intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

5 câu tự luận môn khoa học chính trị

Chia sẻ: Nguyễn Thị An | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:31

127
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Phân tích nội dung cơ bản trong học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa MácLênin, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH và phân tích những sai lầm khuyết điểm xung quanh vấn đề đấu tranh giai cấp và phân tích nhận định sau đây của Đảng

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: 5 câu tự luận môn khoa học chính trị

  1. 5 câu tự luận môn khoa học chính trị Câu 1: Phân tích nội dung cơ bản trong học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác- Lênin, đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH và phân tích những sai lầm khuyết điểm xung quanh vấn đề đấu tranh giai cấp và phân tích nhận định sau đây của Đảng ta: “Thời kỳ quá độ ở nước ta là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các lĩnh vực đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai” Bài làm Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ghi rõ thời kỳ quá độ ở nước ta “đó là một thời kỳ đấu tranh giai cấp phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các lĩnh vực đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Đây chính là sự thể hiện hiểu biết đầy đủ hơn về con đường tiến lên CNXH ở nuớc ta, đặc biệt đây là sự thể hiện việc nhận thức và vận dụng đúng đắn và sáng tạo học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm tiến bộ, tích cực của các học giả tư sản cùng với sự thiên tài về mặt lý luận Mác-Anghen đã đưa ra một phương pháp luận để làm cơ sở xem xét các giai cấp: đó là phải gắn các giai cấp với PTSX nhất định trong lịch sử. Tuân thủ phương pháp luận của Mác và Anghen một cách có tính nguyên tắc Lênin đã đưa ra một định nghĩa về GC trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” như sau: “Người ta gọi GC những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống SX XH nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những TLSX, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải XH, ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chổ các tập đoàn đó có địa vị khác nhay trong một chế độ KT XH nhất định. Giai cấp là một phạm trù KT-XH có tính lịch sử. Mỗi giai cấp sẽ thay đổi khi điều kiện KT-XH thay đổi. Giai cấp không thể là sản phẩm của SX nói chung mà là sảan phẩm củanhững hệ thống sản xuất XH nhất định trong lịch sử. Mỗi hệ thống giai cấp tương hợp
  2. với một hệ thống SX XH, do đó mỗi đặc trưng của giai cấp phải được xem xét trong quan hệ với giai cấp khác. Trong một hệ thốngười KT-XH nhất định tập đoàn người này có địa vị thống trị, tập đoàn người khác có địa vị bị trị đó là các giai cấp. Sự khác nhau giữa các tập đoàn về địa vị trong một hệ thống KT-XH nhất định là đặc trưng chung nhất của giai cấp. Các giai cấp không phải bao giờ cũng tồn tại trong XH loài người. Các GC chỉ tồn tại gắn liền với những giai đọan phát triển nhất định của SX trong lịch sử. Khi LLSX còn thấp kém trong XH nguyên thủy, con người làm ra sản phẩm chỉ đủ để tồn tại, bảo tồn nòi giống chưa có sản phẩm dư thừa tương đối thì chưa có khả năng xuất hiện chế độ người bóc lột người, chưa thể có các giai cấp. Sự phát triển của LLSX lên trình độ mới tạo tiền đề và khả năng phân hoá XH thành các giai cấp. Cơ sở trực tiếp của sự hình thành các giai cấp là chề độ tư hữu về TLSX. Chế độ này đưa đến chế độ chiếm hữu TLSX XH. Điều đó dẫn đến sự khác nhau về địa vị trong một hệ thống SX XH nhất định của những tập đoàn người. Như vậy, điều kiện cơ bản cho sự tồn tại tất yếu của chế độ tư hữu và XH có GC là sự phát triển của LLSX đã tạo ra được sản phẩm thặng dư nhưng chưa có thể bảo đảm nhu c62u hợp lý của con người. Sự phát triển mạnh mẽ của LLSX hiện đại và những điều kiện KT-XH khác sẽ xoá bỏ sự phân chia XH thành các giai cấp. Các XH có GC đối kháng lần lượt được thay thế trong lịch sử. Mỗi XH có kết cấu XH-GC riêng. Kết cấu GC thường gắn với một phương thức SX nhất định. Mỗi kết cấu XH-GC của một XH nhất định bao gồm hai giai cấp cơ bản đối lập nhau. Đó là những giai cấp quyết định sự tồn tại, sự phát triển của hệ thống SX trong một XH nhất định. GC tiêu biểu cho bản chất của chế độ KT-XH đang tồn tại là GC thống trị. Trong XH có GC, GC thống trị chiếm đọat lao động của các GC và tấng lớp bị trị, chiếm đọat của cải XH vào trong mình, áp bức quần chúng nhân dân lao động về chính trị, Xã hội và tinh thần. Các GC bóc lột bao giờ cũng dùng mọi hình thức, biện pháp phương tiện để bảo vệ địa vị, củng cố chế độ KT-XH nhằm hướng những đặc quyền đặc lợi, lợi ích căn bản của GC thống trị đối lập với lợi ích căn bản của GC bị trị. Sự đối kháng về lợi ích giữa các Gc thống trị, áp bức, bóc lột và giai cấp bị trị, bị áp bức, bị bóc lột là nguyên nhân của đấu tranh GC. Đấu tranh chống áp bức chỉ xảy ra khi có áp bức. Vì vậy đấu tranh GC là cuộc đấu tranh giữa các GC có lợi ích căn bản đối lập nhau.
