intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945

Chia sẻ: ViVatican2711 ViVatican2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

85
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự truyện: Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Cũng chính những nhà văn này, trước yêu cầu đổi mới nền văn học và theo dòng chảy tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển mình sang sáng tác tiểu thuyết tâm lý.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945

TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 59 - Thaùng 7/2018<br /> <br /> <br /> <br /> Xu hướng dịch chuyển tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý<br /> trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945<br /> The Moving Trend from Autobiography to Psychological Novels in Vietnamese<br /> Literature in the Period 1930 – 1945<br /> <br /> ThS. Trần Thanh Việt,<br /> Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG Hà Nội<br /> <br /> Tran Thanh Viet, M.A.,<br /> University of Social Sciences and Humanities – Vietnam National University, Hanoi<br /> <br /> Tóm tắt<br /> Văn học nước nhà giai đoạn 1930 – 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự truyện: Nguyên Hồng,<br /> Lan Khai, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Cũng chính những nhà văn này, trước yêu cầu<br /> đổi mới nền văn học và theo dòng chảy tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển mình sang sáng tác<br /> tiểu thuyết tâm lý. Có thể khẳng định rằng giai đoạn văn học 1930 - 1945 đã xuất hiện xu hướng dịch<br /> chuyển từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý.<br /> Xu hướng dịch chuyển này diễn ra với dấu hiệu hết sức rõ ràng từ căn cứ tác phẩm tiểu thuyết. Đó là<br /> dấu hiệu nhân vật chính mang hình bóng tác giả, và chi tiết, sự kiện trong tác phẩm vừa thực vừa có thể<br /> được hư cấu.<br /> Từ khoá: xu hướng dịch chuyển, tự truyện, tiểu thuyết tâm lý, văn học Việt Nam 1930-1945.<br /> Abstract<br /> There were many famous autobiographers in Vietnamese literature in the period 1930-1945: Nguyen<br /> Hong, Lan Khai, Nguyen Tuan, Vu Bang, To Hoai, Nam Cao...<br /> In order to meet the needs of literature innovation, together with the natural flow of modern novels,<br /> those writers have transformed themselves into psychological novelists. It can be argued at that time<br /> Vietnamese literature has emerged as a shift from autobiography to psychological novels.<br /> This shift has taken place with very clear signs from the basis of the novels where the main characters<br /> bearing the characteristics of the writers; and the details or events in novels can be both realistic and<br /> fictitious.<br /> Keywords: the moving trend, autobiography, psychological novels, Vietnamese literature in the period<br /> 1930 – 1945.<br /> <br /> <br /> Đặt vấn đề nhanh chóng, với sự xuất hiện nhiều nhà<br /> Trong giai đoạn văn học 1930 - 1945, văn tài năng, nhiều tiểu thuyết có giá trị đã<br /> quãng thời gian mới có mười lăm năm ra đời và để lại dư âm lớn đến tận ngày<br /> nhưng với tốc độ hiện đại hoá diễn ra nay. Văn học nước nhà giai đoạn 1930 –<br /> <br /> <br /> 138<br /> TRẦN THANH VIỆT<br /> <br /> <br /> 1945 đã chứng kiến nhiều nhà văn viết tự như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao để<br /> truyện: Nguyên Hồng, Lan Khai, Nguyễn đưa ra những tiêu chí phân biệt rạch ròi<br /> Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Và đâu là tự truyện, đâu là tiểu thuyết tâm lý.