intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2 - Phần 3

Chia sẻ: Dqwdqwdqwd Qwdqwdqwdqwd | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:0

33
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thư trả lời cư sĩ Trương Thự Tiêu (thư thứ tám) Bao nhiêu kẻ thông minh trong thế gian đều bị lầm lạc bởi “chi, hồ, giả, dã”55, suốt đời chẳng được lợi ích thật sự. Cư sĩ kiếp trước đã gieo huệ căn, thật là khó được; nhưng do lắm tri nhiều kiến, đâm ra thành chướng ngại!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, quyển 2 - Phần 3

  1. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 67 of 322 được bèn lễ Phật, lấy dây buộc cổ. Từ đấy không nói một chữ nào nữa. Bế quan ba năm hoàn mãn, đến gặp Vương đã thông hiểu bổn phận, đầy đủ tướng đại nhân (Trích lục truyện đại sư Diệu Phong trong Thanh Lương Sơn Chí). 265. Thư trả lời cư sĩ Trương Thự Tiêu (thư thứ tám) Bao nhiêu kẻ thông minh trong thế gian đều bị lầm lạc bởi “chi, hồ, giả, dã”55, suốt đời chẳng được lợi ích thật sự. Cư sĩ kiếp trước đã gieo huệ căn, thật là khó được; nhưng do lắm tri nhiều kiến, đâm ra thành chướng ngại! Đã tin pháp môn Tịnh Độ, sao chẳng chết lòng tu tập pháp này mà lại tu những pháp Quán “xoay trở lại nghe nơi tánh Nghe, đếm hơi thở, duy thức” v.v… Các pháp ấy đều là pháp môn Đại Thừa, nhưng đều thuộc về tự lực, chẳng thể sánh bàn với lợi ích của pháp môn cậy vào Phật lực được! Nay đã phát tâm niệm Phật, hãy nên lấy “tâm tương ứng với Phật, lúc sống đạt được nhất tâm bất loạn, khi báo thân đã tận liền lên Thượng Phẩm cõi Cực Lạc” làm chí hướng, sự nghiệp, chẳng cần phải cầu đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh. Tông môn chú trọng khai ngộ, Tịnh tông chú trọng vãng sanh. Kẻ khai ngộ mà chẳng được vãng sanh trong trăm người có đến chín mươi kẻ. Người vãng sanh mà chẳng khai ngộ thì trong vạn người chẳng có một ai. Chẳng hiểu đúng nghĩa này, chắc sẽ đến nỗi do cầu khai ngộ mà đâm ra chẳng chú trọng vãng sanh, lầm lẫn lớn lắm! Nay tu pháp môn Niệm Phật, hãy nên theo như Đại Thế Chí Bồ Tát đã dạy, lòng Thành như con nhớ mẹ, tu thật hạnh “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối”. Nếu chết sạch được cái lòng mong ngóng thì nhất tâm bất loạn, Niệm Phật tam-muội sẽ liền có thể đạt được. Niệm Phật tam-muội là vua trong các tam-muội, đừng coi là dễ dàng! Dẫu chẳng đạt được ngay, vẫn chẳng cách xa cho lắm. Nhiếp trọn sáu căn là cách niệm Phật hay nhất. Lúc niệm, bất luận niệm ra tiếng hay niệm thầm, hãy thường nên lắng tai nghe kỹ. Điều này chính là gộp cả hai nghĩa “xoay cái Niệm để niệm nơi tự tánh” và “xoay cái Nghe lại để nghe nơi tự tánh” để cùng tu. Xoay tánh Nghe chỉ thuộc về tự lực, xoay cái Niệm kiêm thêm Phật lực, lợi ích lớn lắm. Tâm niệm thuộc Ý, miệng niệm thuộc Thiệt, tai “Chi, hồ, giả, dã” (之乎者也) là bốn hư tự (chữ đệm không có nghĩa lý gì) dùng trong 55 Hán văn để âm vận câu văn được êm tai, réo rắt hơn, hoặc tăng thêm ngữ khí, hoặc dùng để nối kết các thành phần của một câu. Cho nên “chi, hồ, giả, dã” thường được dùng để chỉ những lời lẽ sáo rỗng, chẳng có nghĩa lý gì.
  2. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 68 of 322 nghe thuộc Nhĩ, mí mắt rủ xuống chỉ thấy chót mũi, thì hai căn Nhãn và Tỵ cũng được nhiếp. Ngũ căn đã cùng gom vào một câu Phật hiệu, lẽ đâu Thân căn chẳng cung kính, nghiêm túc ư? Vì thế, biết “nhiếp trọn sáu căn” được thực hiện nơi Nghe. Nhiếp trọn được sáu căn thì tâm thức ngưng lặng, chẳng chao động, tán loạn nên gọi là “tịnh niệm” bởi lẽ sáu căn đã nhiếp, những niệm tạp vọng v.v… ngầm tiêu. Lại có thể thường giữ cho tịnh niệm liên tục chẳng bị gián đoạn thì sẽ liền đắc Niệm Phật tam-muội. Vì thế, [ngài Đại Thế Chí] nói tiếp: “Đắc tam-ma-địa, ấy là bậc nhất”. Đấy chính là giáo hóa của Đại Thế Chí Bồ Tát dành cho hết thảy chúng sanh trong chín pháp giới, thật sự thích hợp khắp ba căn, chỉ có lợi ích, không có tệ hại. Nếu chịu y theo đó để tu, ắt sẽ đạt được lợi ích như Quán Hạnh, Tương Tự56 v.v… 266. Thư trả lời cư sĩ Biên Vô (thư thứ nhất) Thư nhận được đầy đủ. Trong năm ngoái, Quang đã đem [tình hình của] Thảo Am (hoặc gọi là chùa) Quảng Tế thuộc Ngũ Đài Sơn trình lên Chủ Tịch tỉnh Sơn Tây hiện thời là Triệu Thứ Lũng (tên là Tải Văn): Các chùa trên núi và con cháu chùa Bích Sơn mưu mô v ới nhau, cũng như Khu Trưởng, Huyện Trưởng Ngũ Đài Sơn đều cùng cấu kết với bọn họ, muốn đuổi Tăng nhân thuộc thảo am Quảng Tế xuống núi để bọn họ (tức con cháu chùa Bích Sơn) thuận tiện uống rượu, ăn thịt, chẳng bị ai thấy! Do Tăng chúng thuộc thảo am Quảng Tế đều là những người tu trì lâu năm; so sánh giữa đôi bên, chính họ tự cảm thấy rất khó nể tình, mà họ (tức con cháu chùa Bích Sơn) cũng chẳng chịu sửa đổi, đến nỗi trở thành vu báng, bảo là “Tăng chúng thuộc thảo am xấu xa gấp mười tăng chúng trong núi!” Do Khu Trưởng, Huyện Trưởng nhận hối lộ [bao che cho họ], đến nỗi Diêm Tích Sơn, Triệu Tải Văn cũng tưởng là thật, tình thế rất nguy! Ông Hồ Tử Hốt ở trên núi cũng đành bó tay, bèn cùng v ới Hòa Thượng Quảng Huệ đến gặp Quang, đem sự thật nói rõ từng điều. Quang bảo đại chúng thuộc Thảo Am niệm Văn Thù Bồ Tát sẽ có cảm ứng. Lâm Dật thuộc Sơ Đài đến chùa Báo Quốc quy y, ông ta vốn là chủ nhiệm Văn Phòng Xử Lý Thường Vụ tỉnh Sơn Tây đóng tại kinh đô, Quang cậy ông ta đem chuyện này kể tường tận với Triệu Thứ Lũng. Trước đó, Thứ Lũng đã cùng Quang trao đổi thư từ, chứ chưa hề gặp mặt. Ông Lâm nói với ông Triệu; ông Triệu liền phái Tăng - tục mười người Tức những thứ lợi ích theo khái niệm Lục Tức của tông Thiên Thai, Quán Hạnh là do tu 56 hành mà thấy được Phật Tánh, Tương Tự là đã chứng một phần Pháp Thân.
