. Nếu nhà trường đóng vai trò quan trọng trong việc truyền đạt kiến thức lí thuyết thì các cơ sở xã hội được xem như là môi trường thuận lợi để sinh viên áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Do vậy, ngoài việc đảm bảo cơ sở vật chất, lĩnh vực cung cấp các dịch vụ xã hội (DVXH) thì phải có đội ngũ kiểm huấn viên có đủ trình độ, kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm để có thể giúp sinh viên trong quá trình THTT tại cơ sở. Trong những năm qua Trường đã phối hợp với tổ chức Caritas Đức tập huấn kiến thức về kiểm huấn viên cho giảng viên, cán bộ làm việc ở các trung tâm đã từng theo học ngành CTXH tại trường với số lượng khoảng 60 học viên. Hàng năm, nhà trường tổ chức các hội thảo, tập huấn liên quan đến CTXH, nhà trường mời một số các cơ sở xã hội trên đại bàn tham gia. Đây là tiền đề rất quan trọng trong việc xây dựng mạng lưới THTT tại các cơ sở xã hội. Trong tổng số 40 cơ sở khảo sát thì số lượng cán bộ làm công tác quản lí các cơ sở thuộc lĩnh vực CTXH và những ngành gần như Tâm lí học, Xã hội học, Y tế công cộng. . . chiếm tỉ lệ cao 65%. Hầu hết người làm công tác lãnh đạo tại cơ sở đều có kiến thức về chuyên môn nên rất thuận lợi trong quản lí và hướng dẫn THTT cũng như sự quan tâm tiếp nhận sinh viên thực tập ngành CTXH (xem Bảng 1). Khi xem xét về học vị của kiểm huấn viên tại các cơ sở thì trình độ thạc sĩ chiếm tỉ lệ cao 73,3 % và trình độ cử nhân xếp hàng thứ hai 53,3 %; người có học vị tiến sĩ chiếm tỉ lệ thấp (6,7%). Bảng 1. Chuyên môn của các đối tượng khảo sát TT Chuyên môn nghiệp vụ Số lượng (người) Tỉ lệ (%) 1 Kinh tế 3 7.5 2 Công tác Xã hội 9 22.5 3 Y tế công cộng 7 17.5 4 Xã hội học, tâm lí,.. 10 25.0 5 Sư phạm 7 17.5 6 Khác 4 10.0 Tổng cộng 40 100 Do đặc điểm CTXH là một ngành khoa học ứng dụng vì vậy sự kết nối giữa lí thuyết với thực tiễn giúp sinh viên rèn luyện kĩ năng nghề; sự phối hợp giữa nhà trường với các cơ sở xã hội rất cần cần thiết trong suốt quá trình đào tạo đối với sinh viên, đồng thời giúp cho các cơ sở xã hội có thêm nguồn nhân lực trong việc chăm sóc đối tượng làm giảm áp lực công việc cho nhân viên. Điều này có thể chưa giúp ích cho cơ sở xã hội ngay trước mắt nhưng về lâu dài thì có tác động tích cực đối với đội ngũ nhân lực phục vụ cho ngành sau này. Kết quả khảo sát cho thấy, trong số các cơ sở khảo sát thì có 65% cơ sở đã tiếp nhận sinh viên ngành CTXH đến thực tập. Lãnh đạo Nguyễn Thị Ánh Ng – Dự án Cầu vồng cho rằng: “tiếp 217
- Phạm Thanh Hải và Vũ Thị Lụa nhận sinh viên đến thực hành, thực tập là cần thiết vì cơ sở có trách nhiệm xã hội trong việc đào tạo sinh viên CTXH. . . ” [4]. Đây là cơ hội tốt cho các trường đào tạo sinh viên ngành CTXH. Do vậy, nhà trường cần phải thiết lập được mạng lưới các cơ sở xã hội nhận sinh viên đến THTT. Tuy nhiên, vẫn còn 35% các cơ sở chưa tiếp nhận sinh viên đến thực tập. Lí do các cơ sở đưa ra chưa có người đến liên hệ cho sinh viên thực tập, cơ sở còn ít đối tượng... Ngoài ra, một số cơ sở xã hội chưa ý thức được việc nhận sinh viên về thực tập cũng là một trách nhiệm xã hội. Đồng thời có một số cơ sở không tự chủ được trong việc tiếp nhận sinh viên THTT mà phải thông qua cơ quan chủ quản cấp trên. Việc xây dựng được mạng lưới tiếp nhận sinh viên