BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
------------------------------------------------------------
NGUYỄN TIỂU MY
ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP TRUNG HỆ THỐNG
NGÂN HÀNG LÊN THẤT NGHIỆP Ở CÁC
NƯỚC THÀNH VIÊN KHỐI APEC
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VÕ XUÂN VINH
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015
Lời Cam Đoan
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số
liệu, kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng
được công bố ở các nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Nguyễn Tiểu My
Mục lục
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...................................................................... 1
1.1 Lý do chọn đề tài. .............................................................................................. 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu. ......................................................................................... 2
1.3 Vấn đề nghiên cứu ............................................................................................. 2
1.4 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3
1.6 Ý nghĩa của đề tài .............................................................................................. 3
1.7 Bố cục của Luận văn .......................................................................................... 4
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP TRUNG
NGÂN HÀNG LÊN THẤT NGHIỆP .......................................................................................... 7
2.1. Cơ sở lý thuyết về ngân hàng: .............................................................................. 7
2.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại ................................................................ 7
2.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại ........................................... 8
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn ................................................................................. 8
2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn .................................................................................... 8
2.1.2.3 Hoạt động cung cấp dịch vụ ............................................................................ 9
2.2. Tổng quan về tập trung ngân hàng: ..................................................................... 10
2.2.1. Thuyết Pro-Concentration ................................................................................10
2.2.2. Thuyết Pro-Deconcentration (PD) ..................................................................12
2.2.3. Các chỉ số để tính mức độ tập trung ngân hàng ............................................ .15
2.3. Tổng quan về thất nghiệp. .................................................................................. 17
2.3.1. Định nghĩa thất nghiệp ......................................................................................17
2.3.2. Các nguyên nhân đến thất nghiệp ....................................................................17
2.3.3 Ảnh hưởng của thất nghiệp đến kinh tế xã hội ................................................22
2.4. Cơ sở lý thuyết về việc tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên thất nghiệp...................23
2.4.1. Mô hình cơ cấu - hành vi - hiệu quả (Structure-Conduct-Performance
paradigm)............................................................................................................................23
2.4.2. Thuyết cấu trúc hiệu quả (Efficient Structure Hypothesis) ............................25
2.5. Kết quả các nghiên cứu lý thuyết: .................................................................. 26
2.6. Kết quả các nghiên cứu thực nghiệm: ............................................................ 27
2.6.1.Tác động của tập trung ngân hàng lên chi phí của các trung gian tài chính (lãi
biên, khả năng sinh lởi) ......................................................................................................27
2.6.2.Tác động của tập trung ngân hàng sự thành lập và tăng trưởng doanh
nghiệp.................................................................................................................................31
2.6.3.Tác động của tập trung ngân hàng lên sự thành lập và tăng trưởng doanh
nghiệp.................................................................................................................................33
2.6.4. Tác động của tập trung ngân hàng lên thất bại ngân hàng và khủng hoảng
ngân hàng hệ thống ............................................................................................................35
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TẬP TRUNG NGÂN HÀNG VÀ THẤT NGHIỆP
Ở CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN APEC .................................. ........................................38
3.1. Tổng quan về APEC .................................................................................................... 38
3.2. Mối quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên khối APEC ...................................... 39
3.3. Thực trạng tập trung ngân hàng ở các nước thành viên khối APEC ........................ 41
3.4. Thực trạng thất nghiệp ở các nước thành viên khối APEC ....................................... 51
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...... 53
4.1. Mô hình thực nghiệm ........................................................................................ 53
4.1.1. Giới thiệu các biến độc lập và phụ thuộc được sử dụng trong mô hình ........53
4.1.2. Mô hình thực nghiệm ........................................................................................58
4.2. Ưu điểm phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 59
4.3. Dữ liệu và mẫu quan sát. .................................................................................... 61
4.3.1. Thu thập và xử lý dữ liệu ..................................................................................61
4.3.2 Sự phù hợp của kích thước mẫu .......................................................................62
4.4. Kết quả thực nghiệm ....................................................................................... 63
4.4.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình: ................................................. 63
4.4.2. Kết quả hồi quy mô hình ......................................................................... 64
4.4.2.1. Ma trận tương quan giữa các biến .................................................................64
4.4.2.2 Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến ...............................................................65
4.4.2.3 Kết quả hồi quy ..............................................................................................66
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ............................................................................................................... 75
5.1 Kết luận: ........................................................................................................... 75
5.2 Hạn chế của đề tài.: .......................................................................................... 77
5.3 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tích cực của tập trung ngân hàng: 78
5.3.1. Gợi ý một số giải pháp chung cho các quốc gia thành viên khối APEC .......78
5.3.2 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tập trung ngân hàng đối với Việt
Nam.............................. .......................................................................................................82
5.4 Hướng nghiên cứu tiếp theo: ............................................................... ………88
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết có thể giúp xác định tác động của tập trung
ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp...............................................................26
Bảng 2.5: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm tác động của tập trung ngân hàng ảnh
hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp.......................................................................................37
Bảng 3.1: biểu đồ thể hiện thực trạng bình quân tập trung ngân hàng của các nước
APEC........................................................................................................................42
Bảng 3.2: Các thương vụ M&A của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2015…47
Bảng 3.3: Thực trạng tình hình thất nghiệp ở các quốc gia thành viên
APEC........................................................................................................................51
Bảng 4.1: Tổng hợp các nghiên cứu về các biến kiểm soát ảnh hưởng tỷ lệ thất nghiệp
dùng trong mô hình thực nghiệm.............................................................................57
Bảng 4.2: Nguồn dữ liệu........................................................................................ ..61
Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến.................................................................... ….63
Bảng 4.4: Bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến.........................................64
Bảng 4.5: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai
VIF............................................................................................................................65
Bảng 4.6: Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi phần dư - Greene
(2000)........................................................................................................................66
Bảng 4.7: Kết quả kiểm tra kiểm tra hiện tượng tự tương quan phần dư Wooldridge
(2002) và Drukker (2003).........................................................................................67
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy mô hình hồi quy GMM sử dụng biến công
cụ..............................................................................................................................68
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Thuyết cấu trúc hiệu quả
EH (Efficient Structure Hypothesis)
EFW (Economic Freedom of the Tự do kinh tế thế giới
World)
FEM (Fixed effects model) Mô hình tác động cố định
Phương pháp moment tổng quát
GMM (Generalized Least Square)
PD (Pro-Deconcentration) Thuyết không ủng hộ tập trung ngân hàng
Thuyết cơ cấu – hành vi – hiệu quả.
