TR¦êNG §¹I HäC V¡N HO¸ Hμ NéI
Khoa v¨n hãa häc
--------------------
NGUYÔN THU HIỀN
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ
BIẾN ĐỔI VĂN HOÁ TẠI
ĐÔNG TÂN – ĐÔNG HƯNG – THÁI BÌNH
NG¦êI h−íng dÉn khoa häc: TH.S HOμNG KIM THANH
Hμ Néi - 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Xuất khẩu lao động và
biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình”, tôi đã nhận được sự
chỉ bảo, giúp đỡ của nhiều cá nhân, tập thể. Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến ThS. Hoàng Kim Thanh- giảng viên đã trực tiếp hướng dẫn, quan
tâm, giúp đỡ tận tình trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trong khoa Văn hóa học, Trường
Đại học Văn hóa Hà Nội đã tận tình truyền đạt, trang bị cho tôi những kỹ năng
và kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới UBND xã Đông Tân đã cung cấp
cho tôi những thông tin giúp tôi có thể hoàn thành được đề tài nghiên cứu.
Cảm ơn bà con nhân dân xã Đông Tân đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình thực hiện khảo sát đề tài.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện khóa luận, không thể tránh được
những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô và
bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm…
Sinh viên
Nguyễn Thu Hiền
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG .................................................................... 7
1.1 Các khái niệm .................................................................................................. 7
1.1.1Khái niệm văn hóa ...................................................................................... 7
1.1.2 Cơ sở về biến đổi văn hóa ........................................................................ 9
1.1.3 Khái niệm xuất khẩu lao động .............................................................. 15
1.2. Qúa trình phát triển của hoạt động XKLĐ tại Đông Tân-Đông Hưng-
Thái Bình ............................................................................................................ 18
1.2.1.Khái quát những nét cơ bản về đời sống văn hóa-xã hội tại Đông Tân-
Đông Hưng-Thái Bình.................................................................................... 18
1.2.2 Hoạt động XKLĐ tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình ..................... 20
Chương 2: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI ĐÔNG TÂN- .............................................. 21
ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH ............................................................................. 21
2.1 Những biểu hiện của sự biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái
Bình hiện nay ..................................................................................................... 21
2.1.1 Biến đổi trong mối quan hệ ứng xử của các thành viên trong gia đình
......................................................................................................................... 21
2.1.2 Sự thay đổi quan niệm về giới trong gia đình và ngoài xã hội ............ 26
2.1.3 Biến đổi nhu cầu văn hóa-giáo dục-giải trí .......................................... 31
2.1.4Biến đổi về phong tục,tập quán ,tín ngưỡng ......................................... 35
2.2 Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi .............................................................. 37
Chương 3: NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ GÍUP CHO VIỆC
DUNG HÒA GIỮA HOẠT ĐỘNG XKLĐ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TẠI ĐÔNG TÂN-ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH HIỆN NAY ......................... 41
3.1 Đánh giá tác động của XKLĐ đến văn hóa địa bàn nghiên cứu ............ 41
3.1.1 Yếu tố tích cực ....................................................................................... 41
3.1.2 Yếu tố tiêu cực ........................................................................................ 42
3.2 Một số kiến nghị nhằm gìn giữ,bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa
tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình trong giai đoạn hiện nay .................... 44
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 48
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ Viết tắt Chữ Viết đầy đủ
-Xuất khẩu lao động -XKLĐ
-Biến đổi văn hóa -BĐVH
-Nhà xuất bản -NXB
-Đầu tư trực tiếp nước ngoài -FDI
1
MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam đã gia nhập tổ chức kinh tế thế giới WTO,đã và đang trong
quá trình hội nhập kinh tê quốc tế một cách sâu rộng nên việc mở rộng quan
hệ thương mại với các nước trên thế giới và trong khu vực là một điều tất
yếu.Trong xã hội hiện đại,việc giao thông đã thông suốt tạo điều kiện cho con
người dễ dàng di chuyển từ nước này sang nước khác.Tuy không nhộn nhịp
như các ngành khoa học và công nghệ,lao động cũng là một yếu tố sản xuất
ngày càng vượt biên giới tìm đến nơi có mức thù lao cao hơn. Việt Nam là
một nước có tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cao,theo số liệu của Tổng cục
thống kê cho thấy, hiện nay,mỗi năm nước ta có khoảng 1,4-1,6 triệu người
bổ sung và lực lượng lao động.Sự dồi dào của lực lượng này trên lý thuyết tạo
ra cơ hội vàng cho sự phát triển kinh tế.Tuy nhiên,đây lại là một thách thức
không hề nhỏ về sức ép việc làm cho người lao động.Bên cạnh đó,tình trạng
đô thị hóa ngày càng mạnh,nông dân mất đất,không tìm được việc làm phù
hợp, và phần lớn những người nông dân mất đất chủ yếu đang trong độ tuổi
lao động.Nếu lực lượng lao động dồi dào này không có tư liệu sản xuất ,họ
không thể làm ra của cải vật chất để nuôi sống chính họ, hậu quả sẽ kéo dài
mãi về sau,trong khi nguồn nhân lực lại lãng phí.Giá trị tích lũy không có
hoặc thấp, Nhà nước sẽ không đủ nguồn lực tài chính để chi trả cho phúc lợi
xã hội khi “Dân số già”.
Mặt khác,chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là dành nhiều
nguồn lực cho việc xóa đói giảm nghèo.Cùng với đề án xóa đói giảm nghèo
cho 61 huyện nghèo nhất nước của chính phủ.Bộ Lao động-Thương Binh-Xã
hội cũng đang gấp rút hoàn thiện đề án hỗ trợ ,đẩy mạnh XKLĐ tại các
2
huyện nghèo.Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện ở thị
trường trong nước mà còn chú trọng phát triển ở cả các thị trường ngoài .
Trong khi nguồn lao động của nước ta đang dôi dư thì nhiều quốc gia
trên thế giới lại khan hiếm nguồn lao động như Nhật Bản,Hàn Quốc,vùng lãnh
thổ Đài Loan,Ma Cao,hay nhiều nước thuộc khu vực trung đông.Việc luân
chuyển nguồn lao động giữa các quốc gia vừa đảm bảo cho hoạt động sản xuất
thông suốt vừa mang lại nguồn lợi nhuận,trước hết giúp ích cho đời sống người
lao động mặt khác mang lại nguồn thu ngoại tệ đáng kể cho nhà nước.
Vì vậy XKLĐ hiện đang được quan tâm rất nhiều.
Do hoàn cảnh lịch sử và những điều kiện riêng biệt,Việt Nam tham gia
vào thị trường lao động quốc tế tương đối muộn so với các nước trong khu vực.
Tuy tham gia muộn nhưng không có nghĩa những tác động bên ngoài không có
ảnh hưởng đến các lĩnh vực trong nước,trong đó văn hóa cũng không nằm
ngoài quy luật trên.XKLĐ đồng nghĩa với việc một lượng người mang văn hóa
từ đất nước này sang đất nước khác,đồng thời tiếp thu những yếu tố văn hóa
mới mang về đất nước của họ,tạo nên sự biến đổi văn hóa.Quá trình này diễn ra
âm ỉ và lâu dài.
Đông Tân là một xã có tỷ lệ người xuất khẩu lao động khá cao với thị
trường XKLĐ tương đối phong phú.Từ những năm đầu,khi đất nước bắt đầu
tiến hành chủ trương đưa lao động Việt ra nước ngoài,tại xã đã có nhiều con
em rời quê hương đi làm ăn .Hiện nay,bên cạnh nghề làm nông thì XKLĐ
được coi là nguồn thu nhập kinh tế chủ yếu của xã.Do lượng người XKLĐ
lớn nên biểu hiện biến đổi văn hóa của vùng khá rõ nét,đi đôi với bộ mặt nông
thôn có những sự đổi thay,vì thế tôi lựa chọn địa phương này để tiến hành
nghiên cứu về sự BĐVH tại vùng XKLĐ.
3
Đề tài “Xuất khẩu lao động và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông
Hưng-Thái Bình”được triển khai nhằm phác họa những nét cơ bản về bộ mặt
đời sống nông thôn thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế,những mặt hạn chế,những
mặt tích cực để đẩy mạnh những giá trị văn hóa tốt đẹp ,cũng như bài trừ
những tác động xấu ảnh hưởng không tốt đến đời sống văn hóa địa phương.
2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Trong những năm qua, đã có nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu
về đề tài xuất khẩu lao động.
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu tiêu biểu như những
luận án tiến sỹ kinh tế của :
-Nguyễn Lương Trào (1990) :Mở rộng và nâng cao hiệu quả việc
đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
-Trần văn Hằng (1995), Các giải pháp nhằm đổi mới quản lý nhà nước
về xuất khẩu lao động trong giai đoạn 1995-2010
- Luận án tiến sỹ; Nguyễn Đình Thiện (2000): Một số vấn đề xuất
khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị; Lưu Văn Hưng (2005): Xuất
khẩu lao động của Việt Nam sang khu vực Đông Bắc á - Thực trạng và giải
pháp
- Luận văn thạc sỹ Kinh tế chính trị:Võ Thị Tuyết Mai : Vai trò của
nhà nước đối với xuất khẩu lao động kinh nghiệm của một số nước và vận
dụng vào Việt Nam
- Luận án tốt nghiệp: Nguyễn Thị Thu Thảo: Xuất khẩu lao động Việt
Nam sang Trung Đông
4
Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trong đó
có thể kể đến:
-Nguyễn Lương Phương (2002) : Hoạt động xuất khẩu lao động và
chuyên gia và những giải pháp pháp lý trong tình hình mới – Tạp chí
những vấn đề kinh tế thế giới – Số 1(75)
- Nguyễn Thị Hằng (2003), Đẩy mạnh xuất khẩu lao động khu vực
nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo - Tạp chí Cộng sản Số 4 – 5
-Phạm Thị Khanh (2004) Phát triển thị trường xuất khẩu lao
động của Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế – Tạp chí Nghiên
cứu kinh tế – Số 314
Các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấn đề lao động ở
nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó chủ yếu tập trung phân tích và đánh
giá tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
Tuy nhiên, việc khai thác khía cạnh văn hóa trong hoạt động XKLĐ
vẫn chưa được quan tâm,Hiện tại đây vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ,cần sự vào
cuộc các nhà nghiên cứu để đưa định hướng đưa hoạt động xuất khẩu vào tiến
trình hiện đại hóa cũng như quảng bá văn hóa Việt ra thế giới.
3.MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Mục đích của đề tài này là đi sâu tìm hiểu sự biến đổi văn hóa đi đôi
với hoạt động XKLĐ,qua đó thấy được sự tác động của hoạt động XKLĐ lên
đời sống văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.Thông qua việc tìm
hiểu nghiên cứu sự biến đổi văn hóa tại địa phương rút ra kinh nghiệm cho
5
việc xây dựng chính sách văn hóa phù hợp với thực tế khách quanthời kỳ hội
nhập quốc tế.
3.2. Nhiêm vụ
Từ mục đích nghiên cứu trên,nhiệm vụ của đề tài là khảo sát thực tế,tìm
hiểu nguyên,đánh giá ảnh hưởng của XKLĐ đến đời sống văn hóa xã Đông Tân.
Tìm ra giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực,hạn chế mặt tiêu
cực dưới tác động của XKLĐ đến đời sống văn hóa địa bàn nghiên cứu.
4.ĐỐI TƯỢNG,PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng
Đề tài nghiên cứu sự biến đổi văn hóa gắn với hoạt động xuất khẩu lao
động nên đối tượng chủ yếu của đề tài là:
Thực trạng của hoạt động XKLĐ
Tác động của hoạt động XKLĐ đến sự biến đổi văn hóa tại Đông Tân-
Đông Hưng-Thái Bình.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Về diện vấn đề nghiên cứu, do thị trường lao động xuất khẩu khá
rộng nên đề tài chỉ tập trung nghiên hình thức xuất khẩu lao động trực tiếp
-Về không gian: địa bàn xã Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.
Về thời gian : Tính từ thời điểm năm 1999 đến tháng 6 năm 2014
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu thực địa trong đó sử dụng ba phương pháp
chính: quan sát,phỏng vấn sâu,bảng hỏi.
Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp
Phương pháp phân tích,so sánh,tổng hợp
6
6.BỐ CỤC CỦA KHÓA LUẬN
Ngoài Mở đầu (6 trang), Kết luận (1 trang), Tài liệu tham khảo (1
trang), Chú thích và Phụ lục (15 trang), nội dung chính của Luận văn được chia
làm 03 chương:
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG
Chương 2: : THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI ĐÔNG TÂN-ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH
Chương 3: : NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GÍUP CHO
VIỆC DUNG HÒA GIỮA HOẠT ĐỘNG XKLĐ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA TẠI ĐÔNG TÂN-ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH HIỆN NAY
7
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1Các khái niệm
1.1.1Khái niệm văn hóa
Từ "văn hóa" có nhiều nghĩa, nó được dùng để chỉ những khái niệm có
nội hàm hết sức khác nhau. Trong tiếng Việt, văn hóa được dùng theo nghĩa
thông dụng để chỉ học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa);
theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ văn minh của một giai đoạn (văn hóa
Đông Sơn),... "Đề cương về văn hóa Việt Nam" của Đảng Cộng sản Đông
Dương năm 1943 đã xếp văn hóa bên cạnh kinh tế, chính trị và xem nó bao
gồm cả tư tưởng, học thuật (= khoa học, giáo dục), nghệ thuật. Ủy ban
UNESCO của Liên hiệp quốc thì xếp văn hóa bên cạnh khoa học và giáo dục,
tức là đặt hai lĩnh vực này ra ngoài khái niệm văn hóa.
Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: "Đối với một số
người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác trong các lĩnh vực tư duy và sáng
tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân
tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho
đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai
này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các
chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise". Chính với cách hiểu rộng này,
VĂN HÓA mới là đối tượng đích thực của VĂN HÓA HỌC.
Trong các công trình nghiên cứu, ngay cả với một cách hiểu cũng đã có
rất nhiều định nghĩa khác nhau.
Với đề tài “Xuất khẩu lao động và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông
Hưng-Thái Bình” chúng tôi sử dụng một số định nghĩa về văn hóa của một số
nhà nghiên cứu:
8
Định nghĩa văn hóa của G/S Đào Duy Anh “ Văn hóa chỉ chung tất cả
các phương tiện sinh hoạt"
Định nghĩa ngắn gọn nhưng nêu lên tính thực tiễn của văn hóa.Văn hóa
luôn gắn liền với đời sống xã hội,biểu hiện qua các phương tiện sinh hoạt đảm
bảo nhu cầu sinh hoạt của con người.Khi các phương tiện sinh hoạt thay đổi
nó sẽ làm biến đổi văn hóa.
Bên cạnh đó,định nghĩa văn hóa của giáo sư Trần Ngọc Thêm phát
triển từ định nghĩa của nhà nhân E.B.Taylor : “Văn hoá là một hệ thống hữu
cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá
trình hoạt động thực tiễn” đã khái quát văn hóa dưới cái nhìn văn hóa gắn
với giá trị.Các giá trị đó được biểu hiện thông qua hai yếu tố cấu thành văn
hóa đó là vật chất và tinh thần,biến đổi văn hóa chính là biến đổi giá trị vật
chất,tinh thần làm thay đổi cơ bản bộ mặt của đời sống xã hội.
Hai khái niệm văn hóa như trên xét ở góc độ định nghĩa đã giải quyết
được câu hỏi được đặt ra: Văn hóa là gì?.Tuy nhiên để áp dụng vào nghiên
cứu cụ thể các biến đổi văn hóa trong quá trình diễn ra hoạt động XKLĐ
chúng ta có thể tham khảo định nghĩa của GS-TS Hoàng Vinh:
“Văn hóa là toàn bộ sáng tạo của con người,tích lũy lại trong quá trình
hoạt động thực tiễn,hoạt động xã hội,được đúc kết thành hệ giá trị và chuẩn
mực xã hội,biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa,hệ tư tưởng văn hóa của
cộng đồng người.Hệ giá trị xã hội là một thành tố cốt lõi làm nên bản sắc
riêng của cộng đồng xã hội,họ có khả năng chi phối đời sống tâm lý và mọi
hoạt động của những người sống trong cộng đồng xã hội.” [5,tr43]
Định nghĩa của giáo sư Hoàng Vinh là định nghĩa khá đầy đủ về văn
hóa,nêu bật được cốt lõi của văn hóa nằm ở các giá trị và chuẩn mực xã
hội.Bản chất của BĐVH chính là biến đổi về các giá trị và các chuẩn mực xã
9
hội đang chiếm lĩnh cộng đồng và chi phối các thành viên nằm trong cộng
đồng đó.
1.1.2 Cơ sở về biến đổi văn hóa
Các lý thuyết về biến đổi văn hóa được hình thành chủ yếu dựa trên các
lý thuyết về biến đổi xã hội được các học giả phương Tây xây dựng
trong ngành nhân học và xã hội học, ở đó biến đổi xã hội là một quá trình qua
đó cáckhuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã
hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian. Với quan
điểm này, văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, cũng tự không ngừng
biến đổi. Sự ổn định chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không
ngừng thay đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn
hóa nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến
đổi; sự biến đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn. Mọi cái
đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực khách quan khác, không
ngừng vận động và thay đổi, với một thực trạng đứng yên trong sự vận động
liên tục.
Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống
nhau giữa các xã hội; với những khác biệt về phạm vi, thời gian và hệ quả.
Đó là một quá trình mang tính chủ động của các lực lượng trong xã hội hay
mang tính phi kế hoạch, nghĩa là đó là một tiến trình tự nhiên, khách quan.
Thường thì có sự phân chia giữa biến đối vĩ mô và vi mô, để chỉ những tầm
mức biến đổi khác khau trong đời sống xã hội. Khái niệm biến đổi là
một thuật ngữ không chỉ định hướng giá trị mà thể hiện một sự mô phỏng
của một nền văn hóa hay cấu trúc xã hội hiện hữu, không hàm nghĩa là một
phán quyết giá trị chứ không phải là một lời tường thuật về một sự kiện hay
hiện tượng xã hội.
10
Các ngành nhân học và xã hội học khi xem xét đến sự phát triển của xã
hội, đã đưa ra một số lý thuyết để giải thích tại sao biến đổi xã hội lại xảy ra
và dự đoán những biến đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Một số cách tiếp cận
chủ yếu về biến đổi xã hội thường được xem xét đến là:
(1) Cách tiếp cận theo chu kỳ: Trong lịch sử loài người, sự hiểu biết
về chukỳ của những biến đổi xã hội đã ăn sâu vào ý nghĩ của con người, chu
kỳ của tự nhiên, mặt trời mọc và lặn, quy luật bốn mùa thay đổi của một năm
và sự lặp lại của tự nhiên, đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận
thức của con người về sự biến đổi xã hội. Nhân loại hiểu rằng, lịch sử được
lặp lại mãi trong những chu kỳ không bao giờ kết thúc. Các nhà khoa học và
sử học trước đây nhìn chung đều phản đối những tư tưởng này, mặc dù họ cho
rằng các xã hội có những chu kỳ sống của nó, và mỗi xã hội được sinh
ra trưởng thành, rồi sau đó biến mất. Một số nhà lý thuyết, như Amold
Toybee lại có quan điểm tương tự, nhưng ông phản đối "sự không thể tránh
được"của sự suy tàn và cho rằng "những nỗ lực được tạo nên bởi con người
có thể cho phép văn minh hóa đối với sự sống". Trong khi đó Pitirim Sorokin
lại đưa ra lý thuyết chu kỳ về sự biến đổi với một bước tiến xa hơn, và cho
rằng sự văn minh hóa được dao động trong ba kiểu của "những trạng thái
tâm lý" ho ặc rộng hơn - kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng -
trong tất cả các hệ thống văn hóa, sự biến đổi xuất hiện khi mô hình cụ thể
của suy nghĩ nắm được giới hạn logic của nó.
(2) Các quan điểm tiến hóa: với hai mô hình kinh điển và quan điểm tiến
hóa mới. Mô hình kinh điểnlà những mô hình được lấy từ khoa học sinh học,
đã giành được vị trí ở thế kỷ XIX, nhiều nhà xã hội học đã tán thành với lý
thuyết phổ biến được gọi là sự tiến hóa một chiều, sự tiến hóa theo lộ trình dọc,
chỉ tiến về phía trước chứ không lùi hoặc đi ngược về phía sau cho rằng tất cả
các hình thức sống, tất cả các xã hội đều tiến hóa từ những hình thứcđơn giản
11
đến phức tạp, với mỗi hình thức sau xa hơn những hình thức trước nó, với các
học giả như Auguste Comte, Herbert Spencer, Émile Durkhem.
Thế kỷ XX, những mô hình ở thế kỷ trước đã mô tả biến đổi xã hội như
là sự tiếp tục và không thể thay đổi được thay thế bằng cái nhìn tinh tế hơn.
Những lý thuyết tiến hóa mới, hiểu biết về các xã hội khác nhau tùy thuộc vào
mức độ phức tạp của xã hội và qua thời gian một khuynh hướng chung đi tới
sự khác biệt xã hội (kinh tế, gia đình, tôn giáo, chính trị,...) trở thành sự phân
chia và khác biệt giữa các thành phần trong một xã hội tổng thể. Không giống
như các nhà nghiên cứu lý thuyết tiến hóa ở thế kỷ XIX, các nhà lý thuyết tiến
hóa mới không mô tả một hình thức của xã hội như là một sự tuyệt đối, cũng
không khẳng định rằng, các xã hội không thể tiến hóa tới một vài thực trạng
cao hơn.
(3) Quan điểm xung đột: với một học giả tiêu biểu là Karl Marx,
với quan điểm các xã hội phải chuyển đổi để tồn tại và ông không nhấn
mạnh rằng kinh tế phục vụ như là sự thành lập cho trật tự xã hội. Được xếp
vào các nhà lý thuyết theo chủ nghĩa xung đột đối kháng, Marx đã triển khai
một lý thuyết tiến hóa về sự biến đổi xã hội. Dựa vào sự thay đổi liên tục
trong kỹ thuật mà các xã hội tiến từ đơn giản đến phức tạp. Ở mỗi một trạng
thái, một xã hội tiềm ẩn những điều kiện tự hủy diệt, và những điều kiện này
cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến đổi và đưa xã hội vào trạng thái tiếp sau đó. Karl
Marx có cái nhìn về quá trìnhhiện đại hóa rất khác biệt với những nhà tư
tưởng xã hội khác, bởi lẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu thuẫn xã
hội. Marx cho rằng xã hội hiện đại đồng nghĩa với xã hội tư bản, một hệ thống
kinh tế được sản sinh do đấu tranh giai cấp vào cuối thời kỳtrung cổ. Giai cấp
tư sản nắm giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách mạng công nghiệp
đem lại và đã thành công trong việc thay thế giai cấp quý tộc. Karl Marx
cũng không phủ nhận rằng sự hình thành tính hiện đại có liên quan đến sự suy
12
tàn của cộng đồng có quy mô nhỏ, đến sự phân công lao động gia tăng và sự
xuất hiện của thế giới duy lý. Marx cho rằng, cả ba yếu tố này đều cần thiết
cho việc phát triển chủ nghĩa tư bản. Chính chủ nghĩa tư bản đã kéo theo
những người nông dân từ vùng nông thôn về các đô thị với hệ thống thị
trường không ngừng phát triển. Sự chuyên môn hóa là cơ sở cho sự vận hành
các xí nghiệp; tính duy lý thể hiện rõ trong xã hội tư bản. Ông tin rằng mẫu
thuẫn xã hội trong xã hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng xã hội, và rồi
theo quyluật tiến hóa, xã hội này sẽ được thay thế bằng một xã hội khác công
bằng hơn, nhân đạo hơn.
(4) Quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội: Các nhà nhân học và xã hội
học ngày nay cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố -cả yếu tố bên
trong và yếu tốbên ngoài của nhiều yếu tố -tạo nên sự biến đổi. Mặc dù trong
những hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định, các yếu tố cụ thể đôi lúc có thể
ảnh hưởng nhiều hơn những yếu tố khác. Những yếu tố được các nhà
lý thuyết hiện đại quan tâm khi xem xét về biến đổi xã hội, như: môi trường
vật chất, kỹ thuật -công nghệ, dân số, giao lưu… Các lý thuyết hiện đại hóa,
lý thuyết hệ thống thế giới, lý thuyết phụ thuộc là những tiếp cận mới trong
quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội, ở đó, các nhà khoa học đã đưa ra
những cách lý giải đa diện hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ,
các thành tựu khoa học công nghệ phát triển, thế giới ngày càng phụ thuộc
nhau. Lần đầu tiên, các nhà khoa học đã thừa nhận các yếu tố phi vật chất, vô
hình cũng có thể làm biến đổi mạnh mẽ các xã hội và nền văn hóa, như tư
tưởng, quản lý xã hội… Tính hiện đại là một thuật ngữ xuyên suốt trong quan
điểm hiện đại về sự biến đổi, Ví dụ, trong lý thuyết hệ thống xã hội,
Parsons coi tiểu hệ thống văn hóa là hệ thống có nhiều thông tin nhất và nó
kiểm sát các tiểu hệ thống khác. Các nhà nhân học và xã hội học đều cho
rằng, tư tưởng có thể giúp cho xã hội giữ nguyên trạng thái hoặc có thể kích
13
thích sự biến đổi xã hội nếu những niềm tin và chuẩn mực xã hội không còn
phù hợp với nhu cầu củaxã hội. Văn hóa được biến đổi là do các yếu tố chính
trị, kinh tế và xã hội khác, cũng như nó phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên và
sinh thái khác.
Biến đổi văn hoá đã được đề cập đến trong các khoa học xã hội như
một chủ đề trọng tâm của thế kỷ XX và XXI.Trên nền tảng lý thuyết mang
tính khái quát hóa cao như ở trên, với các nghiên cứu về từng hiện tượng văn
hóa cụ thể, đã có những triển khai để xây dựng các khung lý thuyết để làm cơ
sở cho các nghiên cứu thực địa.
Xem xét sự biến đổi văn hóa trong thời kỳ XKLĐ, nổi lên một tiếp cận
coi tiến trình biến đổi văn hóa phụ thuộc vào các yếu tố chính trị, kinh tế, xã
hội. Tiến trình này lại mang tính đặc thù của từng khu vực, cộng đồng dân cư.
Sự biến đổi kinh tế xã hội và những thay đổi về hành chính, đất đai, chính
sách nông nghiệp… là những tiền đề trực tiếp tác động đến biến đổi văn hóa,
với các tác giảnhư Tô Duy Hợp, Nguyễn Văn Chính, Lương Hồng Quang,
Nguyễn Thị Phương Châm và nhiều tác giả khác. Cuốn sách Biến đổi văn
hóa ở các làng quê hiện nay của Nguyễn Thị Phương Châm là một trong
sốnhững công trình nghiên cứu về chủ đề này.