ngành CTXH thực tập tại các cơ sở xã hội là một việc làm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Giúp cho các trường có đào tạo CTXH có một bức tranh tổng thể về các cơ sở xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, các trường xây dựng được mạng lưới các cơ sở để liên hệ cho sinh viên đến thực tập nhằm mang lại hiệu quả cao trong đào tạo CTXH. b. Khả năng tiếp nhận sinh viên THTT của các cơ sở xã hội Qua số liệu khảo sát cho thấy, khả năng tiếp nhận sinh viên THTT tùy thuộc vào quy mô của mỗi cơ sở. Nhìn chung, các các cơ sở tiếp nhận khoảng dưới 5 sinh viên/ đợt chiếm tỉ lệ cao nhất 50%, từ 5 – 10 sinh viên chiếm tỉ lệ 26,9%. Ngược lại số lượng tiếp nhận trên 16 sinh viên chiếm tỉ lệ thấp nhất 7,7%. Điều này thể hiện đúng thực tế vì hiện nay quy mô của các cơ sở không lớn và số lượng đối tượng chăm sóc cũng không nhiều nên khả năng tiếp nhận sinh viên còn hạn chế (xem Biểu đồ 2). Biểu đồ 2. Khả năng tiếp nhận sinh viên thực tập mỗi đợt của mạng lưới Hiện nay ở khu vực phía Nam có rất nhiều trường đào tạo ngành CTXH và lưu lượng sinh viên ngày càng đông. Do vậy, các trường đào tạo sinh viên ngành CTXH phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết gửi trước cho các cơ sở để sắp xếp phù hợp. Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu lãnh đạo Tổ ấm ánh sáng Nam Quận 10 cho biết: “Trong 10 năm qua năm nào cơ sở cũng sẵn sàng tiếp nhận từ 2 – 4 đợt sinh viên các trường xuống THTT. . . Tuy nhiên, nhà trường phải có kế hoạch cụ thể gửi sớm cho cơ sở đến tránh trùng lắp. . . ” [4]. Thực tế là vấn đề thực tập của sinh viên gặp rất nhiều khó khăn vì không phải cơ sở nào cũng sẵn sàng nhận sinh viên đến thực tập. Một số cơ sở gặp rất nhiều khó khăn, không có nhân viên CTXH, áp lực công việc, thiếu một đội ngũ kiểm huấn viên chuyên nghiệp có khả năng hướng 218
- Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội... dẫn sinh viên trong thời gian thực tập. Trong số gần 50 trường đào tạo CTXH chỉ có một số trường như: Đại học Lao động – Xã hội (CS II), Đại học Mở TP.HCM, Đại học KHXH & NV Tp.HCM. . . đã thiết lập được mạng lưới THTT tại các cơ sở và giáo viên hướng dẫn thực tập có chất lượng, tuy nhiên vẫn còn khó khăn về nhiều mặt. Những cơ chế chính sách cho người hướng dẫn thực tập tại các cơ sở chưa được quy định rõ ràng mà hầu hết họ thực hiện với trách nhiệm giúp nhà trường. 2.2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến việc xây dựng mạng lưới thực hành, thực tập nghề công tác xã hội ở trường Đại học Lao động – Xã hội (CS II) a. Cơ sở vật chất CTXH là một khoa học xã hội ứng dụng. Đào tạo thực hành CTXH đòi hỏi cần có những hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao giúp người học có những kiến thức, kĩ năng cơ bản cần thiết theo mục tiêu đào tạo đề ra. Về mặt nội dung, THTT là khối lượng kiến thức bắt buộc được chứa đựng trong hầu hết các nội dung, từ các mảng kiến thức đại cương đến khối kiến thức chuyên ngành của chương trình đào tạo. Thực tế là một số cơ sở nhận sinh viên vào chỉ để giúp cho sinh viên hoàn thành được nhiệm vụ trong quá trình đào tạo. Hiện nay, đã có nhiều cơ sở cởi mở với các chương trình thực tập dành cho sinh viên nhưng mới chỉ giới hạn ở phạm vi có mối quan hệ với nhà