XÓA BAO CẤP VẪN LÀ KHÂU ĐỘT PHÁ ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH <br />
TẾ VIỆT NAM<br />
Tác giả: Nguyễn Thị Hiền<br />
<br />
Ngày 31 tháng 5 và 01 tháng 6 vừa qua tại khách sạn Melia Hà Nội đã diễn <br />
ra cuộc hội thảo quốc tế về chính sách đối với các nền kinh tế chuyển <br />
đổi với sự tham dự của các quan chức cao cấp đến từ 11 nền kinh tế <br />
chuyển đổi, trong đó có nguyên thủ tướng Nga Yegor Gaidar, cựu phó Thủ <br />
tướng Ba Lan Grzegorz Kolodko, giáo sư Wing Thye Woo, chuyên gia về <br />
Trung Quốc tại Đại học California Davis. Tôi muốn nhân sự kiện này bàn <br />
về một số khía cạnh trong việc chuyển đổi kinh tế Việt Nam, hy vọng <br />
góp phần giải đáp cho một vài vấn đề mà HTMH 2004 quan tâm, đặc biệt <br />
là về những thách thức và cơ hội Việt Nam đang có trong quá trình hội <br />
nhập vào kinh tế thế giới ?<br />
<br />
Nhiệm vụ quan trọng bậc nhất và cũng khó khăn nhất mà các nền kinh tế <br />
chuyển đổi phải giải quyết để có thể nhanh chóng trở thành nền kinh tế <br />
thị trường là xoá bao cấp. Tôi cho xoá bao cấp là bài thuốc thử thành công <br />
của các nền kinh tế chuyển đổi. Có thể thông qua vấn đề xoá bao cấp mà <br />
lý giải rất nhiều quá trình diễn ra trong thời kỳ chuyển đổi. Và chần chừ <br />
hoặc va vấp trong việc giải quyết vấn đề này là lý do quan trọng nhất <br />
của sự chậm trễ trong công cuộc cải cách, mở cửa của nhiều quốc gia <br />
thuộc các nền kinh tế chuyển đổi.<br />
<br />
Bởi vì toàn bộ thể chế kinh tế được xây dựng trên cơ sở bao cấp cho nên <br />
xoá bao cấp sẽ tạo ra đột phá cho tăng trưởng. Bên cạnh đó, xoá bao cấp <br />
một cách thiếu bài bản cũng có thể tạo ra khoảng trống cho các tiêu cực <br />
nẩy sinh. Điều này lý giải tại sao hầu hết các nước chuyển đổi trong khi <br />
đạt nhiều thành tích phát triển kinh tế thì giáo dục, y tế và nhiều dịch vụ <br />
công cộng khác lại bị xuống cấp nghiêm trọng. Việt Nam rất thành công <br />
trong xoá bao cấp về giá sản phẩm nông nghiệp (đi đầu trong số các nước <br />
Xã hội chủ nghĩa cũ về áp dụng cơ chế giá thị trường trong mua, bán sản <br />
phẩm của nông dân), nhưng lại rất chật vật trong xóa bao cấp về vốn cho <br />
các xí nghiệp quốc doanh và cải tổ khu vực này.<br />
<br />
Tình trạng thiếu khung pháp lý cộng với cơ chế bao cấp đã làm cho tham <br />
nhũng trở nên nặng nề ở các nền kinh tế chuyển đổi. Có thể nói, cơ chế <br />
bao cấp (mà nguồn gốc của nó là sự giáo điều, nóng vội và duy ý chí trong <br />
vận dụng tư tưởng xã hội Xã hội chủ nghĩa mong đạt đến một "sự phát <br />
triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội" mà không tính đến điều <br />
kiện xã hội còn quá thiếu thốn về vật chất) là rào cản lớn nhất của quá <br />
trình chuyển đổi. Trong nền kinh tế bao cấp thiếu một động lực quan <br />
trọng cho sự tăng trưởng, đó là lợi ích cá nhân. Tâm lý dựa dẫm, ỷ lại tồn <br />
tại trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mặc dù tình trạng tham ô <br />