SCP (Structure-Conduct- Performance)
Phương pháp bình phương bé nhất 2 giai đoạn
2SLS (Two Stage Least Square)
M&A Sáp nhập và mua lại
NHTM Ngân hàng Thương Mại
NHNN Ngân hàng Nhà Nước
NH Ngân hàng
TCTD Tổ chức Tín Dụng
APEC Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN
Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên
TPP Thái Bình Dương
TS Tiến sĩ
PGS Phó Giáo sư
Maritime Bank Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam
HDBank Ngân hàng Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh
Sài Gòn, SCB Ngân hàng Sài Gòn
SHB Ngân hàng Sài Gòn-Hà Nội
Sacombank Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín
ROA Tỷ suất sinh lời trên tài sản
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV
Ngân hàng TMCP Đệ Nhất Ficombank
Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa TinNghiaBank
Ngân hàng TMCP Phương Tây WesternBank
Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà Đồng Bằng
Sông Cửu Long MHB
Ngân hàng TMCP Phát Triển Mê Kong MDB
Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Habubank
Ngân hàng Đại Á Đại Á bank
tỷ lệ thất nghiệp UR
Tập trung ngân hàng BC
Biến Tín dụng ngân hàng BCre
Quy tắc thị trường tín dụng CMR
Thương lượng tập trung CCB
Dòng vốn FDI vào và ra FDIin, FDIout
GDP bình quân đầu người GDPCa
Tỷ lệ thuế thu nhập biên Itax
Tỷ lệ lạm phát INF
Chênh lệch sản lượng Ogap
Mở cửa Open
Lãi suất thực tế RIR
Hoạt động thị trường chứng khoán SMA
Căng thẳng sắc tộc ET
1
CHƯƠNG 1:
GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong điều kiện kinh tế thị trường, thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn cầu,
nó không loại trừ một quốc gia nào, cho dù quốc gia đó là nước đang phát triển hay
nước có nền công nghiệp phát triển. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các mặt
kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Những hậu quả mà nó gây ra không dễ
gì khắc phục được trong một thời gian ngắn.
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) mới đây đã công bố những vấn đề thu hút
mối quan tâm nhiều nhất của các nhà lãnh đạo quốc tế trong vòng 12-18 tháng tới và
thất nghiệp đứng ở vị trí thứ 2 trong danh sách các vấn đề "nóng" toàn cầu là tình
trạng thiếu việc làm. Dù kinh tế thế giới đang bắt đầu hồi phục sau khủng hoảng
nhưng số người thất nghiệp trên thế giới không ngừng tăng. Rõ ràng, tổ chức này
đang không thể lạc quan với vấn nạn này. Đây là lần đầu tiên trong vòng 10 năm trở
lại đây, "thất nghiêp" trở lại trong bản báo cáo thường niên.
Không riêng đối với Việt Nam, xuất phát từ một nước nghèo, có nền kinh tế
kém phát triển, dân số tăng nhanh trong nhiều thập kỷ qua, thất nghiệp (đặc biệt là
thất nghiệp ở khu vực thành thị) là một vấn đề gây sức ép rất lớn đối với các nhà
hoạch định chính sách cũng như sự lo lắng đối với từng người lao động.
Do vậy, tìm ra nguyên nhân để có giải pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo đảm
việc làm, ổn định đời sống cho người lao động trở thành mục tiêu quan trọng của mỗi
quốc gia. Ngoài những nguyên nhân đã được đề cập thường xuyên như: chất lượng
lao động thấp, cung cầu lao động mất cân đối, suy giảm tăng trưởng kinh tế…tác giả
muốn nhắc tới một yếu tố chưa từng được nhắc đến nhưng có tác động đáng kể đến
tình trạng thất nghiệp đó là sự tập trung của hệ thống ngân hàng. Trong khi hệ thống
ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Nhưng kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hệ thống tài chính và ngân
hàng bị căng thẳng, để lộ nhiều điểm yếu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền
2
kinh tế. Chủ đề tập trung ngân hàng cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các cuộc
tranh luận trong những năm gần đây (điển hình là Việt Nam) vì nhiều lý do (như sự
toàn cầu hóa trong vĩnh vực ngân hàng). Nhiều thị trường ngân hàng quốc gia đã hợp
nhất đáng kể, làm ảnh hưởng, thay đổi các quy định và công nghệ. Hiện đã có các
hoạt động sáp nhập đáng kể giữa các nhóm ngân hàng lớn (bao gồm cả việc mở rộng
qua biên giới), làm tăng vấn đề về tác động của việc gia tăng tập trung cả ở mức độ
toàn cầu và quốc gia. Trong đó ảnh hưởng của tập trung ngân hàng đến các kênh mà
thông qua đó nó tác động đến tỷ lệ thất nghiệp là không hề nhỏ. Hơn nữa, do hệ quả
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây, nhiều quốc gia công nghiệp, đặc
biệt ở các nước đang phát triển đã trải qua cả việc gia tăng của tập trung hệ thống
ngân hàng và suy giảm trong hoạt động thị trường lao động. Như vậy, việc hiểu và
đo lường hiện trạng thất nghiệp do xu hướng này gây ra rất có ý nghĩa đối với các
nhà hoạch định chính sách của mỗi quốc gia, nhất là sau giai đoạn khủng hoảng tài
chính như hiện nay.
Để làm rõ hơn về vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng
của tập trung hệ thống ngân hàng lên thất nghiệp ở các nước thành viên APEC”
để làm luận văn thạc sĩ của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này nhằm mục tiêu kiểm định tập trung ngân hàng có thực ảnh
hưởng đến tình trạng thất nghiệp của các quốc gia khối APEC không? Nếu có ảnh
hưởng thì ảnh hưởng ra sao, mức độ tác động của việc tập trung ngân hàng đó như
thế nào?
1.3 Vấn đề nghiên cứu
Từ mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau:
Một là, đúc kết và tổng hợp các bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về tập
trung ngân hàng ảnh hưởng đến những yếu tố mà đồng thời có ảnh hưởng đến tỷ lệ
thất nghiệp.
3
Hai là, dùng mô hình thực nghiệm để kiểm định tập trung ngân hàng ảnh
hưởng như thế nào đến tỷ lệ thất nghiệp, mức độ tác động của nó ra sao?
Ba là, dựa trên các kết quả nghiên cứu để đưa ra các gợi ý về mặt chính sách
nhằm gia tăng những tác động có lợi của tập trung ngân hàng cũng như giảm thiểu
mặt hạn chế nhằm cải thiện tình hình thất nghiệp.
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu dùng dữ liệu được thu thập từ năm 1996 đến năm 2014 để tạo
ra bộ dữ liệu bảng (Panel data) theo dạng bảng động (Dynamic data). Dữ liệu được
thu thập và tổng hợp từ IMF và World Bank.
Bài nghiên cứu áp dụng mô hình tác động cố định (Fixed effect model) và ước
lượng bình phương tối thiểu (OLS) với hai phương pháp bình phương bé nhất hai giai
đoạn (Two - Stage Least Squares - 2SLS) và phương pháp ước lượng Moment tổng
quát (Generalized Method of Moments - GMM) để tiến hành kiểm định các mô hình
trong bài nghiên cứu và các biến được sử dụng trong bài nghiên cứu sẽ được mô tả
rõ hơn trong chương 3.
Bài nghiên cứu sử dụng phần mềm Stata 11 để thực hiện định lượng phục vụ
cho việc kiểm định.
1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tập trung của các ngân hàng và tỷ lệ thất
nghiệp của các nước thành viên khối APEC.
Phạm vi nghiên cứu: Các hoạt động tập trung của các ngân hàng và tỷ lệ thất
nghiệp của các nước thành viên khối APEC giai đoạn 1996-2014.
1.6 Ý nghĩa của đề tài
Đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm phân tích ảnh hưởng của tập
trung hệ thống ngân hàng lên trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế. Có nhiều
bằng chứng thực nghiệm phong phú cho thấy tập trung ngân hàng thực sự có ảnh
hưởng đến hiệu suất của cả trung gian tài chính và ngành công nghiệp phi tài chính.
