intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam

Chia sẻ: ViSatori ViSatori | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

33
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tuổi thọ trung bình của con người đang ngày một tăng cao do điều kiện y tế được cải thiện, chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn và mức sống cao hơn. Bên cạnh mặt tích cực, tuổi thọ trung bình tăng cao cũng đặt ra vấn đề rủi ro trường thọ (longevity risk)- đó là sự không chắc chắn xung quanh mức kỳ vọng/dự báo mà tuổi thọ trong tương lai sẽ tăng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam

<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH- TIỀN TỆ <br /> <br /> Ảnh hưởng của rủi ro trường thọ đối với Việt Nam<br /> Trần Thị Xuân Anh<br /> Trần Đức Lương<br /> Nguyễn Việt Hà<br /> Mai Thu Trang<br /> Ngày nhận: 09/07/2018 <br /> <br /> Ngày nhận bản sửa: 18/07/2018 <br /> <br /> Ngày duyệt đăng: 24/07/2018<br /> <br /> Tuổi thọ trung bình của con người đang ngày một tăng cao do điều<br /> kiện y tế được cải thiện, chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn và mức sống<br /> cao hơn. Bên cạnh mặt tích cực, tuổi thọ trung bình tăng cao cũng<br /> đặt ra vấn đề rủi ro trường thọ (longevity risk)- đó là sự không chắc<br /> chắn xung quanh mức kỳ vọng/dự báo mà tuổi thọ trong tương lai sẽ<br /> tăng. Điều này đặt ra mối đe doạ nghiêm trọng về tài chính cho các<br /> cá nhân, hệ thống hưu trí, các công ty bảo hiểm xã hội, chính phủ<br /> khi chưa có sự chuẩn bị kỹ càng các nguồn lực nhằm chăm sóc sức<br /> khoẻ cũng như đảm bảo an sinh xã hội cho phần tuổi thọ dân số tăng<br /> ngoài kỳ vọng. Do đó, mỗi quốc gia cần nhận diện và đánh giá đầy<br /> đủ những rủi ro này nhằm đưa ra những giải pháp đồng bộ, đảm bảo<br /> an toàn cho hệ thống an sinh xã hội cũng như ổn định hệ thống tài<br /> chính quốc gia, đặc biệt ở những nước mà các hệ thống này còn tồn<br /> tại nhiều yếu kém.<br /> Từ khoá: Rủi ro trường thọ, Tác động tài chính, Hệ thống an sinh xã<br /> hội, Ổn định tài chính quốc gia.<br /> <br /> 1. Rủi ro trường thọ và ảnh<br /> hưởng đối với mỗi quốc gia<br /> ủi ro trường thọ là<br /> rủi ro mà các cá<br /> nhân sống lâu hơn<br /> so với kỳ vọng,<br /> do đó chưa chuẩn<br /> bị đủ nguồn thu nhập để đảm<br /> bảo cho phần thời gian sống<br /> © Học viện Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X<br /> <br /> kéo dài hơn này. Rủi ro trường<br /> thọ gồm có rủi ro trường thọ<br /> cá biệt và rủi ro trường thọ hệ<br /> thống. Loại hình thứ nhất xảy<br /> ra trong trường hợp những<br /> người sẽ chết sau ngưỡng tuổi<br /> thọ trung bình. Loại hình thứ<br /> hai xảy ra do sự tiến bộ về y<br /> học hoặc môi trường sống,<br /> hoặc các yếu tố khác làm cải<br /> <br /> 20<br /> <br /> thiện đáng kể tuổi thọ trung<br /> bình của con người nhưng<br /> không thể dự đoán chắc chắn<br /> trong tương lai (Milevsky,<br /> 2006). Về cơ bản, khi nói đến<br /> rủi ro trường thọ, người ta<br /> thường hàm định theo loại thứ<br /> hai và độ lệch chuẩn (standard<br /> deviation) được dùng làm<br /> thước đo rủi ro trường thọ- đo<br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> Số 194- Tháng 7. 