<br /> cũng chính những nhà văn này, trước yêu Nhưng trên cơ sở nghiên cứu quá trình tự<br /> cầu đổi mới nền văn học, theo dòng chảy chuyển hoá trong quan điểm sáng tác của<br /> tự nhiên của tiểu thuyết hiện đại, đã chuyển các nhà văn và quá trình ra đời của các tác<br /> mình sang sáng tác tiểu thuyết tâm lý. Có phẩm, có thể thấy sự dịch chuyển tự truyện<br /> thể khẳng định rằng, trong giai đoạn văn sang tiểu thuyết tâm lý đã diễn ra liên tục<br /> học này đã xuất hiện xu hướng dịch chuyển trong giai đoạn văn học này. Từ những<br /> từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. năm 1940 trở đi, tự truyện xuất hiện nhiều<br /> 1. Cơ sở xác định sự dịch chuyển tự đã đưa tiểu thuyết tâm lý phát triển lên một<br /> truyện sang tiểu thuyết tâm lý tầm cao mới về nghệ thuật biểu hiện.<br /> Khảo sát văn học Việt Nam giai đoạn Trong đó có, Những ngày thơ ấu (1939)<br /> 1930 – 1945, chúng tôi nhận thấy hầu hết của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương<br /> các nhà văn thành công với thể tài tiểu (1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước<br /> thuyết tâm lý đã từng trước đó thành công mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của<br /> với tiểu thuyết dạng tự truyện. Dù sáng tác Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống<br /> tiểu thuyết tâm lý hay tự truyện, các nhà mòn (1944) của Nam Cao... [1].<br /> văn đều gửi gắm hình bóng và tâm sự của Như vậy, có thể khẳng định sự ra đời<br /> chính cuộc đời mình vào hình tượng nhân gần như cùng lúc của những cuốn tự truyện<br /> vật. Đây là những thể loại đắc địa để các đã chứng tỏ có sự giao thoa giữa tự truyện<br /> nhà văn giai đoạn này thể hiện sự cách tân và tiểu thuyết tâm lý. Sự giao thoa này<br /> nghệ thuật tự sự của tiểu thuyết: nhân vật không theo hướng tiểu thuyết tâm lý ảnh<br /> tâm lý, kết cấu tâm lý, ngôn ngữ tâm lý. Và hưởng đến tự truyện như thế nào mà ngược<br /> bao hàm trong đó, là thành công của nghệ lại, trên bước đường hiện đại hoá tiểu<br /> thuật phân tích tâm lý nhân vật. thuyết, các nhà văn phần nhiều lấy chất<br /> Ngoài ra, chính lịch sử chính trị - xã liệu xây dựng hình tượng nhân vật từ<br /> hội giai đoạn này đã tạo nên yêu cầu đổi những trải nghiệm của chính cuộc đời<br /> mới nền văn học và góp phần gây nên trào mình. Vì thế, tự truyện trở thành tiểu<br /> lưu viết tiểu thuyết tâm lý. Sự chuyển hoá thuyết. Tự truyện hướng đến quá trình hình<br /> từ tiểu thuyết tự truyện sang tiểu thuyết thành tiểu thuyết tâm lý bởi ý muốn của<br /> tâm lý là quá trình phức tạp. Văn học Việt nhà văn, bởi ý thức mãnh liệt về thể loại<br /> Nam lúc này đã chứng kiến sự chuyển hoá của người sáng tác và hơn thế nữa, bởi thị<br /> như thế khi có nhiều nhà văn theo cả hiếu của độc giả đương thời. Chính nghệ<br /> khuynh hướng hiện thực hay lãng mạn đều thuật phân tích tâm lý nhân vật trong tự<br /> viết tự truyện, mà những cuốn tự truyện ấy truyện và trong tiểu thuyết tâm lý giai đoạn<br /> đều hàm chứa bên trong một quá trình vận này đã chứng minh, có một sự vận động<br /> động sang tiểu thuyết tâm lý. trong quan niệm nghệ thuật của các nhà<br /> Khó có thể căn cứ vào tiểu thuyết của văn, trong bản thân quá trình hiện đại hoá<br /> các nhà văn theo khuynh hướng lãng mạn tiểu thuyết. Sự dịch chuyển từ tự truyện<br /> như Tự lực văn đoàn hay tiểu thuyết của sang tiểu thuyết tâm lý diễn ra trên cả nội<br /> các nhà văn theo khuynh hướng hiện thực dung tư tưởng và nghệ thuật.<br /> <br /> 139<br /> XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…<br /> <br /> <br /> Cơ sở để chúng tôi khảo sát sự tác ngữ văn học quan niệm rằng, tự truyện là<br /> động qua lại giữa tự truyện và tiểu thuyết “tác phẩm văn học tự sự, thường được viết<br /> tâm lý từ nghệ thuật tự sự của tác giả ở bài bằng văn xuôi trong đó tác giả tự kể và<br /> viết này, ngoài căn cứ thời điểm xuất hiện miêu tả cuộc đời của bản thân mình” [2;<br /> tác phẩm trên văn đàn còn dựa vào sự vận tr.378]. Trong tự truyện, nhân vật tác giả<br /> động, phát triển của nghệ thuật tự sự trong xuất hiện song trùng với con người thật<br /> tiểu thuyết của cả giai đoạn. Tiểu thuyết ngoài đời mình; còn trong tiểu thuyết, nhân<br /> tâm lý, từ Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc vật luôn có sự hư cấu, do bàn tay nhào nặn<br /> Phách đến Bướm trắng (1939) của Nhất của nhà văn mà thành. Tuy vậy, nhân vật<br /> Linh, Sống mòn (1944) của Nam Cao là cả trong tự truyện cũng có sự hư cấu nhất định.