Tác giả đã đưa ra một mô hình phân tích. Sự biến đổi đầu tiên và quan
trọng nhất làm nên diện mạo mới ở nông thôn hiện nay là do biến đổi
về nghề nghiệp. Từ sự chuyển đổi nghề nghiệp đến những tác động của quá
trình công nghiệp hóa, đô thị hóa đ ã làm cho đời sống xã hội của dân cư ba
làng có những thay đổi nhanh chóng. Từ nền tảng này, tác giả đi vào trả lời
cho câu hỏi chính của vấn đề quan tâm, đó là văn hóa làng xã đang biến đổi
như thế nào trong quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa hiện nay? Để trả
14
lời cho câu hỏi này tác giả đã tập trung phân tích trong bốn lĩnh vực
chủ yếu:
(1) Không gian và cảnh quan làng
(2) Di tích, tín ngưỡng và lễhội
(3) Phong tục tập quán
(4) Sựtiếp cận thông tin và các loại hình giải trí.
Hệ quả của sự biến đổi này là:
(1) Không gian của làng nay đã rất khác không gian của làng xưa:
mởhơn, thoáng đạt hơn, nhiều sựgiao lưu hơn, tính chất công nghiệp, đô thị
đã thểhiện rõ và ăn sâu vào trong cả nếp nghĩvà lối sống của dân làng;
(2) Di tích, lễhội, tín ngưỡng đều được đưa trởlại với vai trò đặc biệt
của chúng trong đời sống tâm linh bằng nhiều hình thức khác nhau như
trùng tu lại di tích, dựng lại các lễhội, thực hành và phát triển tín ngưỡng;
(3) Các phong tục tập quán có sự đan xen và giao lưu rõ rệt giữa làng
và phố, hiện đại và truyền thống;
(4) Tiếp cận thông tin và đa dạng hóa các loại hình giải trí, đặc biệt là
sự cố kết người dân theo mạng lưới quan hệvà lợi ích trong làng, là những
biểu hiệnnổi bật của sựbiến đổi và hình thành những yếu tốvăn hóa mới ởba
làng quê này.
Hệ quả của quá trình biến đổi trên là:
(1) Phục hồi văn hóa truyền thống trong bối cảnh làng quê hiện đại
(2) Nhu cầu hướng về văn hóa tâm linh của dân làng thời hiện đại
(3) Xuất hiện những “tệ nạn” mới. Quá trình phục hồi văn hóa truyền
thống ở các làng quê hiện nay đi cùng với quá trình tái cấu trúc, lựa chọn và
15
biến đổi các yếu tố văn hóa truyền thống trong bối cảnh làng quê hiện đại.
Quá trình phục hồi văn hóa và tái cấu trúc văn hóa truyền thống trong xã hội
hiện đại ở các làng quê cũng đang đặt ra hàng loạt các vấn đề bất cập như:
môi trường, không gian sống, hoạt động sản xuất, đất đai, mối quan hệ giữa
nhà nước và cộng đồng dân cư. Đây là một trong những nghiên cứu điển hình
về biến đổi của các cộng đồng dân cư nông thôn trong bối cảnh công nghiệp
hóa ở nước ta hiện nay, gợi ý nhiều cho tác giả luận án những ý tưởng về lý
thuyết nghiên cứu.
Đối với các cộng đồng dân cư có hoạt động XKLĐ về mặt lý luận, cần
phải giải quyết các câu hỏi lớn sau:
(1) xác định được các yếu tố tác động, trong đó lớn nhất là biến đổi về
nghề nghiệp và sự biến động cơ cấu dân cư bởi sự di dân của một bộ phận dân
nhập cư đã ảnh hưởng như thế nào đến đời sống văn hóa?
(2) Trong bối cảnh đó, các hình thái văn hóa truyền thống và văn hóa
mới đã tương tác và ảnh hưởng lẫn nhau ra sao;
(3) Trước các biến đổi này, cần xác lập những mô hình quản lý văn hóa
thích hợp nào để đáp ứng với tiến trình biến đổi này.
1.1.3 Khái niệm xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động là hoạt động mua-bán hàng hóa sức lao động nội
địa cho người sử dụng lao động nước ngoài.
Người sử dụng lao động nước ngoài ở đây chính là chính phủ nước
ngoài hay cơ quan, tổ chức kinh tế nước ngoài có nhu cầu sử dụng
lao động trong nước.
+Hàng hóa sức lao động nội địa : là muốn nói tới lực lượng lao
độngtrong nước sẵn sàng cung cấp sức lao động của mình cho người sử dụng
lao động nước ngoài.
16
Hoạt động mua-bán : thể hiện ở chỗ người lao động trong nước sẽ
bán quyền sử dụng sức lao động của mình trong một khoảng thời gian nhất
định cho người sử dụng lao động nước ngoài để nhận về một khoản tiền
dưới hình thức tiền lương. Còn người sử dụng nước ngoài sẽ dùng tiền của
mình mua sức lao động của người lao động, yêu cầu họ phải thực
hiện công việc nhất định nào đó (do hai bên thỏa thuận) theo ý muốn
của mình.
Những hoạt động mua-bán này có một điểm đặc biệt đáng lưu ý
là : quan hệ mua-bán chưa thể chấm dứt ngay được vì sức lao động không thể
tách rời người lao động. Quan hệ này khởi đầu cho một quan hệ mới_quan hệ
lao động. Và quan hệ lao động sẽ chỉ thực sự chấm dứt khi hợp đồng lao động
ký kết giữa hai bên hết hiệu lực hoặc bị xóa bỏ hiệu lực theo thỏa thuận
của hai bên.
Xuất khẩu lao động gồm hai nội dung :
- Đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài
- Xuất khẩu lao động tại chỗ ( Xuất khẩu lao động nội biên ) : người
lao động trong nước làm việc cho các doanh nghiệp FDI, các tổ chức
quốc tế qua Internet.
Xét về nội dung: đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài Người lao động ở đây bao gồm: người lao động làm các công
việc phổ thông, sản xuất , giúp việc….(những công việc ít đòi hỏi
trình độ chuyên môn), chuyên gia, tu nghiệp sinh.
Các hình thức xuất khẩu lao động :
Hình thức xuất khẩu lao động : là cách thức thực hiện việc đưa người
lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài do nhà nước qui định
17
Ở Đông Tân cho đến nay tồn tại các hình thức sau :
-Cung ứng lao động ra nước ngoài :
+ Nội dung : Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động sẽ tuyển lao động
Việt Nam đi làm việc ở nướcngoài theo các hợp đồng cung ứng lao động.
+ Đặc điểm :
(cid:31) Các doanh nghiệp tự mình đảm nhiệm tất cả các khâu từ
tuyển chọn đến đào tạo, đưa đi và quản lý người lao động ở nước ngoài
(cid:31) Các yêu cầu về tổ chức lao động do phía nước tiếp nhận đặt ra
(cid:31) Quan hệ lao động được điều chỉnh bởi pháp luật của nước tiếp nhận
(cid:31) Quá trình làm việc là ở nước ngoài, người lao động chịu sự quản lý
trực tiếp của người sử dụng lao động nước ngoài
(cid:31) Quyền và nghĩa vụ của người lao động do phía nước ngoài bảo đảm.
- Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhận
thầu, khoán công trình ở nước ngoài, đầu tư ra nước ngoài.
+ Nội dung : Các doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận khoán công
trình ở nước ngoài hoặc đầu tư dưới hình thức liên doanh, liên kết chia sản
phẩm hoặc các hình thức đầu tư khác. Hình thức này chưa phổ biến nhưng sẽ
phát triển trong tương lai cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
+ Đặc điểm :
(cid:31) Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ tuyển
chọn lao động Việt Nam nhằm thực hiện các hợp đồng kinh tế, liên doanh,
liên kết giữa Việt Nam và nước ngoài
(cid:31) Các yêu cầu về tổ chức lao động, điều kiện lao động do doanh
nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam đặt ra
18
1.2. Qúa trình phát triển của hoạt động XKLĐ tại Đông Tân-Đông Hưng-
Thái Bình
1.2.1.Khái quát những nét cơ bản về đời sống văn hóa-xã hội tại
Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình
Xã Đông Tân Thuộc huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình.
Diện tích : 645 km2 Dân số thống kê năm 2009 :6700 người.
Đông Tân là xã có bề dày lịch sử hình thành và phát triển.xã gồm có
năm thôn: Thôn Vĩnh Ninh,thôn Phù Sa.thôn Lại Xá,Thôn Tây Thượng
Liệt,Thôn Đông Thượng Liệt.
Địa giới hành chính
Xã Đông Tân nằm ở phía đông của huyện Đông Hưng, thuộc hữu
Phía đônggiáp xã Thái Giang, huyện Thái Thụy
Phía nam giáp các xã Đông Phongvà Đông Lĩnh, huyện Đông Hưng;
Phía tây giáp xã Đông Vinh, huyện Đông Hưng;
Phía bắc giáp xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng và xã ThụyThanh,
ngạn sông Diêm Hộ
huyện Thái Thụy.
Giao thông:Quốc lộ 39B đi ngang qua xã.
Vị trí địa lý: Xã Đông Tân được bao bọc bởi hai con sông phía tây là
sông Gọ, phía đông là sông Diêm Hộ. Phía bắc là con đường huyết mạch 218
(nay là đường 39C) nối thị xã Thái Bình xuống 2 huyện miền biển Thụy Anh,
Thái Ninh (nay là huyện Thái Thụy)
Đông Tân có bề dày lịch sử.Đây là một vùng đất đã hình thành từ lâu
đời.Điển hình là Làng Thượng Liệt ( nay là thôn Tây Thượng Liệt,Đông
19
Thượng Liệt) và làng Lan,đã có lịch sử hình thành hơn 600 năm.Vùng đất này
còn lưu lại nhiều dấu ấn văn hóa đặc sắc có giá trị cả về mặt vật chất và tinh
thần: Cum di tích Đình –Chùa –Lăng Thượng Liệt được công nhận là di tích
lịch sử quốc gia năm 1989.Nghệ thuật múa Giáo Cờ Giáo quạt,loại hình múa
dân gian độc nhất chỉ có ở làng Thượng Liệt-Tỉnh Thái Bình.
Thời kỳ chống Pháp,chống Mỹ,nhân dân Đông Tân anh dũng hi sinh
bảo vệ quê hương,không chịu khuất phục trước kẻ thù xâm lược .Trong hai
cuộc kháng chiến, 2.376 thanh niên đã theo bước anh lên đường ra trận. 245
liệt sĩ. 24 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. 20 năm liên tục là xã dẫn đầu trong
công tác tuyển quân. Đó là những gì làng Giắng đã cống hiến cho công cuộc
giành độc lập và thống nhất đất nước.
Năm 2013 liệt sỹ Nguyễn Quang Son người con xã Đông Tân-Huyện
Đông Hưng-Tỉnh Thái Bình vinh dự được nhà nước truy tặng danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân.Đây là niềm tự hào của nhân dân toàn xã
cũng như khẳng định tinh thần,ý chí gan dạ đại diện cho con người mảnh đất
Đông Tân
Trong chiến tranh là như vậy,trở về thời bình ,người dân Đông Tân
luôn hăng say lao động sáng tạo tạo ra nguồn kinh tế làm giàu cho bản
thân,gia đình và xã hội
Ngày nay,Đông Tân có những bước chuyển mình với những bước vượt
bậc.Bộ mặt dân cư ngày càng chuyển biến theo chiều hướng tích cực.Đời
sống nhân dân được nâng cao,cơ sở hạ tầng khang trang đẹp đẽ,văn hóa-giáo
dục được đầu tư phát triển.Nhắc đến Đông Tân ngày nay,người ta liên tưởng
như mình đang sống ở “ Phố giữa làng”.Đông Tân ngày càng giàu đẹp,ngày
càng phát triển.Đây là mong muốn của tất cả nhân dân nơi đây và họ luôn
20
phấn đấu vì mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đặt ra xây dựng một nước
Việt Nam “ Dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ,văn minh.”
1.2.2 Hoạt động XKLĐ tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình
Đông Tân là xã có số người đi XKLĐ nhiều nhất huyện Đông Hưng-
Tỉnh Thái Bình
Xuất khẩu lao động ở Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình được bắt đầu
manh nha từ năm 1999 với một vài lao động đi làm việc tại Đài Loan.Hoạt
động bắt đầu sôi nổi từ những năm 2002 đến nay.Hiện nay trên địa bàn toàn
xã có 278 người đi lao động và làm việc tại nước ngoài chủ yếu là phụ nữ đi
lao động tại Đài Loan,Ma Cao.Nếu tính cả số lượng người đi XKLĐ không
khai báo số lượng này có thể lên đến trên dưới 500 người.
Trong khoảng thời gian 3-4 năm trở lại đây thi trường XKLĐ thu hút
đông đảo giới trẻ tham gia.Do tình hình kinh tế trong nước trong thời kỳ này
gặp khá nhiều khó khăn.lực lượng lao động trẻ chọn giải pháp đi XKLĐ để
tìm việc làm và có thu nhập trang trải kinh tế.