2018<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> <br /> Bảng 1. Thống kê tuổi thọ bình quân thực tế và mức sai lệch so với tuổi thọ bình quân kỳ vọng<br /> giai đoạn 1970-2010<br /> Tổng mức tăng tuổi thọ<br /> giai đoạn 1970-2010<br /> <br /> Mức tăng tuổi thọ bình<br /> quân năm, 1970-2010<br /> <br /> Mức sai lệch so với kỳ<br /> vọng (Độ lệch chuẩn)<br /> <br /> Mỹ và Canada<br /> <br /> 8,2<br /> <br /> 0,20<br /> <br /> 0,14<br /> <br /> Khu vực Châu Âu<br /> <br /> 8,6<br /> <br /> 0,21<br /> <br /> 0,13<br /> <br /> Úc và Newzeland<br /> <br /> 10,8<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> Nhật bản<br /> <br /> 10,8<br /> <br /> 0,27<br /> <br /> 0,23<br /> <br /> Quốc gia<br /> <br /> Nguồn: Human Monthly Database ngày 13/12/2011, IMF (2011)<br /> <br /> lường mức sai lệch giữa tuổi<br /> thực nghiệm cho thấy việc dự<br /> thọ thực tế (actual life span)<br /> báo tuổi thọ bình quân luôn<br /> và tuổi thọ kỳ vọng trong<br /> có sai số nhất định, nói cách<br /> tương lai (expected life span).<br /> khác mỗi cá nhân hay Chính<br /> Trên thực tế, tuổi thọ kỳ vọng<br /> phủ đều không hoàn toàn chắc<br /> được dự báo bằng các phương<br /> chắn về mức tuổi thọ trung<br /> pháp, kỹ thuật khác nhau<br /> bình sẽ đạt được trong tương<br /> nhưng thường sai lệch dự báo<br /> lai.<br /> rất ít khi bằng không (IMF,<br /> Ngoài ra, các dự báo về tuổi<br /> 2012).<br /> thọ tăng chỉ là các giá trị<br /> Số liệu thống kê tại Bảng 1<br /> trung bình và mức tăng của<br /> cho thấy tuổi thọ bình quân<br /> từng quốc gia và vùng lãnh<br /> thực tế tăng lên trong giai<br /> thổ lại cho thấy khác biệt<br /> đoạn 1970- 2010 tại Mỹ và<br /> đáng kể, thậm chí mức tăng<br /> Canada là 8,2 năm, khu vực<br /> tuổi thọ giữa nam và nữ cũng<br /> Châu Âu là 8,6 năm, Nhật Bản<br /> khác nhau. Cụ thể, tại Châu<br /> và Úc, New-Zi-Lân là 10,8<br /> Á từ những năm 1950, tuổi<br /> năm. Song điều đáng<br /> nói là những con<br /> Hình 1. Thay đổi chênh lệch tuổi thọ<br /> số này so với mức<br /> (năm)<br /> kỳ vọng trong cùng<br /> thời kỳ có độ lệch<br /> chuẩn (sai lệch) ở<br /> mức từ 0,13 đến 0,27.<br /> Bongaarts và Bulatao<br /> (2000) nghiên cứu cụ<br /> thể hơn về mức sai<br /> lệch dự báo tuổi thọ<br /> tại các quốc gia nêu<br /> trên trong vòng 20<br /> năm từ 1990-2010,<br /> kết quả cho thấy các<br /> nước này dự báo tuổi<br /> thọ bình quân thấp<br /> hơn thực tế khoảng 3<br /> năm. Những con số<br /> này là minh chứng<br /> <br /> thọ trung bình ở Indonesia<br /> và Trung Quốc được dự báo<br /> có mức tăng cao nhất, tuy<br /> nhiên, hiện tại Nhật Bản lại là<br /> một trong những quốc gia có<br /> tuổi thọ trung bình cao nhất<br /> thế giới, tiếp đến là Hồng<br /> Kông và Singapore. Theo<br /> dự báo đến năm 2031, tỷ lệ<br /> trường thọ ở Hồng Kông và<br /> Singapore sẽ vượt xa Nhật<br /> Bản, ngược lại Phillipine được<br /> dự báo có tuổi thọ trung bình<br /> thấp hơn Nhật Bản 15 năm.