  3. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 69 of 322 lên núi lo liệu, cho con cháu chùa Bích Sơn một vạn đồng - trước đây đã từng cho tiền họ mấy lần, ước chừng hai ba vạn đồng - bảo bọn họ dọn đi (dời đi hơn hai mươi dặm) thì [Ngũ Đài Sơn] mới hoàn toàn trở thành một đạo tràng thanh tịnh. Các cư sĩ Nhiếp Vân Đài, Vương Nhất Đình, Khuất Văn Lục v.v… ở Thượng Hải đều thay nhau lo liệu sổ kết duyên, trong [cuốn sổ ấy] đã từng nói rõ. Phật Học Tân Văn Báo Xã tại Thượng Hải há có ai chẳng biết chuyện này? Ấy là vì kẻ tiểu nhân sanh lòng đố kỵ, phá hoại chuyện của người khác, hoặc tưởng sư Quảng Huệ đã đút lót tiền cho bọn họ. [Tâm địa của kẻ viết bài báo vu khống ấy] cũng có thể suy ra mà biết! Quang chẳng những phát khởi lần này mà còn phát khởi chuyện dẹp tà giúp chánh lần trước, nhằm giữ lại người phát khởi căn bản cho một đạo tràng thanh tịnh của Văn Thù Bồ Tát. Lòng người nguy hiểm, nguy hiểm còn hơn băng mùa Xuân. Phật Học Tân Văn Hội thốt ra những lời lẽ ấy, hoàn toàn thiếu nhân cách, đáng than lắm thay! Sau khi thái bình, ông hãy tới Ngũ Đài triều bái Văn Thù Bồ Tát, ở lại chùa Bích Sơn, sẽ tự biết lời Quang chẳng sai. Cuộc chiến ở đất Hỗ (Thượng Hải) tuy khốc liệt, nhưng Quang trọn chẳng sợ. Chẳng những không chịu sang quý địa, ngay cả Linh Nham Sơn cũng chẳng chịu tới. Nay sống tại chỗ thường có phi cơ bay tới, hằng ngày tụng chú Đại Bi, niệm Phật, niệm Quán Âm, nếu chẳng dám ở lại, trốn sang phương xa, há chẳng khiến cho kẻ khác chê cười ư? Quang chỉ trơ trọi một thân, đi hay ở đều chẳng ăn nhằm gì. Huống chi còn có chuyện Hoằng Hóa Xã [phải lo liệu]? Quang tuy chẳng phải là Trụ Trì chùa, nhưng mọi chuyện đều nhờ Quang làm chủ. Chủ nhân đi vắng, nếu những người khác cũng đi luôn thì công chuyện sẽ thành bỏ phế, ảnh hưởng rất lớn đến chuyện lưu thông kinh sách có ích cho đời, cho người. Nếu đại kiếp đối đầu, mọi người đều cùng chết sạch hết, Quang cũng sẽ cùng chết với họ thì cũng là đáng phận vậy (Ngày mồng Bốn tháng Tám năm Dân Quốc 26 - 1937) 267. Thư trả lời cư sĩ Biên Vô (thư thứ hai) Thư nhận được đầy đủ, kinh chú Ma Lợi Chi Thiên do ông gởi trước đây, Quang chẳng truyền cho người khác, vì sao vậy? Đang trong lúc phải đương đầu với đại kiếp này, hãy nên dùng pháp dễ dàng nhất, linh cảm nhất để dạy người khác. Ma Lợi Chi Thiên tuy từ bi, vẫn chẳng thể vượt trỗi ngài Quán Thế Âm được! [Thánh hiệu] của Bồ Tát chỉ có bảy chữ, dẫu đứa trẻ lên ba cũng có thể niệm được; người niệm được kinh
  4. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 70 of 322 chú Ma Lợi Chi Thiên trong trăm người chẳng được mấy người! Vì thế, chẳng muốn dùng cách khó niệm để dạy cho hết thảy những ai mong mỏi được cứu vớt. Bài Tán Chú Kinh ông gởi đến lần trước thứ lớp chẳng rõ ràng, khiến cho người ngoài không cách nào theo dõi được. Nếu không có người chỉ dạy, rất khó thể hiểu rõ. Phàm in kinh chú, ắt phải mắt và lông mày rõ ràng57, chú thích chủ - bạn rõ rệt khiến cho người phát tâm [đọc tụng] vừa xem liền hiểu rõ. Nghi thức [tụng niệm] chớ nên quá rắc rối khiến cho [người trì tụng] dễ sanh chán, tiếc rằng lệnh sư Không Công và hành giả Bát Nhã chưa nói rõ ràng. Chữ Niệm (念) không thể thêm chữ Khẩu; thêm chữ Khẩu (口) vào sẽ mất ý nghĩa58. Ông muốn quy y, nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Thông. Do đã không có bờ mé thì trí huệ ấy không gì chẳng thông. Đối với pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tây Phương, dường như ông chưa hiểu rõ nguồn cội. Đối với đạo để cứu đời, cứu nước, [từ] bước thực hiện ban đầu cho đến thành công cuối cùng, đều phải lấy việc mọi người đề xướng nhân quả làm phương cách để trị cả gốc lẫn ngọn. Trong Văn Sao đã nói tường tận, xin hãy chú tâm đọc kỹ, chắc ông đã sớm có sách này rồi. Nếu đường bưu điện không bị trở ngại, sẽ gởi cho ông một bộ và mấy thứ nữa cho đủ một bưu kiện để làm căn cứ tự lợi, lợi người. Nếu chẳng thể gởi được thì đợi sau khi yên ổn rồi và nếu Quang chưa chết thì vẫn còn có thể gởi được! (Mồng Sáu tháng Bảy năm Dân Quốc 28 - 1939) 268. Thư trả lời cư sĩ Biên Vô (thư thứ ba) Quang bảy mươi chín tuổi, mục lực chẳng thể gượng được nữa, chẳng thể giám định, viết lời tựa cho ông được. Để cứu tai nạn, nên chọn cách nào khiến cho hết thảy mọi người đều có thể niệm được thì mới có ích lớn lao. Dù có in chú Ma Lợi Chi Thiên cho nhiều, cũng khó thể sử dụng trong lúc đại kiếp đối đầu này, hãy nên bỏ [ý định ấy]! Dạy người khác niệm thánh hiệu Quán Âm, dẫu là đứa trẻ lên ba cũng có thể niệm được. Chú ấy khá dài, hơn nữa trong bài chú có xen lẫn những chữ để Ý nói phần chánh văn, phần chú thích phải in bằng những khổ chữ khác nhau, theo thứ tự 57 lớp lang khiến người đọc biết đâu là đoạn kinh văn cần phải đọc, phần nào là lời hướng dẫn. Chữ Niệm (念) thêm bộ Khẩu thành 唸 sẽ có hai cách đọc: 58 1) Điếm: rên rỉ. 2) Đọc với âm Niệm, nghĩa là hai mươi. Do cả hai nghĩa này đều không liên quan đến ý nghĩa chữ Niệm (念) nên Tổ mới bảo “thêm chữ Khẩu vào sẽ mất ý nghĩa”.
  5. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 71 of 322 chú thích cách đọc, nếu chẳng phải là bậc thông gia thì vẫn chẳng biết phải niệm như thế nào59. Người đời nay ham lạ. Quán Âm cứu khổ cứu nạn các kinh Đại Thừa dù Hiển hay Mật đều tán thán đề xướng mà chẳng dùng; lại ngược ngạo cực lực đề xướng bài chú Ma Lợi Chi Thiên chỉ được một kinh nói đến. Chớ nói niệm chú Ma Lợi Chi Thiên lợi ích lớn lao, còn niệm Quán Âm lợi ích nhỏ nhoi! Dẫu chú ấy do chính đức Quán Âm thị hiện [thân Ma Lợi Chi Thiên] nói ra, cũng nên chú trọng niệm [thánh hiệu Quán Âm]. Ông tín tâm tuy tốt, nhưng chẳng biết lý cao tột “một pháp nhiếp khắp hết thảy pháp” và chẳng biết “lúc khẩn yếu thì càng đơn giản càng hay!” Nho giáo cũng nói: “Bác học nhi tường thuyết chi, tương dĩ phản thuyết ước dã” (Học tập rộng rãi, giải nói tường tận chỉ nhằm mục đích: Sau khi dung hội, quán thông rồi, sẽ hướng về chỗ giản ước)60. Nếu ông biết đến nghĩa này, sẽ thấy lời Quang là lời luận chí lý. Nếu không, phó mặc cho ông [làm sao thì làm], Quang s ớm chẳng giữ được tối, chẳng thể thù tiếp theo ý ông được (Ngày mồng Một tháng Mười Một năm Dân Quốc 28 - 1939). 269. Thư trả lời cư sĩ Phương Diệu Đình (thư thứ nhất) Thư nhận được đầy đủ, Quang là một ông Tăng tầm thường chỉ biết cơm cháo, nhưng do một người truyền hư (đồn đại), người ta thường tưởng lầm là thật, hết sức hổ thẹn sâu xa! Vì thế trước kia Tễ Quang có nhắc đến [chuyện cư sĩ tỏ ý muốn thân cận Quang], tôi nghi là ngẫu nhiên nói tới, nên chẳng dám gởi thư ngay. Nay ông đã gởi thư tới, biết Do tiếng Phạn đa âm cũng như có những âm không tồn tại trong tiếng Hán, nên những bài 59 chú thường phải kèm theo những chữ nhỏ để ghi âm hoặc hướng dẫn cách đọc. Chẳng hạn chữ Sdriyah thường được phiên là Tất-đát-rị-dã, sau ba chữ Tất-đát-rị kinh thường ghi “hợp tam” ngụ ý ba âm này phải đọc dính lại. Hoặc có những chữ không thể diễn tả được cách đọc vì tiếng Hán không có âm tương ứng, các vị pháp sư dịch kinh phải thêm bộ Khẩu vào đằng trước, rồi ghi chú “phản độc” (tức đọc cong lưỡi lên) như tâm chú “Arolik” của đức Quán Âm được phiên là A Lỗ Lặc Kế, sau chữ Lỗ ghi hai chữ nhỏ là “phản độc” để nhấn mạnh chữ Lỗ phải đọc cong lưỡi nhằm mô phỏng âm R (Vì thế các bản phiên âm bài chú này của Việt Nam thường ghi thành A Rô Lặc Kế). Hoặc đôi khi, dịch giả phải ghép hai ba chữ có sẵn để tạo thành chữ mới. Chẳng hạn như trong chú Nhất Thiết Như Lai Bí Mật Toàn Thân Xá Lợi Bảo Khiếp Ấn Đà La Ni, ngài Bất Không đã ghép hai chữ Xỉ (齒) và Lai (來) thành một chữ mới để mô phỏng âm Đai (trong câu Wajadai) và ghi cách đọc là Đại (軑), bình thanh. Nếu người không quen sẽ không biết cách đọc sao cho đúng hoặc rất có thể đọc luôn cả những chữ ghi âm này. Đây là một câu nói của Mạnh Tử được ghi trong thiên Ly Lâu Hạ sách Mạnh Tử. Chúng 60 tôi dịch câu này theo cách diễn giải của sách Tứ Thư Bạch Thoại Chú Giải.