trường đã được thiết lập từ trước. Trên thực tế chưa thấy cơ sở nào xây dựng chương trình thực tập dành cho sinh viên tương tự như các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đây là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức cho sinh viên đến thực hành, thực tập. b. Đội ngũ kiểm huấn viên Trong những năm gần đây số lượng các trường cao đẳng, Đại học đào tạo ngành CTXH không ngừng ngừng tăng lên, số lượng sinh viên theo học ngành này theo đó cũng tăng lên nhưng số cán bộ có trình độ chuyên môn về CTXH có thể làm kiểm huấn thì rất ít. Theo số liệu của Bộ Lao động thương binh và Xã hội, trong 35.000 cộng tác viên và nhân viên tham gia hoạt động CTXH trên cả nước, chỉ có 8.5% được đào tạo đúng chuyên ngành, 81.5% không có chuyên ngành phù hợp và 10% chưa được đào tạo [6] hoặc có người làm kiểm huấn viên nhưng lại hạn chế về kiến thức, nghiệp vụ, phương pháp. Vì vậy, họ thường lúng túng trong việc thực hiện nhiệm vụ kiểm huấn của mình. Bên cạnh đó, áp lực công việc nên dẫn đến nhiều kiểm huấn cho qua bằng những nhận xét rất tốt cho sinh viên khi đến các cơ sở THTT. Chính điều này đã và đang làm cho chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được các chuẩn đào ra và sinh viên ra trường gặp khó khăn trong việc thực hiện nghề nghiệp của mình. c. Về sinh viên Về phía sinh viên, hầu hết các bạn đều nhận thức được tầm quan trọng của THTT và sẵn sàng làm việc hết mình để thể hiện năng lực và học tập thêm nhiều kiến thức từ thực tiễn, thiết lập thêm các mối quan hệ và bước đầu làm quen với vai trò là nhân viên trong các cơ sở. Bên cạnh đó, một số bạn thụ động, không tuân thủ theo tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cũng như chưa quen với kỷ luật nội qui, họ thích học hỏi và ham "khám - phá" nên cũng ảnh hưởng nhất định đến các cơ sở khi đến thực tập. Lãnh đạo cơ sở Mái ấm Quận 8 cho biết: “Một số bạn không tuân thủ theo quy định của cơ sở, thích thì xuống không thì thôi, nhiều khi nể quá phải nhận. . . ” Ngoài ra, các nhà lãnh đạo cơ sở vẫn còn ngần ngại nhận sinh viên vào THTT cho biết, trong quá trình THTT một bộ phận sinh viên thiếu sự chủ động chiếm tỉ lệ 52%. Có nhiều bạn sinh viên trong quá trình học còn chưa năng động, cũng một phần là “đi thực tập tại các cơ sở chẳng có việc gì làm, cũng chẳng biết làm gì nữa”. Lãnh đạo cơ sở Dự án phát triển cộng đồng cầu Hàn cho 219
- Phạm Thanh Hải và Vũ Thị Lụa biết: “thường mỗi năm cơ sở tiếp nhận từ 2 – 3 đợt thực tập, tùy theo mỗi đợt có đợt các em làm rất tốt, bên cạnh đó vẫn còn một số em còn thiếu tính chủ động, chưa dám lăn xả vào công việc. . . ” Qua số liệu khảo sát, cho thấy nhiều sinh viên còn tỏ ra lúng túng khi xử lí công việc, rụt rè, thiếu tự tin trong giao tiếp, chưa phát huy được hết khả năng, năng lực và những kĩ năng cần thiết được trang bị ở nhà trường khi làm việc với thân chủ ở cơ sở. Đây là “độ lệch” nhất định từ chương trình đào tạo trong các trường đại học của Việt Nam đối với thực tế phát triển của ngành nghề, thường thì kiến thức trong nhà trường nặng tính lí thuyết và không theo kịp với yêu cầu thực tiễn. Vì thế, các kì THTT càng trở nên cần thiết đối với sinh viên, giúp họ không quá mơ mộng ảo tưởng dẫn đến thất vọng về thực tế khi thực sự tham gia