4
Tuy nhiên, kết quả từ những nghiên cứu này là không thuyết phục, không rõ ràng khi
cho rằng tập trung cao hơn có thể tăng hoặc giảm tỷ lệ thất nghiệp thông qua các kênh
này. Trong thực tế, các kết quả từ các nghiên cứu trước đây là không thể kết luận
không chỉ với kênh này mà còn cho tất cả các kênh khác. Đối với mỗi kênh nó là
không rõ ràng khi nghĩ rằng tập trung ngân hàng cao hơn tác động tiêu cực hoặc tích
cực lên tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, các vấn đề về tập trung ngân hàng ảnh hưởng
đến tỷ lệ thất nghiệp cần phải được giải quyết theo thực nghiệm. Và cũng chưa có
nghiên cứu nào trước đó nghiên cứu tập trung hệ thống ngân hàng có thể ảnh hưởng
thị trường lao động. Bên cạnh đó, các nghiên cứu khoa học về tập trung ngân hàng
cung cấp hướng dẫn rất hạn chế đối với các nhà hoạch định chính sách ở các nước,
nơi một số ít các ngân hàng chiếm ưu thế trong lĩnh vực tài chính.
Đề tài này quan trọng bởi vì, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhiều
nước công nghiệp và những nước đang phát triển đã trải nghiệm sự gia tăng của tập
trung ngân hàng và sự suy giảm trên hoạt động của thị trường lao động. Vì vậy, tác
giả nghiên cứu sự ảnh hưởng của tập trung hệ thống ngân hàng trên thị trường lao
động, cụ thể là tỷ lệ thất nghiệp thực hiện ở các nước thành viên khối APEC. Đề tài
đưa ra bằng chứng khách quan khoa học góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính
sách nhìn nhận rõ hơn ảnh hưởng của việc tập trung ngân hàng ành hưởng đến tỷ lệ
thất nghiêp nhất là đối với những nước đang phát triển có mức độ tập trung ngân hàng
và thất nghiệp cao. Từ đó giúp các nhà hoạch định chính sách có sự điều chỉnh trong
chính sách thích hợp nhất tùy theo từng quốc gia, theo mức độ, đặc điểm cụ thể và
nguồn gốc lịch sử của tập trung ngân hàng, cũng như theo cường độ và các đặc điểm
khác của sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng quốc gia tương ứng, qua đó góp phần
giảm tỷ lệ thất nghiệp, gia tăng hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng.
1.7 Bố cục của Luận văn
Nội dung chính của luận văn bao gồm 5 chương, được trình bày cụ thể theo
trình tự sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài.
5
Trong chương này, tác giả sẽ làm rõ lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu
nghiên cứu, các vấn đề cần nghiên cứu đồng thời giới thiệu tổng quan về phương
pháp nghiên cứu và ý nghĩa khi thực hiện đề tài.
Chương 2: Cơ sở lý luận khoa học và các nghiên cứu thực nghiệm trên
thế giới về ảnh hưởng tập trung ngân hàng lên tỷ thất nghiệp.
Trong chương này, tác giả sẽ tổng hợp cơ sở lý luận khoa học, những nghiên
cứu thực nghiệm trên thế giới về tập trung ngân hàng tác động chi phí của các trung
gian tài chính, khả tín dụng, sự hình thành và tăng trưởng của doanh nghiệp, thất bại
ngân hàng và khủng hoảng hệ thống ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ thất
nghiệp.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung chính của chương này tác giả sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu,
giải thích các biến độc lập và biến phụ thuộc trong mô hình, mô tả các đặc điểm của
mô hình thực nghiệm, các giả định đặt ra để kiểm định và nguồn dữ liệu để thực hiện
nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Trong chương này, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tập
trung ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp, mức độ ảnh hưởng ra sao, tác động
như thế nào; đồng thời thảo luận các kết quả thực nghiệm nhận được.
Chương 5: Kết luận.
Ở chương này, tác giả tổng kết lại các vấn đề nghiên cứu, kết luận lại kết quả
thực nghiệm từ mô hình nghiên cứu, nêu lên những hạn chế của đề tài và hướng mở
rộng đề tài. Đồng thời nêu một số gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách để có
quyết định phù hợp giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định kinh tế xã hội, tăng niềm tin của
dân chúng vào các nhà lãnh đạo.
6
7
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP TRUNG NGÂN
HÀNG LÊN THẤT NGHIỆP
2.1 Cở sở lý thuyết về ngân hàng
2.1.1 Tổng quan về ngân hang thương mại
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính đóng vai trò chu chuyển vốn
giữa các thành phần kinh tế trong xã hội. Ngân hàng thương mại giao dịch trực tiếp
với các tổ chức kinh tế và cá nhân để thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi và sử dụng
số vốn này thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và cung cấp đa dạng các phương
tiện thanh toán, dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Chất liệu kinh
doanh của ngân hàng là tiền tệ, là công cụ để nhà nước sử dụng trong quản lý kinh tế
vĩ mô nên được kiểm soát rất chặt chẽ. Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, liên quan
trực tiếp mọi ngành nghề và mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, do đó, cần phải có
sự thận trọng trong điều hành để tránh những thiệt hại cho nền kinh tế.
Chức năng của NHTM
- Trung gian tín dụng: Là trung gian chu chuyển vốn từ thành phần kinh tế
thừa vốn đến các thành phần kinh tế thiếu vốn, NHTM sẽ huy động các nguồn vốn
tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng, từ đó đáp
ứng nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu
dùng của xã hội.
- Trung gian thanh toán: NHTM đứng ra làm trung gian thanh toán, thay mặt
khách hàng thực hiện thanh toán cho các giao dịch thương mại thông qua việc phát
hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử,…
- Cung ứng dịch vụ ngân hàng: NHTM cung cấp các dịch vụ ngân hàng để
đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng như dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, dịch
vụ ủy thác và đại lý, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán,…
8
2.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Dựa trên các chức năng của ngân hàng, các hoạt động kinh doanh cơ bản của
NHTM gồm có hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động cung
cấp dịch vụ ngân hàng.
2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tiền đề để tạo ra nguồn vốn hoạt động kinh doanh
của ngân hàng. NHTM huy động vốn dưới các hình thức:
- Nhận tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi giao dịch: trong đó tiền gửi tiết kiệm của
dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn huy động của ngân hàng. NHTM
cũng huy động các khoản tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức. Ngoài ra các khoản tiền
gửi thanh toán với chi phí huy động thấp nhưng biến động mạnh, phức tạp và nhiều
rủi ro cũng là nguồn vốn huy động thường xuyên của NHTM.
- Phát hành chứng khoán: NHTM có thể huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước thông qua nghiệp vụ phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và
các giấy tờ có giá để da dạng hóa hình thức huy động vốn và đáp ứng các nhu cầu
nắm giữa tài sản đa dạng của khách hàng.
- Vay vốn từ các NHTM khác: Khi thiếu hụt thanh khoản tạm thời, NHTM có
thể vay vốn tại các NHTM khác trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay ngắn hạn tại
ngân hàng trung ương để bổ sung cho thiếu hụt tạm thời về vốn.
2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM giúp ngân hàng có nguồn thu để bù đắp
chi phí, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng gồm
có hoạt động cấp tín dụng và hoạt động đầu tư.
Hoạt động cấp tín dụng
Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động cơ bản, truyền thống của NHTM, mang
lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. NHTM cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới
các hình thức:
- Cho vay trực tiếp: bao gồm cho vay ngắn, trung và dài hạn, cho vay có bảo
đảm, cho vay tín chấp, cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng
9
- Chiết khấu giấy tờ có giá: ngân hàng sẽ chiết khấu cho người vay một số tiền
nhỏ hơn mệnh giá của giấy tờ có giá chưa đến hạn, thay vào đó, người vay sẽ tạm
thời chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ có giá cho ngân hàng.