  6. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 72 of 322 ông vẫn chẳng coi hư danh [của Quang] là sai lầm, nên chỉ đành đem lầm đáp lạc. Nay đặt pháp danh cho cư sĩ là Đức Nhân, nghĩa là lấy “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây Phương” để tự hành, lại còn đem những điều ấy giáo hóa khắp hết thảy, khiến cho hết thảy mọi người đối với pháp thế gian đều chẳng thiếu sót, đối với pháp xuất thế gian đều cùng được hưởng lợi ích thật sự ngay trong đời này thì lòng nhân từ ấy cũng lớn lắm. Đấy là Đức Nhân. Nhân đứng đầu mọi điều thiện, Nhân chính là từ bi. Tên gọi tuy tương tự, nhưng đem lợi ích liễu sanh tử thật sự của Phật pháp dạy cho người khác, so với những pháp thế gian chỉ có lợi cho sắc thân, quả thật là cách biệt vời vợi một trời một vực! Lệnh phu nhân Lưu Chí Từ, có pháp danh là Đức Từ, phụ nữ lấy “giúp chồng, dạy con” làm thiên chức. Nếu còn có thể dốc lòng tin tưởng pháp môn Tịnh Độ là pháp môn viên đốn nhất, thẳng tắt nhất trong Phật pháp, thì lòng Từ ấy không giống với lòng Từ được nói trong thế gian. Bởi lẽ lòng Từ thế gian chỉ có lợi cho sắc thân, chẳng màng đến thần thức, chỉ tính đến hiện tại, chẳng liên quan đến đời sau, huống là bao kiếp vĩnh viễn ư? Nếu có thể giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, và tín nguyện niệm Phật v.v… dạy bảo con cái cùng với tôi tớ và những người quen biết, khiến cho họ trong đời này cùng được trở thành bậc thánh hiền, lâm chung lên thẳng cõi thánh của Phật Di Đà, đấy gọi là Đức Từ. Lợi ích của lòng Từ ấy thấu tột đến tận đời vị lai trọn chẳng lúc nào hết. Nguyện hai vị ai nấy đều nỗ lực, ngõ hầu chẳng uổng kiếp sống này, chẳng uổng dịp gặp gỡ này! Hiện nay đang lúc tình thế hoạn nạn, bất luận là ai, đều phải thường niệm thánh hiệu A Di Đà Phật và Quán Thế Âm. Dẫu gặp phải những nguy hiểm như nước, lửa, đao binh và bệnh tật do oán nghiệp v.v… mà nếu có thể chí thành niệm, chắc chắn chẳng đến nỗi nguy hiểm! Hơn nữa, nữ nhân đang khi sanh nở, hãy nên chí thành niệm thánh hiệu Quán Âm ra tiếng rõ ràng (lúc ấy chớ nên niệm thầm trong tâm) sẽ liền an nhiên sanh nở, chắc chắn chẳng bị khổ vì khó sanh. Dẫu khó sanh sắp chết, dạy người ấy niệm, sẽ tức khắc an nhiên sanh nở. Có thể đem điều này bảo khắp với hết thảy mọi người, chính là cứu sẵn sản nạn, cứu sẵn tánh mạng, mà con gái, con dâu v.v… của chính mình cũng đều cùng được Phật, Bồ Tát từ bi gia bị. Đừng cho rằng Quang chẳng nên thốt ra lời này! Cổ nhân nói “sanh tử cũng lớn thay!” Lâm chung trợ niệm là giúp cho người chết được
  7. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 73 of 322 vãng sanh. Khi sanh nở niệm Quán Âm chính là giúp cho người sống cả mẹ lẫn con được lìa nguy hiểm. Mấy năm gần đây, tôi thường nghe kể nỗi khổ vì khó sanh, lại biết rõ chấp trước sai lầm của người đời (Có người niệm Phật, hễ trong nhà có ai sanh nở bèn trốn ra ngoài hơn cả tháng mới trở về). Vì thế tôi thường nói với hết thảy mọi người, mong hãy sáng suốt suy xét thì may mắn lắm! Những điều khác đã nói tường tận trong Văn Sao, ở đây không ghi cặn kẽ! (Ngày Hai Mươi Ba tháng Tám năm Dân Quốc 21 - 1932) Cư sĩ Đức Nhân trước kia thành tích chánh trị khá nổi tiếng tại Giang Tây, nay đã ẩn cư, tịnh tu, cố nhiên nên dùng những chuyện như giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận và những pháp như tín nguyện niệm Phật v.v… để tùy thuận cơ nghi bảo ban những kẻ vốn đã phục tùng, tin tưởng, ngưỡng mộ, khiến cho bọn họ cùng được lợi ích thế gian lẫn xuất thế gian. Nay gởi cho ông Văn Sao, Gia Ngôn Lục, Lịch Sử Cảm Ứng Thống Kỷ, Chánh Tín Lục, mỗi thứ một phần để làm căn cứ tự hành, dạy người. Lại còn có Thọ Khang Bảo Giám, Cảm Ứng Trực Giảng mỗi thứ một phần để làm căn cứ dạy dỗ con cái và dạy người khác giữ gìn thân thể. Các sách này, nếu muốn lợi người [mà thỉnh với số lượng] ít thì hãy thỉnh ở chỗ ông Điền Thân Phủ tại số 86 ngõ Thái An, thành phố Hán Khẩu; nếu [thỉnh với số lượng] nhiều thì hãy thỉnh từ Hoằng Hóa Xã thuộc chùa Báo Quốc tại Tô Châu. 270. Thư trả lời cư sĩ Phương Diệu Đình (thư thứ hai) Nhận được thư đầy đủ, gần đây người niệm Phật đông đảo, chuyện cảm ứng cũng thường luôn nghe nói. Hôm trước, Quán Âm Am ở Hoài An gởi tới một viên xá-lợi to bằng hạt kê, màu như ngọc Phỉ Thúy, nói là [viên xá-lợi ấy] kết từ hoa đèn thắp trước bàn Phật của một liên hữu; gởi tới muốn cậy Quang chứng minh, bình luận để khơi gợi lòng tin cho người khác. Quang liền đựng trong một cái hộp sứ cho mọi người xem; xem xong để thờ trước tượng Phật. Ngày hôm qua, sau buổi tụng kinh khóa sáng, mở hộp ra xem thì không còn nữa, chắc là đã trở về am đó rồi! Hôm qua tôi đã gởi thư hỏi chuyện ấy. Có rất nhiều kẻ vẫn chỉ chuộng nghiên cứu, chẳng chịu thực hành, tức là thuộc hạng “thấy chuyện nhân mà cố nhường”, buồn thay! Lệnh từ tuổi gần tám mươi mà còn muốn quy y, đáng gọi là có thiện căn từ đời trước. Nhưng đang khi cụ tuổi cao như ngọn đuốc [chập chờn] trước gió này, cố nhiên nên tính kế lo xa. Nay gởi cho ông ba cuốn Sức Chung
  8. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 74 of 322 Tân Lương, ngoài một cuốn tự giữ ra, hãy nên tặng cho hai người Vương và Trần. Hãy nên bảo quyến thuộc trong nhà hằng ngày thay phiên bầu bạn niệm Phật với lệnh từ, một là để đẹp dạ cao đường, hai là khiến cho bọn họ ai nấy được gieo thiện căn, ba là luyện thành thói quen để lúc lệnh từ quy Tây mọi người đều trở thành người trợ niệm [cho cụ]. Nếu chẳng thường luyện tập, mà cũng chẳng thường nói điều lợi do trợ niệm khi lâm chung và mối hại do bày vẽ phô trương mù quáng, khóc lóc, thì tất cả quyến thuộc đều là kẻ phá hoại chánh niệm! Chuyện này hết sức khẩn yếu. Nếu không có ai nói, khó tránh làm hỏng chuyện thì vô biên lợi ích sẽ do vậy bị mất đi, thật hết sức đau lòng! Quang chẳng thể nói tường tận, Sức Chung Tân Lương là sách nói tường tận chuyện này. Phận làm con khi trợ niệm cho cha mẹ vào lúc lâm chung thì hãy nên dốc hết lòng thành theo đuổi. Vì thế, trước hết quyến thuộc trong nhà phải tập luyện sẵn. Đã thường niệm và thường nghe điều lợi của trợ niệm và lẽ hại của sự phá hoại chánh niệm, họ sẽ có thể nhất trí tiến hành, giúp người đã khuất vãng sanh. Nay đặt pháp danh cho cụ là Đức Siêu, nghĩa là dùng nhất tâm niệm Phật để mong cầu vượt thoát tam giới, lên thẳng chín phẩm sen. Thư này tuy viết cho ông, nhưng hai vị Trần - Vương cũng nên dạy quyến thuộc của họ giống như thế để chính mình khỏi bị hỏng chuyện khi lâm chung. Hãy nên bảo họ ai nấy đều xem [thư và sách], Quang không rảnh rang để viết riêng cho h ọ. Trần Minh Kính pháp danh là Đức Minh, nghĩa là có thể nhất tâm niệm Phật sẽ tự sáng tỏ được Minh Đức. Vương Sĩ Lâm pháp danh là Đức Lâm. Lâm (林) có nghĩa là “chúng” (眾: đông đảo), là “quân” (君: chủ, vượt trỗi) (theo sách Nhĩ Nhã). “Quân” có nghĩa là chủ. Có thể lấy tín nguyện niệm Phật làm chủ để lợi lạc đại chúng, thì công đức lớn lao, ai nấy đều ngưỡng mộ tuân theo. Nay gởi cho hai người ấy Văn Sao, Gia Ngôn Lục mỗi người một bộ, Sức Chung Tân Lương mỗi người một cuốn, xin hãy chuyển giao. Do [những sách tính gởi ấy] chẳng đầy hết một gói nên đem Một Lá Thư Trả Lời Khắp thêm vào cho đủ hai phần. Lá thư này quả thật là bài văn có quan hệ lớn đối với thời thế hiện tại. Nếu có thể hành theo đó thì lợi ích sẽ tự biết, cố nhiên chẳng cần đợi phải thuật nói nữa! Vận nước nguy ngập, thiên tai, nhân họa liên tiếp giáng xuống mà chẳng cầu xuất sanh tử từ nơi bức thư ấy tức là tự phụ vậy. Bạch Cư Dị nói: “Ta bảy mươi mốt tuổi, chẳng còn chuộng ngâm nga, xem kinh nhọc sức quá, làm phước sợ bôn ba, lấy gì độ tâm nhãn? Một câu A Di Đà. Đi cũng A