Hoạt động XKLĐ đang ngày càng trở nên phổ biến và phát triển trên
địa bàn xã.Theo thống kê của UBND xã Đông Tân thì mỗi năm người lao
động ở nước ngoài gửi về từ 12-14 tỷ đồng,đây là những con số mà một vùng
đất thuần nông cây lúa chưa bao giờ có được
Nhiều cách gọi mới được hình thành trong thời kỳ XKLĐ như “ Xóm
Đài Loan” dùng cho Xóm 5 Thôn Tây Thượng Liệt-Xã Đông Tân-Huyện
Đông Hưng-Tỉnh Thái Bình.”Thôn Hồng Kông” dùng choThôn Vĩnh Ninh-
Xã Đông Tân-Tỉnh Thái bình đã khẳng định ảnh hưởng của hoạt động XKLĐ
trên địa bàn rất lớn.
21
Chương 2: THỰC TRẠNG BIẾN ĐỔI VĂN HÓA DƯỚI TÁC ĐỘNG
CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TẠI ĐÔNG TÂN-
ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH
2.1 Những biểu hiện của sự biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-
Thái Bình hiện nay
2.1.1 Biến đổi trong mối quan hệ ứng xử của các thành viên trong
gia đình
Văn hóa gia đình truyền thống người Việt:
Từ xa xưa, văn hoá ứng xử trong gia đình đã được ông cha ta đặc biệt
coi trọng: Gia đình phải có gia giáo; gia lễ; gia pháp; gia phong mà mỗi người
trong gia đình phải tuân thủ theo hết sức nghiêm ngặt.
Văn hóa ứng xử trong gia đình được người Việt đề cao và rất coi trọng.
Trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam cho thấy có rất nhiều câu thể hiện
điều này. Từ lúc mới sinh ra, con người đã được đặt trong sự gắn bó thiêng
liêng của tình mẫu tử, phụ tử: “Phụ tử tình thâm”, “Xương cha, da mẹ”, “Cá
chuối đắm đuối vì con”. Khi khôn lớn mỗi người không thể quên công ơn
dưỡng dục của cha mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ, kính cha/ Cho tròn chữ hiếu mới là
đạo con”. Chữ “hiếu” luôn được đề cao trong quan hệ ứng xử với cha mẹ và
được thể hiện bằng tục báo hiếu. Mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, con
cái đối với cha mẹ đã được ông cha ta nâng lên thành đạo làm cha mẹ, đạo
làm con. Từ mối quan hệ chủ đạo này đã hình thành nên đạo thờ ông bà tổ
tiên, đạo thờ cha mẹ, góp phần nuôi dưỡng cho con người tình cảm “Uống
nước nhớ nguồn”.
22
Trong quan hệ ứng xử, người xưa cũng đặc biệt coi trọng tình nghĩa
giữa anh chị em trong một gia đình: “Anh em như chân, như tay. Như chim
liền cánh, như cây liền cành”, “Em thuận, anh hòa là nhà có phúc”... Mối liên
hệ ruột thịt là mối liên hệ thiêng liêng không thể chia cắt: “Cắt dây bầu dây
bí/ Chẳng ai cắt dây chị dây em”. Vì lẽ đó, ông cha ta cũng lên án nghiêm
khắc những ai không giữ được tình cảm anh em: “Người dưng có nghĩa thì
đãi người dưng/ Anh em vô nghĩa thì đừng anh em”…
Đối với quan hệ vợ chồng, sự ho nhà thuận và tình nghĩa thuỷ chung
luôn mang ý nghĩa thiêng liêng, sâu nặng, là mối ràng buộc trách nhiệm cao
suốt đời người: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”, “Đốn cây ai
nỡ dứt chồi/ Đạo chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương”
Quan hệ cha mẹ với con cái:
Trong gia đình người Việt ,vì chịu ảnh hưởng của nền văn minh nông
nghiệp ,với nhau cầu sử dụng lao động cao thường coi trọng việc sinh nhiều
con,đông con.Cha mẹ luôn nhất mực yêu thương con cái,coi con cái là tài sản
quay báu nhất của mình:
“Con hơn cha là nhà có phúc”
Quan niệm nhiều con thì nhiều của
Người cha người mẹ nào cũng dành cho con những sự yêu thương vô
bờ bến:
“Nuôi con chẳng quản chi thân
Chỗ ướt mẹ nằm ,chỗ ráo con lăn”
“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
23
Ông ơi ông với tôi nao
Tôi có đồng nào ông hãy sáo măng
Có sáo thì sáo nước trong
Chớ sáo nước đục đau lòng cò con”
Đáp lại tình yêu thương của cha mẹ,con cái thể hiện sự kính trọng
biết ơn:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Đạo làm con được thể hiện qua sự trọng chữ Hiếu của con cái đối với
cha mẹ:
-Phải biết kính trong cha mẹ
-Biết vâng lời cha mẹ
-Phụng dưỡng cha mẹ.
Những nét đẹp ứng xử trong gia đình đã hình thành nên nhiều giá trị
văn hoá mang tính truyền thống của người Việt như: Sự hoà thuận, chung
thuỷ, tình nghĩa, lòng yêu thương và hy sinh cho con cái, tôn trọng và hiếu đễ
với cha mẹ, anh em. Nhiều gia đình Việt Nam xưa nhờ biết duy trì lối ứng xử
có văn hoá đã tạo ra nền nếp, kỷ cương để mọi người cùng noi theo. Chính gia
lễ, gia phong ấy là cái gốc của gia đình, giữ cho con người Việt Nam, gia đình
và xã hội Việt Nam một sức sống mãnh liệt và sự trong sáng với cội nguồn.
Tuy nhiên trong thời kỳ XKLĐ,những giá trị văn hóa này đang dần dần
bị thay đổi.
Việc một hay một số thành viên trong gia đình rời khỏi ngôi nhà cùng
chung sống để đi làm ăn ở nước ngoài trong thời gian dài làm phát sinh những
24
gia đình theo dạng mô hình “ không đầy đủ” tức là cha mẹ ,con cái,người thân
không cùng chung sống trong một khu vực không gian lãnh thổ chung,và không
cùng chia sẻ những tâm tư tình cảm.Mô hình này xuất hiện ngày một nhiều,có
thể trong một gia đình có nhiều người sống ở các quốc gia khác nhau,sự rang
buộc sinh hoạt chung trong gia đình trở nên không còn quan trọng.
Thực tế cho thấy,nhiều gia đình có vợ hoặc chồng đi xuất khẩu lao
động,thì việc xa nhau là điều tất yếu.Họ chỉ có cơ hội gặp gỡ nhau phụ thuộc
vào hợp đồng lao động đã ký kết.Do điều kiện tuân thủ hợp đồng và yếu tố
không gian nên họ thường xa nhau hàng năm trời.Như vậy,không thể thường
xuyên trao đổi tình cảm với nhau .Họ chỉ có cơ hội trao đổi qua các phương
tiện thông tin như điện thoại,internet.Việc cùng nhau giải quyết những vấn đề
của gia đình gần như không thể thực hiện.Tiếng nói của người đi xa chỉ mang
tính chất tham khảo,gợi ý chứ ít có thể quyết định.
Vợ chồng không có sự ràng buộc lẫn nhau,mỗi người sống một nơi làm
những công việc riêng biệt nên dần dần sự gắn kết vợ chồng càng trở nên lỏng
lẻo,nhạt nhòa.Nếu trước kia vợ chồng “Chung sức chung lòng” thì XKLĐ đẩy
họ vào hoàn cảnh “ Việc ai người đấy làm”và trở thành những cá thể độc
lập.Quan hệ vợ chồng mang tính chất tượng trưng vì họ cùng nhau giải quyết
các việc lớn như xây dựng nhà cửa,chia sẻ việc đầu tư cho chăm sóc con cái.
Việc không giữ được tiếng nói chung giữa vợ và chồng,việc bị những
cám dỗ bên ngoài dẫn đến tình trạng ly hôn ngày càng gia tăng,tình trạng vợ
chồng sống không hòa hợp cũng trở nên phổ biến.
Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái trong gia đình cũng biến đổi.Cha
mẹ không có cơ hội để tiếp xúc nhiều với con cái.Không hiểu được tâm tư
tình cảm giữa con cái nên mối quan hệ tình cảm giữa hai thế hệ trở nên thiếu
bền vững.
25
Thực tế cho thấy tại xã Đông Tân khi người lao động đi xuất khẩu lao
động nước ngoài chủ yếu là phụ nữ,đàn ông làm nhiệm vụ chăm sóc con cái
thường không được chu toàn.Theo văn hóa truyền thống người Việt thì vai trò
của người mẹ trong gia đình rất được đề cao,do đàn ông thường xuyên sống
vắng nhà nên nhân cách của người mẹ có ảnh hưởng lớn đến con cái. Đa phần
đàn ông gặp khó khăn trong việc tiếp cận con cái hơn phụ nữ,không thể đi
sâu vào đời sống tình cảm của con,thiếu sự mềm mỏng,thiếu những tâm sự để
hiểu sâu về tâm lý con cái.Giai đoạn khó khăn nhất là giai đoạn tuổi dậy
thì,con cái thay đổi tâm sinh lý,nếu người cha không có sự can thiệp khéo
léo,hay người mẹ không có sự dạy dỗ tận tình dễ khiến trẻ rơi vào tình trạng
khủng hoảng,gây ảnh hưởng xấu đến quá trình hình thành nhân cách,lối sống
của trẻ sau này.Nhưng những điều này luôn là những khoảng trống mà các gia
đình có người đi XKLĐ gặp phải do thiếu một vế trong cấu trúc của một gia
đình.Các gia đình thường chọn phương án đi XKLĐ khi sức khỏe còn ổn định
đồng nghĩa với điều đó là đối tượng mới kết hôn và vừa sinh con đi nước
ngoài chiếm thành phần chủ yếu.Điều đó khiến cho sợi dây tình cảm giữa cha
mẹ đi XKLĐ và con cái còn nhỏ trở nên hết sức mong manh.Những ảnh
hưởng của người đi xa khó có thể tiếp cận với đứa trẻ khi nhân thức về tình
cảm của đứa trẻ chưa hoàn thiện khiến cho khoảng cách cha mẹ với con cái
càng trở nên giãn cách.
Ngoài tình cảm vợ chồng,con cái,còn những mối quan hệ khác không
thể bỏ qua.
Trước hết là mối quan hệ truyền thống vốn dĩ nhiều mâu thuẫn-mối
quan hệ “mẹ chồng nàng dâu” thời hiện đại.
Quan hệ mẹ chồng nàng dâu tại Đông Tân ngày nay,đã không còn tồn tại
nhiều mâu thuẫn gay gắt như trước kia.Do phần lớn các gia đình đều có kinh tế
26
riêng,xu thế gia đình hạt nhân phổ biến,những mâu thuẫn trong cuộc sống hàng
ngày đã không còn là rào cản ảnh hưởng đến mối quan hệ tốt đẹp này.
Tuy nhiên tồn tại hai xu thế,một là mối quan hệ “Mẹ chồng ,nàng dâu”
trở nên tốt hơn do con dâu ra ngoài làm ăn kinh tế tốt,có điều kiện chăm sóc
,phụng dưỡng cha mẹ chồng tốt hơn,được mẹ chồng quý mến.
Xu hướng thứ hai,do mải làm ăn kinh tế,người phụ nữ bỏ bê chuyện gia
đình,trao việc chăm sóc chồng con cho mẹ chồng,khiến mẹ chồng không vừa
lòng,nảy sinh mâu thuẫn.
Mặc dù theo khảo sát có 60% trường hợp nói rằng mối quan hệ mẹ
chồng nàng dâu ở mức độ hòa hợp nhưng có tới 40 % nói rằng mối quan hệ
đang có chiều hướng đi xuống.Điều này cho thấy ảnh hưởng của hoạt động
XKLĐ tác động đến mối quan hệ này rất lớn.Xuất hiện những dấu hiệu xuống
cấp tình cảm giữa người thân trong gia đình.
Thời kỳ xuất khẩu lao động đẩy người ta vào cơn lốc cơm áo gạo tiền
mà làm cho việc duy trì mối quan hệ tình cảm trở nên khó khăn hơn.Nhiều
phụ nữ sau khi đi XKLĐ trở nên thay đổi tính nết,kiêu căng hách dịch,cậy
mình có tiền ,coi thường người khác.Chuyện con dâu coi thường bố mẹ
chồng,lạnh nhạt với chồng,thờ ơ với con cái xuất hiện không ít.Nếu lối sống
như thế này kéo dài sẽ làm mai một đi tính cách “trọng tình trọng nghĩa” xưa
nay vẫn là biểu hiện đẹp của văn hóa Việt Nam.
2.1.2 Sự thay đổi quan niệm về giới trong gia đình và ngoài xã hội
Theo nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu về phụ nữ thì vai trò giới
được định nghĩa như sau:
Vai trò giới là tập hợp những hoạt động và hành vi ứng xử mà nam giới
và phụ nữ học được và thể hiện trong thực tế, dựa trên mong đợi từ phía xã
27
hội ở một người, tùy thuộc người đó là phụ nữ hay nam giớ i. Các vai trò
giới đa dạng (tùy thuộc vào vị trí và bối cảnh), thay đổi theo thời gian (tương
ứng với sự thay đổi của các điều kiện và hoàn cảnh) và thay đổi theo sự thay
đổi trong quan niệm xã hội (tương ứng với việc chấp nhận hoặc không chấp
nhận một hành vi ứng xử vai trò nào đó).
Vai trò giới thể hiện ở ba loại hình:
1.Vai trò sản xuất:
Là những công việc do phụ nữ và nam giới thực hiện nhằm tạo ra thu
nhập hoặc để tự tiêu dùng. Chúng bao gồm các hoạt đ ộng tạo ra sản phẩm vật
chất, tinh thần hoặc tạo ra những dị ch vụ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
gia đình.
Ví dụ: vai trò sản xuất của phụ nữ ở nông thôn bao gồm công việc
trồng trọt, chăn nuôi, làm vườn, làm hàng thủ công…Vai trò s ản xuất của
phụ nữ ở thành thị bao gồm vi ệc làm công ăn lương trong các cơ quan, xí
nghiệp, làm thuê cho chủ tư nhân hoặc kinh doanh, buôn bán…
2. Vai trò tái sản xuất và nuôi dưỡng.
Là những hoạt đ ộng tạo ra nòi giống và tái tạo sức lao động. Chúng
bao gồm vi ệc sinh con, nuôi dạy con, chăm sóc các thành viên khác trong gia
đình và làm các công việc nội trợ, giặt giũ, lau chùi nhà cửa…Các công việc
này hầu hết do phụ nữ đảm nhiệm và là những công việc không trả thù lao.
3. Vai trò cộng đồng, xã hội.
Vai trò bao gồm những hoạt động nhằm đảm bảo sự cung cấp và bảo
vệ những nguồn lực khan hiếm cho nhu cầu chung của cộng đồng như vệ
sinh môi trường, nước sạch, dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục…Đây
hầu hết là những hoạt động tình nguyện và không được trả thù lao.
28
Như các công việc của làng, bản, khối phố, họ hàng, tham gia chính
quyền, lãnh đạo xã hội…nhằm đáp ứng các nhu cầu hoạt động chung của
cộng đồng xã hội như: xây dựng đường làng, ngõ xóm, giữ gìn trật tự vệ
sinh hoặc trao đổi thông tin, tổ chức họp hành, lễ hội, tham gia các đoàn thể…
Vai trò lãnh đạo cộng đồng:
Vai trò này bao gồm những hoạt động được thực hiện ở cấp cộng
đồng, các tổ chức, các hoạt động chính trị chính thức…Đây là những hoạt
động được trả công và dẫn đến việc nâng cao quyền lực và địa vị .
Trong đề tài này, thuật ngữ vai trò kép cũng được cho là cơ sở lý
luận quan trọng. Vai trò kép ở đây được hiểu: Dùng để chỉ một hiện tượng là
phụ nữ thường đảm nhận cùng lúc nhiều vai trò, thời gian làm việc dài hơn
và nhiều công việc vụn vặt hơn nam giới. Phụ nữ thường thực hiện cùng lúc
vai trò tái sản xuất, vai trò sản xuất và vai trò cộng đồng, trong khi đó nam
giới thường tập trung vào vai trò sản xuất và vai trò lãnh đạo cộng đồng.
Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu về Phụ nữ thì phụ nữ it
có quyền quyết định trong gia đình và xã hội bởi vai trò thế yếu của họ xuất
phát từ sự gia trưởng trong gia đình và tư tưởng phong kiến “trọng nam
khinh nữ ”.
Tại xã Đông Tân, hiện nay 80% phụ nữ đi XKLĐ vì kinh phí đầu tư
ban đầu không lớn, thu nhập lại tương đối khá. Hầu hết số lao động nữ này
đều góp phần cải thiện kinh tế gia đình, làm thay đổi bộ mặt nông thôn.
Trong các gia đình này đã có sự thay đổi cơ cấu tổ chức gia
đình.Người phụ nữ đảm nhiệm nhiệm việc tạo nguồn thu nhập kinh
tế,còn người đàn ông đóng vai trò làm nội trợ và chăm sóc con cái,tham gia
các hoạt động cộng đồng.Như vậy đã có sự thay đổi một cách rõ rệt vai trò
29
giới,khi phụ nữ đảm nhận vai trò sản xuất còn đàn ông thực hiện vai trò kép:
Vai trò sản xuất,vai trò tái sản xuất và nuôi dưỡng,vai trò cộng đồng xã hội.
Điều đó hiển nhiên diễn ra trong đời sống,người phụ nữ vẫn có thể làm
tốt công việc kiếm tiền trang trải cuộc sống và người đàn ông làm tốt công
việc chăm sóc gia đình.
Theo cuộc khảo sát,90% người phỏng vấn quan niệm thoáng về việc
phụ nữ đi làm kinh tế bên ngoài phục vụ nhu cầu cải thiện kinh tế,không gò
ép phụ nữ vào các công việc gia đình,tôn trọng phụ nữ và các quyền phụ nữ
được hưởng.
Bên cạnh việc thừa nhận năng lực làm kinh tế,khả năng chăm sóc gia
đình của người đàn ông ,thì biểu hiện của sự biến đổi quan niệm về giới còn
được thể hiện ở việc sinh con và nuôi con của các hộ gia đình
Theo tìm hiểu của chúng tôi,các gia đình có người đi XKLĐ thường
không đặt nặng vấn đề sinh con trai hay con gái.Xu hướng chung thiên về
sinh con và nuôi dạy con khỏe mạnh.
Nếu như định kiến về giới đã ăn sâu vào suy nghĩ và hành động của
người Việt từ xưa đến nay,thì XKLĐ đã chứng tỏ những định kiến đó hoàn
toàn có thể xóa bỏ được.
30
Bảng đánh giá chung:
Tiêu chí thời điểm Trước thời kỳ XKLĐ Hiện tại-Trong thời kỳ
XKLĐ
Trụ cột kinh tế Người đàn ông( tuyệt -Có thể là người vợ(
đối người chồng làm Gia đình có phụ nữ đi
trụ cột kinh tế) XKLĐ )
Nội trợ chính Phụ nữ (Mặc định đó Người đàn ông làm nội
là việc của phụ nữ) trợ (Các gia đình có
phụ nữ đi XKLĐ)
Quan niệm phụ nữ đi lao Không đồng tình Đồng tình
động bên ngoài
Quan hệ mẹ chồng-Nàng Mâu thuẫn,xung đột Mối quan hệ dựa trên
dâu gay gắt=>hình thành sự tôn trọng lẫn nhau
định kiến
Việc sinh con một Phải sinh con trai để Sinh con và nuôi dạy
bề,sinh ít con nối dõi tong đường con cái khỏe mạnh
Việc chăm sóc giáo dục Con gái không cần Trẻ em được chăm sóc
trẻ em gái học hành nhiều.Lớn giáo dục như nhau,tạo
thì đi lấy chồng mọi điều kiện trong
sinh hoạt,học tập
Sự bình đẳng giới Không tồn tại Phổ biến tại địa phương
31
2.1.3 Biến đổi nhu cầu văn hóa-giáo dục-giải trí
Cũng như các miền quê Việt Nam khác,trước kia Đông Tân là một
mảnh đất thuần nông điều kiện kinh tế còn khó khăn,mọi sinh hoạt văn hóa
,tình cảm,giáo dục,giải trí đều gắn với các hoạt động của nền kinh tế nông
nghiệp.Phần lớn thời gian của người dân dành cho công viêc đồng áng,nhu
cầu dịch vụ văn hóa,giáo dục,giải trí xoay quanh đời sống nông nghiệp,mang
đậm văn hóa lúa nước
Đến ngày nay,XKLĐ đã làm thay đổi khá nhiều bộ mặt đời sống nông
thôn,mặt bằng dân sinh đã được cải thiện,người ta phát sinh những nhu cầu mới.
Về lối sống:
Về mặt văn hóa tinh thần ,lối sống của người dân Đông Tân thời kỳ này
có nhiều thay đổi.
Trước XKLĐ Thời kỳ XKLĐ
Theo kiểu cộng đồng nông thôn: Theo kiểu cá nhân, đô thị:
-Sống tập trung theo xóm thôn, làng -Người dân chú trọng lợi ích kinh tế
gia đình, cá nhân
-Phân công công việc rõ ràng, thờ ơ -Có các mối quan hệ chặt chẽ với
trong 1 số việc chung: “Nhà ai nấy ở” nhau
-Lối sống nông thôn tương đồng lối
sống đô thị: kiểu thực dụng
-Ưa hưởng thụ,xuất hiện những thói -Lối sống chắt chiu dành dụm quen mới như tụ tập café,karaoke.
32
Nhìn vào bảng,chúng ta có thể thấy lối sống của nhân dân xã Đông Tân
có rất nhiều thay đổi,sự thay đổi diễn ra nhanh chóng trong thời gian khá ngắn
(chưa đầy 20 năm).Phần lớn đi theo xu thế hiện đại hóa gắn với điều kiện
kinh tế phát triển.Điều này tạo cơ hội nâng cao đời sống của nhân dân,có tác
động tích cực mang đến cuộc sống tiện ích cho nhân dân,nhưng vô hình
chung lại đẩy con người ta ra xa cộng đồng,ít có cơ hội chia sẻ tâm tư,tình
cảm,các nét văn hóa nông thôn cổ truyền có nguy cơ “đô thị hóa” ,lu mờ giá
trị tinh thần tốt đẹp của làng quê Việt Nam.
Thay đổi về quan niệm thẩm mỹ:
Nếu như quan niệm về vẻ đẹp của phụ nữ nông thôn trước kia là tóc
dài,người đậm đà,khỏe mạnh,đảm đương được công việc đồng áng,thì ngày
nay các yếu tố này đã thay đổi đi rất nhiều.
Với sự hỗ trợ của internet,cùng với điều kiện kinh tế tốt,người ta dễ bắt
kịp xu hướng thời trang quốc tế,hình ảnh “thôn nữ” thay bằng hình ảnh của
những cô gái có phong cách thời trang hợp thời đại.
Phẫu thuật thẩm mỹ cũng không còn là hiện tượng “chỉ có ở Hàn
Quốc” nữa,mà tại vùng đất này cũng đã xuất hiện những người áp dụng biện
pháp tân trang sắc đẹp.
Du nhập nhiều xu hướng thời trang hiên đại như trang điểm, nhuộm
tóc,uốn tóc,trang phục với phô diễn vẻ đẹp cơ thể,trang phục với gu thời trang
cá tính......
Nhu cầu làm đẹp của phụ nữ ngày càng được chú trọng hơn.
Về giải trí:
Sự hưởng thụ đời sống của người nông dân có nhiều thay đổi.
33
Trước thời kì XKLĐ Thời kỳ hiện tại
-Tính chất giải trí theo mùa và lễ hội . -Giải trí thường qua báo, đài truyền
Nó kế thừa của quá khứ , mang hình hình, truyền thanh, internet,…
thức tập thể. Người ta hay tổ chức
những ngày hội địa phương -Phạm vi giải trí mở rộng hơn
-Các lễ hội văn hóa của làng như hội -Nhu cầu và khả năng thực hiện cao đấu vật, đánh cờ, hát chèo v.v ...vào hơn các dịp lễ, tết tổ chức đình làng
-Thay vào đó dòng nhạc hiện đại -Những bản nhạc, vở kịch truyền phong cách thống của dân tộc,văn hóa dân gian :
-phương Tây, phong cách Mỹ, nghe chèo Thái Bình,Giáo cờ giáo quạt-
các loại nhạc Rock, Jazz, Hip hop, điều múa cổ làng Thượng Liệt –xã
uống rượu mạnh, nhảy Disco,… Đông Tân được quan tâm nhiều nhất
-Các hoạt động mang tính cá nhân,các -Các hoạt động giải trí thường theo
trò chơi vận động mạnh như trượt cộng đồng,nhóm thiên về hoạt động
patin,nhảy hiphop….. đoàn thể như thanh niên tụ tổ chức đi
dạo buổi tối,tổ chức làm trại rằm
trung thu
- Sinh hoạt văn hóa trong khuôn viên -Xu hướng đi du lịch vào những dịp
làng quê đặc biệt như đầu năm,nghỉ dưỡng
mùa hè
Về giáo dục:
Kinh tế đã không còn là rào cản đối với các hộ gia đình thì việc chăm
sóc và tạo mọi điều kiện cho con cái được học hành đầy đủ luôn là điều mà
các bậc phụ huynh hướng tới.
34
Các gia đình luôn sẵn sàng chi những khoản tiền lớn đầu tư cho con
học tập như xuất hiện những hình thức mới trong việc đầu tư giáo dục cho
con cái :thuê gia sư dạy tại nhà,đầu tư cho con cái theo học các trường chuyên
từ bậc tiểu học đến bậc THPT,đầu tư cho con cái theo học các chương trình
đào tạo năng khiếu như đào tạo thể thao,đào tạo nghệ thuật,du học
Nếu như trước kia,việc đồng áng được đặt lên hàng đầu thì bây giờ việc
học của con mới là quan trọng.
Trước thời kỳ XKLĐ chủ yếu học sinh học đến hết bậc THCS rồi sau
đó trở về lao động sản xuất nông nghiệp tại địa phương hoặc đi làm ăn.Việc
học chủ yếu dành cho con trai,cho những nhà có đủ điều kiện nuôi con hành.
100% trẻ em được đến trường ở bậc tiểu học,100% bậc trung học cơ sở,
90%bậc trung học phổ thông.
Đặc biệt từ năm 2004 đến nay,số lượng sinh viên đỗ vào các trường cao
đẳng,đại học không ngừng tăng lên.
Đây là một tín hiệu đáng mừng thúc đẩy cho quá trình nâng cao nhận
thức,đổi mới tư duy tạo đà cho phát triển kinh tế,tiến tới xây dựng đời sống
văn minh tại khu dân cư.
Sự du nhập những yếu tố ngoại lai:
Những người đi XKLĐ đều có một thời gian sinh sống và làm việc trên
một đất nước khác,đồng thời trong thời gian đó người ta cọ sát với văn hóa
bản địa,dù là vô tình hay hữu ý thì những nét văn hóa của nơi cư trú cũng ảnh
hưởng ít nhiều đến đời sống văn hóa của người lao đông.Sau đó những người
thân của họ cũng chịu tác động theo nguyên lý bắc cầu.
100% người đi XKLĐ khẳng định,họ học được tác phong công
nghiệp,làm việc nhanh gọn,không ồn ào,có nề nếp trong lao động.
35
Nếp sống thay đổi theo chiều hướng văn minh hơn:
Tiếp thu những nét văn hóa mới,người dân biết cách thể hiện tình cảm
của mình thông qua những lời chúc mừng,chia sẻ tình cảm với người ở
xa.Ông Bùi Văn Sỹ cho biết: “Bây giờ vào những dịp lễ tết,tôi thường gọi
điện hoặc nhắn tin chúc mừng vợ để bù đắp sự thiếu thốn tình cảm giữa hai
vợ chồng,đồng thời san sẻ những khó khăn cùng vợ.Ngày trước vợ ở nhà thì
không như vậy”
Nhà cửa được vệ sinh gọn gàng sạch sẽ,bố trí đồ đạc hợp lý khoa
học.100% sử dụng nước giếng khoan,90% có nhà vệ sinh tự hoại.
Bên cạnh những người còn những nguyên được nếp sống Việt thì một
bộ phận thu nhận những nếp suy nghĩ tư tưởng mới.
Hiện tượng sống thử đã không còn xa lạ với người dân Đông
Tân.Những cặp đôi tự nguyện chung sống với nhau trước khi hỏi ý kiến của
cha mẹ,sau đó nếu cảm thấy sống được với nhau thì kết hôn,không hợp nhau
thì chia tay.Đây là một nét thay đổi khá rõ nét,đặc biệt là tại một làng cổ
mang đậm dấu ấn của văn hóa nông thôn Việt Nam cổ truyền.
2.1.4 Biến đổi về phong tục,tập quán ,tín ngưỡng
Cưới xin là một sinh hoạt văn hóa gắn bó với đời sống mỗi con người,
trở thành một hoạt động không thể thiếu trong cộng đồng, đặc biệt là cộng
đồng người dân ở nông thôn.
Xu hướng cưới xin ngày càng đơn giản gọn gang hơn,đỡ mất thời gian
hơn tuy nhiên quy mô tổ chức lại lớn hơn.Đây được coi là dịp để các gia đình
phô trương của cải của mình với các món đồ trang sức,vàng bạc,các bữa tiệc
xa xỉ.Xu hướng đặt cỗ trọn gói thay cho sự tương trọ,giúp đỡ lần nhau giữa
những gia đình liền kề
36
Tổ chức tiệc cưới khách sạn cũng là nét mới trong đời sống văn hóa của
người dân Đông Tân.Đồng thời cũng xuất hiện phong tục cưới hỏi mới-đám
cưới mang tính chất báo hỷ,vắng mặt cô dâu ,chủ rể.Các đám cưới kiểu hình
thức này chủ yếu xuất hiện ở các gia đình có có cặp vợ chồng kết hôn nhưng
sống tại nước ngoài,chưa có điều kiện về nước.Hai họ tự sắp xếp tổ chức gặp
mặt,thực hiện các thủ tục như đám cưới bình thường.
Cũng có trường hợp vợ chồng về sống chung,sau đó có con mới thực
hiện đám cưới,do tư tưởng người dân khá thoáng nên những đám cưới hình
thức mới này không gặp phải sự phản ứng gay gắt từ phía người dân.
Đám cưới đám hỏi cũng có thể thiếu bố mẹ chú rể hoặc bố mẹ cô dâu
và được thay thế bởi người khác nếu như người đi XKLĐ không thể thu xếp
trở về địa phương.
Bên cạnh việc kết hôn được công nhận về mặt pháp lý,có xuất hiện
hiện tượng hôn nhân không hôn thú.Tức là việc hình thành gia đình giữa hai
người tự nguyện sống với nhau không có giấy đăng ký kết hôn
Việc tang ma theo lối cũ,với những hủ tục cũng được loại bỏ.Nhưng
xuất hiện những cách thức tổ chức tang ma mới chỉ có khi có sự xuất hiện của
XKLĐ đó là hiên tượng khóc người thân qua phương tiện thông tin.Đó là
hình thức mà những người lao động lựa chọn thực hiện khi không thể trở về
lo cho tang ma người quá cố.Họ gọi điện về và khóc trên điện thoại.Ban tổ
chức tang lễ sẽ nối điện thoại với thiết bị trợ giúp âm thanh,để mọi người
được nghe thấy tiếng khóc của người xa xứ thể hiện sự tiếc thương người
mất.Hiện tượng này xuất hiện ngày càng nhiều,do nhiều lao động sau khi trốn
ra ngoài làm ăn,nếu trở về nước sẽ mất cơ hội đi tiếp,họ thực hiện trách nhiệm
của mình theo hình thức đó để đảm bảo công việc và theo họ đó là cách để thể
hiện tình cảm chấp nhận được.
37
Xuất hiện thêm những hoạt động kỷ niệm ngày phụ nữ như ngày 8-
3,ngày 20/10 với nhiều hoạt động sôi nổi như tổ chức liên hoan xóm,tổ chức
các cuộc thi cho chị em trổ tài,trao hoa tặng quà,tri ân phụ nữ.Các chương
trình này được tổ chức với quy mô lớn,mang tính chất của một sinh hoạt văn
hóa thường niên.Trong ngày này phụ nữ được ưu ái không phải làm việc,lo
toan công việc,tất cả mọi việc do người đàn ông thực hiện.
Về tín ngưỡng ,tôn giáo:
Người Việt đi XKLĐ không chịu nhiều ảnh hưởng tác động của tín
ngưỡng tôn giáo từ bên ngoài.Họ giữ nguyên nếp thờ cúng tổ tiên cổ truyền
của dân tộc.
Về tôn giáo không có tôn giáo ngoại lai nào thâm nhập đời sống người
dân nơi đây dù lượng người đi XKLĐ không ngừng tăng.Người dân giữ được
những nét văn hóa quê hương.
2.2 Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi
Sự biến đổi văn hóa trong đời sống người dân Đông Tân-Đông Hưng –
Thái Bình đang diễn ra từng ngày,từng giờ một cách âm ỉ mà không phải ai
cũng có thể nhận thấy được.Nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi rất nhiều nhưng
có thể tập trung vào những nguyên nhân sau:
Sự xa cách không gian,thời gian:
Những người đi XKLĐ thường có hợp đồng lao động ở nước ngoài
trong một thời gian khá dài,từ 2 năm trở lên.Trong khoảng thời gian đó,mọi
mối liên hệ về tình cảm đều bị yếu tố về không gian chi phối,mọi nỗi buồn vui
giữa các thành viên trong gia đình khó có thể chia sẻ được cùng nhau.dần dần
sự gắn bó,nhu cầu tâm sự,bày tỏ quan điểm giữa những người trong một gia
đình càng trở nên mờ nhạt,ít sự liên kết gắn bó.
38
Những người đi XKLĐ chủ yếu rơi vào độ tuổi từ 25-45 thường có con
nhỏ trong độ tuổi từ 1-16 tuổi đây là giai đoạn có sự biến đổi rất lớn về tâm
sinh lý,nhưng lại thiếu sự quan tâm của một bên cha/mẹ dẫn đến sự thiếu hụt
tình cảm.Con cái ít được tiếp xúc với cha mẹ khiến cho sự đồng cảm sẻ chia
giữa những người thân không được đáp ứng trọn vẹn,dẫn đến sự xa lạ ngay
chính những người sống trong một gia đình.
Sự thay đổi nhận thức:
XKLĐ tạo cơ hội cho người lao động được cọ sát với môi trường lao
động mới.Trong quá trình lao động,người lao động tiếp thu những nét văn hóa
của bản địa làm thay đổi nếp sống nếp suy nghĩ.Nhận thức thay đổi mở đường
cho ý thức,ý thức được thể hiện qua hành động.
Người lao động đi nước ngoài học tập được tác phong công nghiệp
nhanh nhạy,có kỷ luật thay thế cho lối làm ăn mang tính chất nông nghiệp
thời vụ.Điều đó làm biến đổi về tác phong,các sống của người lao động.Bộ
phận lao động này lại ảnh hưởng đến người thân của họ,tạo nên sự biến đổi
văn hóa so với phông nền văn hóa cũ,tạo ra sự biến đổi
.Việc tiếp xúc với những nét văn hóa bản địa như cách ăn,mặc,ở,đi
,phong tục tập quán lại khiến cho cách nhận thức các quan niệm khác với khi
người lao động còn ở trong nước,dần dần nó được nhân rộng trở thành nếp
sống đi vào đời sống văn hóa trong nước.
Do tiếp xúc lâu dài với đời sống nước ngoài,sự ảnh hưởng của tư tưởng
suy nghĩ bản địa có tác động rất lớn đến tư duy người lao động.
Theo phỏng vấn chúng tôi được biết,người lao đông Việt Nam chủ yếu
lao động tại các nước tư bản.Lối sống tư bản với những mặt tích cực như tác
phong,kỷ luật,bình đẳng giữa người chủ và người làm thuê đã rèn luyện kỹ
năng làm việc cho người Việt Nam.
39
Nhưng bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại nhiều mặt không tương đồng văn
hóa mà người Việt không chọn lọc để tiếp thu.Đó là mối quan hệ tình cảm
giữa những người trong gia đình.
Thường người nước ngoài tập trung vào làm ăn nhiều hơn nên ít có thời
gian quan tâm đến người thân trong gia đình.Trong khi đó người Việt Nam lại
trọng tình,trọng nghĩa.Nhiều người Việt Nam sau một thời gia đi lao động ở
nước ngoài đã trở nên coi thường gia đình,mối liên hệ vợ chồng ,con cái mà
chỉ tập trung làm ăn khiến cho tình cảm gia đình rạn vỡ,các mối quan hệ trong
gia đình trở nên mờ nhạt.
Nhận thức về biến đổi giới được hình thành trên thực tế do người phụ
nữ thể hiện được khả năng của mình khi làm ăn kinh tế bên ngoài xã hội,gánh
vác kinh tế gia đình không thua kém người đàn ông khiến cho nhận định về
vai trò của nam nữ trong xã hội được củng cố
Sự phát triển về kinh tế:
Sự phát triển kinh tế giúp cho con người đáp ứng được nhu cầu nuôi
sống bản thân.Con người vươn lên nhu cầu cao hơn : Nhu cầu hưởng thụ,nhu
cầu chăm sóc –giáo dục con cái.
Phụ nữ khi không phải lo toan việc nhà,họ có xu hướng chăm sóc
bản thân nhiều hơn,nhu cầu làm đẹp cũng ngày càng được quan tâm hơn
trước kia.
Khi kinh tế đã vững vàng,gia đình nào cũng mong muốn cho con cái
được chưm sóc ,học hành đầy đủ,đó là lý do mà các gia đình luôn tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho con cái được học hành đến hết khả năng của mình
nhằm tạo dựng cho con cái một tương lai tươi sáng.
40
Trên đây là ba nguyên nhân chính dẫn đến sự biến đổi về văn hóa tại
Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.Do lượng người XKLĐ và các gia đình có
người đi XKLĐ chiếm tỷ lệ khá lớn trong địa bàn xã,nên những nét văn hóa
mới biến đổi trên địa bàn xã chủ yếu chịu tác động mạnh mẽ của hoạt động
XKLĐ mang lại.
41
Chương 3: NHẬN ĐỊNH VÀ MỘT VÀI KIẾN NGHỊ GÍUP CHO VIỆC
DUNG HÒA GIỮA HOẠT ĐỘNG XKLĐ VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA
TẠI ĐÔNG TÂN-ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH HIỆN NAY
3.1 Đánh giá tác động của XKLĐ đến văn hóa địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Yếu tố tích cực
XKLĐ phần nào giúp hình thành nên một lực lượng công nhân có tác
phong công nghiệp có kỷ luật,đúng giờ giấc giúp cho quá trình chuyên nghiệp
hóa lao động được đảm bảo.Tạo nòng cốt nhân rộng kỹ năng cho người lao
động tại địa phương giúp người lao động có việc làm ổn định và chống lãng
phí thời gian trong quá trình sản xuất sản phẩm của các doanh nghiệp địa
phương cũng như đất nước.
XKLĐ tạo nguồn thu nhập giúp xóa đói giảm nghèo,tạo cơ hội cho con
cái của các gia đình có điều kiện học tập đầy đủ,được phát triển khả năng qua
đó nâng cao mặt bằng nhận thức ,dân trí tại địa phương.
XKLĐ giúp cho việc nhìn nhận vị trí vai trò của phụ nữ được cải
thiện,nâng cao nhận thức về bình đẳng giới và quyền con người tạo tiền đề
tích cực cho việc xây dựng một xã hội “ Công bằng,dân chủ,văn minh”
XKLĐ đã phần nào làm thay đổi những mặt hạn chế trong lối sống của
người Việt Nam.Thói xấu bị loại bỏ và tiếp nhận tinh hoa văn hóa nhân loại
làm giàu có thêm,đa dạng thêm nền văn hóa quê hương.Cơ hội để thay đổi
những mặt hạn chế còn tồn tại trong con người Việt Nam giúp họ phát huy hết
những khả năng sẵn có để hoàn thành tốt công việc và tạo ra nguồn thu nhập
cho gia đình và xã hội.
42
XKLĐ tạo cho con người cơ hội để tiếp xúc với cuộc sống văn minh,lối
sống hiện đại,thay đổi văn hóa ứng xử theo chiều hướng tích cực,trang nhã
trong giao thiệp.
Tạo cơ hội cho việc thay đổi nhiều quan điểm lạc hậu cổ hủ,tạo chuyển
biến cho cách nhìn nhận đánh giá con người.
3.1.2 Yếu tố tiêu cực
Bên cạnh những yếu tố tích cực vừa nêu trên,XKLĐ cũng kéo theo
nhiều mặt hạn chế.
Trong đề tài nghiên cứu: “Tác động của XKLĐ tới cuộc sống gia đình tại
tỉnh Thái Bình” được Trung tâm Nghiên cứu phụ nữ tỉnh Thái Bình thực hiện,
cho thấy: 73% những gia đình có người đi XKLĐ có chất lượng cuộc sống tốt
hơn, 10% các hộ gia đình rơi vào nợ nần, phá sản do bị phá vỡ hợp đồng, thiếu
việc làm hoặc người ở nhà (chồng) sử dụng tiền vào cờ bạc, rượu chè.
Việc XKLĐ có tác động nhất định đến sự bền vững của gia đình.
87,3% người chồng đã thừa nhận sự thiếu thốn tình cảm, thiếu người chia sẻ
khi vợ đi XKLĐ. Một bộ phận gia đình có sự cố nạn rứt quan hệ hôn nhân, có
hành vi bạo lực, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, ly thân, thờ ơ lạnh nhạt do
ghen tuông, nghi ngờ. Nguyên nhân phổ biến là vì người chồng thiếu trách
nhiệm, không chung thủy và cả sự thay đổi quan điểm sống của người vợ sau
khi đi XKLĐ về.
Người đi XKLĐ chủ yếu nằm trong độ tuổi 28-42. Ở độ tuổi này, gia
đình có một con dưới sáu tuổi là phổ biến. Thiếu đi một người, đặc biệt là
người mẹ, việc chăm sóc trẻ nhỏ trở thành một thách thức lớn đối với người ở
nhà. Phải sống thiếu mẹ trong một thời gian khá dài (ba năm và hơn), những
đứa trẻ không tránh khỏi hụt hẫng, khủng hoảng. Ở lứa tuổi đi học, 45% trẻ
43
phải tham gia làm việc gia đình thay người lớn và 10% các gia đình XKLĐ có
con cái học hành sa sút.
Những đứa con trong các gia đình mẹ xuất ngoại, bố tìm niềm vui
riêng, đều không được chăm sóc, dạy dỗ chu đáo, không ít trường hợp đã bỏ
học hoặc học hành sa sút.
Hình thành tâm lý thờ ơ,coi thường đồng tiền,con cái hư hỏng không
nghe lời cha mẹ là hệ quả của sự thiếu quan tâm chăm sóc đời sống văn hóa
tinh thần của các hộ gia đình có người đi XKLĐ.
Tâm lý vị kỷ,thực dụng,coi thường người nghèo khổ xuất hiện ở một bộ
phận người lao động khiến cho tình làng nghĩa xóm bị phai nhạt,gây mâu
thuấn,tranh chấp khiến cho đời sống văn hóa nông thôn trở nên căng thẳng.
Nguyễn Đắc Duy (16 tuổi) tâm sự: “Nếu mẹ cháu không đi XKLĐ, tôi
sẽ không bỏ học. Thời gian đầu vì nhớ mẹ, tôi thấy hụt hẫng, bỏ bê việc học
hành. Sau cùng, học kém, tôi không muốn đến lớp nữa!”.
Cô Trịnh Thị Mai giáo viên trường THCS Đông Tân cho biết:
“Những gia đình có mẹ đi XKLĐ ,nếu bố giáo dục đúng hướng ,con cái
trong nhà ngoan ngoãn,học hành giỏi giang,chăm chỉ.
Ngược lại nếu không được chăm sóc tận tình,thiếu sự chăm lo của
mẹ,bố không quan tâm thì nảy sinh tính coi thường đồng tiền,không hiểu giá
trị của lao động.
Con trai dễ lao vào điện tử,con gái yêu sớm lại không được chỉ bảo tận
tình dễ phải chịu những hậu quả nặng nề.
Đặc biệt trong độ tuổi từ 5-16 tuổi có những đứa trẻ không biết mẹ là ai
nên không có tình cảm,cha mẹ vì thế mà không thể giáo dục được con
cái.Trường học trở thành gánh nặng hậu quả của Đài Loan”.
44
Anh Nguyến Duy Đông22 tuổi đang lao động tại Đài Loan cho biết :”
Những lao động trẻ sau khi sang nước ngoài rất ít người giữ được ý thức như
ban đầu,nhiều người chưa hết nợ đã sa đọa,tiêu tiền như nước không lo tu chí
làm ăn.Xuất khẩu lao động chỉ dành cho những người cầu tiến,còn sang cho
biết thì không nên sang.”
Một điều đáng bận tâm khác dưới tác động của XKLĐ mang lại đó là
lối sống buông thả của những người đi XKLĐ ở nước ngoài cho đến người
thân trong nước.
Người đi nước ngoài thiếu thốn tình cảm dễ sinh ra ngoại tình,theo
đánh giá có khoảng trên dưới 60 % những người lao động đã có gia đình
ngoại tình ở nước ngoài.
Còn ở địa phương,hệ quả của XKLĐ dễ dàng nhận ra trước mắt.Đó là
sự xuất hiện ồ ạt của nhà nghỉ,quán Karaoke,massage xông hơi trên địa bàn
xã.Sự quản lý lỏng lẻo không ai có thể dám chắc rằng ở đó không ẩn chứa
những tệ nạn xã hội như tệ nạn mại dâm,ma túy.
Các tệ nạn đánh nhau,cờ bạc xuất hiện ngày càng nhiều trên địa phương
gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh,cũng như lối văn hóa tốt đẹp của vùng quê
vốn rất yên bình này.
3.2 Một số kiến nghị nhằm gìn giữ,bảo tồn và phát triển các giá trị văn
hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình trong giai đoạn hiện nay
Với mỗi địa phương thì việc gìn giữ các giá trị văn hóa cổ truyền đồng
thời phát triển văn hóa để thích nghi với đời sống xã hội là một nhiệm vụ
không thể lơ là.Các giá trị văn hóa cũ tạo nên bản sắc văn hóa đặc trưng của
một vùng đất thì các giá trị văn hóa mới được tiếp nhận là cách thức để chúng
ta hoàn thiện hơn nền văn hóa địa phương đang có.Để tiếp thu những tinh hoa
văn hóa có giá trị,bà trừ những hủ tục làm cho môi trường văn hóa tốt đẹp hơn.
45
Làn sóng XKLĐ đã đem đến cho Đông Tân một diện mạo mới về cơ sở
hạ tầng,nâng cao đời sống của nhân dân đồng thời đã và đang làm thay đổi
diện mạo văn hóa tại địa phương này.Để văn hóa Đông Tân phát triển bền
vững và phát huy được vị trí vai trò của mình cần có những định hướng cụ thể
để đáp ứng nhu cầu thời đại đang đặt ra.
Chúng ta cần nhìn nhận vấn đề XKLĐ một cách cụ thể.Chúng ta nên lựa
chọn đối tượng nào đi XKLĐ là tiềm năng,vừa giảm bớt được sức ép lao động
trong nước vừa đảm bảo mặt tích cực của hoạt động XKLĐ.Hạn chế đến mức
thấp nhất những hạn chế của XKLĐ gây ra đối với văn hóa như sự nhạt nhòa
trong mối quan hệ tình cảm giữa những người thân trong gia đình.Tránh lối sống
buông thả và các yếu tố văn hóa tiêu cực tác động vào đời sống địa phương.
Đối với người XKLĐ:
Tận dụng nguồn lao động có tay nghề,có tác phong lao động đã được
đào tạo tại nước ngoài để phục vụ cho quá trình lao động sản xuất trong
nước,tránh gây thất thoát nguồn lao động,tận dụng họ làm nhân tố để đổi mới
phương thức sản xuất,lao động trong nước.
Có những khóa đào tạo kỹ năng giúp cho những người đi XKLĐ và
người thân có những cách thức để thích nghi với cuộc sống một cách hiệu quả
trong quá trình diễn ra hoạt động XKLĐ.
Tăng cường các hoạt động xúc tiến,giới thiệu việc làm,đào tạo nghề
phù hợp cho lao động .Giúp họ ổn định việc làm ngay tại địa phương sau khi
đi XKLĐ
Các tổ chức xã hội cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống văn hóa tinh
thần của người lao động .Giúp họ nhận định được những mặt tích cực,hạn
chế,biết cách chọn lọc những nét văn hóa tốt đẹp để tiếp thu và bài trừ những
tệ nạn xấu.
46
Đối với người thân của những người đi XKLĐ:
Các hội,ban,ngành địa phương cần quan tâm đến đời sống của những
đối tượng này.Giúp đỡ những người ở nhà tránh xa những tệ nạn xã hội,hạn
chế những hệ quả xấu của XKLĐ mang lại.
Thành lập các câu lạc bộ cho hội viên sinh hoat,chia sẻ những kinh
nghiệm nuôi dạy ,chăm sóc con cái giúp cho người thân những người XKLĐ
có thể hoàn thành tốt những công việc gia đình một cách hiệu quả.
Tạo công ăn việc làm cho lao động tại địa phương để phát triển kinh tế
và tránh dư thừa lao động.
Nhà trường là nơi trẻ em học tập và rèn luyện nên có những lớp học
ngoại khóa dạy bảo kỹ năng sống lối sống bù đắp lại cho học sinh những thiếu
hụt về mặt tình cảm mà gia đình không đáp ứng được,qua đó giúp các em
phát triển hoàn thiện cả về trí tuệ lẫn kỹ năng sống
Bên cạnh việc tiếp thu không quên nhiệm vụ giữ gìn ,bảo tồn các nét
văn hóa tiêu biểu của địa phương,không để các yếu tố văn hóa ngoại xâm
chiếm,lấn át làm mai một lu mờ văn hóa địa phương.Chúng ta luôn hòa nhập
nhưng không hòa tan.Phấn đấu vì mục tiêu “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
47
KẾT LUẬN
Trên đây là những đánh giá nhận định về tình hình Xuất khẩu lao động
và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa cổ truyền,làn sóng XKLĐ đã thổi vào
địa phương này những dấu ấn mới của nền văn hóa nhân loại.Người lao động
đã tiếp thu những nét văn hóa nước ngoài áp dụng vào Đông Tân làm thay đổi
phần nào bộ mặt của nền văn hóa cổ truyền.Văn hóa xã Đông Tân vì thế mà
có thêm những màu sắc mới trong quá trình hội nhập và phát triển.
Cơ sở vật chất hạ tầng được đầu tư,bộ mặt nông thôn nhiều đổi khác,lối
sống phong cách sống văn minh và hiện đại tạo nên một Đông Tân giàu đẹp
và văn minh.
Bên cạnh những yếu tố văn hóa tốt đep là văn minh hóa đời sống địa
phương thì cũng xuất hiện nhiều hệ quả không thể tránh khỏi của hoạt động
XKLĐ tác động đối với nền văn hóa như rạn nứt tình cảm,lối sống buông
thả,sự xuất hiện các tệ nạn xã hội....vv.
Do đó ngoài việc tiếp nhận văn hóa chúng ta luôn cần có những chọn
lọc định hướng phù hợp tránh làm mất đi giá trị cốt yếu của nền văn hóa quê
hương.Luôn phải tâm niệm việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc là nhiệm vụ mà mỗi người dân sống trên mảnh đất này phải làm vì sự phát
triển của Đông Tân nói riêng và của đất nước Việt Nam nói chung.
48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nguyễn Phúc Hưng,Phân tích vai trò giới và ảnh hưởng của nó tới sự
đưa ra quyết định
2.Nguyễn Văn Quyết (2003),Nghiên cứu sự biến đổi văn hóa của các
cộng đồng nông nghiệp ,nông thôn trong quá trình phát triển các khu công
nghiệp,luận án tiến sỹ Văn hóa học,Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
3.Nguyễn Thu Thảo,Xuất khẩu lao động sang Trung Đông.khóa luận
tốt nghiệp.
4.Ủy ban nhân dân xã Đông Tân,Số liệu thống kê dân số,vị trí địa lý xã
Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình.
5.GS-TS Hoàng Vinh: Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn
hóa ở nước ta.
49
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA VĂN HÓA HỌC
----------------
nguyÔn thu hiÒn
xuÊt khÈu lao ®éng vμ biÕn ®æi v¨n hãa
t¹i ®«ng t©n, ®«ng h−ng, th¸i b×nh
PHỤ LỤC
HÀ NỘI - 2014
50
MỤC LỤC PHỤ LỤC
STT TÊN PHỤ LỤC Trang
Phụlục 1: Những hình ảnh về tác động của XKLĐ đến 51 văn hóa xã Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình
Phụlục 2: Bảng hỏi khảo sát tình hình biến đổi văn hóa
dưới tác động của XKLĐ tại Đông Tân-Đông 55
Hưng-Thái Bình
Phụlục 3: Một số phiểu phỏng vấn sâu 62
51
PHỤ LỤC 1 : Những hình ảnh về XKLĐ và biến đổi văn hóa
xã Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình:
Ngôi nhà cô Nguyễn Thị Sinh trước khi cô đi XKLĐ
Sau hơn 10 năm đi XKLĐ gia đình đã có cơ ngơi bề thế
52
Thay đổi trong gu thời trang của những người đi XKLĐ
Phụ nữ được quan tâm trong những ngày kỷ niệm
53
Gia đình của các hộ XKLĐ có cơ hội nâng cao chất lượng cuộc sống.