<br /> một chặng đường rất dài, chặng đường Với tự truyện, tác giả “thường tập trung vào<br /> chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nghệ quá trình hình thành và lịch sử thế giới nội<br /> thuật tiểu thuyết. Bướm trắng đại diện cho tâm của mình trong sự tương tác giữa nó với<br /> khuynh hướng tiểu thuyết lãng mạn và thế giới bên ngoài” [2; tr. 379]. Đặc điểm<br /> Sống mòn đại diện cho khuynh hướng tiểu này xuất hiện nhiều trong tiểu thuyết vào<br /> thuyết hiện thực. Ở đó, nhà văn thể hiện tài cuối những năm 1930 đến đầu những năm<br /> năng phân tích tâm lý nhân vật đến mức 1940 ở nước ta và khá gần gũi với tính chất<br /> điêu luyện. Xin được nói thêm, Sống mòn nghệ thuật của tiểu thuyết tâm lý.<br /> xuất hiện vào năm 1944 nhưng đến năm Ở đây, chúng tôi không nhằm tranh<br /> 1956 tác phẩm này mới được xuất bản và luận xem tự truyện hay tiểu thuyết tâm lý<br /> phổ biến rộng rãi tới số đông công chúng nằm ở vị trí nào trong mối quan hệ vô cùng<br /> yêu văn học. Tuy nhiên chính sự ra đời của mật thiết, thậm chí khó có thể tách bạch<br /> Sống mòn vào năm 1944 đã góp phần giữa giữa khuynh hướng hiện thực và<br /> khẳng định, Nam Cao viết tự truyện và tiểu khuynh hướng lãng mạn, mà nhằm mục<br /> thuyết tâm lý đã đạt tới đỉnh cao nghệ thuật đích nhấn mạnh khả năng dịch chuyển từ<br /> tự sự. Đây là cuốn tiểu thuyết tâm lý thành tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Tự truyện<br /> công, nhưng cũng là cuốn tự truyện ghi lại nở rộ trong văn học Việt Nam từ những<br /> cuộc đời hoạt động sôi nổi cùng biết bao năm 1940 trở đi và trên thực tế, nó cũng<br /> suy tư, chiêm nghiệm của chính tác giả, tồn tại dưới hình thức tiểu thuyết đời tư,<br /> nhà văn Nam Cao. phản ánh đời tư của các tác giả; trong đó,<br /> Nhiều nhà văn viết tiểu thuyết không đối tượng được hướng đến là các diễn biến<br /> phải để xuất bản ngay thành sách mà đăng tâm lý.<br /> dưới dạng truyện nhiều kỳ trên báo hoặc Tự truyện góp phần đưa tiểu thuyết<br /> tạp chí. Vì thế, tuy chưa có sự ủng hộ nhiệt tâm lý trở thành một xu hướng phát triển<br /> tình từ đội ngũ các nhà phê bình lúc bấy của tiểu thuyết Việt Nam, giúp tiểu thuyết<br /> giờ nhưng khuynh hướng dịch chuyển tiểu Việt Nam gặt hái nhiều thành tựu. Điểm<br /> thuyết từ tự truyện sang tâm lý là một đã giao thoa giữa hai loại hình tiểu thuyết này<br /> diễn ra và thành công. chính là việc xây dựng hình tượng nhân vật<br /> Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tự chính. Ở đó, nhà văn chọn quá trình diễn<br /> truyện là “Tác phẩm văn học thuộc loại tự biến tâm lý của nhân vật chính làm đối<br /> sự, tác giả tự viết về cuộc đời mình” [6; tượng hướng đến của ngòi bút văn chương.<br /> tr.389]. Lại Nguyên Ân trong 150 thuật Mọi nỗ lực của nhà văn đều nhằm mục<br /> <br /> 140<br /> TRẦN THANH VIỆT<br /> <br /> <br /> đích phân tích tâm lý của nhân vật. Quá của thế kỷ XX. Đã có nhiều công trình<br /> trình diễn biến tâm lý của nhân vật tạo nên nghiên cứu những đóng góp của Tự lực văn<br /> sức hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết. Nhân vật đoàn với tiến trình văn học dân tộc. Trong<br /> trong tự truyện dễ dàng giao thoa với nhân giai đoạn này, tiểu thuyết của các nhà văn<br /> vật trong tiểu thuyết tâm lý. Sự giao thoa như Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam..,<br /> đó đã diễn ra, cho phép đặt Sống mòn của đã thực sự dịch chuyển sang tiểu thuyết<br /> Nam Cao vào tiểu thuyết tự truyện hay tiểu tâm lý.