  9. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 75 of 322 Di Đà, ngồi cũng A Di Đà. Rảnh rang, bận túi bụi, chẳng bỏ A Di Đà. Chiều tà đường còn xa, đời ta lần khân quá, sáng tối thanh tịnh tâm, chỉ niệm A Di Đà. Người thông đạt cười ta, càng niệm A Di Đà. Đạt thì sẽ ra sao? Không đạt lại thế nào? Nguyện khắp pháp giới chúng, cùng niệm A Di Đà” (Ngày Mười Một tháng Mười Một, viết dưới đèn). 271. Thư trả lời cư sĩ Phương Diệu Đình (thư thứ ba) Tịnh Độ Ngũ Kinh đã gởi đến, chẳng bao lâu sẽ có Kỹ Lộ Chỉ Quy gởi tới. Trong khoảng tháng Bảy, tháng Tám, sẽ có sách Vật Do Như Thử gởi đến. Hai đầu sách này đều do Du Dân Tập Cần Sở ở Tào Hà Kính, Thượng Hải, gởi tới. Một cuốn chuyên dạy người niệm Phật, một cuốn dạy người kiêng giết, bảo vệ sanh vật, nhưng chẳng có lời nào nhắc đến chuyện kiêng giết, mà chuyên tập hợp những hạnh cao đẹp hiếu, hữu, trung, nghĩa, trinh liệt, cứu nạn, giúp kẻ côi cút v.v… của loài vật, là tác phẩm đặc sắc trong những sách kiêng giết, sẽ in năm sáu vạn cuốn để phân phát cho những kẻ có học thức thì lợi ích lớn lắm. Lệnh hữu là Dịch Trọng Phù đã muốn quy y thì hãy bảo ông ta thường đọc Ngũ Kinh, nhất là chú ý đến hai lời Tựa và một lời Bạt của Quang, ngõ hầu chẳng đến bị các tri thức Thiền, Giáo, Mật lay động, đoạt mất chí hướng. Hai cuốn sách Kỹ Lộ Chỉ Quy, Vật Do Như Thử gởi đến, xin hãy tặng cho ông ta [mỗi thứ] một cuốn (Ngày mồng Hai tháng Năm năm Dân Quốc 24 - 1935) 272. Thư trả lời cư sĩ Phương Diệu Đình (thư thứ tư) Thư đã đọc xong, cư sĩ Lã Đức Pháp soạn bài ký về chuyện vãng sanh cho ông Trầm Đạm Nham rất hay. Chỉ có điều bốn dòng đầu chẳng hợp với thân phận của người ấy, cho nên tôi bỏ đi. Lời Bạt sau bài ký ấy, nói: “Công lao trùm lấp cõi đời, chẳng cự nổi một chữ Căng (kiêu căng); tội lớn ngập trời, chẳng cự nổi một chữ Hối”. Đạm Nham biết người đời trước làm nghề chẳng lành, khi cha mẹ còn sống đã khuyên cha mẹ đổi nghề. Khi cha mẹ đã mất, bèn dốc cạn lòng Thành sám hối, [làm như vậy] đã phù hợp sâu xa với nghĩa “người con có hiếu khuyên dụ cha mẹ hướng về đạo” và lời dạy “từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp” của đức Như Lai. Có đủ công đức ấy sẽ được vãng sanh. Huống chi lại dốc lòng tin Tịnh nghiệp, cạn hết lòng Thành niệm tụng ư? Những lời bàn luận trong phân nửa phần đầu bài ký của ông Lã không hợp thân phận.
  10. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 76 of 322 Rốt cuộc Đạm Nham được thành tựu là vì Đạm Nham trước kia làm đồ tể, về sau mới sám hối tu trì, vì thế chẳng thể áp dụng [nhận định ấy được]. Mong hãy nói với ông Đức Pháp điều này (Ngày Mười Chín tháng Mười năm Dân Quốc 24 - 1935) 273. Thư trả lời cư sĩ Phương Diệu Đình (thư thứ năm) Hôm qua tôi đã bảo Hoằng Hóa Xã gởi đi hai gói Tịnh Độ Ngũ Kinh, chắc ông đã nhận được rồi. Hiện thời lòng người kém xưa, những vị đại thông gia đều chú trọng tranh chấp, quấy rối lẫn nhau. Hôm nay, Đương Gia chùa Linh Nham là thầy Diệu Chân tới đây cho biết thầy ấy có tổ đình Đông Nham Tự là tổ đình cổ đã trải nhiều đời ở Vũ Xương, cách Hồng Sơn mấy dặm về phía bên trái. Sư công61 của thầy ấy là sư Nguyệt Hà sau khi viên tịch đã được dựng tháp ở đấy, do một đồ tôn62 là Sư X… trông nom. Gần đây, vị ấy đã mất, học trò sư Nguyệt Hà là Từ Quang đến trông nom. Có kẻ xấu câu kết, muốn cùng nhau chiếm đoạt làm của riêng; do Từ Quang vừa già vừa nhu hòa nên bọn chúng bèn thừa dịp khinh lấn. Xin cư sĩ hãy giàn xếp để những kẻ muốn chiếm đoạt ấy dứt trừ cái tâm ngông cuồng đó thì danh dự của họ chẳng bị sứt mẻ, mà đại thể Phật pháp cũng chẳng bị tổn thương. Nếu bọn họ chẳng dứt được tâm ngông cuồng, đành phải nhờ pháp luật can thiệp thì những kẻ ấy và đại thể Phật pháp đều không được tốt đẹp cho lắm. Xin ông hãy uyển chuyển [giàn xếp] khiến cho chuyện ấy bị tiêu trừ không dấu vết, thích nghi cho cả đôi bên thì vui sướng chi bằng! Cư sĩ phẩm đức rạng rỡ, y theo lý khuyên giải, bàn bạc, ắt họ sẽ nghe lời. Đấy cũng là đầu mối sửa sang lòng người, đôn đốc phong hóa lớn lao. Xin ông hãy nhọc lòng điều đình thì may mắn lắm thay! (Ngày Mười Tám tháng Năm năm Dân Quốc 25 - 1936) 274. Thư trả lời cư sĩ Nhậm Huệ Nghiêm Sư công: Vị thầy của sư phụ mình được gọi là “sư công”, miền Trung, miền Nam thường 61 gọi là Sư Ông, nhưng do miền Bắc thường gọi những vị Tăng đã thọ Cụ Túc Giới là Sư Ông (Tỳ Kheo), còn các Sa Di là Sư Bác, nên chúng tôi để nguyên không dịch chữ này để khỏi bị hiểu lầm. Đồ tôn: Đệ tử của học trò một vị Sư gọi là “đồ tôn”. 62
  11. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 77 of 322 Ông gởi thư đến cho biết đã học Mật, rất an ủi. Cần biết rằng: Học Mật thì trừ thân - khẩu - ý trì chú, Tam Mật63 tương ứng ra, phải quán tưởng chuẩn xác thì mới có tương ứng. Nhưng với địa vị “thành Phật ngay nơi thân này”, sợ chẳng dễ gì đạt được đâu! Phật pháp rộng lớn, nhiều môn phương tiện. Một pháp Niệm Phật biết dễ hành khó. Nếu có thể nhất tâm bất loạn thì cũng là pháp môn vô thượng! Thích hợp khắp ba căn, đới nghiệp vãng sanh. Đối với Sách Tịnh Độ Thập Yếu và Một Lá Thư Trả Lời Khắp ông đã nhận được trước kia, hễ rảnh rỗi hãy nên xem đi xem lại sẽ hiểu rõ ràng sự dễ - khó giữa Phật lực và tự lực. Một pháp Niệm Phật càng nên chuyên tâm chẳng hai. Nếu học này học nọ, dẫu có đọc nhuyễn nhừ Tam Tạng mười hai bộ kinh, vẫn chẳng liên quan gì với sanh tử! Khuyên túc hạ hãy nhất tâm niệm Phật thì hay hơn. Nếu chẳng nghe lời Quang thì từ nay về sau đừng nên gởi thư tới nữa! (Ngày mồng Ba tháng Chạp năm Dân Quốc 26 - 1937) 275. Thư trả lời cư sĩ Thường Phùng Xuân (thư thứ nhất) Phàm những kẻ đọc sách hơi thông minh, không ai chẳng trúng phải chất độc báng Phật của Lý Học. Châu Nguyên Công64 là tông sư của Lý Tam Mật (Trīni guhyāni) gồm Thân Mật (Kāya-guhya), Khẩu Mật (Vāg-guhya) và Ý Mật 63 (Mano-guhya). Có hai cách giải thích ba khái niệm này: 1) Theo Hiển Giáo (như trong các phẩm Thập Mật, Kim Cang Lực Sĩ Hội của kinh Đại Bảo Tích), do chẳng thể dùng phàm tình để suy lường tam nghiệp Thân - Khẩu - Ý của Phật, nên gọi là Tam Mật. Đại Trí Độ Luận giải thích cặn kẽ hơn: Mỗi chúng sanh thấy sắc thân của Phật khác biệt, các thứ đại thần biến đều chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là Thân Mật. Đức Phật thuyết pháp chỉ một câu mà tùy căn tánh người nghe sẽ vang xa một dặm, mười dặm cho đến trăm ngàn vạn dặm. Đức Phật nói một pháp mà tùy theo căn cơ của người nghe sẽ lãnh ngộ thành vô lượng vô biên nghĩa lý chẳng thể nghĩ bàn; đó là Khẩu Mật. Đức Phật thường nhập Định, những gì Phật quán sát tư duy đều chẳng thể nghĩ bàn nên gọi là Ý Mật. 2) Theo quan điểm Mật giáo, nhìn về phía đức Phật thì trong ba thứ Thể, Tướng, Dụng, nếu xét về Dụng thì Dụng của đức Phật chẳng thể nghĩ bàn, vượt khỏi mọi suy lường của phàm tình nên gọi là Tam Mật. Chúng sanh cũng có Dụng lớn lao như vậy, chỉ vì tam nghiệp chưa khế hợp tam nghiệp của chư Phật nên không chứng được ba khía cạnh của Dụng ấy, nhưng trong chân tâm vẫn ẩn tàng sẵn Tam Mật của chư Phật. Do vậy, khi hành trì, hành giả đã dùng ấn khế, tư thế, pháp khí v.v… nhằm hợp nhất với Bổn Tôn (vị tôn thánh nói ra bài chú hành giả đang thọ trì) ấy là Thân Mật. Không những khi đang trì chú mà trong mọi thời mọi lúc hành vi đều phải khế hợp với Bổn Tôn nên gọi là Thân Mật. Miệng tụng niệm Chân Ngôn cho đến hết thảy lời lẽ đều xứng hợp Bổn Tôn nên gọi là Khẩu Mật. Trong tâm chuyên quán tưởng chủng tự của Chân Ngôn và hình tượng Bổn Tôn, tâm hợp nhất với Bổn Tôn nên gọi là Ý Mật. Nguyên Công là hiệu của Châu Đôn Di (1017-1073). Ông này vốn tên là Đôn Thực, tự 64 Mậu Thúc, hiệu Liêm Khê, được coi là tổ khai sơn của Lý Học. Trình Di, Trình Hạo và Châu Hy chỉ là những kẻ kế thừa, phát triển tư tưởng của Châu Đôn Di.
  12. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 78 of 322 Học, thuở trước chỉ lấy hồn nhiên, [lấy] quên ta - người, tự - tha làm chánh. Đến thời ông Trình, [Lý Học] liền bị biến đổi dữ dội tận gốc, bài bác [Phật giáo] chẳng tiếc sức thừa! Ông ta bài bác, nhưng chẳng chú trọng nơi sự tinh vi của tâm tánh, chỉ ngược ngạo chú tâm nơi dấu tích thô thiển của nhân quả luân hồi. Do vậy, nhà Nho đều chẳng dám nói đến nhân quả luân hồi là cái gốc lớn lao để bình trị thiên hạ, chỉ chú trọng chánh tâm thành ý mà thôi! Bọn họ đã đả phá, bài xích nhân quả luân hồi, cho đó là căn cứ để Phật gạt gẫm kẻ ngu tuân phụng giáo pháp, vậy thì chánh tâm thành ý để được cái gì đâu? Không chánh tâm thành ý, đâu có mất mát gì? Chết rồi sẽ vĩnh viễn diệt mất, cần gì phải khăng khăng làm lành để tự bị khốn khổ oan uổng ư? Phong thái này được đề xướng, cho đến ngày nay giết cha, giết mẹ chẳng thấy là thẹn, ngược ngạo xem đó là vinh đều do những lời lẽ đả phá nhân quả luân hồi của bọn Lý Học ươm thành! Lúc bọn họ thốt ra những lời lẽ ấy, cố nhiên chẳng biết đã gây họa khốc liệt đến mức như thế. Ý họ muốn nhờ vào [những lời bài xích] đó, con người sẽ chẳng học theo Phật pháp hết, đạo Nho sẽ có ngày được hưng thịnh. Huống chi, những diệu nghĩa của Phật pháp đã được họ nêu đại lược đầu mối qua những lời chú giải kinh văn [đạo Nho, nhưng họ đã cực lực báng Phật] thì người khác làm sao biết do đâu mà họ có được những nghĩa lý ấy! Bổn tâm của họ như thế đó. Do họ đả phá, bài xích nhân quả, những kẻ tạo sự bình trị cho thiên hạ đều chẳng có căn bản. Dẫu có thiết lập, áp dụng, đều là chuyện bề ngoài! Ngày nay trong cả nước nhà trường chẳng đọc sách Nho nữa, như vậy là họ muốn diệt Phật lại đâm ra trở thành diệt Nho! Những nhà Lý Học sau thời Trình - Châu không một ai chẳng lén lút đọc sách kinh Phật, nhưng không một ai chẳng bài bác Phật pháp. Phần Thái Cực Đồ Thuyết trong cuốn Nhân Phổ của ông Lưu Hiến Đài65 ăn nói hết sức bừa bãi, hoàn toàn phỏng theo những ý trong kinh Phật, nhưng lại ngược ngạo chê Phật là dị đoan, tà thuyết: “Ông Viên Liễu Lưu Hiến Đài, tên thật là Lưu Tông Châu (1578-1645), trước kia tên là Hiến Chương, tự 65 Khởi Đông, hiệu Niệm Đài (Hiến Đài là một biệt hiệu khác), vốn là một nhà tư tưởng theo truyền thống Lý Học thuộc Chiết Đông Học Phái vào đời Minh. Khi Lý Tự Thành diệt nhà Minh, vua Sùng Trinh treo cổ tự tử tại Môi Sơn, Phước Vương Châu Do Tung lên ngôi hoàng đế ở Nam Kinh, đã phong Hiến Đài làm Tả Đô Ngự Sử. Chỉ được một thời gian ngắn, do hục hặc với Mã Sĩ Anh và Nguyễn Đại Thành, ông ta đã bị triều đình đuổi về quê dạy học. Khi quân Thanh hạ được Hàng Châu, Lưu Tông Châu nghe tin khóc òa, nhịn đói hai mươi mốt ngày rồi chết. Nhân Phổ là một trong những tác phẩm được tập hợp trong bộ Lưu Tử Toàn Thư (bốn mươi quyển). Thái Cực Đồ Thuyết là phần giảng giải về đồ hình Thái Cực.
  13. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 79 of 322 Phàm thờ Phật, cầu gì cũng ứng. Lời nói ấy không có căn cứ. Bởi lẽ, Viên Liễu Phàm là người chánh trực, há bị những tà thuyết mê hoặc ư?” Tâm ông Lưu gian ác, chẳng thể nào sánh ví được! Một đệ tử muốn ấn hành sách Nhân Phổ, đem cuốn thứ hai của bộ sách ấy gởi tới cho Quang giảo duyệt. Quang thấy những lời hay hạnh đẹp được ghi trong ấy rất hay, dẫu có một hai câu đụng chạm cũng là thái độ thường thấy của nhà Nho. Sau đó, ông ta mang cuốn thứ nhất tới, Quang đọc lời tựa nói: “Ba bốn trăm chữ trong bài tựa này báng Phật dữ dội từ xưa đến nay chưa hề có! Quyết chẳng nỡ lòng tự đứng ra lưu thông sách này!” Nhị Khúc cũng đã được hưởng pháp vị thừa mứa từ nơi kinh [Phật], nhưng phàm ông ta đi đến đâu, những kẻ nghe ông ta nói đều ăn thịt, bội giáo. Ông ta và những kẻ mù mắt đời sau đều coi đấy là đức hạnh, chẳng biết đã mở đường cho chuyện giết cha, giết mẹ! Năm Dân Quốc 15 (1926), vợ chồng ông Trần Đôn Ngũ ở Tứ Xuyên đến Phổ Đà quy y, thưa với Quang: “Con thích [Vương] Dương Minh66 nhất, [học thuyết của] Dương Minh hoàn toàn là Phật học, lẽ đâu lại có chỗ báng Phật?” Quang đáp: “Ông có biết tâm ông ta hay không?” Thưa: “Không ạ!” Quang nói: “Ông ta đã được thờ trong Văn Miếu hay chưa?” [Ông Trần] liền kêu ầm lên: “Con hiểu rõ rồi! Con hiểu rõ rồi! Những gã Lý Học sau thời Trình - Châu đều học trộm kinh Phật, nhưng đều cực lực báng Phật, quả thật đều nhằm để được thờ trong Văn Miếu, chẳng cần biết đã làm lợi hay gây hại cho thánh đạo!” Vương Thủ Nhân (1472-1528), tự Bá An, hiệu Dương Minh, quê ở Dư Diêu, tỉnh Chiết 66 Giang (nay thuộc thành phố Ninh Ba). Thường được các học giả gọi là “Dương Minh tiên sinh”. Ông là một triết gia tiêu biểu cho trường phái Tâm Học Vận Động thuộc Lý Học vào đời Minh, được coi là người hoàn thiện tư tưởng Tâm Học của Tống Nho. Do trước tác nhiều, có ảnh hưởng sâu rộng nên sau này có những nhà chuyên nghiên cứu tư tưởng của Vương Dương Minh, tạo thành một ngành học thuật riêng gọi là Dương Minh Học. Về mặt tư tưởng, Dương Minh kế thừa và triển khai tư tưởng của Lục Cửu Uyên, đề xướng Tâm chính là Lý, lấy đó để thấu hiểu sự vật (cách vật) hòng thấu hiểu bản tâm. Ông phản đối quan điểm của Châu Hy cho rằng đối với mọi sự mọi vật đều tìm đến Lý nhờ “cách vật trí tri” (Theo họ Châu, câu này được hiểu là do đẩy mạnh sự suy lường học hỏi đến mức thấu hiểu tận cùng tất cả sự vật sẽ đạt đến thấu hiểu tất cả mọi yếu tố tinh thần hay vật chất trong vũ trụ, thấu hiểu được cái tâm). Vương Dương Minh cho rằng sự vật vô cùng tận không thể nào thấu hiểu hết được. Do vậy, ông đề xướng truy cầu cái Lý ngay trong nội tâm, nói cách khác, toàn bộ Lý nằm trong tâm. Lý hóa sanh thiên địa vũ trụ vạn vật. Ông nhấn mạnh: “Tâm chỉ một mà thôi, do toàn thể tâm ấy phát khởi lòng trắc ẩn thì gọi là Nhân, đạt được những điều thích đáng thì gọi là Nghĩa, có thứ lớp trật tự thì gọi là Lý. Chẳng thể cầu Nhân ngoài tâm, chẳng thể cầu Nghĩa ngoài tâm, làm sao có thể riêng cầu Lý ở ngoài tâm cho được? Cầu Lý ngoài tâm thì Tri và Hành sẽ trở thành tách rời. Cầu Lý nơi chính tâm ta, đấy chính là giáo nghĩa „tri hành hợp nhất‟ trong đạo Thánh vậy”. Do câu nói này, học thuyết của Vương Dương Minh thường được gọi là thuyết Tri Hành Hợp Nhất.