- Bao thanh toán: ngân hàng đứng ra mua nợ trên cơ sở hóa đơn, chứng từ của
người bán hàng và người mua phải thanh toán toàn bộ số tiền cho ngân hàng khi đến
hạn.
- Cho thuê tài chính: ngân hàng mua máy móc, thiết bị và cho thuê máy móc,
thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê.
- Bảo lãnh: là hình thức tín dụng bằng chữ ký, nhờ chứng thư bảo lãnh của
ngân hàng mà người được bảo lãnh có thể ký kết và thực hiện cách hợp đồng kinh tế
một cách thuận lợi.
Hoạt động đầu tư
NHTM thực hiện các hoạt động đầu tư để đa dạng hóa nguồn thu nhập và
giảm thiểu rủi ro, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:
- Đầu tư gián tiếp: NHTM sẽ tham gia mua bán các chứng khoán do chính
phủ và các công ty phát hành trên thị trường chứng khoán.
- Đầu tư trực tiếp: NHTM trực tiếp góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty.
2.1.2.3. Hoạt động cung cấp dịch vụ
Các dịch vụ ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng và đem lại nguồn thu nhập
không nhỏ cho các NHTM hiện nay. Các dịch vụ ngân hàng bao gồm các dịch
vụ thanh toán và ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, đại lý, kinh doanh ngoại hối, kinh
doanh chứng khoán,… Ngoài ra, trong thời đại phát triển của công nghệ thông
tin, các dịch vụ mới như dịch vụ thẻ, InternetBanking, SMS Banking,…cũng
giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng hơn.
10
2.2 Tổng quan về tập trung ngân hàng
Theo nghiên cứu của Sathye (2002), của Athanasoglou và các cộng sự (2005):
Tập trung đề cập đến mức độ kiểm soát hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp lớn.
Tăng mức độ tập trung có thể là do sự bành trướng đáng kể của các công ty chi phối
hoặc giảm kích thước đáng kể của công ty không chi phối. Ngược lại, giảm mức độ
tập trung có thể là do giảm đáng kể kích thước của các công ty chi phối hoặc mở rộng
kích thước đáng kể của công ty không chi phối.
Có rất nhiều phương pháp để đo tập trung ngân hàng. Theo Rose (1999: 687):
"mức độ tập trung trong một thị trường được đo bằng tỷ lệ tài sản hoặc các khoản tiền
gửi được kiểm soát bởi các ngân hàng lớn nhất phục vụ thị trường". Còn theo
Demirguc-Kunt và Levine (2000): biện pháp đo tập trung ngân hàng thông qua phần
vốn vay ngân hàng kiểm soát bởi ba ngân hàng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng.
Mức độ mà cơ cấu thị trường ngân hàng liên quan các vấn đề về cạnh tranh và
hiệu suất là một chủ đề nóng luôn được tranh luận sôi nổi. Các kết quả của nhiều
nghiên cứu đã dẫn đến sự tồn tại của nhiều lý thuyết tập trung ngân hàng. Chủ yếu
các lý thuyết này có thể được phân loại thành hai loại: các lý thuyết ủng hộ tập trung
(pro-concentration) và thuyết không ủng hộ tập trung (pro-deconcentration).
2.2.1 Thuyết Pro-Concentration:
Những người ủng hộ tập trung ngân hàng cho rằng nền kinh tế của quy mô sáp
nhập và mua lại ngân hàng (tức mức độ tập trung tăng) đi liền với những cải tiến hiệu
quả (Demirguc-Kunt và Levine, 2000: 1). Để củng cố quan điểm này, Boyd và Runkle
(1993) đã khảo sát 122 ngân hàng Mỹ và tìm thấy một mối quan hệ nghịch giữa kích
thước và sự biến động của lãi tài sản. Tuy nhiên, những kết quả này được dựa trên
các tình huống hợp nhất là tự nguyện.
Một số lập luận lý thuyết và so sánh các quốc gia cho rằng ngân hàng ít tập
trung hơn khi có nhiều ngân hàng nhỏ dễ bị khủng hoảng tài chính hơn là một lĩnh
vực ngân hàng tập trung với một vài ngân hàng lớn (Allen và Gale, 2000; và Beck,
Demirgüç-Kunt và Levine, 2004 ). Một nghiên cứu được thực hiện bởi Cục Nghiên
11
cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ năm 2003 thấy rằng có một sự tương quan ngược chiều
đáng kể giữa kích thước ngân hàng và thất bại ngân hàng, khi kích thước của các ngân
hàng tăng lên, số lượng thất bại ngân hàng giảm, tập trung cao dẫn đến sự ổn định
hơn trong ngành ngân hàng. Họ phát hiện ra rằng một mức độ tập trung 72% hoặc
cao hơn có tương quan trực tiếp đến ít lần xuất hiện của thất bại ngân hàng trong
phạm vi quốc gia đó. Điều này là do:
- Thứ nhất, giảm tập trung trong thị trường ngân hàng làm gia tăng cạnh
tranh giữa các ngân hàng và ngược lại, do đó các ngân hàng tập trung hơn không cần
phải chấp nhận rủi ro để tạo ra lợi nhuận, khả năng sụp đổ ngân hàng giảm đi. Bên
cạnh đó, cạnh tranh quá mức có thể tạo ra môi trường không ổn định trong lĩnh vực
ngân hàng dẫn đến hoạt động không hiệu quả.
- Thứ hai, những người ủng hộ quan điểm "tập trung - ổn định" này cho
rằng các ngân hàng lớn có thể đa dạng hóa tốt hơn. Điều này cho phép họ điều chỉnh
trong các lĩnh vực khác khi một lĩnh vực trở nên tồi tệ hơn trong thị trường. Một ngân
hàng nhỏ hơn, tập trung vào một hoặc hai lĩnh vực là rất dễ bị biến động trong trường
hợp này. Do đó hệ thống ngân hàng được đặc trưng bởi một số ngân hàng lớn sẽ có
xu hướng ít vỡ hơn hệ thống với nhiều ngân hàng nhỏ (Allen và Gale, 2003).
- Thứ ba, hệ thống ngân hàng tập trung cũng có thể tăng cường sức mạnh
thị trường để tăng cường lợi nhuận. Lợi nhuận cao cung cấp một "vùng đệm" chống
lại những cú sốc bất lợi và làm tăng điều lệ hoặc giá trị chuyển nhượng thương mại
làm tăng giá trị thương hiệu của ngân hàng. Ngoài ra, với giá trị thương hiệu cao hơn
các ngân hàng sẽ có ít động lực để chấp nhận rủi ro tài chính trong việc theo đuổi lợi
nhuận (Hellmann và cộng sự, 2000; Besanko và Thakor, 1993; Boot và Greenbaum,
1993, Matutes và Vives, 2000) và đỗ vỡ ngân hàng do đó cũng thấp hơn.
- Thứ tư, giám sát một vài ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng tập
trung sẽ dễ dàng hơn đáng kể so với theo dõi rất nhiều ngân hàng nhỏ trong hệ thống
ngân hàng lan tỏa. Vì hệ thống với các ngân hàng lớn sẽ tương tự giống nhau hơn
thay vì phải tìm hiểu hệ thống của nhiều ngân hàng nhỏ. Do đó kiểm soát doanh
12
nghiệp của các ngân hàng sẽ có hiệu quả hơn và nguy cơ lây lan ít hơn trong một hệ
thống ngân hàng tập trung (Beck, Demirguc-Kunt và Levine, 2003: 1).
- Thứ năm, huy động vốn là đầu vào để ngân hàng có khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn đầu tư, sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Nguồn vốn ổn định giúp
các ngân hàng có lợi thế trong cạnh tranh hơn. Ngân hàng không phải sử dụng nguồn
vốn trên thị trường liên ngân hàng để cấp tín dụng cho khách hàng, do vậy sẽ giảm
thiểu rủi ro thanh khoản khi nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng không ổn định
và kỳ hạn thấp. Mất khả năng thanh khoản có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng
việc mở rộng thị phần huy động vốn luôn là bài toán của các ngân hàng thương mại.
Sử dụng linh hoạt công cụ giá (lãi suất) hay các chương trình khuyến mãi hấp dẫn
cũng không thể tạo ra sự tăng trưởng đột biến và các ngân hàng thương mại cổ phần
vẫn khó có thể phân bổ lại thị phần huy động vốn một sớm một chiều. Giải pháp tối
ưu có lợi từ yếu tố cộng sinh để gia tăng thị phần huy động vốn chính là thực hiện
chiến lược M&A với ngân hàng khác. Nguyên tắc này thể hiện thị phần huy động vốn
của 2 ngân hàng sau sáp nhập sẽ lớn hơn tổng thị phần huy động riêng lẻ của mỗi
ngân hàng.
2.2.2 Thuyết Pro-Deconcentration (PD):
Kết quả từ một nghiên cứu được thực hiện bởi Chong (1991) chỉ ra rằng sự
hợp nhất ngân hàng có xu hướng làm tăng rủi ro danh mục đầu tư của ngân hàng.
Những người ủng hộ PD cũng cho rằng tập trung sẽ tăng cường sức mạnh thị trường
và ảnh hưởng chính trị của các tập đoàn tài chính, cản trở cạnh tranh và tiếp cận các
dịch vụ tài chính. Điều này làm giảm hiệu quả và mất ổn định hệ thống tài chính như
khi ngân hàng trở nên quá lớn để kỷ luật hay sử dụng ảnh hưởng của mình để hình
thành những quy định và chính sách ngân hàng (Demirguc-Kunt và Levine, 2000;
Beck, Demirgüç-Kunt và Levine, 2004; và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, 2001).
Trong hệ thống ngân hàng tập trung, các ngân hàng lớn hơn, có quan hệ chính
trị có thể sẽ dễ dàng chấp nhận rủi ro cao hơn vì họ có thể dựa vào các nhà hoạch
định chính sách giúp đỡ khi có cú sốc bất lợi làm tổn thương khả năng thanh toán
13
hoặc lợi nhuận của họ. Tương tự, các ngân hàng như vậy có thể hình thành các chính
sách và các quy định ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng theo cách giúp đỡ
các ngân hàng, nhưng không nhất thiết là giúp nền kinh tế tổng thể. Ví dụ, các ngân
hàng tập trung mạnh có thể chống lại việc cấp bảo hiểm tiền gửi hào phóng. Các ngân
hàng nhỏ hơn không được hưởng chính sách “quá lớn để sụp đổ” của hầu hết các
chính phủ trong nền kinh tế có mức độ tập trung cao. Các ngân hàng tập trung cũng
có thể tìm cách cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán bằng cách đẩy các
loại thuế cao hơn đánh vào lợi nhuận vốn và bằng cách không khuyến khích các quy
định bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ hay thúc đẩy minh bạch kế toán. Để
tăng lợi nhuận của các khách hàng lớn, các ngân hàng mạnh cũng có thể kiểm soát
thị trường bằng cách làm suy yếu luật chống độc quyền và các chính sách thúc đẩy
cạnh tranh. Hơn nữa, nếu các ngân hàng mạnh tập trung ảnh hưởng quá mức đến sự
hình thành các chính sách và quy định, điều này có thể cản trở sự toàn vẹn chính trị
và giảm tuân thủ thuế (Demirguc-Kunt và Levine, 2000: 3)
Cũng có bằng chứng cho thấy tập trung ngân hàng làm giảm nguồn cung tín
dụng: Tại Mỹ, Berger và cộng sự (1995) tìm thấy bằng chứng cho thấy sự gia tăng
trong tỷ lệ tài sản ngành ngân hàng được kiểm soát bởi các tổ chức ngân hàng lớn
nhất trong những năm 1990, do chính sách tự do hóa địa lý các ngân hàng ở Mỹ, đã
chịu trách nhiệm một phần về cuộc khủng hoảng tín dụng giai đoạn 1989-1992. Ngày
càng nhiều bằng chứng thấy sự liên kết giữa tập trung cao trong thị trường ngân hàng
và giảm cho vay đối với các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Peek và Rosengren
(1996), kết hợp dữ liệu chéo về cho vay các doanh nghiệp ở các bang New England
năm 1994 với một số thông tin về sáp nhập, tác giả thấy rằng sau khi các tổ chức ngân
hàng sáp nhập với các tổ chức nhỏ hơn, các tổ chức hợp nhất thường giảm cho vay
đối với doanh nghiệp nhỏ (doanh nghiệp đã được cho vay trước đó từ tổ chức mua).
Berger và Udell (1996) thấy rằng các ngân hàng lớn không chỉ có xu hướng giảm tỷ
lệ các khoản vay với khách hàng nhỏ, mà còn có xu hướng tính giá trung bình cao
hơn so với các ngân hàng khác với khách hàng vay nhỏ, tức các ngân hàng lớn chỉ
phát hành các khoản tín dụng có chất lượng cao hơn (Cañonero, 1997: 5).
14
Boyd và De Nicolo (2005) nhấn mạnh rằng tập trung cao hơn trong thị trường
ngân hàng địa phương, giá các dịch vụ tài chính cao hơn, và do đó lợi nhuận ngân
hàng cũng cao hơn. Điều này là do môi trường ít cạnh tranh hơn, mức lãi suất các
ngân hàng tập trung tính cho các doanh nghiệp sẽ cao hơn, điều này đặc biệt không
tốt cho các nhà đầu tư vì nó làm cho đầu tư nhiều rủi ro hơn. Nếu tập trung quan hệ
cùng chiều với các ngân hàng có sức mạnh thị trường, thì tập trung sẽ làm tăng cả tỷ
lệ lợi nhuận trên tài sản dự kiến của ngân hàng và độ lệch chuẩn của lợi nhuận (Beck,
Demirgüç-Kunt và Levine, 2004: 2). Nghĩa là tập trung thị trường cao hơn có liên
quan đến phúc lợi kinh tế xã hội thấp hơn nên tập trung cao hơn là điều không được
mong muốn. Do đó, một quốc gia như Anh (Monopolies và Mergers Commission,
1996) đã cảnh giác với một tỷ lệ tập trung là 25% hoặc hơn của thị trường ngân hàng
về tổng tài sản hoặc tiền gửi (Holden và El-Bannany, 2006).
Cuối cùng, các ngân hàng lớn thường xuyên nhận được các khoản trợ cấp
thông qua chính sách ngầm "quá lớn để sụp đổ" (khoản này các ngân hàng nhỏ không
được nhận), bảo vệ này làm tăng thêm ưu đãi mạo hiểm cho các ngân hàng lớn. Trợ
cấp nhiều hơn cho các ngân hàng lớn có thể tăng cường, khuyến khích ngân hàng
chấp nhận rủi ro hơn, do đó làm tăng sự mong manh của hệ thống ngân hàng tập trung
(Boyd và Runkle 1993; Mishkin 1999; O'Hara và Shaw 1990). Từ quan điểm này,
tập trung hệ thống ngân hàng với một vài ngân hàng lớn sẽ có xu hướng mong manh
hơn hệ thống ngân hàng lan tỏa với nhiều ngân hàng nhỏ. Một số mô hình dự đoán
"tập trung – dễ vỡ", tức tăng tập trung tăng tính mong manh dễ vỡ ngân hàng. Điều
này xảy ra khi nhà quản lý lo sợ hậu quả kinh tế vĩ mô của tiềm năng đổ vỡ các ngân
hàng lớn. Những người ủng hộ quan điểm “tập trung – dễ vỡ” không đồng ý với các
đề xuất rằng một số ngân hàng lớn là dễ dàng hơn để theo dõi hơn nhiều ngân hàng
nhỏ. Nếu kích thước tương quan thuận với độ phức tạp, thì các ngân hàng lớn còn
khó quan sát hơn so với các ngân hàng nhỏ, và do đó theo dõi khó khăn hơn. Điều
này sẽ có xu hướng tạo ra một mối quan hệ tích cực giữa tập trung và mong manh.
Theo Allen và Gale (2000), Mỹ với số lượng lớn các ngân hàng đã có một lịch sử bất
ổn tài chính lớn hơn nhiều so với Anh hay Canada, nơi mà ngành ngân hàng đang
15
chiếm ưu thế bởi ít các ngân hàng lớn.
2.2.3 Các chỉ số để tính mức độ tập trung ngân hàng:
Các chỉ số cơ bản để đánh giá mức độ tập trung của thị trường bao gồm: mức
độ tập trung (chỉ số CR – Concentration Ratio) và chỉ số Herfindahl - Hirschmann
Index (HHI).
Cách đơn giản nhất và do đó thường được sử dụng nhất là tỷ lệ tập trung ngân
hàng k. Chỉ số tập trung đánh giá mức độ tập trung thị phần liệu có rơi vào một nhóm
các ngân hàng không. Chỉ số mức độ tập trung thị phần nhóm (CR) là tổng thị phần
của một nhóm ngân hàng có thị phần lớn nhất. Nếu chỉ số CR có giá trị lớn hơn 80%
thì số lượng các định chế tài chính được lựa chọn sẽ chiếm thị phần lớn của thị trường.
Thông thường thì chỉ số CR được tính dựa trên số lượng định chế tài chính từ 3 tổ
chức trở lên tùy thuộc vào quy mô thị trường và số lượng ngân hàng hoạt động. Cách
𝑘
thức xác định chỉ số này như sau:
𝑖=0
𝐶𝑅𝒌 = ∑ Si
Trong đó si là thị phần của ngân hàng lớn thứ i trong ngành; k = 3 hoặc 5 tùy trường
hợp cần xác định CR3 hay CR5. Ví dụ, CR3 = 70% hàm ý rằng 3 ngân hàng lớn
nhất trên thị trường đã chiếm tới 70% thị phần.
Một cách khác được sử dụng rộng rãi để đo tập trung là Herfindahl-Hirschman
Index (HHI). Chỉ số HHI giúp nhận biết được mức độ cạnh tranh hoàn hảo hay độc
quyền cao của hệ thống ngân hàng. Chỉ số HHI được Bộ Tư pháp Mỹ sử dụng
để đánh giá mức độ tập trung và xu hướng mua bán - sáp nhập (M&A) giữa các ngân
hàng, được sử dụng rộng rãi như là một thiết bị sàng lọc cho vụ sáp nhập, đồng thời
là cơ sở để đánh giá mức độ độc quyền hay độc quyền nhóm của một số ngân hàng.
Theo Motta (2004) khả năng sáp nhập các doanh nghiệp để trích xuất sức mạnh thị
trường phụ thuộc vào mức độ tập trung trong thị trường. Vì vậy không chỉ có mức độ
của HHI là quan trọng mà những biến đổi của nó do sáp nhập cũng là quan trọng.
HHI được định nghĩa là tổng bình phương của thị phần của tất cả các ngân hàng; công
16
𝑛
thức:
𝑖=1
𝐻𝐻𝐼 = ∑ Si2
Trong đó n là tổng số ngân hàng và si là thị phần của ngân hàng thứ i trong
ngành.
Chỉ số HHI (hoặc Chỉ số Herfindahl) được sử dụng để đo lường quy mô của
ngân hàng trong mối tương quan với ngành và là một chỉ báo về mức độ cạnh tranh
giữa các ngân hàng trong ngành và thường và có giá trị từ 0 đến 10.000. Chỉ số HHI
nhỏ hơn mức 1.500 thể hiện mức độ cạnh tranh gay gắt giữa các định chế tài chính,
nếu nằm trong khoảng 1.500 đến 2.000 thì mức độ cạnh tranh vừa phải, và vượt mức
2.500 thì thị phần tập trung cao ở một số ngân hàng và có yếu tố độc quyền nhóm.
Khi tất cả các doanh nghiệp trong ngành đều có thị phần bằng nhau thì HHI =
1/N*10.000.
Sự khác biệt chính giữa chỉ số tỷ lệ tập trung và chỉ số HHI là HHI tính thị
phần của tất cả các ngân hàng chứ không phải là thị phần tùy chọn của k ngân hàng
lớn nhất. Bên cạnh đó, theo Marfels (1971), thị phần của các ngân hàng được sử dụng
như là tỷ trọng của nó. Điều này ngụ ý rằng một tỷ trọng lớn hơn được gắn vào các
ngân hàng với một thị phần lớn hơn. Ưu điểm chủ yếu của chỉ số HHI so với các cách
đo khác (chẳng hạn như tỷ lệ tập trung - CR) là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối với các
doanh nghiệp lớn.
2.3 Tổng quan về thất nghiệp
2.3.1 Định nghĩa thất nghiệp
Vấn đề thất nghiệp đã được nhiều tổ chức, nhiều nhà khoa học bàn luận. Người
đầu tiên nghiên cứu về thất nghiệp là William Petty. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa
trọng thương nên William Petty cho rằng để giảm bớt tình trạng thất nghiệp thì phải
đẩy mạnh xuất khẩu ra bên ngoài để thu hút lực lượng dân cư thừa trong xã hội (đây
cũng là một trong những nguyên nhân để các nước tư bản mở rộng thuộc địa).
17
Tuy nhiên Adam Smith mới là người nghiên cứu một cách có hệ thống về việc
làm và thất nghiệp, những nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Cùng với Ricardo, Adam
Smith khẳng định rằng nạn nhân khẩu thừa (tức thất nghiệp) là không thể tránh khỏi
trong nền kinh tế thị trường. Adam Smith cho rằng do việc sử dụng máy móc, sự tích
tụ tư bản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự can thiệp quá mức của
nhà nước, làm ảnh hưởng đến việc giải quyết việc làm, tăng thêm tình trạng thất
nghiệp.
Nhà kinh tế học Keynes đã nghiên cứu rất sâu về thất nghiệp trên cơ sở phân
tích cung - cầu về lao động trong thị trường và các mối quan hệ kinh tế, xã hội khác.
Keynes thừa nhận vấn đề thất nghiệp không phải là những hiện tượng độc lập của đời
sống kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc đạt được cân
bằng của hệ thống kinh tế. Theo ông, nạn thất nghiệp sẽ tồn tại dưới dạng “bắt buộc”,
là một trạng thái mà trong đó “tổng cung về lao động của những người lao động muốn
làm việc, thì tại mức tiền lương danh nghĩa đó đều lớn hơn khối lượng việc làm hiện
có”. Do thiếu cầu có khả năng thanh toán nên có nhiều người không có việc làm. Ông
định nghĩa thất nghiệp như sau: “Những người được coi là thất nghiệp bắt buộc, nếu
mỗi khi giá cả hàng hoá mua bằng tiền công tăng lên đôi chút so với tiền lương danh
nghĩa, thì tổng cung của những người lao động muốn làm việc, thì tại mức tiền công
danh nghĩa đó và tổng cầu về lao động tại mức tiền lương danh nghĩa đó đều lớn hơn
việc làm hiện có”. Từ đó ông cho rằng để giảm thất nghiệp thì cần phải tạo ra nhiều
chỗ làm việc trên cơ sở tăng đầu tư cho sản xuất. Lý thuyết của Keynes mặc dù còn
những phiến diện và hạn chế của lịch sử nhưng những luận điểm mà ông nêu ra vẫn
còn có ý nghĩa đến ngày nay.
Khi nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao, các lý thuyết về việc làm và
thất nghiệp của Keynes và các nhà kinh tế học trước đó đã tỏ ra bất lực trước tình
trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng mà các biện pháp nêu trong các lý thuyết của họ
đã không khắc phục được. Nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra những lý thuyết mới về
thất nghiệp, phân tích các nguyên nhân và các tác động kinh tế và tác động xã hội của
thất nghiệp. Một trong số các nhà kinh tế đưa ra lý thuyết mới về thất nghiệp đó là
18
Samuelson- nhà kinh tế học người Mỹ. Samuelson đã phân tích cung-cầu về lao động
để thấy rõ bản chất của thất nghiệp. Từ đó ông đã phân ra một số dạng thất nghiệp
như:
- Thất nghiệp tự nguyện: Là những người lao động có nhu cầu làm việc
nhưng lại không muốn làm việc với mức lương thịnh hành trên thị trường lúc đó.
- Thất nghiệp không tự nguyện: Là những người không có việc làm,
muốn làm việc với mức lương đang thịnh hành nhưng không thể tìm được việc làm
do cầu về lao động thấp.
- Sau khi phân tích những biến động của thị trường lao động và các biến
động của nền kinh tế, Samuelson còn phân ra 3 loại thất nghiệp, đó là:
- Thất nghiệp tạm thời: Là dạng thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác
nhau của cuộc sống. Ông cho rằng trong một nền kinh tế có đầy đủ việc làm, nhưng
vẫn có thể luôn có một bộ phận người lao động di chuyển từ nơi này sang nơi khác
do nhu cầu của cuộc sống và chưa thể có việc làm ngay.
- Thất nghiệp có tính cơ cấu: Là dạng thất nghiệp xảy ra khi có sự mất
cân đối giữa cung và cầu lao động. Trong một nền kinh tế biến động, cầu về một loại
lao động nào đó tăng lên, trong khi mức cầu về một loại lao động khác lại giảm đi,
nhưng mức cung lao động lại không được điều chỉnh đồng thời nên xảy ra tình trạng
thất nghiệp cơ cấu.
- Thất nghiệp chu kỳ: Là dạng thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung về
lao động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm, thất nghiệp sẽ tăng lên ở khắp
mọi nơi trong toàn bộ nền kinh tế. Khác với thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ
cấu, thất nghiệp chu kỳ phản ánh sự rệu rã, suy thoái của một nền kinh tế.
Trên thực tế cũng còn nhiều ý kiến khác nhau nhất là về thất nghiệp:
- Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại
một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc
làm ở mức tiền lương thịnh hành”.
19
- Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại Giơnevơ
đưa ra định
nghĩa: Thất nghiệp là người đã qua một độ tuổi xác định mà trong một ngành
hoặc một tuần xác định, thuộc những loại sau đây:
Người lao động có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị
tạm ngừng hợp đồng, đang không có việc làm và đang tìm việc làm.
Người lao động có thể đi làm trong một thời gian xác định và
đang tìm việc làm có lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trí hành nghề
cuối cùng trước đó không phải là người làm công ăn lương (ví dụ người sử dụng lao
động chẳng hạn ) hoặc đã thôi việc.
Người lao động không có việc làm và có thể đi làm ngay và đã
có sự chuẩn bị cuối cùng để làm một công việc mới vào một ngày nhất định sau một
thời kỳ đã được xác định.
Người phải nghỉ việc tạm thời hoặc không thời hạn mà không có
lương.
Các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn (tuổi, thời gian mất việc)
nhưng đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất phải có 3 đặc trưng: Có khả năng lao
động; Đang không có việc làm; Đang đi tìm việc làm.
- Định nghĩa thất nghiệp ở Việt Nam : “Thất nghiệp là những người trong
độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có việc
làm”.
- Theo ông Tite Habiyakare, chuyên gia về thống kê lao động, Tổ chức
Lao động Quốc tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khái niệm quốc tế về thất
nghiệp hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay xuất phát từ Nghị
quyết của Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế (ICLS) lần thứ 13 năm 1982. Khái
niệm này được sử dụng phần lớn các nước trên thế giới, cả ở các nền kinh tế phát
triển và đang phát triển. Theo tiêu chuẩn quốc tế, “người thất nghiệp” bao gồm những
người ở độ tuổi nhất định (chẳng hạn từ 15 tuổi trở lên) mà trong thời gian khảo sát
20
(thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó) đáp ứng tất cả 3 điều kiện:
“không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1 giờ, không làm việc làm công ăn
lương lương hoặc việc tự làm), “sẵn sàng làm việc” và “đang tìm việc”.
Như vậy, “thất nghiệp” là một thái cực trên một dải lực lượng lao động bao
gồm cả những người “thiếu việc làm” và “có việc làm”.
2.3.2 Các nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp
Hiện tượng thất nghiệp xảy ra như là quy luật của nền kinh tế nhưng việc nhận
thức và tìm hiểu những nguyên nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong giảm
thiểu tỷ lệ thất nghiệp nói riêng cũng như tạo tiền đề phát triển kinh tế nói chung. Có
thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu của thất nghiệp mà Việt Nam cũng gặp phải như ở
các nước khác:
Thất nghiệp do có sự không tương hợp (Thất nghiệp do kết cấu): diễn
ra khi có sự không tương hợp giữa kỹ năng và địa điểm mà những việc đang khuyết
người làm đòi hỏi kỹ năng và chỗ ở hiện tại của những cá nhân thất nghiệp.
- Do tính không linh hoạt của các tiền lương tương đối. Mức tiền lương tối
thiểu có khi lại giảm sút so với mức tiền lương trung bình. Mức tiền lương cứng nhắc
không tạo được điều kiện giải quyết việc làm thường đi đôi với hiện tượng các doanh
nghiệp sử dụng quỹ lương hạn chế nên xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là tất yếu.
Đáng chú ý nhất là thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường hay còn gọi là thất nghiệp
theo lý thuyết cổ điển: nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng
thị trường và cao hơn mức lương cân bằng.
- Do thiếu đào tạo nghiệp vụ. Những việc thiếu người làm thường là những
việc có những đòi hỏi về các kỹ năng đặc thù; thể hiện là sự thiếu thông tin trong việc
nhận thức đòi hỏi của thị trường lao động (cung lao động không phù hợp do có sự
mất cân đối của đào tạo với yêu cầu của công việc). Bên cạnh đó các hãng lại không
muốn đào tạo và đào tạo lại công nhân của mình vì sợ công nhân sẽ rời bỏ hãng.
- Sự phân bố không hợp lý của lực lượng lao động giữa vùng lãnh thổ cũng
như giữa các ngành, các lĩnh vực. Những lao động có kỹ năng nhất định phân phối
không tương xứng với ngành nghề thích hợp gây ra sự thiếu ở nơi này nhưng lại thừa
21
ở nơi khác.