không lớn, nhưng thói quen trông chờ vào Nhà nước, lười suy nghĩ, thiếu <br />
sáng kiến đã làm cho kinh tế trì trệ kéo dài và tác động tiêu cực đến tư duy <br />
của con người. Một khi tư duy đã bị tha hoá thì rất khó chấp nhận sự thay <br />
đổi. Sự chuyển đổi của xã hội vì thế mà bị khủng hoảng, có khi đem lại <br />
tổn thất to lớn như ta đã chứng kiến.<br />
<br />
Công cuộc đổi mới còn chịu lực cản từ phía những người vốn được <br />
hưởng lợi từ cơ chế bao cấp (một bộ phận trong số họ có vai trò quan <br />
trọng trong việc hoạch định chính sách). Lấy cớ bảo vệ thành quả của <br />
Chủ nghĩa xã hội, những người này ra sức cản trở công cuộc "đổi mới", <br />
chuyển từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, trong khi vẫn <br />
lợi dụng tình trạng "tranh tối tranh sáng" và thiếu khung pháp lý để vơ vét <br />
của công không thương tiếc.<br />
<br />
Chọn khâu đột phá là xoá bao cấp về giá (Nghị quyết của Hội nghị 4 <br />
Trung ương Khoá VI, 1981), Việt Nam đã mở đầu thành công trong công <br />
cuộc chuyển đổi. Tuy nhiên, tự do hoá giá cả đã không thu được kết quả <br />
như nhau trong các lĩnh vực của nền kinh tế. Khu vực được hưởng lợi <br />
nhiều nhất từ tự do hoá giá cả là nông nghiệp (cũng bởi vì nông thôn <br />
được bao cấp ít nhất). áp dụng giá thị trường trong mua bán nông sản <br />
cùng với cơ chế "khoán 10" áp dụng từ năm 1988 đã thay đổi bộ mặt nông <br />
thôn Việt Nam, đưa nông dân trở lại vị trí người chủ ruộng đất mà họ <br />
đang cày cấy (Nghị quyết 10 của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam <br />
4/1988 với nội dung chủ yếu là trao lại tư liệu sản xuất cho hộ nông dân, <br />
cũng tức là trao quyền tự chủ cho họ). Như vậy, không phải cách mạng <br />
kỹ thuật mà chính là thay đổi cơ chế (xoá bao cấp, bao biện) đã dẫn đến <br />
cuộc bứt phá ngoạn mục trong nông nghiệp khiến Việt Nam từ chỗ nhập <br />
khẩu trên dưới một triệu tấn gạo/ một năm trở thành nước xuất khẩu gạo <br />
đứng thứ nhì thế giới.<br />
<br />
Sự thay đổi cơ chế đã giải phóng sức sáng tạo của nông dân, họ không <br />
dừng lại ở tăng sản lượng mà còn thay đổi cách làm ăn, tăng vụ, thay đổi <br />
cơ cấu kinh tế. Do tiềm năng nhỏ bé của nền tiểu nông nên sự chuyển <br />
đổi cơ cấu trong nông nghiệp diễn ra chậm chạp trong những năm đầu <br />
“đổi mới” (1990 2000), nhưng, như "mưa dầm thấm lâu", quá trình này <br />
đã dẫn đến sự đột phá trong kinh tế mấy năm gần đây. Nếu như chuyển <br />
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong những năm trước chủ yếu là hành <br />
động tự phát của từng hộ nông dân, từng chủ trang trại thì từ 2002 2003 <br />
quá trình này đã được sự đỡ đầu, bảo trợ của chính quyền.<br />
<br />
Nông dân Hải Dương đã thành công trong việc chuyển từ trồng lúa sang <br />
trồng cây ăn quả (táo, dưa hấu, cam Canh đường), nay chính quyền tỉnh <br />
đang vận động nông dân tham gia dự án trồng hoa hồng xuất khẩu với <br />
cam kết: "nếu trồng hoa hồng hiệu quả thua lúa tỉnh đền nông dân". Uỷ <br />