<br /> Mặc dù vậy, tuổi thọ trung<br /> bình tăng không đồng đều<br /> giữa nam giới và nữ giới. Vào<br /> trung bình giữa nam và nữ<br /> <br /> Nguồn: Cơ quan Dân số Liên hợp quốc, Cục thống kê quốc gia (Đài Loan)<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> Số 194- Tháng 7. 2018<br /> <br /> 21<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> <br /> Bảng 2. Mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970- 2050 tại một số nước (năm)<br /> Quốc gia<br /> <br /> Mức tăng tuổi thọ giai đoạn 1970-2010<br /> <br /> Mức tăng tuổi thọ dự báo giai đoạn<br /> 2010 - 2050<br /> <br /> Tính từ lúc sinh<br /> <br /> Tính từ độ tuổi 60<br /> <br /> Tính từ lúc sinh<br /> <br /> Tính từ độ tuổi 60<br /> <br /> Mỹ và Canada<br /> <br /> 8,2<br /> <br /> 4,9<br /> <br /> 4,3<br /> <br /> 3,1<br /> <br /> Khu vực Châu Âu<br /> <br /> 8,6<br /> <br /> 5,7<br /> <br /> 4,7<br /> <br /> 3,7<br /> <br /> Úc và Newzeland<br /> <br /> 10,8<br /> <br /> 7,2<br /> <br /> 4,9<br /> <br /> 3,7<br /> <br /> Nhật bản<br /> <br /> 10,8<br /> <br /> 7,7<br /> <br /> 4,6<br /> <br /> 3,7<br /> <br /> Nguồn: Human Monthly Database ngày 13/12/2011, Dự báo của IMF (2011)<br /> <br /> Hình 2. Cấu trúc tháp dân số thế giới theo độ tuổi, giới tính (Triệu người)<br /> <br /> 22 Số 194- Tháng 7. 2018<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> <br /> những năm 1950, chênh lệch<br /> tuổi thọ trung bình giữa nam<br /> và nữ là dưới 1 tuổi, nhưng<br /> đến năm 2010 con số này đã<br /> tăng lên tới gần 4 tuổi và với<br /> Việt Nam là khoảng 10 tuổi<br /> (Manulife Asset Management,<br /> 2014). Những khác biệt này<br /> càng làm gia tăng thách thức<br /> trong việc dự báo tuổi thọ<br /> trung bình ở mỗi quốc gia.<br /> Do tính thiếu chính xác trong<br /> việc dự báo tuổi thọ bình<br /> quân, các quốc gia dễ rơi<br /> vào khả năng bị động trong<br /> việc chuẩn bị nguồn lực đảm<br /> bảo cuộc sống lâu hơn của<br /> con người. Đặc biệt, nghiên<br /> cứu của Manulife Asset<br /> Management (2014) cho thấy<br /> tuổi thọ trung bình trước đây<br /> tăng chủ yếu do tỷ lệ tử vong<br /> ở trẻ sơ sinh hoặc những<br /> người trẻ tuổi giảm xuống,<br /> nhưng hiện tại lại phụ thuộc<br /> vào hiện tượng kéo dài tuổi<br /> thọ- người cao tuổi ngày càng<br /> sống lâu hơn. Số liệu trong<br /> Bảng 2 so sánh mức tăng tuổi<br /> thọ trong giai đoạn 19702010, tính từ lúc sinh và tính<br /> từ độ tuổi từ 60, hơn một nửa<br /> mức tuổi thọ tăng xảy ra ở<br /> nhóm tuổi về hưu. Các số liệu<br /> dự báo trong giai đoạn 20102050 cũng cho kết quả tương<br /> tự. Nếu tuổi thọ cao hơn ở lứa<br /> tuổi trẻ rõ ràng không phải là<br /> một rủi ro. Cuộc sống khỏe<br /> mạnh và sống lâu hơn (trước<br /> khi nghỉ hưu) sẽ làm tăng<br /> thêm thu nhập, tiền tiết kiệm<br /> hưu trí cho cá nhân và doanh<br /> thu thuế cho chính phủ. Vấn<br /> đề chỉ thực sự trở nên rủi ro<br /> nếu tuổi thọ tăng lên ở giai<br /> đoạn nghỉ hưu nhưng cả người<br /> lao động và Chính phủ đều<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br /> chưa chuẩn bị sẵn sàng nguồn<br /> lực cho phần tuổi thọ gia tăng<br /> này. Chính vì vậy, hiện nay<br /> rủi ro trường thọ được hiểu là<br /> rủi ro khi người nghỉ hưu sống<br /> lâu hơn nguồn thu nhập họ có<br /> được và mức ảnh hưởng đến<br /> nền kinh tế trở nên nghiêm<br /> trọng hơn theo các khía cạnh<br /> khác nhau.