<br /> thuyết tâm lý đều được, mặc dù Thứ là Căn cứ vào thực tế sáng tác của các nhà<br /> nhân vật chính có tính chất hư cấu. Chỉ có văn, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi<br /> những tâm trạng, suy tư của anh ta mới là đề cập đến sự dịch chuyển từ tự truyện sang<br /> những mảnh ghép chân thực về con người tiểu thuyết tâm lý qua khảo sát sáng tác của<br /> và tính cách của Nam Cao. Tương tự, nhân một số nhà văn như Những ngày thơ ấu<br /> vật Tôi trong Những ngày thơ ấu của (1939) của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương<br /> Nguyên Hồng là nhà văn nhưng sức hấp (1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước<br /> dẫn của cuốn tự truyện không chỉ là những mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của<br /> biến cố trong cuộc đời nhân vật, mà còn là Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống<br /> những xúc cảm, suy tư của đứa trẻ sống mòn (1944) của Nam Cao.<br /> trong hoàn cảnh bất hạnh, những suy nghĩ 2. Xu hướng dịch chuyển nhân vật<br /> về thân phận, về gia đình và nhất là về chính mang bóng hình tác giả sang nhân<br /> người mẹ tội nghiệp giàu tình thương con. vật chính hoàn toàn hư cấu<br /> Giữa tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn Nhân vật chính trong những cuốn tự<br /> 1930 – 1945 nói chung và tự truyện giai truyện trên con đường vận động chuyển<br /> đoạn này nói riêng luôn có điểm gặp gỡ sang tiểu thuyết tâm lý bao giờ cũng gần<br /> nhau. Đó là, bất kể thuộc khuynh hướng gũi thậm chí song trùng với hình bóng của<br /> hiện thực hay thuộc khuynh hướng lãng chính tác giả. Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân,<br /> mạn, nhân vật chính trong tiểu thuyết Lan Khai, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nam Cao..,<br /> thường ít nhiều mang bóng hình của tác viết tiểu thuyết đều nhằm sáng tạo nên hình<br /> giả. Ở đó, các nhà văn có gửi gắm những tượng nhân vật để khám phá những diễn<br /> trải nghiệm của cuộc đời mình vào nhân biến tâm lý còn ẩn sâu trong tâm hồn con<br /> vật trong tác phẩm. người. Đó cũng là nguyên nhân giải thích<br /> Một cơ sở nữa chúng tôi muốn nhắc vì sao phần nhiều các tự truyện trong quá<br /> đến là bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ trình dịch chuyển sang tiểu thuyết tâm lý<br /> cũng như nhu cầu tự thân vận động, đổi mới đã thúc đẩy sự phát triển tiểu thuyết theo<br /> nền văn học đã dẫn đến việc tiểu thuyết có khuynh hướng lãng mạn. Điều đó thể hiện<br /> những bước phát triển nhanh chóng. Hầu khá rõ trong tác phẩm của các nhà văn như<br /> hết các công trình nghiên cứu tiểu thuyết Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư, Lan Khai...<br /> Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX đều đề cập Với những sáng tác theo khuynh hướng<br /> đến cơ sở này. Trên thực tế, những tác phẩm văn học hiện thực cũng thế, tác phẩm luôn<br /> mà chúng tôi khảo sát đều xuất hiện vào chất chứa nỗi niềm tâm sự, u uẩn, dằn vặt<br /> thời điểm tiểu thuyết phát triển mạnh mẽ khôn nguôi của tác giả. Cái thống khổ của<br /> nhất cả về số lượng và chất lượng, đó là vào cuộc đời, sự chèn ép của xã hội nửa thực<br /> cuối những năm 30 sang đầu những năm 40 dân, nửa phong kiến đương thời, cái lầm<br /> <br /> 141<br /> XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…<br /> <br /> <br /> lạc mà đời một văn nghệ sĩ vướng vào, có những chuyến đi. Chiếc va li bằng da thuộc<br /> khi chỉ là cái cớ để người viết bày tỏ suy có dán nhãn của đủ mọi khách sạn, những<br /> tư, chiêm nghiệm của chính mình. Đó là nơi mà Bạch đã đi qua được chàng vô cùng<br /> những tác phẩm của Nguyên Hồng, Vũ nâng niu, quý trọng. Thiếu quê hương lôi<br /> Bằng, Tô Hoài, Nam Cao... Ở đây nhân vật cuốn người đọc bởi những trang phân tích<br /> trong tiểu thuyết có quan hệ song trùng với tâm lý mà cảnh vật được miêu tả có khi chỉ<br /> hình tượng tác giả người đang kể lại câu là cái cớ để nhân vật bộc lộ tâm sự. Khi<br /> chuyện về cuộc đời mình bằng