  14. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 80 of 322 Quang nói với ông lời này, vì sợ ông vẫn chưa hiểu rõ ràng đầu mối bình trị hay loạn lạc; muốn cho gia phong chẳng suy sụp mà chẳng đề xướng nhân quả sẽ chẳng được đâu! Muốn cho thiên hạ thái bình cũng chẳng thể không đề xướng nhân quả! Đấy là phương cách cả ngàn vị thánh cũng chẳng thể thay đổi được! Dùng pháp này làm gốc để thực hành trong nhà thì nhà yên, thực hành trong cả nước, trong thiên hạ thì không nơi nào đều chẳng như vậy! Bỏ chuyện này mà bàn chuyện bình trị thì đều là những chuyện ngoài da, quyết chẳng thể nào thành tựu lớn lao tốt đẹp được! Ông đã sanh lòng chánh tín nơi Tịnh Độ, nay đặt pháp danh cho ông là Huệ Dương; nghĩa là nương theo trí huệ của Phật để hoằng dương Tịnh Độ, khiến cho hết thảy những người cùng hàng đều được liễu sanh thoát tử ngay trong đời này. Ông coi Quang giống như Châu Tử, Thiệu Tử, Phạm Văn Chánh Công, Quang nào dám mong sánh vai ba vị ấy? Nhưng ba vị ấy chưa gặp được pháp môn Tịnh Độ, còn Quang may mắn được gặp. Pháp này lan truyền khắp nhân gian, nhưng nào được mấy ai suốt ngày trì tụng, mà [đa số] vẫn cứ coi thường chẳng quan tâm, giống như kẻ chưa từng thấy nghe vậy. Lại có người nghe nhưng chẳng tin. Người tin tưởng rồi thực hành thật hiếm hoi lắm! Ông nay đã sanh được lòng chánh tín, hãy nên chất phác niệm Phật, ngõ hầu chẳng đến nỗi bị những tri thức thuộc các tông khác lung lạc, mê hoặc! Các vị Tôn, Trần v.v… tặng ông mấy chục loại sách, nay gởi cho ông Tịnh Độ Thập Yếu, Phật Học Cứu Kiếp Biên, Tịnh Độ Ngũ Kinh, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Sức Chung Tân Lương, mỗi thứ một bộ. Sách Thập Yếu này chính là nguyên bản vào thời [tổ Ngẫu Ích], chứ không phải là bản bị tiết lược do [sư Thành Thời] in mộc bản trước kia. Đọc sách này mà tin đến nơi thì hết thảy tri thức, hết thảy kinh giáo, các thứ pháp môn đều chẳng lay chuyển được tín tâm! Người học Phật ắt phải giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng Thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành, khiến cho hết thảy mọi người nhìn theo bắt chước làm lành. Bởi lẽ “dùng lời nói để dạy sẽ bị tranh cãi; dùng thân để dạy, người khác sẽ thuận theo”. Cõi đời hiện nay đã loạn đến cùng cực, chẳng dùng Phật pháp để cứu vãn, uốn nắn, sẽ không lập cách gì khác được! Quang là một ông Tăng chỉ biết cơm cháo, thoạt đầu ông ví Quang như [Châu] Nguyên Công, [Thi ệu] Khang Tiết67, Thiệu Khang Tiết (1011-1077), tự Hiểu Phu, là một nhà bói toán nổi tiếng đời Tống, tinh 67 thông Dịch Lý, là một trong những nhân vật kiệt xuất của phái Tượng Số trong Dịch Học.
  15. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 81 of 322 [Phạm] Văn Chánh Công là đã nói trật rồi. Tiếp đó, lại lầm lạc ca ngợi Quang là hậu thân của Phật Di Đà, là người tiên phong của đức Bổn Sư v.v… sao lại chẳng sợ tội lỗi đến mức như thế? Bởi lẽ, đem phàm lạm thánh, tội chẳng thể tha! Ông có biết hay chăng? Khổng Tử nói: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỹ” (Sáng nghe đạo, tối chết cũng được)! Chẳng hận nghe đạo trễ, chỉ sợ chần chừ chẳng chịu thực hành! Đã biết niệm Phật có cảm ứng, hãy nên suất lãnh vợ con cùng tu trì. Người niệm Phật còn muốn phổ độ chúng sanh, huống là quyến thuộc trong nhà của chính mình sao nỡ để họ bỏ uổng cuộc sống này ư? Bỏ uổng cuộc sống này thì từ trần sa kiếp này sang trần sa kiếp khác, hễ lầm lỡ một phen sẽ lầm lỡ mãi mãi! Do vào mùa Đông năm ngoái Quang giảo duyệt bản thảo Hám Sơn Niên Phổ Sớ vào ban đêm, chữ viết quá nhạt, mục lực bị tổn thương, đến nay chẳng thể khôi phục được. Hiện thời khi đọc mà nếu chẳng dùng kính lão lẫn kính lúp sẽ chẳng thể xem hay viết được. Vì thế, vào mùa Đông năm ngoái đã cự tuyệt hết thảy thư từ. Phàm ai gởi thư đến đều dặn họ từ rày đừng gởi thư đến nữa, cũng chẳng bằng lòng họ giới thiệu người khác quy y vì tinh thần lẫn mục lực chẳng thể chịu đựng được! Một Lá Thư Trả Lời Khắp khá có quan hệ đối với hết thảy mọi người, hãy nên tùy duyên đề xướng thì lợi ích lớn lắm! (Ngày Mười Bốn tháng Sáu) 276. Thư trả lời cư sĩ Thường Phùng Xuân (thư thứ hai) Cái chết của Huệ Tá là do cha mẹ, bà nội của anh ta gây ra. Nhà ấy sanh được đứa con thông minh, dĩnh ngộ, chẳng dạy anh ta đạo “giữ gìn thân thể, ít dục vọng”. Đã sớm cưới vợ cho anh ta, lại chẳng nói tới lợi ích của việc tiết dục và cái họa của việc buông lung dục vọng. Hai kẻ thanh niên ấy chỉ biết cầu vui, chẳng biết sẽ chóng chết. Đến khi đã mắc bệnh rồi, vẫn chẳng bảo vợ trở về Ninh Ba, đến nỗi bệnh nặng hơn cả năm, rồi tới nỗi phải chết. Sắp chết, trông thấy vợ vẫn còn động tình, cho nên phải cắn ngón tay để đè nén dục tâm. Những chuyện như vậy trong thiên hạ nhiều lắm, chỉ thuật hai chuyện: Một đệ tử nhà nghèo, cha chết sớm, học nghề buôn bán, tư chất thuần hậu. Năm mười lăm, mười sáu tuổi liền cưới vợ. Thân thể đã bị tổn thương. Trước hết, anh ta giữ sổ sách cho một tiệm bán the lụa, người bạn bảo anh ta sang chùa Pháp Vũ núi Phổ Đà dưỡng sức mấy Ông đã đề ra phép bói Mai Hoa Dịch Số nổi tiếng. Văn Chánh Công chính là Phạm Trọng Yêm (Ông này có thụy hiệu là Văn Chánh).
  16. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 82 of 322 tháng. Đã khỏe mạnh rồi, bà mẹ cằn nhằn người giới thiệu, chỉ sợ anh ta xuất gia, lôi kéo ông chủ tiệm và bố vợ đến gọi anh ta về. Quang nói với người đến tìm: “Trở về thì được, nhưng hãy để cho người vợ thường xuyên ở bên nhà mẹ đẻ; nếu anh ta chưa hoàn toàn bình phục thì chớ nên gặp gỡ”. Những người ấy đều là những kẻ chẳng hiểu chuyện nhất, đều chẳng nghe lời Quang. Anh ta vẫn giữ sổ sách trong tiệm. Quang sang Thượng Hải đến tiệm ấy (chủ tiệm cũng là người tốt, có quen biết) trông thấy anh ta sắc mặt tươi nhuận, biết anh ta vẫn biết tiết dục. Sau này Quang trở về núi, tới Ninh Ba, thấy sắc mặt anh ta biến đổi quá sức, hỏi: “Con có về nhà hay không?” Thưa: “Về tới nhà chỉ ở bốn ngày” mà hình dạng so với lúc chưa về đã khác hẳn một trời một vực, rốt cuộc chết mất. Chàng trai ấy thông hiểu văn tự, biết nghe lời, nếu chẳng phải do bà mẹ ương ngạnh đứng ra quyết đoán, chắc chẳng đến nỗi phải chết yểu! Lại có con của một đệ tử quy y, bố vợ cũng quy y. Người này khá thông minh, rất giỏi Anh văn; do chẳng biết tiết dục nên ngã bệnh, muốn sang Tây Hồ, Hàng Châu, nói: “Hễ con sang Tây Hồ, bệnh sẽ lành được một nửa!” Cha mẹ chẳng biết anh ta không dám gặp vợ, chẳng chịu cho đi. Anh ta lại muốn vào bệnh viện; do vậy, bèn đưa vào bệnh viện, nhưng vẫn cho người vợ thường tới thăm, rốt cuộc anh ta chết trong bệnh viện. Ông bố vợ kể chuyện với Quang, Quang bảo: “Các ông là lũ người si dại đến nỗi anh ta chẳng muốn chết mà cứ ép anh ta phải chết!” Tiếc cho anh ta chẳng nói rõ chẳng dám thấy mặt vợ, vì hễ trông thấy mặt vợ sẽ hứng tình, di tinh. Huệ Tá sắp chết, thấy vợ liền cắn ngón tay, ông tưởng là anh ta chán ngán, vẫn chưa đúng sự thật đâu! Ấy là vì anh ta chế ngự dục niệm. Đến khi chết, được sức trợ niệm của mọi người, chính mình vẫn có tín tâm; vì thế chết rồi tướng mạo biến đổi thành tươi đẹp; do vậy biết Phật lực, pháp lực, chúng sanh tâm lực, đều chẳng thể nghĩ bàn. Tâm lực của chúng sanh mà chẳng nương nhờ Phật lực, pháp lực sẽ chẳng thể hiển hiện được! Do nương vào Phật lực, pháp lực mà được hiển hiện, vì thế mới hiện tướng ấy. Con em đời sau càng thông minh thì dục tâm càng nặng. Khi chúng chưa dậy thì, chớ nên nói. Hễ đã dậy thì rồi, chẳng nói với chúng đạo giữ gìn thân thể, giảm bớt ham muốn, chắc sẽ đều khó tránh khỏi đến nỗi thủ dâm, tà dâm; đến khi cưới vợ sẽ quên thân chạy theo dục lạc, đều khó tránh khỏi! Con trai thì cha và thầy bảo ban nó. Con gái thì mẹ sẽ nói. Nếu vợ của Huệ Tá biết được nghĩa này, [anh ta] đâu đến nỗi mắc bệnh gần cả năm rồi chết!
  17. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 83 of 322 Thời cổ, quốc gia còn hạ lệnh khuyên con người tiết dục. Nay thì bệnh đã gần chết, vẫn chẳng cho chia cách. Do vậy, những gã thanh niên tử vong oan uổng chẳng biết là bao nhiêu, cứ đổ hết cho số mạng. Há mạng có khiến cho bọn họ tham sắc dục không chán ư? Huệ Tá bị chết oan uổng! (Nếu cha mẹ sớm khuyên dạy, [anh ta] hiểu lợi - hại sâu xa, trọn chẳng đến nỗi chết. Vì thế nói là “oan uổng”). Huệ Tá sanh về Tây Phương là chuyện may mắn. Nếu không có ai trợ niệm thì do chết vì dâm dục, dẫu chẳng đọa vào ba ác đạo, cũng khó tránh đọa làm thân nữ và thân gái làng chơi! Do mọi người trợ niệm, được nhờ vào Phật từ lực nên được kết quả ấy. Chuyện của anh chàng này chẳng cần phải lan truyền. Nếu muốn lan truyền thì phải dựa theo ý Quang đã nói về chuyện giữ thân tiết dục để nói thêm vào (chẳng cần phải tuân theo nguyên văn, chỉ dựa theo ý) thì sẽ khiến cho những kẻ làm cha mẹ và các thanh niên động lòng, mà cũng tỏ rõ ba thứ Phật lực, pháp lực, chúng sanh lực đều chẳng thể nghĩ bàn! Trợ niệm dùng “thủ thuật”68 chẳng bằng dùng tâm quán, từ nay về sau không cần phải đề xướng cách thức này. Cách ấy trước đây Quang đã thấy một đệ tử dựa theo cách pháp sư Hưng Từ đã lập; về sau pháp sư Huệ Định ở Tứ Xuyên đem tác phẩm Ứng Dụng Duy Thức Học Quyết Định Sanh Tịnh Độ Luận do ông ta biên soạn gởi cho Quang, tôi biết pháp sư Hưng Từ dựa theo tác phẩm đó mà lập ra pháp ấy. Quang cho rằng công đức của Phật hiệu chẳng thể nghĩ bàn; bỏ sự trợ niệm của đại chúng để cậy vào chuyển động tay của một người nhằm kêu gọi Phật, đấy chính là coi rẻ Phật hiệu, coi trọng thủ thuật, chẳng đáng noi theo! Mong đừng lập dị, đến nỗi kẻ vô tri hùa nhau bỏ gốc lấy ngọn vậy! (Ngày Hai Mươi Mốt tháng Mười Một) 277. Thư trả lời cư sĩ Thường Phùng Xuân (thư thứ ba) Thư nhận được đầy đủ, nếu chuyện của ông Lý Tự Huân là sự thật thì ông ta chắc chắn vãng sanh, nhưng người đời nay thường hay tô vẽ, muốn sướng tai khoái mắt người khác, đấy là lỗi lầm lớn. Đối với cha mẹ, đối với chính mình đều vô ích, bị tổn hoại. Vì sao vậy? Do lừa Pháp sư Hưng Từ đề xướng một phương pháp gọi là “liễu sanh thoát tử, cứu độ Trung Ấm 68 Thân”. Theo đó, người hộ niệm tập trung tinh thần, quơ tay từ phía chân người chết lên đến ngực, vừa niệm Phật vừa tưởng đang như chính mình đang được Phật gia hộ, lôi kéo thần thức của người sắp chết từ chân lên đầu để cuối cùng thần thức sẽ từ đỉnh đầu thoát ra. Do vậy gọi là “thủ thuật” vì phải vận dụng tay rất nhiều để làm tư thế nắm kéo trong khi hộ niệm.
  18. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 84 of 322 người dối mình, là phàm mà dối xưng là thánh vậy! Chưa vãng sanh, quyến thuộc chí thành niệm Phật thì người ấy cũng có thể vãng sanh. Nếu tô vẽ thì chẳng phải là tâm chân thật mà là tâm hư giả, nên khó được lợi ích thật sự. Mong hãy đem chuyện này thiết tha bảo với hết thảy đồng nhân. Một bộ Văn Sao Tục Biên gồm hai cuốn, tổng cộng là ba trăm trang, mỗi gói là ba bộ, tính gởi bốn gói. Cho người hỏi bưu cục, họ nói không thể gởi được. Hiện thời rất nhiều nơi chỉ có thể gởi thư, dẫu là một quyển sách nhỏ cũng không gởi được. Xin ông hãy nói với những ai niệm Phật hãy sốt sắng niệm Phật, bởi sau này muốn có sách để đề xướng cũng rất khó khăn. Năm ngoái, vùng quê Quang gởi tới hơn bốn trăm đồng, nay một bộ cũng chẳng thể gởi được, đáng than thay! Chẳng biết ngày nào thanh bình, chuyện gởi sách đã tuyệt vọng rồi! Xin hãy sáng suốt soi xét, bài sớ Lễ Quán Âm Cầu Con và ba điều trọng yếu để cầu con, gởi mỗi thứ một phần. Tiền hương kính đưa cho thường trụ vì Quang sáng chẳng bảo đảm được tối, chẳng muốn giữ lại sau khi đã chết. Mục lực càng kém, không có chuyện gì khẩn thiết, đừng gởi thư đến để khỏi phải tốn công đọc và trả lời. Pháp danh của hai người được viết trong tờ giấy khác (Ngày mồng Mười tháng Mười) Kim Vinh pháp danh là Huệ Trinh, có quan hệ rất lớn. [Cái tên này] không phải chỉ ngụ ý cô ta có thể thủ tiết! Kinh Dịch chép: “Trinh giả, sự chi cán dã” (Trinh là trung tâm (cốt lõi) của sự việc). Nếu con người không có lòng Trinh69 thì chuyện gì cũng chẳng thành. Hãy nên dùng lòng trinh do trí huệ để tự hành, dạy người thì lợi ích lớn lao. Một phụ nữ Hồi Hồi ở Vu Hồ tin tưởng sâu xa pháp môn Tịnh Độ, gần đây khuyên được một người cực thông minh nhưng chẳng tin Phật phát tâm quy y, cũng là do dùng lòng Trinh mà đư ợc! Đây quả là chuyện xưa nay ít thấy vì người Hồi Hồi khó giáo hóa nhất! 278. Thư trả lời cư sĩ Thường Phùng Xuân (thư thứ tư) Đọc những điều đã thuật thì [người đã mất ấy] quyết định được vãng sanh, do đức Phật có đại nguyện, lại nhờ sức trợ niệm của đại chúng, nên có thể quyết định vãng sanh. Nhưng cũng không cần phải đăng báo, bởi ai nấy nương theo pháp này, ai nấy đều được vãng sanh, trọn chẳng phải Trinh (貞 ) hiểu theo nghĩa rộng là lòng tinh thành đến cùng cực, không lay động, di 69 chuyển bởi ngoại cảnh, bền giữ chí khí. Do vậy, phụ nữ giữ lòng chung thủy, không thay lòng đổi dạ gọi là Trinh, không hiểu hạn hẹp như chữ Virgin sau này.