thị trường lao động. 2.2.4. Một số khuyến nghị trong việc xây dựng mạng lưới THTT tại các cơ sở Từ những vấn đề phân tích ở trên, tôi xin đưa ra một số khuyến nghị như sau: - Trong tình hình số lượng sinh viên ngành CTXH ngày càng đông nếu không mở rộng liên kết với các cơ sở thì sẽ gặp khó khăn về địa điểm THTT. Do đó nhà trường phải chủ động liên hệ nhiều cơ sở để mở rộng thêm mạng lưới thực tập trên cơ sở hợp tác hai bên cùng có lợi. Bên cạnh đó, nhà trường cần quan tâm đến các cơ sở trong việc giúp đỡ nâng cao kiến thức, kĩ năng đối với nhân viên, có kinh phí hỗ trợ cho người hướng dẫn trong quá trình thực tập. Thực hiện kết nghĩa đỡ đầu một số đối tượng đặc biệt, động viên thầy, cô, sinh viên tham gia hoạt động tình nguyện thường xuyên đối với cơ sở thiếu nhân viên chăm sóc. - Nhà trường nên tổ chức đánh giá thường xuyên sau mỗi đợt thực tập để lấy ý kiến phản hồi của các cơ sở. Những ý kiến này thường rất thiết thực, giúp nhà trường điều chỉnh được nội dung, phương pháp, quan hệ phối hợp giữa nhà trường với cơ sở. . . phân bổ giữa lí thuyết và thực hành phù hợp để đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu của đào tạo. - Trong chương trình nên xây dựng những chuyên đề tự chọn gắn liền với đối tượng ở một số cơ sở, các chuyên đề này được trình bày từ chính các báo cáo viên mời từ cơ sở xã hội. - Nhà trường cần giáo dục ý thức cho học sinh - sinh viên ngay từ khi mới bước chân vào trường bằng cách mời các cán bộ ở các cơ sở về nói chuyện trực tiếp cũng như tham gia giảng dạy một số chuyên đề giúp sinh viên có một cái nhìn toàn cảnh về nghề nghiệp của mình chứ không phải chỉ trước kì thực tập. - Phải chuẩn bị cho sinh viên tất cả những yêu cầu trước khi đến các cơ sở thực tập: kiến thức, kĩ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp, mục tiêu. . . - Các cơ sở xã hội cần quan tâm việc nhận sinh viên thực tập như là một trách nhiệm xã hội và đặc biệt trách nhiệm cùng tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho ngành CTXH góp phần xoa dịu, can thiệp, hỗ trợ các đối tượng yếu thế trong xã hội. - Để khuyến khích các cơ sở xã hội đồng ý tiếp nhận sinh viên đến thực tập nhà trường cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể như: thù lao, hỗ trợ các cơ sở về kiến thức thông qua các buổi tập huấn chuyên đề ngắn và dài hạn, đào tạo kiểm huấn viên (nếu cơ sở có yêu cầu) cũng như tạo dựng được mối quan hệ thường xuyên với cơ sở. - Nhà trường và các cơ sở xã hội cần cam kết hợp tác, căn cứ vào chương trình đào tạo và thực tế tại cơ sở để có những quy định cụ thể giữa hai bên và có nguồn kinh phí hỗ trợ cũng như ràng buộc trách nhiệm giữa hai bên trong việc phối hợp cho sinh viên THTT đáp ứng được chuẩn đầu ra cho sinh viên ngành CTXH. 220
- Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập hướng tới chuyên nghiệp hóa nghề công tác xã hội... 3. Kết luận Qua phân tích số liệu trên cho thấy, các cơ sở xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đầu ra cho “sản phẩm đào tạo” của nhà trường. Đây là nơi để sinh viên áp dụng kiến thức lí thuyết đã học ở nhà trường vào thực tế đối tượng. Qua đó sinh viên sẽ bổ sung được kiến thức, kĩ năng nghề nghiệp, thái độ. . . để hình thành nên nhân viên CTXH chuyên nghiệp. Mặt