giọng trực biết Dung, người vợ mới cưới đã đem kỳ<br /> tiếp hoặc bán trực tiếp. cọ sạch những nhãn dán trên chiếc va li,<br /> Thật không khó nhận ra trong tiểu “Bạch đứng trước cái va li buồn thiu có<br /> thuyết Mực mài nước mắt, hình tượng nhân hàng nửa giờ đồng hồ, mồ hôi toát ra đầm<br /> vật Khải lại chính là bóng hình của nhà văn đìa, dáng điệu bơ phờ thương xót như một<br /> Lan Khai. Nỗi khốn khó của lớp văn sĩ tiền người quyến luyến với một cố nhân già<br /> chiến được Lan Khai giãi bày cả trong tác đang thở hắt mãi ra để mà về trời, mỗi phút<br /> phẩm, từ cái tên văn sĩ Khải – Lan Khai qua là làm giá lạnh một đoạn mình mảy tái<br /> cho đến người vợ hiền thảo, những đứa con xám thêm lại. Bạch cứ thế mà điếng cả<br /> thơ, ông cụ thân sinh là một nhà Nho làm người cho đến suốt ngày hôm sau, không<br /> nghề bốc thuốc mấy đời ở tỉnh Tuyên ăn được, không ngủ được” [10; tr.917].<br /> Quang cho đến chuyến xe chuyển nhà về Ở một tiểu thuyết khác, Nam Cao đã<br /> quê đón Tết, ở lại vùng quê xa xôi ấy và đưa người đọc đến với cuộc đời của một<br /> tạm chôn đi giấc mộng văn chương. Lan anh giáo khổ trường tư luôn phải dằn vặt,<br /> Khai đã rút ruột mình để đưa vào Mực mài sám hối để cố gắng sống tốt hơn giữa cuộc<br /> nước mắt những lời khắc khoải đắng cay: đời toàn những toan tính, lọc lừa, vô cảm<br /> “Chỉ còn độc một kế là viết cho xong vùi mãi con người ta xuống vũng bùn.<br /> quyển tiểu thuyết này. Khải cầm lấy bút. Chính Thứ từng thừa nhận: “Đáng ghét,<br /> Trời, suốt đời chàng, Khải có lẽ không đáng nguyền rủa ấy là cái sống lầm than nó<br /> mong gì còn có lúc thoát ly được cái khổ đã bắt buộc người ích kỷ, nó đã tạo ra<br /> đánh đĩ ngòi bút chăng? Nếu vậy thì đổi những con người tàn nhẫn và tham tham”<br /> quách nghề như Kim đã nói” [9; tr.265]. [5; tr.62]. Thứ đến “một cái nhân loại rất<br /> Lúc nào Khải cũng sống trong hoảng hốt, mênh mông, rất bao la rộng rãi, cái nhân<br /> lo sợ, phải gồng mình lên để tránh nợ, để loại hỗn độn đang bị khổ cực, đau đớn,<br /> tự hỏi làm cách nào để kiếm ra tiền. Nhưng điên cuồng vì những lỗi lầm của mọi<br /> chưa lúc nào chàng có thể trả lời câu hỏi ấy người” và “Y náo nức muốn dự một phần<br /> một cách thoả đáng. Cho đến tận ngày nào vào việc xây dựng lại cái nhân loại ấy”<br /> chàng phải thu xếp cùng vợ con về quê, bỏ [5; tr.63]. Nhưng rồi, Thứ đã quên rất<br /> lại Hà thành, bỏ lại giấc mộng văn chương, nhanh những điều mộng tưởng rất đỗi xa<br /> chàng vẫn không thôi trăn trở, khổ đau về xôi ấy: “Nhưng chẳng bao lâu, y lại phải<br /> việc này. trở về thực tế, với cuộc đời chật hẹp của y.<br /> Trong Thiếu quê hương, người đọc có Sau buổi học chiều, y lại phải gặp Oanh”<br /> thể nhận ra nhân vật Bạch khá gần gũi với [5; tr.64]. Anh giáo khổ trường tư đã có lúc<br /> lối sống và thú “xê dịch” của nhà văn dằn vặt: “Y có rất nhiều gánh nặng. Càng<br /> Nguyễn Tuân. Cuộc đời Bạch gắn với nhìn xa, y càng thấy đời y cứ càng ngày<br /> <br /> 142<br /> TRẦN THANH VIỆT<br /> <br /> <br /> càng thắt chặt vào, càng chật chội thêm. Y mà em đọc đến, hẳn em không giấu được<br /> có thể khổ hơn lên, không thể sướng ra” [5; mỉm cười ngạc nhiên rằng sao anh khéo<br /> tr.74-75]. Những gánh nặng như thế bủa nhớ ma mãnh thế. Nhâm đã quên và chắc<br /> vây khiến cho nhân vật Thứ không có lối là bây giờ chẳng còn những ngày rầu rĩ như<br /> thoát. Sự căng thẳng tinh thần thường thế. Tôi thì tôi nhớ dai, nhớ lắm em ạ”<br /> xuyên ở Thứ chính là sự giằng co giữa hai [7; tr.83].