ban Nhân dân xã Đoàn Thượng, Huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương hợp tác <br />
với Công ty Nhân Văn đầu tư cho nông dân có ruộng tham gia dự án trồng <br />
hoa hồng với mức 480.000 đ/sào, hỗ trợ 50% tiền mua giống và đào tạo <br />
những nông dân chủ chốt của dự án thành các kỹ thuật viên, hưởng lương <br />
kỹ thuật 320.000 đ/người/tháng trong vòng 4 năm. Sản phẩm của những <br />
diện tích tham gia dự án được Công ty Nhân Văn bao tiêu (mua hết sản <br />
phẩm). Có một bước tiến vượt bậc về thu nhập trên một ha tại vùng đất <br />
"thuần lúa" xưa kia: từ chỗ chỉ thu được do trồng lúa mỗi năm từ 5 đến 10 <br />
triệu đồng/ ha, nay thu nhập đã tăng lên tới 200 270 triệu đồng/ ha nếu <br />
trồng dưa hấu và 500 triệu đồng/ ha nếu trồng hoa hồng xuất khẩu. Lần <br />
đầu tiên nông dân ở đây đã trồng được hoa hồng xanh, hoa hồng đen. Có <br />
cán bộ thường đi nước ngoài công tác đã nhận xét: thị trường hoa của <br />
Việt Nam mấy năm gần đây đã phong phú hơn ở Mỹ và nhiều nước châu <br />
Âu. <br />
<br />
Sự chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp đã lan nhanh đến cả những địa <br />
phương vốn là những vùng có điều kiện tự nhiên và hạ tầng khó khăn như <br />
các tỉnh miền Trung, miền núi. Trong dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng <br />
lịch sử Điện Biên Phủ, tháng 5/2004 vừa qua, du khách đã rất ngạc nhiên <br />
khi được thưởng thức cá nuôi trên vùng núi cao trước đây đến rau ăn cũng <br />
hiếm. Các "hồ treo" trên núi tại Điện Biên không những cung cấp cá cho <br />
các nhà hàng, khách sạn trong dịp lễ hội mà còn là những điểm tham quan <br />
thú vị của du khách. Xã nghèo ven biển Quỳnh Lương, Nghệ An trước <br />
kia, nay đã giàu lên nhờ trồng rau, màu. Thu hoạch từ rau, màu đạt trên <br />
100 triệu đồng/ ha, gấp 20 lần trồng lúa; cả xã có 17 xe chuyên dùng để <br />
chở rau đi bán tỉnh xa. Nghề nuôi tôm trên cát đã góp phần xoá nghèo và <br />
vươn lên giàu có cho nhiều vùng đất chua mặn quanh năm nghèo đói trước <br />
đây.<br />
<br />
Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp mất dần tính tự <br />
phát đã kéo theo những biến chuyển về chất của nền nông nghiệp Việt <br />
Nam. Chỉ trong vòng hơn một năm qua đã có nhiều thương hiệu sản phẩm <br />
nông nghiệp đưa ra thị trường quốc tế như: nước mắm Phú Quốc, bưởi <br />
Năm Roi, cà phê Trung Nguyên. Sản phẩm lưu thông trong nước cũng <br />
đang nhanh chóng đi theo xu hướng có thương hiệu đảm bảo cho chất <br />
lượng ổn định để duy trì thị trường. Tính "dã man" của kinh tế thị trường <br />
Việt Nam đang nhanh chóng nhường chỗ cho một nền thương mại văn <br />
minh.<br />
<br />
Mặc dù những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp, lĩnh vực <br />
này vẫn đang phải đối đầu với những thách thức lớn. Một trong số những <br />
thách thức đó là trình độ văn hoá, kỹ thuật của người lao động. Nông dân <br />
rất nhanh nhạy tham gia kinh tế thị trường, nhưng do trình độ văn hoá và <br />
kỹ thuật thấp nên kết quả thu được vẫn còn hạn chế, thể hiện điều mà <br />