khác, sinh viên THTT tốt, kiếm được việc làm sau khi ra trường có nghĩa là chất lượng đào tạo của nhà trường đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động và ngược lại. Việc xây dựng mạng lưới THTT sẽ giúp cho các trường có một cái nhìn toàn cảnh về các cơ sở xã hội trong việc gửi sinh viên ngành công tác đến THTT. Mối quan hệ giữa nhà trường – sinh viên – đơn vị tiếp nhận thực tập sinh không chỉ có sự tác động một chiều. Ngược lại, về phía nhà trường cũng nhận được nhiều lợi ích từ các kì thực tập này. Thông qua việc hướng dẫn, kèm cặp sinh viên THTT, các cơ sở giúp nhà trường trang bị kinh nghiệm thực tiễn một cách tốt nhất cho sinh viên, giúp nâng cao chất lượng đầu ra. Đồng thời, các sở có những góp ý thiết thực về nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy. . . giúp nhà trường điều chỉnh để phù hợp với mục tiêu đề ra. Tự bản thân các trường thường khó lòng nhận ra được sự “vênh” nhau giữa chương trình đào tạo và thực tiễn công việc sinh viên sẽ làm, vì vậy cần sự góp ý của các cơ sở là rất cần thiết. Để từng bước xây dựng mạng lưới THTT phong phú, đa dạng cho sinh viên các trường đào tạo ngành CTXH cần có những nghiên cứu sâu rộng hơn để đánh giá được các cơ sở xã hội, trung tâm. . . có nhu cầu tiếp nhận sinh viên cũng như cung cấp đầy đủ các chương trình, DVXH để đáp ứng các nhu cầu của cá nhân, nhóm, cộng đồng có nguy cơ dễ bị tổn thương. Việc đa dạng hóa mạng lưới THTT không những góp phần làm phong phú thêm sự lựa chọn mà còn giúp cho sinh viên tiếp cận được nhiều đối tượng và nhiều lĩnh vực khác nhau để người học có thể học hỏi vận dụng được khối kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp phù hợp với thực tiễn xã hội. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lê Thị Dung, 2015. Thực trạng công tác thực hành môn học của sinh viên ngành Công tác xã hội trường Đại học Lao động – Xã hội (CSII). Đề tài sinh viên nghiên cứu khoa học, ThS Phạm Thanh Hải hướng dẫn. [2] ThS. Phạm Thanh Hải, 2013. Vai trò của thực hành, thực tập đối với sinh viên ngành công tác xã hội. Tạp chí Kinh tế Lao động xã hội, số 10 năm 2013, Đại học Lao động – Xã hội (CSII). Tạp chí Kinh tế Lao động xã hội, Đại học Lao động – Xã hội (CSII), số 10, tr.21. [3] Võ Xuân Hòa, 2013. Công tác xã hội – Nghề triển vọng ở Việt Nam. www.ifpvnalumni.org > Giáo dục. [4] ThS. Mai Xuân Huấn – ThS. Phạm Thanh Hải, 2010. Đánh giá về nhu cầu nhận sinh viên ngành Công tác xã hội thực tập tại các cơ sở xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, tr.24-32. [5] ThS. Nguyễn Thị Oanh, 2014. Công tác xã hội - Một ngành khoa học, một nghề chuyên môn. Nxb Thanh Niên, Tp. Hồ Chí Minh, tr.15. [6] ThS. Hồ Sỹ Thái, 2015. Đội ngũ Kiểm huấn viên chuyên nghiệp – Yếu tố quan trọng trong đào tạo cử nhân công tác xã hội theo hướng thực hành. Hội thảo khoa học quốc tế "Công tác xã hội Việt Nam thách thức tính chuyên nghiệp trước nhu cầu hội nhập và phát triển", Trường Đại học Công đoàn, tr.202-207. 221