  3. Các cuộc đấu tranh GC trong lịch sửnhân loại diễn ra dưới nhiều hình thức tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sữ vào các GC tham gia đấu tranh. Trong thời đại ngày nay các hình thức biểu hiện của đấu tranh GC càng đa dạng và phức tạp. Theo Lênin, đấu tranh GC thực chất là cuộc đấu tranh giữa các GC có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Lợi ích này là không thể điều hoà được. Trong lợi ích cơ bản này thì lợi ích KT mang tính khách quan cần thiết giữ vai trò tác động chi phối đến sự ra đời, vận động, phát triển cũng như là mất đi của các GC trong XH. Đấu tranh GC là một trong những động lực quan trọng cũa sự phát triển XH có GC. Khi nghiên cứu phép biện chứng duy vật, nghiên cứu quy luật đấu tranh của các mặt đối lập ta thấy rằng mâu thuẫn nói chung chính là động lực của sự phát triển. Động lực phát triển cơ bản của XH là tác động biện chứng giữa nhu cầu không ngừng tăng lên của con người với cải tiến SX, SX vật chất bao giờ cũng phát triển trong một QHSX nhất định : QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là điều kiện cơ bản để SX phát triển thuận lợi, tạo cơ sở mọi mặt của đời sống XH phát triển. QHSX trở thành xiềng xích, phá hoại LLSX, khi nó không còn phù hợp với LLSX. Trong các XH có GC đối kháng, do được GC thống trị – đại diện cho QHSX đó bảo vệ bằng mọi sức mạnh, đặc biệt là bạo lực có tổ chức, QHSX không tự động nhường chổ cho QHSX mới. Vì vậy, muốn thay thế QHSX cũ bằng QHSX mới phải tiến hành đấu tranh GC và cách mạng XH. Đấu tranh GC là động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử của các XH có GC đối kháng. Đấu tranh GC trong các XH có GC còn cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng lao động nhằm gột rữa cho họ tinh thần nô lệ và những tập quán xấu do chế độ người bóc lột, áp bức người sinh ra. Trong XH có GC thì đấu tranh GC không phải là động lực duy nhất mặc dù nó là động lực vô cùng quan trọng “Nó là đòn bẩy vĩ đại trong các cuộc cách mạng XH hiện đại” (Mác-Anghen). Ngoài đấu tranh GC ra còn cò các động lực khác mà vai trò vị trí của mỗi động lực như VH, GD, KHKT, tư tưởng đạo đức đều phát huy tác dụng trong từng giai đọan lịch sử nhất định. Thực tiễn cho thấy đấu tranh gc không chỉ là động lực trực tiếp của lịch sử trong thời kỳ cách mạng mà còn là động lực phát triển mọi mặt của đời sống XH trong thời kỳ phát triển bình thường của các XH có GC. Đấu tranh GC có tác dụng thú đẩy XH phát triển về mọi mặt ngay cả khi QHSX phù hợp với LLSX. Dưới chế độ TBCN nhờ cuộc đấu tranh GC của mình dưới nhiều hình thức, GC công nhân, và nhân dân lao động mới giành được những thành quả dân chủ mới thúc đẩy GCTS đổi mới phương thức quản lý, cải tiến, sử dụng kỷ thuật và công nghệ mới.
  4. Sự phát huy vai trò của cuộc đấu tranh GC trong lịch sử tuỳ thuộc vào tinh chất, trình độ phát triển của cuộc đấu tranh. Những cuộc đấu tranh GC mang tính chất quần chúng rộng rãi do lực lượng tiên tiến của XH lãnh đạo, tổ chức mang tính KH nhằm thực hiện nhiệm vụ lịch sử chính muồi lật đổ GC thống trị phản động đang cản trở sự phát triển của XH, có tác dụng đặc biệt to lớn đối với sự phát triển của XH. Trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta, XH vẫn còn các GC tồn tại lâu dài, các mâu thuẫn GC chưa bị thủ tiêu. Đấu tranh GC là thực tế khách quan. Thực tế đó đòi hỏi nhận thức đúng tính chất, nội dung hình thức của cuộc đấu tranh, xử lý đúng đắn mối quan hệ XH-GC. Tuy nhiên cần chống lại hai khuynh hướng sai lầm trong đấu tranh GC. Khuynh hướng sai lầm thứnhất là chủ quan duy ý chí, coi nhẹ quy luật khách quan trong khi đó lại tuyệt đối hoá đấu tranh GC nhất là tư tưởng cực đoan khuyếch đại một trong những hình thức của đấu tranh GC là mặt tiêu diệt xoá bỏ. “Trí, Phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ” và khuynh hướng sai lầm thứ hai là cơ hội hữu khuynh coi nhẹ buông lơi mơ hồ về đấu tranh GC, mất cảnh giác trước âm muư diễn biến hoà bình với các thế lực thù địch với CNXH. Hiện nay Đảng ta chủ trương tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập KT quốc tế, VN muốn làm bạn của các nước để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Vì vậy, đã có quan điểm sai lầm cho rằng hiện nay ở nước ta không còn đấu tranh GC. Ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Aâu cũ, các lực lượng chống CNXH đã lợi dụng tình hình khủng hoảng của CNXH nhất là lợi dụng những sai lầm nghiêm trong của các Đảng Cộng Sản cầm quyền để đảo ngược tình thế, lập lại trật tự tư sản. Trước tình hình thực tế đó, Đại Hội VI của Đảng đã xác định: “Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên CNXH từ một nền SX nhỏ, bỏ qua giai đọan phát triển TBCN đuơng nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện triệt để nhằm xây dựng từ đầu một XH mới cả về LLSX, QHSX và KTTT. Đó là một thời ký đấu tranh Gc phức tạp, đấu tranh giữa hai con đường XHCN và TBCN trên tất cả các lĩnh vực của đời sống XH nhằm giải quyết vấn đề “ai thắng ai”. Những năm gần đây, về mặt hình thức chúng ta thường ít nói đến “đấu tranh giai cấp”, “đấu tranh giữa 2 con đường”, nhưng thực chất nội dung của đường lối, các chiến lược, phương hướng cơ bản, phát triển đất nước vẫn bao hàm nội dung đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa 2 con đường XHCN và TBCN. trong cán bộ Đảng viên ta hiện nay còn có những cách hiểu không rỏ về đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa 2 con đường. Hơn nửa đề
  5. cập đến con đường đi lên CNXH trong thời kỳ quá độ không thể không đụng đến vấn đề đấu tranh giai cấp và đấu tranh giữa 2 con đường. Đảng ta khẳng định rằng hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ ở nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và đấu tranh giai cấp, không thể xoá nhoà ranh giới giửa các giai cấp, không thể phủ nhận đấu tranh giai cấp. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, đấu tranh GC có nội dung và hình thức mới rất đặc thù cho một XH bỏ qua chế độ TBCN tiến lên CNXH, một XH đang đổi mới trước bối cảnh tình hình TG hết sức phức tạp. Thật vậy trong thời kỳ quá độ, có nhiều hình thức sở hữu về TLSX, nhiều thành phần KT, các giai cấp, các tần lớp XH khác nhau, cơ cấu giai cấp, nội dung tính chất, vị trí cùa các giai cấp trong XH ta đã thay đổi nhiều cùng với những biến đổi to lớn về KT XH. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp XH trong sự nghiệp xd và bảo vệ tổ quốc dười sự lãnh đạo của Đảng hiện nay không như trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, cũnh không như lúc mới bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngày nay lợi ích cơ bản lâu dài của các giai cấp thống nhất với lợi ích của các dân tộc, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa 2 con đường: XHCN và TBCN vẫn còn nhưng gắn với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc chống nghèo nàn lạc hậu, khá8c phục tình trạng nước nghèo, chậm phát triển. Đảng và nhà nước ta đang khuyên khích thành phần KT tư bản tư nhân phát triển kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư kinh doanh, để các nhà TBCN được “cày trên luống cày của CNXH”. Một bộ phận công nhân đi làm thuê cho các nhà tư bản, trong XH tồn tại sự bóc lột của nhà tư bản đối với người lao động làm thuê, song Đảng và nhà nước lại có chủ trương có chính sách, có pháp luật để bảo vệ lợi ích chính đáng và kết hợp hài hoà lợi ích của người lao động làm thuê, lợi ích của nhà tư bản, lợi ích của nhà nước. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân là một bộ phận hữu cơ của nền KT quốc dân dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN đang quá độ lên CNXH. Vì vậy ở đây giữa lao động làm thuê và nhà tư bản không có mâu thuẫn đối kháng như trong XH tư bản. Chúng ta sử dụng một số mặt của CNTB để xây dựng CNXH chứ không phải để xây dựng chế độ TBCN. Thế nhưng, xét cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy luôn luôn có những lực lượng, những nhân tố cản trở con đường khách quan đi lên CNXH của nhân dân ta. Để thực hiện mục tiêu cách mạng là dân giàu, nước mạnh, XH công bằng văn minh, điều cơ bản là phải phát triển mạnh mẽ nền KT nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nuớc, bảo đảm định hướng XHCN ; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng CNXH phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc bảo vệ chính quyền nhân dân và
  6. pháp chế XHCN. Toàn bộ sự nghiệp trên da96y là lợi ích căn bản của dân tộc và nhân dân lao động. Tuyệt đại đa số trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm GCCN, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức các tầng lớp lao động khác, tầng lớp tư sản dân tộc, các nhân sĩ yêu nuớc… tán thành mục tiêu nói trên. Tuy nhiên một bộ phận nhỏ trong XH vì quyền lợi ích kỷ, vì hận thù giai cấp đã và đang liên kết với các thế lực phản động quốc tế chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Vì vậy đấu tranh GC trong thời kỳ quá độ ở nuớc ta trước hết là cuộc đấu tranh dưới nhiều hình thức giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng XH đi theo con đường dẫn đến mục tiêu dân giàu nước mạnh, XH công bằng văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo với một bên là các thế lực các tổ chức các phần tử chống độc lập dân tộc và CNXH, chống Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự XH và an ninh quốc gia. Các thế lực phản động trong nước và quốc tế chống độc lập dân tộc và CNXH chủ yếu thông qua diễn biến hoà bình nhằm thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, làm tan rã về hệ tư tưởng tiến tới lật đỗ chính quyền nhân dân bằng hình thức này hình thức khác. Cuộc “đấu tranh giữa hai con đường”, con đường XHCN và con đường TBCN cũng là biểu hiện của đấu tranh GC trong thời kỳ quá độ ở nuớc ta. Đây là cuộc đấu tranh giữa các nhân tố thúc đẩy đất nước dịch chuyễn theo hướng TBCN. Các nhân tố tự phát TBCN này được những thế lực chống độc lập dân tộc và CNXH lợi dụng phục vụ mục tiêu của chúng. Cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng phát triển trên đây diễn ra hàng ngày hàng giờ trên tất cả các lĩnh vực trước hết là lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực trật tự XH. Cùng với những thành tựu của 15 năm đổi mới, đất nuớc ta còn phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta xác định là tụt hậu xa hơn về KT so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới ; chệch hướng XHCN ; nạn tham nhũng và tệ quan liêu; “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra. Những nguy cơ trên đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen tác động lẫn nhau, khôn thể không xem nhẹ nguy cơ nào trong khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt. Vấn đề hiện nay không phải là lãng tránh danh từ đấu tranh GC mà là nhận thức cho đúng tính chất nội dung, hình thức của cuộc đấu tranh , xử lý đúng đắn các quan hệ XH-GC. Đấu tranh GC chính là để giữ vững định hướng XHCN, không chệch hướng. Tóm lại, trong thoi72 kỳ quá độ lên CNXH ở nuớc ta còn có nhiều hình thức sở hữu về TLSX , nhiều thành phần KT, GC, tầng lớp XH khác nhau nhưng cơ cấu, tính chất, vị trí của các GC trong XH ta đã thay đổi to lớn về KT, XH. Mối quan hệ giữa các GC, các tầng
  7. lớp XH là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích GCCN thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là : độc lập dân tộc gắn liền với CNXH , dân giàu, nuớc mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh Gc trong giai đọan hiện nay theo đại hội IX là : “thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH the định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển ; thực hiện công bằng XH, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tuởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc. Và “động lực chủ yếu để phát triển nuớc ta là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân , tập thể và XH, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần KT, của toàn XH.” Trong xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN phải nắm vững quan điểm GC của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là quan điểm cách mạng và KH. Sự tuyệt đối hoá đấu tranh GC cũng như dự mơ hồ về đấu tranh GC đều trái với quan điểm giai cấp Mác-Lênin, đều gây tổn hại cho sự nghiệp xây dựng CNXH. Câu 2 : Học thuyết Mác về Nhà nước và vận dụng để phân tích, phê phán những sai lầm khuyết điểm trong việc tổ chức phương thức hoạt động của hệ thống chính trị (HTCT) nói chung của Nhà nước nói riêng thời kỳ trước đổi mới và để phân tích phương hướng sau đây của Đảng ta : “Xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh GCCN với GC nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng Sản lãnh đạo” (VK 8 trang 129). Bài làm Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Không phải Xh loài người ngay tư khi hình thành đã có Nhà nước. Có một thời kỳ lịch sử XH chưa có Nhà nước : thời kỳ CSNT. Chỉ khi đến nền SX XH phát triển đến một trình độ nhất định, XH phân chia thành GC, Nhà nước mới ra đời. Với sự ra đời của công cụ sx bằng kim loại (đồng hồ), LLSX đã có sự phát triển nổi bậc, của cải XH đã dư thừa và chế độ tư hữu ra đời, XH phân chia thành những GC đối kháng : Chủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa các GC bốc lột, cuộc đấu tranh giữa các GC đó diễn ra