nhiều chuyên gia nhận định rằng chất lượng tăng trưởng của kinh tế còn <br />
thấp. Có thể minh hoạ điều này qua thí dụ về tỉnh Nghệ An nêu trên: <br />
trong số 71.526 hộ sản xuất giỏi của tỉnh này, chỉ có 14% qua các lớp <br />
trung cấp, sơ cấp kỹ thuật hoặc quản lý.<br />
<br />
Khu vực được hưởng lợi thứ hai nhờ xoá bao cấp là công thương nghiệp <br />
ngoài quốc doanh, nay gọi là khu vực dân doanh. Do nhận thức cũ, coi <br />
doanh nghiệp dân doanh là thành phần "phi xã hội chủ nghĩa" nên quá trình <br />
chuyển từ cấm đoán sang không cấm rồi khuyến khích doanh nghiệp dân <br />
doanh diễn ra chậm hơn so với nông nghiệp. Mãi đến năm 2000, cùng với <br />
thi hành Luật Doanh nghiệp, khu vực dân doanh mới có được khung pháp <br />
lý thuận lợi để phát triển. Nhiều người đánh giá Luật Doanh nghiệp đã <br />
tạo ra bước đột phá tương tự như "khoán 10" trong nông nghiệp. Chỉ sau 3 <br />
năm thi hành Luật Doanh nghiệp, đã có gần 73000 doanh nghiệp đăng ký <br />
mới với số vốn xấp xỉ 9,5 tỷ USD (tương tự khối lượng FDI đạt được <br />
cùng thời gian), tạo việc làm cho gần một nửa số lao động tăng thêm hàng <br />
năm. Nếu Luật Doanh nghiệp được thi hành nghiêm túc hơn, doanh <br />
nghiệp dân doanh được dễ dàng hơn trong vay vốn ngân hàng và thuê mặt <br />
bằng sản xuất thì hiệu quả mà khu vực này đem lại còn lớn hơn.<br />
Mặc dù vẫn duy trì bao cấp trong các lĩnh vực công cộng và phúc lợi xã <br />
hội như y tế, giáo dục, văn hoá, giao thông công cộng, vệ sinh môi trường <br />
v.v... nhưng việc thực hiện "xã hội hoá" cũng đã giảm nhiều tình trạng <br />
xuống cấp của khu vực này. Đặc biệt, chính sách đoàn kết nêu ra tại Đại <br />
Hội lần thứ 9 Đảng cộng sản việt Nam (4/2003) "phát huy sức mạnh đại <br />
đoàn kết toàn dân"... "lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân <br />
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương <br />
đồng..." đã làm yên lòng giới kinh doanh tư nhân và động viên được các <br />
nguồn nội lực. Trong các năm 2001 2003 đầu tư của khu vực tư nhân đã <br />
bù lại được sự giảm sút của đầu tư trực tiếp nước ngoài.<br />
<br />
Khu vực được bao cấp lớn nhất trong kinh tế Việt Nam cho đến nay vẫn <br />
là khối các doanh nghiệp nhà nước. Với lý thuyết "ưu tiên phát triển công <br />
nghiệp" (có thời kỳ còn đề ra khẩu hiệu "ưu tiên phát triển công nghiệp <br />
nặng"), Việt Nam đã dành sự bao cấp to lớn cho công nghiệp. Các xí <br />
nghiệp quốc doanh sở hữu gần như toàn bộ cơ sở vật chất, kỹ thuật của <br />
nền kinh tế, hầu hết cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Mặc dù <br />
trình độ quản lý yếu kém, tiền lương thấp, nhưng do được bảo hiểm của <br />
Nhà nước nên khu vực này vẫn có sức hút mạnh hơn so với khu vực tư <br />
nhân mới bắt đầu phát triển từ sau khi có Luật Doanh nghiệp (có hiệu lực <br />
từ năm 2000). Điều đó giải thích tại sao việc cổ phần hoá khu vực này <br />
diễn ra chậm chạp ( bên cạnh sự chống đối của những người muốn dựa <br />