- Phạm Thanh Hải và Vũ Thị Lụa [7] ThS. Lê Trọng Tiến, 2015. Xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập và đội ngũ kiểm huấn viên chuyên nghiệp: Nhiệm vụ quan trọng trong đào tạo thực hành công tác xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hội thảo khoa học quốc tế "Công tác xã hội Việt Nam thách thức tính chuyên nghiệp trước nhu cầu hội nhập và phát triển", Trường Đại học Công đoàn, tr.208-212. [8] ThS. Bùi Đình Tuân, 2015. Xây dựng bộ công cụ đánh giá kết quả thực hành cho sinh viên ngành công tác xã hội ở trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng. Hội thảo khoa học quốc tế "Công tác xã hội Việt Nam thách thức tính chuyên nghiệp trước nhu cầu hội nhập và phát triển", Trường Đại học Công đoàn, tr.213-220. ABSTRACT Building student social work networks at the University of Labor and Social Affairs (II) Establishing a student social work network serves to help social work students apply theoretical knowledge in real life. This is an indispensable part of social work training. However, at many schools there is no such network of centers to enable students to practice. This limits the quality of future social workers. This article looks at and comments on this situation to encourage the building of social work practice networks at training schools to improve professional development. Keywords: Practice, Network of social work bases. 222
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Xây dựng thư viện điện tử và vấn đề số hoá tài liệu ở Việt Nam
6 p | 165 | 39
-
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
8 p | 175 | 37
-
Lấy ý kiến phản hồi về việc xây dựng mạng lưới liên kết các trường mầm non thực hành tại các cơ sở đào tạo giáo viên mầm non
11 p | 32 | 5
-
Những điều kiện cần có để xây dựng mạng lưới cơ sở thực hành, thực tập phục vụ đào tạo ngành công tác xã hội
6 p | 72 | 5
-
Cố vấn học tập trong đào tạo tín chỉ ở các trường đại học, cao đẳng Việt Nam hiện nay – yêu cầu, thực trạng và một số giải pháp
9 p | 33 | 4
-
Thực trạng và định hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp Việt Nam trong thời gian tới
16 p | 52 | 4
-
Xây dựng mạng lưới liên kết các trường mầm non thực hành tại các cơ sở đào tạo giáo viên trước yêu cầu đổi mới giáo dục
10 p | 39 | 4
-
Những bất cập của mạng lưới giao thông nông thôn tỉnh Thanh Hóa so với tiêu chí giao thông nông thôn quốc gia
10 p | 80 | 4
-
Xác định các điểm dân cư trung tâm xã ở huyện A Lưới dọc theo đường Hồ Chí Minh
6 p | 68 | 4
-
Vai trò của gia tộc đối với việc xây dựng văn hóa gia đình hiện nay: Nghiên cứu trường hợp tại xã Nghi Hợp, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An
8 p | 7 | 3
-
Thực trạng và giải pháp liên kết đào tạo giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp tỉnh Đồng Nai
4 p | 14 | 3
-
Xây dựng và đẩy mạnh hoạt động thư viện, tủ sách cơ sở vùng đồng bằng sông Hồng: Phần 2
58 p | 354 | 3
-
Tập trung nguồn lực xây dựng và phát triển mạng lưới thư viện cấp xã
5 p | 77 | 3
-
Xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin khoa học và công nghệ thành phố Hải Phòng hướng tới chuyển đổi số
10 p | 19 | 3
-
Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội
14 p | 97 | 3
-
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Vai trò của cơ sở giáo dục và doanh nghiệp trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
313 p | 7 | 2
-
Y tế nông thôn: Bài toán chưa có lời giải đúng - Nguyễn Đức Chính
0 p | 60 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn