
Chương 10 : MacArthur
Thí nghiệm biến Nhật Bản thành một "nước Mỹ lý tưởng"
Tốt nghiệp thủ khoa trường võ bị Westpoint
Nguyên soái[1] Douglas MacArthur đã được chọn làm người thứ mười trong
"Mười hai người lập ra nước Nhật." Ðây là người ngoại quốc duy nhất được chọn.
Xét nước Nhật hơn 50 năm sau chiến tranh, người ta sẽ thấy ảnh hưởng vô cùng
lớn của quân đội chiếm đóng Nhật Bản như tượng trưng bởi MacArthur. Việc
Douglas MacArthur, một quân nhân Mỹ có cá tính cương cường, tổng chỉ huy
quân đội Liên hợp quốc, đã thống suất Ðại Bản doanh chiếm đóng Nhật Bản, là sự
kiện đã mang lại ảnh hưởng không nhỏ cho nước Nhật ngày nay.
Trước nhất hãy kể lại lý lịch của nhân vật này.
Douglas MacArthur sinh năm 1880 tại Little Rock, bang Arkansas, Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ. Arkansas cũng là bang xuất thân của Tổng thống Bill Clinton, và
Little Rock là thủ phủ bang này. Cha, Arthur MacArthur, cũng là quân nhân lục
quân, đã hạ sinh Douglas trong khi đồn trú tại Little Rock.
Như vậy, ông không là người miền Nam chính tông. Trong sách tự truyện,
MacArthur đã dài dòng kể rằng tổ tiên mình thuộc dòng dõi danh gia thế phiệt
Scotland. Sự kiêu hãnh về gia thế như vậy, đã ảnh hưởng tới ngôn từ và phong
cách rất đặc trưng của ông.
Thời niên thiếu, cha ông đã giữ chức tổng tư lệnh quân đội đồn trú Philipines, lúc
ấy mới trở thành thuộc địa của Mỹ. Vào cuối thế kỷ thứ XIX, Philippines đã được
Tây Ban Nha cát nhượng cho Mỹ làm thuộc địa, do kết quả cuộc chiến tranh Mỹ -
Tây Ban Nha.
Thời đó, Philippines chưa được khai phá mấy. Ðó cũng là thời kỳ người da trắng
chiếm ưu thế và chủ nghĩa thực dân đang độ phát triển mạnh mẽ. Thiếu niên
Douglas đã trưởng thành trong bối cảnh như vậy, với tư cách là con trai vị tổng tư
lệnh quân đội đồn trú Philippines.
Douglas lớn lên, vào học trường Sĩ quan Lục quân Westpoint, rồi tốt nghiệp thủ
khoa với thành tích ưu tú một cách kỷ lục. Trường võ bị Westpoint là nơi đã đào

tạo ra hầu hết sĩ quan của lục quân Hoa Kỳ. Thế mà thành tích của Douglas đến
nay vẫn còn được truyền tụng. Nghe nói, ông đọc nhiều biết rộng và có trí nhớ
kinh dị.
Năm 1905, nhân cha ông trở thành võ quan quan sát cuộc chiến tranh Nhật - Nga,
còn ông đã là sĩ quan trợ lý, và do đó đã ở Nhật một thời gian ngắn.
Ðến thời kỳ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Mỹ tham chiến, ông đã đề nghị
thành lập sư đoàn Rainbow (Cầu Vồng) gồm toàn binh sĩ đặc biệt tinh nhuệ. Ðề
nghị được chấp thuận, ông đã đích thân làm tham mưu trưởng chỉ huy sư đoàn
này. Tên Cầu Vồng là hàm cái nghĩa cầu nối giữa Mỹ với Âu châu và phô trương
một sư đoàn tinh nhuệ như trong mộng. Nội việc đề xuất sự thành lập một sư đoàn
tinh nhuệ, rồi đích thân đứng làm tham mưu trưởng, cũng đủ rõ cái ý thức êlít và ý
muốn chơi trội như thế nào rồi.
Sau đó, năm 1919, ở tuổi 39, ông đã trở thành Hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục
quân và năm 1925, ở tuổi 45, ông đã được phong Trung Tướng[2] (Major
General). Cả hai chức danh trên đều là kỷ lục về độ tuổi thấp nhất. Ðiều này chứng
tỏ ông là thành phần siêu ưu tú của lục quân Mỹ vậy.
Tuy nhiên, cần chú thích ít nhiều về Douglas MacArthur. Ðó là, giai đoạn hoạt
động nhất của đời quân nhân của ông, tức là những năm từ 1925 tới 1930, lại rơi
vào thời kỳ giải trừ quân bị và đại khủng hoảng kinh tế.
Từ thập niên 1920 sang thập niên 1930, do Hiệp ước Washington và Hội nghị giải
trừ quân bị London, Mỹ đã cắt giảm quân số so với các nước khác. Chỉ trong thời
gian ngắn, chi phí quân sự của Mỹ đã rút xuống tới khoảng một phần trăm của
tổng sản phẩm quốc dân (GNP), nghĩa là chỉ tương đương với chi phí cho lực
lượng phòng vệ[3] của Nhật Bản ngày nay.
Hiệp ước Washington hạn chế số tàu quân sự. Nhật Bản thời đó, Anh quốc, và
những nước khác cũng chịu sự hạn chế như vậy. Tuy nhiên, tổng thống Mỹ
Coolidge còn làm triệt để hơn, bằng cách bán chiến hạm đang đóng cho công ty
điện ảnh, rồi cho quay phim cảnh đánh chìm. Ðối với quân nhân, thì đó không
những là sự đau lòng về mặt kinh tế, mặt tổ chức, mà còn là sự nhục nhã về mặt
tinh thần nữa.
Lục quân thì bì cắt giảm một số sư đoàn, võ khí quân trang cũng hầu như không
được trang bị mới nữa. Toàn thế giới chìm đắm trong bầu không khí hòa bình, nơi
nơi đua nhau ký kết hiệp ước bất chiến, lực lượng võ trang mỗi ngày một được thu
nhỏ lại. Trong xã hội, địa vị quân nhân ngày một xuống thấp, cho nên, những phần
tử ưu tú không còn gia nhập quân đội nữa.

Ở Nhật Bản còn có từ gọi thời đại này là "Thời giải giáp Taisho." Người mặc quân
phục vào cửa hàng liền bị chế diễu. Thậm chí, người ta còn nói "quân nhân thì
không có ai chịu đến làm dâu cả." Thời kỳ MacArthur hoạt động với tư cách là
Trung Tướng, tham mưu trưởng, lại trùng với thời kỳ giải giáp dài hơn thời giải
giáp ở Nhật Bàn này, là điểm đáng chú ý.
Cha là quân nhân, bản thân mình cũng là quân nhân ưu tú đậu thủ khoa Trường Sĩ
quan lục quân Westpoint, Douglas MacArthur hẳn đã phải sống những ngày sầu
muộn vì chí chẳng đạt.
Ðoạt lại Philippines rồi chiếm đóng Nhật Bản
Cùng với sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc, phong trào đòi độc lập ở Philippines
cũng dâng cao. Năm 1935, Douglas MacArthur trở thành quân nhân dự bị và được
cử làm cố vấn quân sự xây dựng quân đội quốc gia Philippines. Cha đã làm tổng
tư lệnh bộ đội Mỹ đồn trú ở đó, nay lại đến lượt MacArthur theo sự cam kết của
tổng thống Roosevelt là sẽ trao trả độc lập cho Philippines, nên MacArthur đã
được cử tới làm cố vấn quân sự, để xây dựng quân đội mới cho nước sắp độc lập
này. Nhưng lần này, khác với MacArthur cha, MacArthur con hẳn không lấy làm
phấn khởi bằng.
Với tư cách cố vấn sáng lập quân đội Philippines, Douglas MacArthur đã tham gia
vào sự soạn thảo hiến pháp Philippines và đã chuẩn bị nhiều phương án cùng một
lúc. Việc soạn thảo hiến pháp này của ông đã có sự liên hệ tới bàn thảo hiến pháp
Nhật Bản. Nghĩa là, cái lý tưởng mà MacArthur ôm ấp đã có một sự liên tục nhất
quán.
Sau khi hoàn thành xong vai trò cố vấn quân sự ở Philippines, ông đã giải ngũ.
Nhưng tháng 7 năm 1941 (niên hiệu Showa thứ 16), trước tình trạng Nhật Bản và
Mỹ sắp giao chiến, ông đã trở lại quân ngũ và nhậm chức tư lệnh lục quân Mỹ tại
Viễn đông, đóng tại Philippines. Là quân nhân Mỹ, MacArthur quả đã có duyên
với vùng Viễn đông. Thế rồi, năm tháng sau thì trận Chiến tranh Thái bình dương
nổ ra. Năm tháng sau nữa, trước sức tấn công mãnh liệt của quân đội Nhật, ông đã
rút lui qua đảo Mindanao, sang tới Australia. Lúc đó, ông đã phát ra lời nói đầu
tiên "I shall return (Tôi quyết sẽ trở lại)" nay đã trở thành danh ngôn. Lời này hình
như ông đã nói ra khi đặt chân tới Australia chứ không phải khi rời khỏi
Philippines.
Khi tình huống chiến tranh trở bề có lợi cho Mỹ, MacArthur bèn mở cuộc phản
công mãnh liệt. Lúc đó Mỹ có hai phương án phản công.

Một do đại tướng hải quân (đề đốc) Chester William Nimitz (sau thăng Nguyên
soái) vạch ra, gồm tiến quân từ nhóm đảo Mariana lên chiếm đảo Iojima để tới
Nhật Bản. Phương án này gọi là "cuộc tiến công kiểu những tảng đá dẫm chân."
Nghĩa là không đánh trên bộ nhiều, mà chỉ chiếm đoạt các hòn đảo để lập căn cứ
không quân, rồi từ đó triển khai hàng không mẫu hạm ra phong tỏa từ ngoài biển,
làm tiêu hao chiến lực của Nhật Bản đi.
Phương án thứ hai do đại tướng lục quân Douglas MacArthur vạch ra. Ông này
nôn nóng chiếm lại Philippines, trù liệu tiến công từ Australia lên phía bắc, trước
hết chiếm Tân Guinea, rồi từ Nam Thái bình dương đánh sang đảo Leyte, từ đó
đoạt lại toàn lãnh thổ Philippines, rồi đánh qua Ðài Loan, Okinawa và từ đó đánh
vào nội địa Nhật Bản. Nghĩa là ông chủ trương chiếm đoạt một vùng đất rộng lớn.
Nếu chỉ xét về mục đích của vấn đề là đánh thắng Nhật Bản, thì phương án của đề
đốc Nimitz tỏ ra rất có hiệu quả, vì chi phí thấp mà vẫn thắng được. Nhưng, xét về
chính trị, thì phương án của đại tướng MacArthur theo đó lần lần giải phóng từ
Tân Guinea, tới Philippines, Ðài Loan, có hiệu quả lớn làm sáng tỏ chính nghĩa
của trận chiến. Cứ xem cách đánh trận, ta đủ thấy cái ý đồ chính trị sâu xa của
MacArthur.
Quân đội Mỹ rút cục đã áp dụng cả hai phương án, một mặt điều động hải quân
phong tỏa Nhật Bản, một mặt điều lục quân đánh chiếm Philippines và Okinawa.
Trong khi tiến hành chiến dịch này thì năm 1944, đại tướng MacArthur được
thăng lên nguyên soái (tướng 5 sao).
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản đầu hàng. Tức khắc, Nguyên soái
MacArthur được phong Tổng tư lệnh quân đội của Liên hợp quốc chiếm đóng
Nhật Bản. Ông bay ngay tới Nhật Bản. Máy bay quân đội chiếm đóng hạ cánh
xuống căn cứ không quân Atsugi lần đó là ngày 30 tháng 8. Lập tức, đại bản
doanh được đặt ở Sở quan thuế Yokohama (sau này chuyển tới tòa nhà Công ty
Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi, ở bên bờ hào Hoàng cung Tokyo). Sự chiếm đóng
Nhật Bản thực chất bắt đầu từ ngày đó. Ngày 2 tháng 9, lễ ký kết Văn kiện Ðầu
hàng đã diễn ra trên chiến hạm Missouri, để hợp thức hóa việc chiếm đóng này.
MacArthur để lại ảnh hưởng lớn tại Nhật Bản, dĩ nhiên là vì ông đã đánh bại Nhật
Bản, nhưng hơn thế nữa, chính vì chính sách ông đã thực thi trong sáu năm chiếm
đóng Nhật Bản.
Năm 1950, cuộc chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. MacArthur liền nhậm chức tổng
tư lệnh quân đội Liên hợp quốc với quân đội Mỹ làm nòng cốt. Lúc ấy, ngoài
cương vị tổng tư lệnh quân đội, MacArthur còn đối phó với mỗi sự việc bằng chủ
trương chính trị của mình nữa. Ðiều này đã để lại ảnh hưởng trọng đại đối với
tương lai của Nhật Bản.

Trong chiến tranh Triều Tiên, lúc đầu, miền Nam tức là Hàn Quốc đại bại. Sư
đoàn 24 Mỹ đóng tại Nhật Bản liền tới cứu viện. Nhưng gặp phải sức mạnh của
đoàn chiến xa hạng nặng của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Sư đoàn 24
hầu như bị tiêu diệt. Trung tướng sư đoàn trưởng Dean bị bắt làm tù binh. Liên
quân Mỹ - Hàn bị dồn tới đường cùng ở "Ðầu cầu Pusan (Phẫu Sơn)," tưởng như
sắp bị quét xuống biển.
Nhưng, được tăng viện bởi Lộ quân 1, MacArthur liền triển khai một chiến dịch
hào nhoáng. Ông cho đổ bộ lên Inchong (Nhân Xuyên) rồi cùng với lộ quân thứ 8
ở Ðầu cầu Pusan, đánh gọng kìm phá được đối phương. Cách đánh này chứng tỏ
đường lối diễn xuất nhằm hiệu quả chính trị của MacArthur.
Mùa Thu năm 1950, khi liên quân Mỹ - Hàn dưới quyền chỉ huy của MacArthur
đánh lần tới biên giới Trung Quốc ở phía bắc, thì một sự đảo ngược lại diễn ra.
Tháng 11 năm đó, ông công bố quan điểm lạc quan rằng: "Cho đến lễ Giáng sinh,
sẽ cho hai sư đoàn về nước," chủ quan coi là "Ðến lễ Giáng sinh sẽ thắng."
Nhưng, quân tình nguyện Trung Quốc đã ồ ạt kéo vào bán đảo Triều Tiên qua
sông Áp Lục Giang, lúc đó mùa đông nên đóng băng cứng, đã phản kích mãnh
liệt, khiến liên quân Mỹ Hàn bị thiệt hại nặng nề, phải bỏ chạy. Ðến nỗi Thượng
tướng Walker chỉ huy Lộ quân thứ 8 bị tử trận, quân tướng và vũ khí khí tài của
Mỹ bị mất gần hết.
Rơi vào cùng địa, MacArthur chủ trương oanh kích miền Bắc Trung Quốc, nhưng
tổng thống Mỹ Truman lúc đó không muốn đối đầu trực tiếp với Trung Quốc, nên
đã quyết định giải nhiệm Nguyên soái MacArthur.
Nguyên soái MacArthur bị giải nhiệm năm 1951, trở về tổ quốc. Lúc đó, tuổi đã
ngoài 70, diễn thuyết trước Quốc hội Mỹ, ông đã để lại danh ngôn "Old soldiers
just fade away (Lính già chỉ còn nước biến đi thôi)," rồi giải ngũ và từ quan. Có
một thời gian, ông đã giữ chức Tổng giám đốc Công ty Remington. Cuối đời, ông
ở khách sạn Vip Walt Astoria ở New York, vẫn duy trì lối sống hào hoa của mình.
Năm 1964, ông mất ở tuổi 84.
Biến thành kiểu mẫu cho một "nước Mỹ lý tưởng"
Chính sách chiếm đóng Nhật Bản, do một quân nhân có cá tính mãnh liệt như kể
trên triển khai, đã để lại cho Nhật Bản thời hậu chiến ảnh hưởng vô cùng lớn lao.