<br /> (1) Ảnh hưởng đến tốc độ tăng<br /> trưởng kinh tế (GDP): Ảnh<br /> hưởng của rủi ro trường thọ<br /> đối với nền kinh tế tương tự<br /> như ảnh hưởng của vấn đề già<br /> hoá dân số, song nó nghiêm<br /> trọng hơn do Chính phủ không<br /> lường hết được mức độ già<br /> hoá dân số. Tuổi thọ tăng cao<br /> đồng nghĩa với tình trạng già<br /> hoá dân số tăng, và cũng có<br /> nghĩa là lực lượng lao động<br /> bị thu hẹp lại và GDP tiềm<br /> năng giảm, khiến tiêu chuẩn<br /> sống xuống thấp hơn. Phân<br /> tích của Quỹ Dân số Liên Hợp<br /> Quốc (2017) về cấu trúc tháp<br /> dân số thế giới theo độ tuổi,<br /> giới tính cho thấy tỷ lệ người<br /> trong độ tuổi lao động thay<br /> đổi theo hướng bất cân xứng<br /> với nhóm chưa đến tuổi lao<br /> động và ngoài tuổi lao động<br /> trong giai đoạn 1950- 2017<br /> và cả trong giai đoạn dự báo<br /> 2050- 2100 (Hình 2). Thực<br /> tế nguồn cung ứng lao động<br /> của Trung Quốc đã giảm hơn<br /> một nửa so với nhu cầu tính<br /> đến cuối 2015; chỉ trong 10<br /> năm tới, tổng lực lượng lao<br /> động của Nhật Bản sẽ giảm<br /> đến 10% nếu nước này không<br /> có sự điều chỉnh phù hợp<br /> (OECD, 2015). Lực lượng lao<br /> động già hóa, đi đôi với thiếu<br /> hụt lao động trầm trọng, làm<br /> mất đi lợi thế của lao động trẻ,<br /> <br /> một động lực quan trọng thúc<br /> đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực<br /> trạng này mang đến những<br /> thách thức mới cho các chính<br /> phủ do triển vọng tăng trưởng<br /> giảm sẽ gây khó trong việc cắt<br /> giảm tỷ lệ nợ công và tư tại<br /> các nền kinh tế tiên tiến và tạo<br /> ra những thách thức lớn hơn<br /> trong việc tái xây dựng vùng<br /> đệm tài chính đối với các nền<br /> kinh tế thị trường mới nổi<br /> (IMF, 2017).<br /> (2) Ảnh hưởng đến hệ thống<br /> an sinh xã hội: Theo Tổ chức<br /> Lao động quốc tế (ILO): “An<br /> sinh xã hội là sự cung cấp<br /> phúc lợi cho các hộ gia đình<br /> và cá nhân thông qua cơ chế<br /> của nhà nước hoặc tập thể<br /> nhằm ngăn chặn sự suy giảm<br /> mức sống hoặc cải thiện mức<br /> sống thấp”. Định nghĩa này<br /> nhấn mạnh khía cạnh bảo<br /> hiểm xã hội và mở rộng tạo<br /> việc làm cho người lao động.<br /> Về cơ bản, bảo hiểm xã hội<br /> sẽ cung cấp các khoản trợ cấp<br /> dưới dạng tiền mặt hoặc dưới<br /> dạng hiện vật cho người lao<br /> động theo một số hoặc các<br /> chế độ như: trợ cấp dịch vụ y<br /> tế chăm sóc sức khoẻ, trợ cấp<br /> ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ<br /> cấp gia đình người lao động<br /> (con cái), trợ cấp thất nghiệp,<br /> trợ cấp tai nạn lao động và<br /> bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tàn<br /> tật, trợ cấp hưu trí, chế độ tử<br /> tuất (trợ cấp cho người còn<br /> sống- vợ/chồng, con cái, bố<br /> mẹ)… trong đó, trợ cấp hưu<br /> trí từ Chính phủ được xem<br /> là nguồn thu nhập chính của<br /> người về hưu tại một số quốc<br /> gia (Hình 3). Do đó, rủi ro<br /> trường thọ là một thách thức<br /> lớn đối với quỹ lương hưu<br /> <br /> Số 194- Tháng 7. 2018<br /> <br /> 23<br /> <br /> CHÍNH SÁCH & THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ <br /> Hình 3. Nguồn thu nhập chính của người về hưu tại các quốc gia OECD<br /> <br /> Ghi chú: * Số liệu thống kê tại năm 2012 hoặc năm công bố số liệu gần nhất, tuỳ theo quốc gia<br /> 1.Public transfers: Các khoản trợ cấp từ nhà nước, gồm trợ cấp hưu trí từ chương trình hưu trí nhà nước<br /> (dựa trên thu nhập người lao động) và các trợ cấp khác.<br /> 2.Occupational transfers: Trợ cấp hưu trí nghề nghiệp.<br /> 3.Work: Nguồn thu nhập từ lao động trong đơn vị sử dụng lao động hoặc tự kinh doanh.<br /> 4. Capital: Thu nhập từ các chương trình hưu trí tư nhân cũng như thu nhập đầu tư từ các khoản tiết kiệm phi<br /> hưu trí.<br /> Nguồn: OECD (2015)<br /> <br /> quốc gia trong bối cảnh kinh<br /> tế toàn cầu suy thoái như<br /> hiện nay. Số người về hưu và<br /> thời gian hưởng lương hưu<br /> tăng lên ngoài dự tính đòi hỏi<br /> phải hình thành một hệ thống<br /> lương hưu dài hạn, gia tăng<br /> gánh nặng cho ngân sách quốc<br /> gia và ảnh hưởng đến tính bền<br /> vững lâu dài của nền tài chính<br /> công. Đến năm 2050, quỹ<br /> lương hưu của Trung Quốc sẽ<br /> chiếm 10% GDP, so với mức<br /> 3,4% năm 2010. Tại một số<br /> quốc gia châu Âu như Đức,<br /> Pháp, Ý, con số này dao động<br /> từ 14%-16% GDP của mỗi<br /> nước năm 2050 (IMF, 2017).<br /> <br /> 24 Số 194- Tháng 7. 2018<br /> <br /> (3) Ảnh hưởng đến ổn định hệ<br /> thống tài chính quốc gia: Ổn<br /> định hệ thống tài chính quốc<br /> gia là một trạng thái trong<br /> đó hệ thống tài chính gồm<br /> các trung gian tài chính, thị<br /> trường và hạ tầng tài chính có<br /> khả năng chống đỡ được các<br /> cú sốc và những rủi ro do sự<br /> mất cân đối tài chính gây ra,<br /> từ đó làm giảm bớt khả năng<br /> sụp đổ của các trung gian tài<br /> chính vốn có tác động tiêu cực<br /> đối với việc phân bổ tiết kiệm<br /> và đầu tư (Ngân hàng Trung<br /> ương Châu Âu- ECB). Rủi ro<br /> trường thọ đang được xem là<br /> mối đe dọa làm suy yếu sự<br /> <br /> bền vững hệ thống tài chính<br /> trong những năm và thập kỉ<br /> sắp tới, làm phức tạp các nỗ<br /> lực củng cố để đáp ứng với<br /> những khó khăn tài chính gần<br /> đây (IMF, 2017). Điều này là<br /> vì nguy cơ kéo dài tuổi thọ<br /> ảnh hưởng đến cách vận hành,<br /> gia tăng mức rủi ro cũng như<br /> là giảm hiệu quả hoạt động<br /> của các định chế tài chính<br /> tham gia cung ứng các dịch vụ<br /> tài chính hưu trí.<br /> Đối với các công ty bảo hiểm<br /> nhân thọ hay các quỹ hưu trí,<br /> rủi ro trường thọ xảy ra đồng<br /> nghĩa với việc họ sẽ phải chi<br /> trả các khoản lương hưu nhiều<br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2