  8. không ngừng và ngày càng quyết liệt không thể điều hoà được. Để bảo vệ lợi ích giai cấp của mình, GC chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp. Bộ máy đó chính là Nhà nước. Nhà nước đầu tiên xuấ hiện trong lịch sử là Nhà nước CHNL, tiếp đó là Nhà nước Phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước XHCN, những nhà nước xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng GC khống thể đều hoà được. Như vậy, nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự ra đời của nhà nước là từ KT, từ sự phát trei63Nhà nước của LLSX, nguồn gốc trực tiếp về KT-XH dẫn đến sự ra đời và tồn tại của nhà nước là do có chế dộ tư hữu và “mâu thuẫn GC không thễ điều hoà được. Nhà nước là bộ máy cưỡng chế đặc biệt nằm trong tay GC cầm quyền, là công cụ sắc bén nhất để duy trì sự thống trị GC cho nên bản chất Nhà nước bao giờ cũng mang tính GC sâu sắc. Trong XH có GC, sự thống trị của GC này đối với Gc khác được thể hiện dưới 3 loại quyền lực : quyền lực chính trị, quyền lực KT, tư tưởng, trong đó quyền lực KT giữ vai trò quyết định nhưng bản thân nó không thể duy trì được vai trò thống trị và đàn áp được sự phản kháng của GC bị trị, vì vậy phải có Nhà nước để cũng cố và bảo vệ những quyền lực ấy. Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, Nhà nước của các gc bóc lột không thể là kẻ công bằng để bảo vệ lợi ích cho các gc trong xh. Như vậy, Nhà nước là một bộ máy đặc biệt để đảm bảo và thực hiệ quyền lực thống trị về KT, tư tưởng, chính trị. Ngoài việc thực hiện chức năng đó,, Nhà nước còn phải giải quyết tất cả các vấn đề khác nảy sinh trong XH , nghĩa là thực hiện chức năng xh. Vì vậy, Nhà nước là một hiện tượng phức tạp và đa dạng, vừa mang bản chất GC vừa mang tính XH. Theo bản chất đó Nhà nước là một tổ chức của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự XH, thực hiện những mục đích để bảo vệ lợi ích của Gc thống trị trong xh. Mỗi kiểu Nhà nước có bản chất riêng nhưng đều mang một số đặc điểm chung. Nhà nước XHCN cũng có những nét chung đó nhưng với bản chất là chuyên chính vô sản, nó không còn là Nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ là “nữa Nhà nước”. Nhà nước của giai cấp bóc lột có hai chức năng cơ bản là: Chức năng đối nội: chức năng này có 2 mặt : mặt thứ nhất là duy trì trật tự KT, XH, chính trị và các trật tự XH khác theo luật pháp của GC thống trị. Đồng thời sử dụng các phương tiện khác như bộ máy thông tin, tuyên truyền văn hoá, giáo dục… để xác lập và củng cố hệ tư tưởng của giai cấp bóc lột biến nó thành tư tưởøng thống trị trong xh (đây là chức năng GC). Mặt thứ hai : quản lý và giải quyết các nhu cầu của Xh (cũng còn gọi là chức năng
  9. quản lý công cộng. Hai mặt của chức năng đối nội có quan hệ biện chứng trong đó mặt thống trị giai cấp là mục đích, còn mặt XH là cơ sở, là điều kiện để thực hiện chức năng giai cấp. Chức năng đối ngoại : chức năng đối ngoại nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia và quan hệ với các nước khác vì lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích quốc gia. Hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nuớc là một thể thống nhất, chức năng đối nội là chủ yếu và có ý nghĩa quyết định. Chức năng đối ngoại là kế tục chức năng đối nội. Trong lịch sử phát triển của mình, Nhà nước có những kiểu sau : Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước XHCN. Các kiểu Nhà nước chủ nô, Phong kiến, tư sản mặc dù có những đặc điểm riêng nhưng đều là những “Nhà nước theo đúng nghĩa” đuợc xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về TLSX và là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Khác với các kiểu Nhà nước bóc lột, Nhà nước XHCN là “nữa Nhà nước” tức là Nhà nước của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ và công bằng XH cho tất cả công dân. Sự thay đổi kiểu Nhà nước này bằng kiểu Nhà nước mới tiến bộ hơn là quy luật tất yếu phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình thái KT-XH. Cách mạng XH là con đường dẫn đến sự thay đổi đó. Nhà nước XHCN ra đời và tồn tại trong thời kỳ quá độ từ xh tư bản lên xã hội cộng sản là tất yếu khách quan của lịch sử. Vì thời kỳ quá độ là thời kỳ còn tồn tại GC, còn có đấu tranh GC. Đó là thời kỳ cải biến cách mạng liên tục và phức tạp để xoá bỏ XH cũ, xây dựng Xh mới. Để làm đuợc việc đó thì chuyên chính của một GC cách mạng (chuyên chính vô sản) là tất yếu để trấn áp kẻ thù vừa để tổ chức XH mới, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới nó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên chính vô sản nhưng bản chất của chuyên chính vô sản lại là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động do đó Nhà nước XHCN có sự thống nhất giữa tính GC và tính nhân dân. Tính GC thể hiện ở sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng. Tính nhân dân thể hiện ở toàn bộ quyền lực của nhân dân lao động. Nó dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số kẻ thù của nhân dân. Nhà nước XHCN lấy chức năng tổ chức xây dựng xh mới là chức năng chủ yếu. Đương nhiên Nhà nước XHCN cũng có chức năng trấn áp GC bóc lột, các lực lượng thù địch của nhân dân nhưng chức năng xây dựng là chủ yếu vì có tổ chức xây dựng thành công xh mới,
  10. mới bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CNXH. Chức năng tổ chức xây dựng XH mới là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẽ và đầy khó khăn phức tạp do đó đòi hỏi tính năng động sáng tạo. Mọi hiện tượng trì trệ, bảo thủ đặc biệt là chủ nghĩa quan liêu, là hiện tượng xa lạ với bản chất của Nhà nước XHCN. Song cũng phải nhận thấy rằng sự tồn tại của Nhà nước XHCN cũng chỉ là quá độ đi đến thủ tiêu vì Nhà nước vô sản (Nhà nước XHCN ) là Nhà nước đặc biệt “Nhà nước tự tiêu vong”. Sự tiêu vong không phải là quá trình giảm vai trò và hiệu lực của Nhà nước mà là quá trình tăng cường và hoàn thiện không ngừng Nhà nước, tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ là điều kiện để Nhà nước rút khỏi vũ đài lịch sử. Đó là biện chứng của quá trình phát triển hoàn thiện Nhà nước thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS. Hệ thống chính trị nước ta bao gồm Đảng Cộng Sản, Nhà nước, công đàon, đoàn thanh niên cộng sản, Hội liên hiệp phụ nữ, hội nộng dân, mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội khác hoạt động trên cơ sở lấy liên minh giữa GCCN với GC nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng dưới dự lãnh đạo của Đảng Cộnf Sản để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Ở nuớc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng thời gian qua bên cạnh những việc đã làm được trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng còn những khuyết thiếu sót, những nhượt điểm của một kiểu Nhà nước mới vừa chấm dứt chiến tranh. Vì vậy, trong tổ chức, xây dựng, quản lý còn nhiều điều bất lợi, lại bị ảnh hưởng nặng nề nhiều năm đất nuớc đi theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Trong đổi mới KT với cơ chế thị trường còn sơ khai, mang yếu tố tự phát, hiệu lực quản lý Nhà nước còn thấp chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường và hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Ngoài việc bộ máy Nhà nước kém hiệu quả, tệ độc đoán, chuyên quyền, ức hiếp, trù dập cá nhân, quan liêu cửa quyền, xem thường pháp luật kỷ cương vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Những yếu kém trên Đảng ta đã chỉ rõ tổ chức Nhà nước của chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp lý luận, thực tiễn và bước tiến của thời đại. Do chưa nhận thức đầy đủ thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường và do tư tưởng chủ quan nóng vội muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên từ Đại Hội IV của Đảng chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên như: chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi ta chưa đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lý KT đã lỗi thời. Đại Hội V cùng với xác định hai nhiệm vụ chiến lược cụ thể hoá bước đường lối KT và những mục tiêu tổng quát, các chính
  11. sách lớn về KT-XH nhưng về chỉ đạo và tổ chức thực hiện còn rời rạc, thiếu kiên quyết khắc phục, tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu và cơ chế quản lý KT, cải tạo XHCN. Văn kiện Đại hội VI nêu rõ : “Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo KT, XH, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Sự yếu ké của Đảng thể hiện là hoạt động tư tưởng và tơ63 chức của Đảng đã không theo kịp yêu cầu của cách mạng. Về lãnh vực tư tuởnglà sự yếu kém, lạc hậu, về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật khách quan đang hoạt động trong thời kỳ quá độ do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc chỉ định các chủ trương, chính sách, chưa chú ý đầy đủ tổng kết thực tiễn để bổ sung về mặt lý luận. Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác cán bộ. Bố trí cán bộ theo quan niệm củ kỷ, nặng tính hình thức, thiên về nhiệt tình cách mạng, coi nhẹ tri thức KH. Trong bộ máy Đảng và Nhà nước còn thể hiện thiếu dân chủ như chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, phong cách và lề lối làm việc mang nặng tính quan liêu lời nói không đi đôi với việc làm . Việc chỉ đạo điều hành thừong không tập trung thiếu nhất quán, nhiều Đảng bộ và cấp uỷ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhiều nơi xảy ra hiện tượng Đảng bao biện làm thay công việc của nhà nước. Bộ máy Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo và kém hiệu quả. Công tác giáo dục quản lý cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ, công tác đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ đảng viên không đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ mới, thậm chí có một số cán bộ đảng viên thoái hoá biến chất. Sự yếu kém về hệ thống pháp luật, kỷ cương chưa nghiêm, an ninh trật tư xh còn phức tạp, tệ nạn tham nhũng, tiêu cực và bất công xh có chiều hướng gia tăng… đó là những nhân tố ít nhiều gây mất ổn định KT-XH nước ta trong thời gian vừa qua. Tóm lại, những khuyết điểm trên đây làm suy yếu năng lực, sức sống của HTCT XHCN ở nước ta, ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả lãnh đạo của Đảng và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng – quần chúng bị tổn thương. Đồng thời đã sản sinh ra các khuyết tật khác như bộ máy công kềnh, chồng chéo, yếu kém về kỷ luật, đặc quyền đặc lợi, độc đoán chuyên quyền dân chủ hình thức tham nhũng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đứng trước tình hình trên đòi hỏi tất yếu phải đổi mới HTCT. Một trong những nội dung cơ bản của đổi mới HTCT ở nuớc ta hiện nay được Đảng ta xác định là : “xây dựng Nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân ; lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp tri
  12. thức làm nền tảng, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo, nghiên cứu lý luận về Nhà nước nói chung và Nhà nước XHCN nói riêng, bổ sung, phát triển và vận dụng một cách sáng tạolý luận đó có ý nghĩa to lớn trong việc (tăng cường) đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước ta hiện nay. Đổi mới HTCT là một đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển xh XHCN. Nó xuất phát từ các cơ sở và yêu cầu sau: Đổi mới tư duy KT, đổi mới T, đổi mới cơ cấu KT nhất thiết đòi hỏi phải đổi mới tư duy chính trị, đổi mới HTCT mà trong đó trọng tâm là xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước theo huớng thật sự trong sạch, có năng lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu quả mọi công việc của đất nuớc. Đổi mới HTCT là điều kiện và tiền đề cho đổi mới KT nói riêng, cho sự nghiệp đổi mới nói chúng. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy Nhà nước không có nghĩa là thay đổi bản chất quyền lực của Nhà nước, ngược lại làm cho bản chất của Nhà nước được thể hiện và thực hiện đầy đủ hơn rõ rệt hơn và có hiệu quả h7Nhà nước trên cơ sở tạo ra cơ chế dân chủ bảo đảm quyền lực của ND dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải đảm bảo cho NDLĐ thật sự tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, tham gia những công việc trọng đại của Nhà nước : tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan Nhà nước … Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước phải được thực hiện gắn với đổi mới và kiện toàn HTCT. Đảng ta xem Nhà nước XHCN là trụ cột của HTCT, là công cụ thực hiện quyền lực của ND”, nó đuợc tổ chức theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN của dân , do dân, vì dân, lấy liên minh GCCN với GCND và tầng lớp trí thức làm nền tảng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản VN. Trong tổ chức và hoạt động của mình, quyền lực Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất nhưng có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền hợp pháp hành pháp và tư pháp. Trong tổ chức và hoạt động của mình, Nhà nước pháp quyền XHCN VN thực hiện nguyên tắc tập trung ddân chủ. Chỉ khi đó nó mới đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân bảo đảm sự thống nhất tổ chức và hành động, phát huy đồng bộ và kết hợp chặt chẽ sức mạnh của cả cộng đồng và từng cá nhân, của cả nuớc và từng địa phương , của cả hệ thống bộ máy và từng yếu tố cấu thành nó. Tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu cũng như phân tán cục bộ.
  13. Nhà nước của chúng ta do ND lập ra thông qua tổng tuyển cữ toàn dân được đặt dưới sự kiểm soát của ND. Mọi quyền lực mà nhà nuớc có được đều do ND ủy quyền. Mọi chủ trương chính sách của Nhà nước đều vì lợi ích của ND, nó kiên quyết đập tan mọi mưu đồ đi ngược lại ý chí của ND. Nhà nước CNXH VN có sự thống nhất hữu cơ chức năng GC và chức năng XH trong tổ chức và hoạt động của mình. Càng đứng vững trên lập trường GCCN càng có khả năng phát hiện, nhận thức và giải quyết có hiệu quả những vấn đế có liên quan tới chức năng XH. Ngược lại việc thực hiện tốt chức năng XH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng XH sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng GC. Chính bằng cách đó và cũng chỉ bằng cách đó, Nhà nước XHCN mới thực sự là Nhà nước của dân do dân và vì dân và có tác động tích cực đối với sự phát triển KT-XH của đất nuớc. Nhà nước XHCN lấy liên minh GC công nhân với GCND và tầng lớp trí thức làm nền tảng. Khối liên minh này là cơ sở vững chắc cho khối đại đoàn kết dân tộc tạo nên sức mạnh mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Liên minh này góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo cũa GCCN, phát huy cao độ sức mạnh làm chủ của NDLĐ mà nồng cốt là CN, ND và tầng lớp trí thức. Ngày nay, trong cuộc CMKH và công nghệ, GCCN, nông dân không thể thực hiện được mục tiêu của mình đề ra nếu không có đội ngũ trí thức và bản thân giai cấp công nhân và nông dân không dần dần đuợc tri thức hoá. Mặt khác tầng lớp trí thức chỉ có thể có điều kiện phát huy khả năng của mình khi họ phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cách mạng của GCCN và ND, đồng thời có đủ điều kiện để thực hiện ước mơ của mình. (Họ có vai trò quan trọng nhưng không thể thay GCCN lãnh đạo được). Trong giai đọan trước mắt để Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, một Nhà nước trong sạch vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả chúng ta phải thực hiện đồng bộ một loạt các nhiệm vụ : đổi mới nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước cải cách nền hành chánh Nhà nước bao gồm cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức, cải cách tổ chức và hoạt động tư pháp. Đồng thời với việc thực hiện những nhiệm vụ đó là đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống bệnh quan liêu tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của HTCT nói chúng, của Nhà nước ta nói riêng. Tăng cường vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước. Cũng cố
  14. khối liên minh công-nông-trí thức. Cải cách nền hành chính quốc gia trên cả lãnh vực thể chế hành chính, bộ máy làm công tác hành chính, đội ngũ công chức hành chính… Tóm lại, bằng việc thực hiện tổng hợp và đồng bộ những nhiệm vụ đó chúng ta chắc chắn sẽ đạt được bước tiến căn bản trong việc hoàn thiện Nhà nước CH XHCN VN mà theo Đại Hội IX xác định đó là Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cụ thể : “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của ND, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý XH bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vũ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Và “cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước gắn liền với XD. Chỉnh đốn Đảng, đổi mới nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Xây dựng bộ máy Nhà nước tinh gọn, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức Đảng và Đảng viên trong các cơ quan Nhà nước” Câu 3 Quan điểm Mác-xít về con người, về vai trò của quần chúng ND trong lịch sử và vận dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta : “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH” (VK 7 trang 115). Bài làm Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển KT của đất nuớc ta hiện nay, con người đóng một vai trò quan trọng đó là cơ sở quyết định sự thành bại của công cuộc XD CNXH trên đất nuớc ta. Để khẳng định tầm quan trọng đó trong văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII ghi rõ: “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Mác vấn đề bản chất con người vẫn chưa được giải đáp vấn đề một cách khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, si6eu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Đã từng có những ý kiến cho rằng triết học Mác-Lênin nói riêng xem vấn đề con người là trung tâm của mọi KHXH và nhân văn. CN Mác_Lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng chomỗi con người và cho cả loài người.
  15. Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác ngộ sinh vật thuần tuý tự nhiên không phân biệt được con người với tính tầm thường của động vật (chủ nghĩa duy tâm siêu hình). Ngược lại, triết học Mác coi “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoá các QHSX” và bản chất đó cũng biến đổi cùng với sự phát triển của XH. Triết học Mác xem bản chất con người xuất phát từ hoạt động của con người thực tiễn. Vì vậy con người là một động vật có tính XH với tất cả nội dung VH-LS của nó. Vạch ra bản chất con người từ QHSX nhưng triết học Mác không tuyệt đối hoá mặt XH trong con người mà cho rằng con người là thực thể thống nhất của mặt sinh vật và mặt XH. Mặt sinh vật là toàn bộ các quá trình sinh vật diễn ra trong con người và cấu tạo chung của cơ thể con người. Còn mặt XH là các phẩm chất XH trong hoạt động lao động, ngôn ngữ, giao tiếp, tư duy… Mặt sinh vật và mặt XH của con người thống nah61TBCN với nhau trong sự vận động của bản chất con người. Mặt sinh vật là tiền đề, điều kiện của mặt XH. Thiếu mặt tự nhiên (sinh vật) thì mặt XH không thể tồn tại và biểu hiện ra được. Song mặt tự nhiên trong con người bị biến đổi, chi phối bởi mặt XH nên mang tính XH. Với quan điểm KH coi con người là một thực thể sinh vật – xã hội, triết học mác đã khắc phục được cả hai khuynh hướng sai lầm trong vấn đề con người : hoặc là đề cao mặt tự nhiên không thấy vai trò quyết định của mặt XH hoặc là giản đơn con người , tuyệt đối hoá nguồn gốc duy tâm XH, không thấy được tiền đề tự nhiên – mặt sinh vật của con người. Quan hệ giữa cá nhân (một con người cụ thể) và XH là vấn đề có vị trí quan trọng đặc biệt trong học thuyết Mác. Các tác phẩm của các nhà kinh điển Mác-Lênin đã đề cập đến vấn đề này một cách toàn diện, sâu sắc có hệ thống trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử. Mối quan hệ giữa cá nhân và XH là mối quan hệ biện chứng, mang tính tất yếu khách quan, vừa là tiền đề vừa là điều kiện cho sự tồn tại và pt1 của XH và cá nhân. cơ sở của mối quan hệ ấy là quan hệ lợi ích. Cá nhân chỉ có thể tồn tại trong ccác mối quan hệ XH ngược lại sự phát triển của XH được đánh dấu bằng sự trưởng thành của mỗi cá nhân đó thực hiện. Môi trường XH có thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển hoặc có thể làm thui chột sự phát triển của con người. Hoàn cảnh XH, quan hệ XH tạo nên bản chất con người. Tuy nhiên điều đó không phải là con người thụ động trước sự tác độngcủa hoàn cảnh và tiếp nhận nó một cách có ý thức. Do đó con người có thể làm chủ trước hoàn cảnh và có khả năng tác động lại hoàn cảnh, cải tiến nó phù hợp hơn với nhu cầu của con người. Vì thế cá nhân có vai trò thúc đẩy XH phát triển. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới XH tuỳ thuộc
  16. vào trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, phẩm chất tốt, tài năng cao và con người trách nhiệm cao với XH thì có tác dụng tích cực đến XH. Ngược lại, những cá nhân bị suy thoái về nhân cách thì gây hậu quả xấu đến XH, trở thành gánh nặng cho XH. Như vậy, cá nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của XH. Sự phát triển của cá nhân góp phần thúc đẩy tiến độ XH phát triển. Xã hội càng pt1 thì mỗi cá nhân lại tiếp nhận được ngày càng nhiều những giá trị vật chất, tinh thần do XH ấy đáp ứng. Thoả mãn nhu cầu chính đáng của cá nhân là động lực liên kết mọi thành viên XH và là mục đích của sự liên kết đó. Do đó, cơ sở của mối quan hệ giữa cá nhân và XH chỉ có thể phát triển tốt đẹp khi quan hệ lợi ích được giải quyết một cách hài hoà. Tùy theo trình độ phát triển của nền SX XH và tính chất của chế độ XH cùng sự nhận thức vận dụng quy luật về sự kết hợp lợi ích mà mối quan hệ lợi ích giữa cá nhận và XH được giải quyết một cách khác nhau. Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với mọi công dân, phát huy nhân tố con người, lấy việc phục vụ lợi ích con người là mục đích cuối cùng của mọi hoạt động và là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là yêu cầu bức thiết trong công cuộc xây dựng và đổi mới XH ta hiện nay. Ngoài cá nhân, quần chúng ND đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như Xây dựng đất nước. Bởi vì theo chủ nghĩa Mác-Lênin quần chúng ND là những người lao động SX ra của cải vật chất, tinh thần cho XH và các lực lượng tiến bộ XH thống qua hoạt động của học lịch sử sẽ biến đổi. Quần chúng ND là người sáng tạo ra lịch sử, là lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Hoạt động SX ra của cải vật chất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của XH mà quần chúng ND là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động đó đồng thời còn là lực lượng có vai trò to lớn trong SX tinh thần. Quần chúng ND chính là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng XH. Đồng thời điểm khởi đầu và cũng là mục đích cuối cùng của hành động cách mạng là lợi ích của quần chúng ND. Họ là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình KT, chính trị, XH, là người sáng tạo ra lịch sử nhưng vai trò đó trong từng thời kỳ cụ thể không giống nhau. Vai trò ấy được phát huy đến mức nào còn tuỳ thuộc vào tính tích cực, vào tri thức, vào trình độ tổ chức của quần chúng… trong một hoàn cảnh lịch sử, một chế độ XH, một PTSX nhất định. Cùng với sự phát trei63Nhà nước của XH thì vai trò sáng tạo của quần chúng ND ngày càng tăng và xét trên mọi phương diện từ KT đến Chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng thì quần chúng ND luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử.
  17. Khẳng định vai trò quyết định của quần chúng ND đối với sự phát triển của XH không có nghĩa là phủ nhận vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ. Trái lại, vai trò đó có mối quan hệ khăng khít với nhau. Lãnh tụ là người nắm bắt được xu thế phát triển của dân tộc, của thoi72 đại để đề ra đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng đúng đắn, là người tổ chức tập hợp quần chúng để thực hiện giải quyết những nhiệm vụ do thực tiển lịch sử đề ra. Một phong trào muốn thành công đòi hỏi có một lãnh tụ giàu kinh nghiệm lãnh đạo là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên không nên tuyệt đối hoá vai trò của vĩ nhân lãnh tụ, sùng bái cá nhân dẫn đến xem thường ý kiến tập thể, độc đoán chuyên quyền xa rời quần chúng, làm cho quần chúng mất tin tưởng vào sức mạnh của mình dẫn đến thụ động, tuân thủ một cách mù quáng và bảo vệ uy tín lãnh tụ vì uy tín của lãnh tụ là uy tín của phong trào. Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM về vấn đề con người, Đảng ta khẳng định : “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH, của sự nghiệp XD CNXH. Vì nó xuất phát từ mục tiêu chung của chủ nghĩa Mác là giải phóng con người . Con người là chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và CH của các quốc gia. Con người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp XD XH mới đồng thời là mục tiêu của CNXH. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu bắt đi vào CNH, HĐH chúng ta chưa có những chỉ số cao về phát triển con người như mong muốn. Nhiều năm qua tốc độc nâng cao dân trí ở nước ta quá chậm. Cùng với mặt bằng dân trí còn thấp số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như số người có học vấn đại học, sau đại học đều đang còn ít. Đến nay, còn nhiều người lao động chưa được đào tạo nghề nghiệp. Đó là những khó khăn hết sức to lớn cho việc tiếp thu KH và công nghệ mới nhằm đạt tới những mục tiêu của CNH, HĐH. sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đang đòi hỏi rất cao về bản lĩnh chính trị, tính năng động và tầm cao trí tuệ của toàn dân. Cuộc chiến “ai thắng ai” trong đua tranh trên thị trường thế giới và khu vực hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào chất lượng của nguồn lực con người. Nguồn lực ấy chính là động lực của sự nghiệp XD XH mới : dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất, tài chính và phát huy các nguồn lực đó điều quan trọng nhất hiện nay là
  18. chăm lo phát triển nguồn lực con người VN, tạo ra lực lượng lao động với trình độ mới, khả năng mới phù hợp yêu cầu đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Chúng ta nhận thức rõ mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người trước hết là người lao động. Cương lĩnh của Đảng ta chỉ rõ : chính sách XH đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp XD CNXH. Hiện nay, có hàng loạt vấn đề đặt ra trước mắt chúng ta hoặc do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của nền KT kém phát triển hoặc mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang cơ cấu thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Không thể cùng một lục giải quyết mọi vấn đề trong lúc năng suất lao động XH còn thấp, nguồn thu ngân sách còn hạn hẹp lại phải tích lũy cho CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, Đảng ta chủ trương: cần phải lấy việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, phải khơi dậy trong ND lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của