<br /> mặt cao thượng và thấp hèn trong cùng một Có thể thấy, sự ra đời của nhiều tự<br /> nhân vật. Nhà văn Vũ Bằng trong Cười truyện trong những năm 40 của thế kỷ XX,<br /> Đông, cười Tây, cười kim, cười cổ [4; cũng đánh dấu mốc thời gian tự truyện dịch<br /> tr.128] kể rằng trong truyện ngắn Cười với chuyển sang tiểu thuyết tâm lý. Ta bắt gặp<br /> trăng đăng trên Tiểu thuyết thứ Bảy, nhân điều đó trong Những ngày thơ ấu (1939)<br /> vật chính đúng là Nam Cao. của Nguyên Hồng, Thiếu quê hương<br /> Trong Những ngày thơ ấu, Nguyên (1940) của Nguyễn Tuân, Mực mài nước<br /> Hồng bộc bạch: “Biết bao nhiêu cảm giác, mắt (1941) của Lan Khai, Cỏ dại (1941)<br /> bao nhiêu ý tưởng, đằm thắm và say sưa đã của Tô Hoài, Cai (1943) của Vũ Bằng và<br /> rung động và mơn man cõi lòng tôi. Tâm Sống mòn (1944) của Nam Cao. Trong hầu<br /> tư tôi không còn lởn vởn những sự phẫn hết những cuốn tự truyện có hướng chuyển<br /> uất ghen hờn nên những cái gì là tốt đẹp sang tiểu thuyết tâm lý, nhân vật chính của<br /> của một trẻ nhỏ đều được hoàn toàn nảy nở tiểu thuyết đúng là những mảnh ghép từ<br /> trong những giấc mơ tươi sáng và quen cuộc đời của chính tác giả, thông qua<br /> quen ấy” [8; tr.290]. Đằng sau những xúc những dòng hồi tưởng chứa chan kỷ niệm<br /> cảm, những dòng nước mắt là sự thương về quá khứ đã trôi qua không trở lại. Khi<br /> yêu của người mẹ đối với đứa con thơ. người đọc được đắm chìm trong quá khứ<br /> Không chỉ trong tiểu thuyết tự truyện này cùng nhân vật chính, tiểu thuyết gần với tự<br /> mà trong nhiều truyện ngắn khác, Nguyên truyện; khi người đọc cùng nhân vật chính<br /> Hồng luôn hồi tưởng lại quá khứ. Quá khứ quay lại thực tại (thời gian trong tác phẩm),<br /> ấy để lại trong lòng đứa trẻ vết sẹo không tiểu thuyết là cuốn tiểu thuyết tâm lý.<br /> dễ liền lại theo thời gian. Đó cũng là sức 3. Xu hướng dịch chuyển chi tiết, sự<br /> hấp dẫn của tự truyện. Sau này Nguyễn kiện xác thực sang chi tiết, sự kiện hoàn<br /> Đăng Mạnh có kể lại rằng, Nguyên Hồng toàn hư cấu<br /> là người dễ xúc động và rất dễ khóc. Đấy là Một đặc điểm nổi bật của một số tiểu<br /> cá tính mà cũng là phong cách của ông, nó thuyết có khuynh hướng tự truyện trong<br /> ảnh hưởng ngay trong văn chương. thời gian này là, tác phẩm chứa đựng nhiều<br /> Tô Hoài viết Cỏ dại hồi tưởng lại chi tiết có thể có thật vì nhân vật chính<br /> quãng thời thơ ấu của chính mình. Bằng chính là tác giả (Những ngày thơ ấu, Cai,<br /> giọng văn hóm hỉnh, dí dỏm, Tô Hoài đưa Cỏ dại). Song ngay cả những chi tiết hiện<br /> người đọc trở ngược lại quá khứ về với lên qua dòng hồi tưởng đầy chủ quan của<br /> tuổi thơ ông, với cái tôi nội cảm đầy tâm tác giả cũng chưa chắc có thật, thậm chí có<br /> trạng của chú bé Bưởi, tên nhân vật chính tác phẩm, tác giả chỉ vận dụng cuộc đời<br /> trong truyện: “Tôi gọi Nhâm vu vơ dưới mình như chất liệu xây dựng nhân vật, cho<br /> ngòi bút, trong ánh đèn dầu đêm mùa xuân nên trong tác phẩm đan xen cả chi tiết có<br /> này. Có khi nào những dòng ký ức của anh thật và chi tiết hư cấu. Trí tưởng tượng của<br /> <br /> 143<br /> XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…<br /> <br /> <br /> nhà văn buộc phải vận dụng mọi tri thức [3; tr. 144]. Rồi người đọc xúc động với<br /> tích luỹ, mọi vốn sống để thực hiện điều tâm tình của Vũ Bằng khi gặp lại Liên<br /> này. Đây là chỗ tạo nên sức hấp dẫn của tự Hường, bạn tình và cũng là bạn nghiện<br /> truyện đồng thời đây cũng là điểm tạo nên năm xưa: “Đến một ngã ba, chúng tôi từ<br /> sự mới lạ, gây sự tò mò của độc giả khi giã nhau như hai người bạn không may<br /> tiếp nhận tiểu thuyết tâm lý (Thiếu quê trên đường đời. Nàng đi về với thuốc<br /> hương, Mực mài nước mắt, Sống mòn). phiện. Còn tôi, tôi đi về... nhà” [3, tr. 208].