Khó ai nghĩ rằng họ từng là những nông dân chân lấm tay bùn
54
Việc đàn ông vào bếp là chuyện rất bình thường tại Đông Tân
Những năm trở lại đây,XKLĐ đang thu hút giới trẻ tại Đông Tân
55
PHỤ LỤC 2: Bảng khảo sát biến đổi văn xã Đông Tân dưới tác động
của XKLĐ:
PHIẾU KHẢO SÁT ĐỀ TÀI “XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG VÀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA TẠI ĐÔNG TÂN-
ĐÔNG HƯNG-THÁI BÌNH”
Kính thưa quý vị!
Trước khi quý vị thực hiện phiếu khảo sát này,cho phép tôi được gửi lời
cảm ơn chân thành đến những người quan tâm và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài
khoa học “ Xuất khẩu lao động và biến đổi văn hóa tại Đông Tân-Đông
Hưng-Thái Bình”.
Như chúng ta đã biết,cum từ “Xuất khẩu lao động” (XKLĐ) đã trở nên
quen thuộc trong đời sống của người dân Đông Tân. XKLĐ là hướng đi giúp
rất nhiều các gia đình vươn lên thoát nghèo,cải thiện kinh tế,nâng cao chất
lượng cuộc sống .Nếu như trước kia Đông Tân là vùng đất thuần nông nghèo
khó,thì ngày nay quê hương chúng ta đang từng bước chuyển mình trở nên
khang trang hơn ,hiện đại hơn,giàu đẹp hơn. Có được điều này là nhờ đóng
góp rất to lớn của những người con quê hương đang lao động và làm việc tại
nước ngoài.
Bên cạnh những giá trị vật chất mà chúng ta nhìn thấy được trực tiếp
thì có một hệ quả từ hoạt động XKLĐ đang dần dần làm thay đổi đời sống
của vùng đất này, đó là hiện tượng biến đổi văn hóa.Sự thay đổi về cơ cấu lao
động, vốn văn hóa du nhập từ nước ngoài, các thay đổi về quan niệm sống
theo thời gian…….đã làm cho nền văn hóa cổ truyền có những nét khác biệt
so với trước đây.
56
Để có cái nhìn cụ thể, khắc họa sinh động sự chuyển biến về văn hóa
của Xã Đông Tân,chúng tôi thực hiện đề tài này,mong nhận được sự quan
tâm ,giúp đỡ,tư vấn của bà con nhân dân trong xã.Hi vọng với sự nhiệt tình
tham gia góp ý bổ xung của quý vị,đề tài “Xuất khẩu lao động và biến đổi văn
hóa tại Đông Tân-Đông Hưng-Thái Bình” sẽ thành công mỹ mãn.
A. PHẦN THÔNG TIN CÁ NHÂN
(Đánh dấu tích ở cột bên cạnh cho một hoặc nhiều phương án quí vị
lựa chọn)
A1. Giới tính của quí vị:
1. Nam 2. Nữ
A2. Năm sinh (tuổi) của quí vị:……………………
A3. Nơi cư trú hiện nay của quí vị (ghi rõ thuộc xã, huyện, tỉnh
nào?)
…………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………….
...................................................................................................................
A4. Trình độ học vấn cao nhất của quí vị:………………………………..
(Không biết chữ = 0, Tiểu học = 1, Trung học cơ sở = 2, Phổ thông
trung học = 3, Trung cấp/ cao đẳng hoặc tương đương = 4, đại học trở lên= 5)
A5. Nghề nghiệp (nghề dành nhiều thời gian nhất) hiện naycủa quí vị
1. Nông dân
2. Công nhân
3. Cán bộ hưu trí
57
4. Học sinh, sinh viên
5. Dịch vụ và nghề tự do
6. Khác (ghi rõ):
A5 Gia đình quý vị có người đi XKLĐ không?.Nếu có xin ghi rõ số
người đi XKLĐ :
Giới tính Số lượng
-Người đi XKLĐ ở gia đình quý vị là đối tượng:
a. Đã lập gia đình
b. Chưa lập gia đình
-Hình thức xuất khẩu lao động của người thân trong gia đình quý vị là :
a. Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nước
b. Hợp tác lao động và chuyên gia
c. Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, khoán xây dựng công
trình, liên doanh, liên kết chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước ngoài
d. Thông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch vụ cung ứng lao
động (chủ yếu)
e. Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với cá nhân, tổ chức
nướcngoài.
B : Khảo sát tình hình thực tế: (Đánh dấu X vào câu trả lời mà Ông/bà
cho là đúng nhất)
58
1.Thành viên trong gia đình ông/bà đi XKLĐ ở nước nào,khu vực
nào?:(Có thể nhiều lựa chọn)
a. Không có người đi XKLĐ
b. Đài Loan
c. Ma Cao
d. Malaysia
e. Khác ( kể tên)………………………………………………………
2.Mô hình tổ chức hiện tại của gia đình ông/bà :
a. Gia đình tam,tứ đại đồng đường (ba,bốn thế hệ cùng chung sống
với nhau)
b. Gia đình hạt nhân ( bố mẹ-con cái)
c. Gia đình không hoàn chỉnh ( không cùng chung sống,một bên
nuôi con)
d. Khác ( ông bà nuôi cháu,con cái tự chăm sóc nhau)
3. Sự gắn kết của các thành viên trong gia đình chủ yếu bằng hình thức gì ?
a. Gặp nhau thường xuyên
b. Gặp nhau phụ thuộc vào thời gian ký hợp đồng lao động
c. Thông qua các phương tiện thông tin : Điện thoại,Internet,thư từ
d. Người nào làm việc của người đó
Nếu gia đình quý vị gặp nhau theo thời hạn hợp đồng lao động vui lòng
ghi rõ thời gian:……………………………………………………………
4.Sự ảnh hưởng của cha mẹ đối với con cái:
a. Bố có ảnh hưởng đối với con hơn
b. Mẹ có ảnh hưởng với con hơn
c. Bố mẹ đối với con cái có ảnh hưởng tương đương nhau
59
( Chọn a hoặc b,nêu rõ lý do):
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
5. Quan niện mẹ chồng-nàng dâu trong gia đình ông/bà :
a. Vẫn còn khắt khe
b. Hòa hợp
c. Có sự thay đổi theo chiều hướng tích cực.
d. Có sự thay đổi theo chiều hướng tiêu cực.
6. Quan niệm về việc phụ nữ kiếm sống ngoài xã hội:
a. Đồng tình
b. Không đồng tình
c. Khác (Nêu lý do)
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
7. Quan niệm về sinh ít con,nuôi con một bề:
a. Đồng tình
b. Không đồng tình
8. Trong gia đình ai là người làm trụ cột kinh tế :
a. Người đàn ông
b. Người phụ nữ
c. Cả hai
9. Gia đình ông/bà có tổ chức các kỷ niệm tôn vinh phụ nữ không?:
60
a. Không
b. Có (kể tên )
Kể tên các ngày kỷ niệm của gia đình giành cho phụ nữ:
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
10. Gia đình ông/bà có tổ chức các hoạt động du lịch ( nghỉ mát,tham quan
thắng cảnh,du lịch tâm linh) không?
a. Có
b. Không
11. Các gia đình có xu hướng tạo mọi điều kiện cho con cái học hành
đầy đủ.Ý kiến của quý vị:
a. Có
b. Không
12. Tinh thần đoàn kêt cộng đồng ( thể hiện trong tang ma,cưới
xin,hoạt động hội hè ) hiện nay:
a. Giảm xuống
b. Tăng lên
c. Không có sự biến đổi nhiều
(Ví dụ giải thích cho lựa chọn của mình)
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
13. Ông/bà có chịu tác động của yếu tố văn hóa nước ngoài không?
61
a. Có( Liệt kê yếu tố ông/bà chịu ảnh hưởng)
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
b. Không
14. Theo quan sát của ông/ bà địa phương có du nhập thêm tôn giáo
mới nào không?
a. Có (Liệt kê)………………………………………….
b. Không
15. Có những tác động xấu của hoạt động XKLĐ vào đời sống đị
phương không?
a. Có ( liệt kê)
…………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
b. Không
Cảm ơn quý vị đã giúp đỡ chúng tôi trong việc thực hiện đề tài này!
62
PHỤ LỤC 3:
MỘT SỐ PHIẾU PHỎNG VẤN SÂU VỀ VẤN ĐỀ ĐI XKLĐ
Người trả lời phỏng vấn: Trịnh Thị Mai
Tuổi : 46
Nghề nghiệp: Giáo Viên
Gia đình có người đi nước ngoài mà phụ nữ chiếm số đông tại Đông
Tân-Đông Hưng-Thái Bình
Bố ở nhà nếu gia đình phát triển đúng hướng ,con cái hiểu được sự hi
sinh của mẹ sẽ phấn đấu chăm chỉ chịu kos học hành.
Nhưng đại đa số hư hỏng do bố cặp bồ,cờ bạc ít quan tâm đến con cái
khiến con cái không được quan tâm về mặt tinh thần ,chỉ được chu cấp tiền
bạc sinh ra tâm lý coi thường đồng tiền ,sức lao động của người mẹ đang làm
việc tại nước ngoài.
Có những trường hợp người mẹ đi quá sớm,từ khi con 5 tuổi đến khi
16 không được tiếp xúc với mẹ không có tình cảm với nhau.
Trường học là nơi gánh những hậu quả trực quan của hệ lụy XKLĐ.
63
Phiếu 2 Nguyễn Duy Đông
Tuổi 22
Nghề nghiệp : Công nhân đang thực hiện hợp đồng lao động tại Đài Loan
XKLĐ không mới nhưng được giới trẻ quan tâm nhất là từ ba đến bốn
năm trở lại đây.Nguyên nhân do tình hình kinh tế trong nước khó khăn nên
giải pháp đi XKLĐ là một phương án không tồi,nhưng không ít rủi ro,XKLĐ
như con dao hai lưỡi khả năng thành công và thất bại là 50:50.
Muốn làm ăn ở một nước nào đó thì phải đón một khoản tiền lớn (100
triệu trở lên) gọi là môi giới .Nhưng không phải ai cũng tìm được công việc
tốt ,nếu tìm được công việc tốt thì sẽ đem lại thu nhập cao,nếu không người
lao động sẽ trở nên trắng tay cộng thêm 100 triệu đồng đó.XKLĐ giống như
việc đánh bạc,mang tính chất hên xui .Lợi lích là cơ hội thay đổi cuộc sống
giúp gia đình thoát nghèo.
Thay đổi tính cách:
Nhiều người sang Đài Loan đánh mất mình từ lúc nào không biết.Các
bạn cần nhớ đi XKLĐ để làm gì.?Không phải nhiều gia đình còn nghèo
khó,kinh tế chưa có sao?.Sang bên này để kiếm tiền trả nợ vậy mà nhiều
người sau khi hết nợ vốn đi là đã ăn chơi,tiêu tiền như nước.Nhiều người chưa
hết nợ đã sa đọa vì vậy XKLĐ dành cho những người có chí cầu tiến còn ai
muốn đi cho biết thì không nên đi.
Phong cách sống của giới tư bản rất hay,mình rất thích thú và học được
rất nhiều.Họ sống và làm việc không cần ồn ào,rất thực dụng,nhanh gọn,tiết
kiệm là những từ nói lên cách học làm việc: Giàu không hoang phí,giàu cần
tiết kiệm.
64
Phiếu 3 Cô Nguyễn Thị Sinh
Tuổi 50
Nghề nghiệp: Giúp việc Đài Loan
Thời gian 10 năm,hiện tại đang sinh sống tại Đài Loan:
Vấn đề XKLĐ nước ngoài có nhiều cái hay,cái dở.
Làm việc kiếm tiền xóa đói giảm nghèo,xây dựng quê hương giàu
đẹp.Công việc chính là làm việc,kiếm tiền,lo cho gia đình,cảm nhận được
cuộc sống văn hóa ,tinh thần ,người dân nơi đây họ sống công bằng,song
phẳng.Tôi kính nể họ vì họ rất kính nể họ vì họ rất tôn trọng mọi người kể cả
những người làm công việc tầm thường ,những người ở dưới đáy xã hội như
tôi.Người Đài Loan sống lịch sự có trách nhiệm,tinh thần tự giác cao.
Người phụ nữ đi khỏi nhà,chỗ dựa tinh thần bị lung lay,người đàn ông
không khéo sẽ không làm gia đình phát triển được.
Cảm ơn các các cấp chính quyền,cảm ơn Đảng ,cảm ơn chính phủ đã
tạo điều kiện cho tôi đi XKLĐ kiếm tiền thay đổi cuộc sống.
65
Người trả lời phỏng vấn: Bùi Văn Sỹ
Tuổi: 52
Quê quán: Đông Hưng- Thái Bình
Trong thời gian đầu khi vợ mới đi xuất khẩu lao động thì thấy nhớ
nhung diết, nhưng sau một thời gian thì thấy quen và thấy bình thường.
Nhu cầu về tình cảm không được giải quyết, nên dẫn đến hiện tượng
cần có người thay vợ giả quyết nhu cầu đó. Nhưng mọi việc đều có giới hạn,
khi mình làm một việc gì đấy thì mình vẫn phải nghĩ đến vợ mình đang vất vả
vì mình tại nơi đất khách quê người. Không được để vợ mất niềm tin ở mình,
để vợ yên tâm làm ăn.
Tình cảm vợ chồng, con cái xa cách lâu ngày dễ nhạt phai.
Các vấn đề về nuôi dạy con cái đặt lên vai người chồng.
Những công việc của phụ nữ như: đi chợ, đồng áng, nuôi dạy con
cái,…đều do người chồng gánh vác.
Cũng vì nghèo nên mới phải để vợ đi XKLĐ.