  19. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 85 of 322 là chuyện hiếm hoi, lạ lùng gì! Nếu ai nấy đều đăng báo sẽ phiền phức khôn xiết! Nếu [lúc lâm chung] có cảnh giới lớn lao chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải là chuyện thấy nghe bình thường thì chẳng ngại gì đăng báo để người thấy kẻ nghe đều sanh chánh tín! Nếu không, chẳng đăng báo sẽ tốt hơn. Vì sao vậy? Hết sức bình thường, chẳng hiếm hoi, lạ lùng gì! Nay tôi đem nguyên văn gởi trả lại, xin ông hãy bảo với hiếu quyến để họ vĩnh viễn lấy đó làm khuôn phép nhất định thì lợi ích sẽ rộng lớn vậy! (Ngày mồng Sáu tháng Giêng) 279. Thư trả lời cư sĩ Thường Phùng Xuân (thư thứ năm) Đã nhận được bưu phiếu, từ nay đừng gởi đồ vật tới nữa. Hãy nhất tâm niệm Phật, chớ nên chuyên chú xem đọc [kinh sách] nữa! Niệm Phật là Chánh Hạnh, những lúc như đi đường chẳng hạn cần gì phải xem sách? Chỉ nên niệm Phật! Xem sách và niệm Phật là hai chuyện khác nhau. Niệm Phật đi, đứng, nằm, ngồi đều niệm được. Xem sách nếu chẳng ngưng lặng tâm trí, dẹp yên lo nghĩ, sẽ chẳng hiểu được ý nghĩa. Điều quan trọng trong Niệm Phật là nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối. Muốn nhiếp trọn sáu căn, chỉ lắng nghe tiếng niệm Phật của chính mình trong một thời gian dài thì sẽ tự đạt được. Đối với chuyện đặt ra những chữ đầu cho pháp danh70 để đời sau nương theo đó [mà đặt pháp danh], Quang trọn chẳng tán thành chuyện này vì sẽ tạo ra thói tệ, nên chẳng khơi ra đầu mối này! 280. Thư trả lời cư sĩ Thường Phùng Xuân (thư thứ sáu) Quang già rồi, không có mục lực lẫn tinh thần để thù tiếp. Trong tháng trước đã đăng lời phân trần trên hai tờ Tân Báo và Thân Báo để sau này bất luận là ai cũng đều chớ nên gởi thư đến nữa, mà cũng chẳng chấp nhận giới thiệu người khác đến quy y. Kẻ có lòng tin thì chẳng ngại gì theo lệ bái môn sinh71 giống như nhà Nho, bái các ông làm thầy cho họ. Nhưng các ông chẳng được xưng là “thầy quy y” [của những người ấy], bởi lẽ quy y Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo, cư sĩ há nên tiếm xưng? Tức là lối đặt pháp danh với những chữ đầu lấy từ một bài kệ truyền dòng. Chẳng hạn, 70 dòng Lâm Tế Chúc Thánh có bài kệ: “Minh thiệt pháp toàn chương, ấn chân như thị đồng…”. Theo đó, thầy có pháp danh bắt đầu chữ Chân thì trò sẽ có pháp danh bắt đầu bằng chữ Như. Bái môn sinh: Tôn một vị mình trân trọng làm thầy, giữ lễ đệ tử. 71
  20. Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên, phần 7, trang 86 of 322 Chỉ vì chỗ ông không có vị Tăng thật sự biết Phật pháp, cho nên phải theo lối cầu học, để mong cho ai nấy đều được lợi lạc. Nếu nói ta là “thầy quy y của người nào đó, kẻ nào đấy là đệ tử quy y của ta”, sẽ thành ra “Bát Dật vũ đình, Ung Thi triệt tế” (múa Bát Dật trong sân, ngâm bài Ung Thi để dọn cỗ tế xuống)72, đúng là tội nhân trong cửa Phật, chẳng gọi là hoằng pháp lợi sanh! Pháp danh của năm người [xin quy y] được viết trong một tờ giấy khác. Nếu muốn đọc các kinh sách, hãy tiếp xúc trực tiếp với Hoằng Hóa Xã, cũng đừng thuận tiện gởi kèm thư cho Quang, dù có kèm theo thư “Bát Dật vũ đình” (Múa Bát Dật trong sân) là một thành ngữ dựa theo câu nói của Khổng 72 Tử trong Luận Ngữ: “Tử viết: - Quý Thị Bát Dật vũ ư đình, thị khả nhẫn dã, thục bất khả nhẫn dã” (Khổng Tử nói: - Quý Thị múa Bát Dật trong sân, chuyện ấy hắn còn nhẫn tâm làm thì chuyện gì khác mà hắn chẳng nhẫn tâm làm). Theo sách Luận Ngữ Giảng Yếu của cụ Lý Bỉnh Nam, Quý Tôn Thị nước Lỗ cho múa Bát Dật để tế tổ tiên trong sân của miếu thờ gia đình; đó là chuyện tiếm dụng rất lớn. Vì Bát Dật là một điệu múa, ít nhất là tám người, tối đa là sáu mươi bốn người, chỉ dành riêng cho thiên tử nhà Châu sử dụng khi tế tổ trong Thái Miếu. Nước Lỗ vốn là đất phong cho Châu Công sau khi nhà Châu dẹp Trụ. Do cảm niệm công ơn phù tá của Châu Công Đán khi vua còn bé, Châu Thành Vương đặc biệt cho phép vua nước Lỗ đời đời được sử dụng điệu múa Bát Dật để tế Châu Công, chứ không được sử dụng trong những miếu thờ khác, ngay cả miếu thờ vua nước Lỗ. Quý Thị chính là hậu duệ của Lỗ Hoàn Công, do thấy lễ nhạc của thiên tử được sử dụng trong miếu thờ Châu Công liền tự tiện sử dụng để tế tổ tiên của mình, do vậy phạm lỗi tiếm dụng rất lớn! “Ung thi triệt tế” (Ngâm bài Ung Thi để dọn cỗ tế) cũng xuất phát từ một câu nói trong Luận Ngữ: “Tam gia giả dĩ Ung triệt, Tử viết: “Tương duy tịch công, thiên tử mục mục, hề thủ ư tam gia chi đường” (Ba họ ngâm bài Ung Thi trong khi dọn cỗ xuống sau khi tế xong, Khổng Tử nói: “[Hai câu thơ: „Vẻ mặt của] chư hầu và hậu duệ nhà Hạ, nhà Ân đến trợ tế lẫn vẻ mặt của thiên tử đều nghiêm túc‟ sao lại dùng trong miếu thờ của ba họ?”). “Tam gia” chính là Trọng Tôn, Thúc Tôn, Quý Tôn, đều là ba vị Khanh Đại Phu nước Lỗ, là hậu duệ của Khánh Phụ, Thúc Nha, Quý Hữu (ba người này là con thứ của Lỗ Hoàn Công), nên còn gọi là Tam Hoàn Gia hoặc Tam Hoàn Tử Tôn. Ung Thi là một bài thơ thuộc phần Châu Tụng của Kinh Thi. Triệt (徹) là dọn xuống. Khi thiên tử tế thái miếu, lúc lễ xong, các nhạc công cử nhạc ngâm bài thơ này để hạ cỗ bàn. “Tương duy tịch công, thiên tử mục mục” chính là hai câu thơ trong bài Ung Thi. Cụ Lý Bỉnh Nam giảng: “Tương duy” (相維) là chữ đệm không có nghĩa lý gì, “tịch công” (辟公) là các chư hầu, như hậu duệ nhà Hạ là nước Kỷ, hậu duệ nhà Ân là nước Tống. Mục mục (穆穆) là vẻ mặt ôn hòa, khoan dung, nghiêm túc của thiên tử. Hai câu này có nghĩa là khi các chư hầu và hậu duệ nhà Hạ, nhà Ân đến trợ tế, vẻ mặt của vị đứng Chủ Tế và các Bồi Tế (trợ tế) nghiêm túc, khoan hòa; ngụ ý tuy tế lễ đã xong, vị Chủ Tế và Trợ Tế vẫn nghiêm túc, trang trọng”. Bài thơ này chỉ thiên tử nhà Châu mới được dùng khi tế lễ mà ba quan đại phu nước Lỗ lại tiếm dụng nên họ bị Khổng Tử chê trách. Tổ Ấn Quang dùng cả hai câu thơ này để răn nhắc hàng cư sĩ không được tự tiện truyền Tam Quy, Ngũ Giới cho người khác vì chỉ có Tăng chúng mới có tư cách đại diện Tam Bảo truyền giới. Nếu cứ làm càn, sẽ giống như chư hầu dám dùng những nghi lễ dành riêng cho thiên tử để cúng tế tổ tiên mình.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2