<br /> Đây là điểm hấp dẫn của tự truyện trong Có thể thấy, trong tự truyện ở giai<br /> giai đoạn này. đoạn này, cốt truyện không bao gồm nhiều<br /> Tự truyện của nhiều nhà văn như Vũ sự kiện, tình tiết éo le. Những biến cố trong<br /> Bằng, Nguyên Hồng, Tô Hoài khá gần gũi cuộc đời của tác giả không được miêu tả tỉ<br /> với tiểu thuyết tâm lý. Việc những tác mỉ với nhiều tình tiết gay cấn. Đổi lại nhà<br /> phẩm như Những ngày thơ ấu, Cai, Cỏ dại văn thoải mái tận dụng những chi tiết,<br /> chứa đựng nhiều chi tiết khó có thể kiểm những biến cố từng xảy ra với mình để bày<br /> chứng đã nói lên điều đó. Sự mập mờ giữa tỏ tâm trạng, chiêm nghiệm, suy tư. Từ<br /> thực và ảo trong việc chọn chi tiết, tổ chức Những ngày thơ ấu (1939) của Nguyên<br /> “lắp ráp” nên hình tượng nhân vật, từ đó Hồng trở đi, đặc điểm nghệ thuật của tự<br /> bộc bạch những tâm sự sâu kín của nhân truyện đã tiệm cận đặc điểm nghệ thuật của<br /> vật mà cũng là tác giả, khiến cho việc đánh tiểu thuyết tâm lý, đó là lấy biểu hiện tâm<br /> giá quá trình dịch chuyển từ tự truyện sang lý, lấy quá trình phân tích tâm lý làm đối<br /> tiểu thuyết tâm lý trở nên phức tạp. Nhưng tượng phản ánh của tiểu thuyết.<br /> cũng vì thế, tác phẩm còn giữ mãi sự cuốn Chính nhà văn Vũ Bằng, trong Khảo<br /> hút người đọc về mặt thể loại, ngay cả khi về tiểu thuyết, [4; tr.56] lưu ý bạn đọc:<br /> tác phẩm được nhà văn ý thức thể loại rất “Một nhân vật sống không cứ phải nói<br /> rõ ràng (trường hợp Cai, Vũ Bằng đặt tên nhiều, hò hét nhiều, hành động nhiều<br /> là hồi ký) thì sự tiếp nhận của người đọc nhưng tự gây ra sự tình, biến cố, chỉ định<br /> vẫn nghiêng về việc xem tác phẩm này là lấy những cảnh ngộ, và cảm nghĩ rất phiền<br /> một tiểu thuyết. Mà một cuốn tiểu thuyết phức. Sống đây là sống tất cả vật chất và<br /> dứt khoát có sự hư cấu, nhiều chi tiết ảo tinh thần, sống cái đời sống bên ngoài và<br /> chứ không thật, nên có những khi nhân vật sống cả cái đời sống bên trong nữa – mà có<br /> chính trong tiểu thuyết Cai đã không chỉ khi lại sống cái đời sống bên trong nhiều<br /> còn là hình bóng của chính nhà văn nữa. hơn đời sống bên ngoài” [4; tr. 56]. Ý kiến<br /> Trong tiểu thuyết Cai, Vũ Bằng hồi tưởng của Vũ Bằng đã chứng minh cho quan<br /> lại những ngày tháng vật vã cắt cơn nghiện điểm sáng tác của nhiều nhà văn lúc bấy<br /> thuốc phiện của chính mình, còn độc giả giờ, rằng viết tự truyện hay tiểu thuyết tâm<br /> khi đọc lại chứng kiến sự biến chuyển lý, việc chú ý gây dựng cho nhân vật cái<br /> trong tâm trạng một nhân vật từng nghiện đời sống bên trong là quan trọng. Chính<br /> thuốc phiện với bao cảm giác đáng sợ: “Tự đời sống bên trong của nhân vật mới đủ tạo<br /> trong thẳm cùng của lòng tôi, nở lên một nên sức hấp dẫn của tác phẩm đối với bạn<br /> cái ý tưởng rất não nùng là mong được chết đọc lúc bấy giờ cũng như sau này. Nhân<br /> đơn độc ở một cái xó xỉnh nào, không có vật có đời sống bên trong là “nhân vật<br /> một con mắt quen thuộc nào trông thấy” sống” theo cách gọi của Vũ Bằng.<br /> <br /> 144<br /> TRẦN THANH VIỆT<br /> <br /> <br /> Rõ ràng là trong tự truyện, những chi Ngoài ra, từ nhân vật Tôi trong Những<br /> tiết, sự kiện thuộc về đời tư của nhà văn ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, nhân vật<br /> trên thực tế chỉ còn là chất liệu, phương Khải trong Mực mài nước mắt của Lan<br /> tiện để nhà văn truyền tải những diễn biến Khai, nhân vật Tôi trong Cai của Vũ Bằng<br /> tâm lý vô cùng tinh vi, phức tạp trong tâm đến nhân vật Thứ trong Sống mòn của Nam<br /> hồn nhân vật chính, tức hình bóng của Cao, tiểu thuyết giai đoạn này đã chứng<br /> chính mình, suy nghĩ của chính mình phản kiến một quá trình vận động và phát triển:<br /> chiếu lại trong cuốn tiểu thuyết. Những giãi dịch chuyển từ việc tập trung miêu tả hành<br /> bày, tâm sự, những dằn vặt, đớn đau khi động của nhân vật sang tập trung miêu tả<br /> hồi tưởng quãng đời đã trải qua lại trở tâm lý nhân vật, dịch chuyển từ việc xây<br /> thành đối tượng chính của cuốn sách. dựng nhân vật có nhiều yếu tố xác thực<br /> Trong khi đó, ở tiểu thuyết tâm lý, chính trong tự truyện sang xây dựng nhân vật<br /> quá trình biến chuyển tâm lý của nhân vật mang nhiều yếu tố hư cấu trong tiểu thuyết<br /> lại là mục đích mà nhà văn hướng tới. tâm lý.