vào cơ chế bao cấp cũ ). <br />
<br />
Sức mạnh vật chất của kinh tế nhà nước cộng với lợi ích mà nó đem lại <br />
cho một bộ phận đông đảo dân cư khiến cho không thể nóng vội cải tổ <br />
khu vực này. Ngay cả những kinh tế gia ít chuyên sâu về kinh tế Việt <br />
Nam (như Joseph Stigliz, người được giải Nobel kinh tế) cũng khuyên <br />
Chính phủ Việt Nam không nên cổ phần hoá khu vực doanh nghiệp nhà <br />
nước với bất cứ giá nào, mà nên phát triển khu vực tư nhân bên cạnh khu <br />
vực nhà nước đồng thời với cải tổ xí nghiệp quốc doanh. Còn những <br />
người am hiểu Việt Nam như ông Jhozev Hà, nguyên chủ tịch tập đoàn <br />
Daewoo, Hàn Quốc, thì khuyên Việt Nam không nên vội vã tư nhân hoá <br />
ngành công nghiệp nặng đã được xây dựng từ thời bao cấp, vì đó là sức <br />
mạnh kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, chuyển hướng đầu tư cho công <br />
nghiệp nặng theo hướng phát triển ngành công nghiệp phụ trợ như kiến <br />
nghị của giáo sư Trần Văn Thọ tại HTMH 2002 là giải pháp cấp bách. <br />
Nhân đề cập đến vấn đề phát triển công nghiệp phụ trợ, từ năm 2003 đã <br />
có những tín hiệu đáng mừng: các ngành sản xuất ô tô, xe máy, ti vi, máy <br />
vi tính đang chuyển hướng đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện thay thế <br />
để giảm bị động trong sản xuất và hưởng các ưu đãi của Nhà nước.<br />
<br />
Nhiều nền kinh tế chuyển đổi tìm thấy cơ hội xoá cơ chế bao cấp thông <br />
qua việc hội nhập vào kinh tế thế giới. Những thành tích Việt Nam đạt <br />
được trong xuất khẩu từ sau khi Hiệp định thương mại ký với Hoa Kỳ có <br />
hiệu lực đã củng cố quyết tâm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới <br />
(WTO). Ngoài việc khẩn trương sửa đổi luật pháp cho phù hợp các cam <br />
kết của WTO, điều hành nền kinh tế cũng đang chuyển theo hướng xoá <br />
dần bao cấp, tạo môi trường bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Ví dụ <br />
sinh động nhất mới đây là chủ trương giảm thuế nhập khẩu thép thành <br />
phẩm từ 20% 40% xuống mức 0% trong cơn sốt giá thép thế giới từ đầu <br />
năm 2004 bất chấp phản ứng mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất <br />
thép trong nước. Thời hạn thực hiện cam kết AFTA giảm thuế hải quan <br />
xuống mức 0% 5% đang đến gần đã khiến doanh nghiệp quan tâm đến <br />
đầu tư chiều sâu, áp dụng công nghệ mới và tiếp thị để nâng cao sức <br />
cạnh tranh. Trong cuộc chạy đua này, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tỏ ra <br />
năng động và có được thành công đáng mừng. Tai Hội chợ quốc tế Côn <br />
Minh, Trung Quốc tháng 6 vừa qua, phần lớn trong số các doanh nghiệp <br />
ký được hợp đồng xuất khẩu là doanh nghiệp tư nhân.<br />
<br />
Hy vọng mấy điều tôi trình bày cho phép kết luận rằng những gì mà Việt <br />
Nam đã làm được trong hơn một chục năm qua là đáng kể. Tuy nhiên, rõ <br />
ràng là đất nước có thể tiến nhanh hơn và ấn tượng hơn nếu không có <br />
những thiếu sót quan trọng trong một số lĩnh vực<br />