con người VN, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi nghèo nàn lạc hậu… Giải phòng con người là mục tiêu tự thân của CNXH là đặc trưng cơ bản của XH CNXH . Giá trị của XH XHCN lá phát triển con người. Toàn bộ các hệ thống quan hệ XH phải phục vụ cho sự phát triển con người. CNXH có mục đích là tạo ra những điều kiện KT- XH, chính trị cho phép con người ở vào vị trí trung tâm của đời sống CH. Phát triển KT theo con đường XD CNXH ở nước ta hiện nay là quá trình giải phóng sức SX, khơi dậy mọi tiềm năng, động viên và tạo điều kiện cho mọi người VN phát huy ý chí tự lực tự cường, cần kiệm XD và bảo vệ tổ quốc. Mục đích của cơ chế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX, phát triển KT để XD Cơ sở vật chất kỷ thuật của CNXH nâng cao đời sống ND và tăng trưởng KT gắn liền với tiến bộ XH. Xuất phát từ lý luận triết học Mác – Lênin về giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người và thực tiễn phát triển KT nước ta, Đảng ta đã khẳng định: “Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm”. Muốn phát huy nguồn lực con người phải có hệ thống chính sách XH đúng đắn, “thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH”. Do đó phải kết hợp chính sách KT với chính sách XH trong từng bước phát triển đất nước. Phát triển KT là điều kiện vật chất , là cơ sở ban đầu cho việc XD và thực hiện các chính sách XH . Những chính sách XH đúng đắn tạo ra sự ổn định và tạo ra động lực cho sự phát triển KT vững chắc .Tăng trưởng KT gắn liền với công bằng và tiến bộ XH trong từng bước và trong suốt
  19. quá trình phát triển .Công bằng XH phải thể hiện ở khâu phân phối TLSX và khâu phân phối kết quả SX. Ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình . Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo .Thu hẹp dần khoản cách về trình độ phát triển , về mức sống giữa các vùng , giữa các DT, các tầng lớp dân cư .Từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách bảo đảm XH và hoà nhập XH Bảo đảm XH là chăm lo , giúp đỡ để bảo đảm cuộc sống của mọi cá nhân và cộng đồng XH trong điều kiện KT thị trường , Nhà nước cần quan tâm đến các đối tượng chính sách và gia đình có công với nước .Hoà nhập XH là giúp giảm nhẹ khó khăn của các gia đình và cá nhân gặp hoàn cảnh khó khăn , giúp đỡ những người tàn tật , trẻ em mồ côi , nạn nhân chiến tranh , để những người này có cuộc sống vật chất và tinh thần phù hợp với điều kiện của cộng đồng . Theo trình độ phát triển KT , Nhà nước tăng dần nguồn đầu tư cho các vấn đề XH đồng thời khai thác mọi tiềm năng của ND , của địa phương , của các hội , các đoàn thể , tranh thủ các nguồn viện trợ từ trong và ngòai và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn ấy để chăm lo cho con người và XH Chăm lo cho con người và cộng đồng XH là trách nhiệm của Nhà nứơc , của toàn XH , của mỗi đơn vị, của từng gia đình , là sự nghiệp của toàn dân .Đảng ta chủ trương giải quyết các vấn đề XH , thực hiện công bằng XH và công bằng XH theo tinh thần XH hoá trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt. Tóm lại , khẳng định : ‘’ Sự nghiệp phát triển KT đặt con người vào vị trí trung tâm , thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH’’. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH , hiện đại hoá , của sự nghiệp xây dựng CNXH đã thể hiện sự nhận thức và quán triệt quan điểm Mác- Xít về con người của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển KT của nước ta. Vì thực tiển cho thấy một trong các yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của Đất nước , của nền KT thì nguồn lực con người là yếu tố cơ bản nhất . Bởi lẻ nguồn nhân lực của Việt Nam với đức tính cần cù sáng tạo khi đã có trình độ văn hoá , kỹ thuật nghiệp vụ cao có tay nghề vững sẽ làyếu tố quyết định để tạo ra những phương pháp công nghệp và công nghệ hiện đại .Nguồn nhân lực này lại sử dụng các phương pháp , các phương tiện công nghệ tiên tiến , hiện đại để đạt được năng suất lao động XH cao , hàng hoá nhiều và tốt . Như vậy , nguồn
  20. lực này vừa là người sáng tạo ra , vừa là người sử dụng các phương tiện, phương pháp công nghệ để đạt được lợi ích KT cao nhất cho XH , cho tập thể và cho bản thân. Do đó , cùng với việc tạo ra những nguồn lực vật chất , tài chính thì điều quan trong nhất hiện nay là phải phát huy nguồn lực con người Việt Nam đủ khả năng đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp CNH , HĐH đất nước .Để làm được điều đó thì GD và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ phải thực sự là quốc sách hàng đầu nhằm đào tạo ra nguồn lao động mới phát triển toàn diện : Cường tráng về thể chất , phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức , phong phú về đời sống tinh thần . Bên cạnh đó , chúng ta cần phải thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó lấy hình thức phân phối dựa trên kết quả lao động và hiệu quả KT là chủ yếu …tiến hành công tác xoá đói giảm nghèo , thu hẹp dần về trình độ , mức sống giữa các vùng dân cư, giải quyết tốt vấn đề vịêc làm , hạn chế tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn . Chăm lo sức khỏe , nâng cao thể chất cho nhân dân…Để nhằm thực hiện mục tiêu phát triển KT phải : “ thống nhất giữa tăng trưởng KT với công bằng và tiến bộ XH ” và chỉ có như vậy mới tạo ra điều kiện để thúc đẩy nền KT VN phát triển nhanh và đạt hiệu quả KT-XH cao. CÂU4: Học thuyết Mac-xít về con người và về vai trò của quần chúng ND trong lịch sử và vận dụng để phân tích luận điểm sau đây của Đảng ta: Trong toàn bộ hoạt động của mình Đảng phải “lấy dân làm gốc, xây dựng quyền làm chủ của NDLĐ” (Văn kiện 6 trang 29) Bài làm: Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau, xung quanh vấn đề nguồn gốc và bản chất của con người. Trước Mác, vấn đề con ngừoi vẫn chưa được giải đáp một cách thực sự khoa học. Không những chủ nghĩa duy tâm mà cả chủ nghĩa duy vật trực quan, siêu hình cũng không nhận thức đúng bản chất con người. Đã từng có ý kiến cho rằng triết học Mác Lênin coi nhẹ vấn đề con người. Ngược lại, chủ nghĩa Mác Lênin nói chung, triết học Mác Lênin nói riêng xem vấn đề con người là trung tâm của mọi khoa học xã hội và nhân văn. Chủ nghĩa Mác lênin ra đời xuất phát từ con người và mục đích cuối cùng của nó là soi sáng cho sự nghiệp giải phóng cho mỗi con ngừoi và cho cả loài người. Các nhà triết học trước Mác coi bản chất con người từ sự sáng tạo và chi phối của thần thánh hoặc từ ý thức trừu tượng (chủ nghĩa duy tâm tôn giáo) hoặc từ giác độ sinh vật thuần túy tự nhiên không phân biệt được con người với tính tầm thường của động vật (chủ nghĩa duy tâm siêu hình). Ngược lại triết học Mác coi “trong tính hiện thực của nó, bản
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2