<br /> Chính những suy tư, trải nghiệm của nhân Kết luận<br /> vật chính trở thành mục đích của văn Như vậy, văn học Việt nam giai đoạn<br /> chương. Những chuyện trong hiện tại chỉ là 1930 – 1945 đã chứng kiến sự giao thoa<br /> cái cớ khơi gợi cho nhân vật chính hồi nghệ thuật giữa tự truyện với tiểu thuyết<br /> tưởng câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ tâm lý. Nhưng hơn hết, cùng với quá trình<br /> để nghĩ suy, để độc thoại nội tâm, để lý dịch chuyển tiểu thuyết luận đề sang tiểu<br /> giải những gì xảy ra trong hiện tại. Ngay cả thuyết tâm lý của các nhà văn trong nhóm<br /> khi đó, những gì xảy ra trong quá khứ cũng Tự lực văn đoàn, sự giao thoa này khẳng<br /> có thể chỉ còn là cái cớ để nhân vật tỏ bày định xu hướng dịch chuyển từ tự truyện<br /> tâm sự mà thôi. sang tiểu thuyết tâm lý với những dấu hiệu<br /> Trong tự truyện của Nguyên Hồng, Tô nổi bật như những mảnh ghép số phận của<br /> Hoài, Vũ Bằng.., từ việc sắp đặt các chi nhân vật trong tiểu thuyết tâm lý song<br /> tiết, sự kiện ít mang tính xác thực đến việc trùng với những mảnh ghép cuộc đời của<br /> tăng cường các tình huống tâm lý để lôi chính tác giả và những chi tiết, sự kiện<br /> cuốn người đọc dõi theo những diễn biến trong tự truyện lung linh giữa hai bờ thực<br /> tâm lý phức tạp của nhân vật, đã chứng tỏ và ảo, khó kiểm chứng khiến cho tự truyện<br /> quá trình dịch chuyển từ tự truyện sang tiểu gần gũi với tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tự<br /> thuyết tâm lý diễn ra một cách liên tục. truyện với tiểu thuyết tâm lý là ở chỗ đó.<br /> Quá trình này được đánh dấu bởi hàng loạt Đích đi đến của nhà văn viết tự truyện là<br /> những tác phẩm như Những ngày thơ ấu phân tích tâm lý. Đích đi đến của nhà viết<br /> (1939) của Nguyên Hồng, Mực mài nước tiểu thuyết cũng chính là quá trình phân<br /> mắt (1941) của Lan Khai, Cai (1943) của tích tâm lý. Từ cơ sở trên, chúng tôi đi đến<br /> Vũ Bằng, Cỏ dại (1944) của Tô Hoài, Sống nhận định: tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn<br /> mòn (1944) của Nam Cao... Việc tăng 1930 – 1945 có sự dịch chuyển mạnh mẽ<br /> cường tình huống tâm lý, tăng cường ngôn từ tự truyện sang tiểu thuyết tâm lý. Điều<br /> từ miêu tả cảm xúc để xây dựng nhân vật đó chứng tỏ tiểu thuyết hiện đại nước nhà<br /> trong tự truyện đã góp phần tạo nên quá đã đạt được thành tựu rất lớn góp phần<br /> trình dịch chuyển nói trên. hoàn tất quá trình hiện đại hoá nền văn học<br /> <br /> 145<br /> XU HƯỚNG DỊCH CHUYỂN TỰ TRUYỆN SANG TIỂU THUYẾT TÂM LÝ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM…<br /> <br /> <br /> Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. 5. Nam Cao (2002), Nam Cao toàn tập tập 2,<br /> Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO 6. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi<br /> 1. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (2006), Từ điển tác (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo<br /> phẩm văn xuôi Việt Nam tập 1, Nxb Giáo dục, dục, Hà Nội.<br /> Hà Nội. 7. Tô Hoài (1995), Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> 2. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn 8. Nguyên Hồng (2004), Bỉ vỏ, Những ngày thơ<br /> học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. ấu, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.<br /> 3. Vũ Bằng (2006), Vũ Bằng toàn tập tập 1, Nxb 9. Lan Khai (1999), Mực mài nước mắt, Nxb<br /> Văn học, Hà Nội. Hội Nhà văn, Hà Nội.<br /> 4. Vũ Bằng (2006), Vũ Bằng toàn tập tập 4, Nxb 10. Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân toàn tập<br /> Văn học, Hà Nội. tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.<br /> <br /> <br /> Ngày nhận bài: 28/10/2017 Biên tập xong: 15/7/2018 Duyệt đăng: 20/7/2018<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 146<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0