- Sự phân biệt đối xử đối với lực lượng lao động. Một số chủ doanh nghiệp
lại không muốn thuê mướn phụ nữ, người thiểu số hay vị thành niên, đẩy số lao động
này vào tình trạng thất nghiệp trong thời gian dài ...
Thất nghiệp do cọ sát (do luân chuyển) và việc đi tìm công ăn việc làm:
là hiện tượng thất nghiệp xảy ra khi có sự luân chuyển lao động. Bởi lực lượng lao
động không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn di chuyển theo lãnh thổ cũng như giữa các
ngành các lĩnh vực.
- Kinh tế học về sự khước từ công việc làm. Một người khi gia nhập vào lực
lượng lao động không đơn giản là tìm ngay được một công việc thích hợp hay chấp
nhận một công việc mà lần đầu tìm thấy cho nên anh ta sẽ di chuyển để tìm cho mình
một công việc thích hợp và mức lương tương xứng.
- Sự điều chỉnh của Chính phủ đối với lực lượng lao động bằng hàng loạt các
chính sách về tiền lương hay đào tạo hoặc phân vùng ... đôi khi không phù hợp thường
gây ra thất nghiệp ngoài mong muốn ...
Ngoài ra, các chính sách khác của Chính phủ như: Chính sách tài khoá,
sự điều chỉnh lạm phát ... tác động ngược chiều với sự giảm của tỷ lệ thất nghiệp hay
việc đầu tư mất cân đối cũng gây ra sự dư thừa lao động trong nền kinh tế ...
2.3.3 Ảnh hưởng của thất nghiệp đến kinh tế xã hội
Thất nghiệp được coi là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Thất nghiệp
và lạm phát là hai vấn đề nan giải nhất của các quốc gia trong nền kinh tế thị trường,
có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của
từng nước. Vì vậy, chính phủ các nước thường xuyên có các đối sách để giải quyết
hai vấn đề này tuỳ thuộc vào điều kiện của mình trong từng giai đoạn. Vì vậy, cần
phân tích rõ tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế - xã hội đối với thất nghiệp và
ngược lại, ảnh hưởng của thất nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội; hạn chế những
tác động đến gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
22
Về mặt kinh tế, thất nghiệp dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng về sản lượng.
Theo định luật Okun, những thời kỳ mức thất nghiệp cao là những thời kỳ GDP thực
tế thấp hơn tiềm năng của nó. Theo Okun, cứ 1% vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
thì GDP bị giảm đi 2,5% (giả dụ, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3%, nếu tỷ lệ thất nghiệp
thực tế là 6,7% thì sự giảm GDP sẽ là 3,7% x 2,5% = 16,75%). Hay nói cách khác,
mức thất nghiệp cao đi liền với mức cao của sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất.
Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động.
Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập. Do
đó, đời sống bản thân người lao động và gia đình họ sẽ khó khăn, gây ra những tổn
hại về mặt tinh thần và sức khỏe cho người lao động, thất nghiệp “đẩy” người lao
động đến bần cùng, đến chán nản với cuộc sống, với xã hội; dẫn họ đến những sai
phạm đáng tiếc….
Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an toàn xã hội.
Đối với quốc gia, thất nghiệp là sự phí phạm nguồn nhân lực, không thúc đẩy
sự phát triển kinh tế, đồng thời dễ dẫn đến những xáo trộn về xã hội, bãi công, biểu
tình chống chính phủ, thậm chí dẫn đến biến động về chính trị.Thất nghiệp gia tăng
làm trật tự xã hội không ổn định Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm quyền
cũng bị suy giảm…Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến
động về chính trị.
2.4 Cơ sở lý thuyết về việc tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên thất
nghiệp.
Từ một quan điểm lý thuyết, tập trung hệ thống ngân hàng cao hơn có thể có
một trong hai tác động bất lợi hay thuận lợi lên trung gian tài chính và thất nghiệp.
Có hai mô hình lý thuyết có thể giúp xác định ảnh hưởng của tập trung ngân hàng
đến tỷ lệ thất nghiệp:
2.4.1 Mô hình cơ cấu - hành vi - hiệu quả (Structure-Conduct-
Performance paradigm)
23
Mô hình cạnh tranh trong kinh tế học, gọi tắt là IO (industrial organization),
được tổng quát hóa thông qua mối quan hệ giữa cơ cấu ngành (structure of industry),
vận hành hay chiến lược (conduct/straytery) của doanh nghiệp và kết quả kinh doanh
(performnce) của ngành, còn gọi là mô hình SCP (Structure-Conduct-Performance)
hay mô hình Bain-Masson. Nền tảng lý thuyết của mô hình này thường được biết đến
là giả thuyết thông đồng và các tác phẩm tiên phong của Bain (1950, 1951) được áp
dụng cho các lĩnh vực sản xuất. Mô hình này sau đó đã được Schweiger và McGee
(1961) đưa vào các ngành công nghiệp ngân hàng và đã phục vụ rất tốt cho các bài
kiểm tra thực nghiệm về tác động của thị trường tập trung vào lợi nhuận ngân hàng.
Điểm then chốt của mô hình SCP là kết quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào
cơ cấu của ngành mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau. Cơ cấu của ngành
quyết định hành vi (chiến lược kinh doanh) của doanh nghiệp và điều này sẽ dẫn đến
kết quả kinh doanh ngành. Mô hình này cũng giúp chúng ta phân tích kết quả kinh
doanh của ngành (các doanh nghiệp trong ngành) và nhận dạng tiềm năng của từng
ngành kinh doanh (các ngành khác nhau có hiệu quả kinh doanh khác nhau).
Mô hình SCP chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa ba yếu tố cấu trúc thị trường, sự
vận hành và kết quả thực hiện. Cấu trúc thị trường và sự vận hành thị trường ảnh
hưởng đến kết quả thực hiện thị trường. Ngược lại, kết quả thị trường sẽ tác động trở
lại đến cấu trúc và sự vận hành thị trường trong dài hạn. Kết quả thị trường phụ thuộc
vào sự vận hành thị trường của những người bán và người mua thông qua các chính
sách định giá, chủng loại sản phẩm, đầu tư phương tiện sản xuất. Sự vận hành thị
trường ảnh hưởng chi phối ngược lại cấu trúc thị trường bao gồm ảnh hưởng đến số
lượng và quy mô sản xuất kinh doanh của những người bán và người mua, các kênh
marketing, mức độ khác biệt hóa sản phẩm, sự tồn tại hay không của các rào cản gia
nhập và xuất ngành.
Như vậy, mô hình SCP liên kết cấu trúc và hoạt động của các ngành công
nghiệp, cơ cấu tính mức độ tập trung trên thị trường. Những hành vi của các doanh
nghiệp trong việc thiết lập giá cả, làm nghiên cứu và phát triển ... kết quả đề cập đến
24
hiệu quả của các doanh nghiệp, được xác định bởi các sức mạnh thị trường, với sức
mạnh thị trường lớn hơn ngụ ý hiệu quả thấp hơn. Mô hình này dựa trên giả thuyết
rằng cấu trúc ảnh hưởng đến hành vi (tập trung thấp hơn dẫn đến hành vi cạnh tranh
hơn của doanh nghiệp); hành vi ảnh hưởng kết quả (hành vi cạnh tranh hơn dẫn đến
ít sực mạnh thị trường, sau đó hiệu quả lớn hơn) và cấu trúc do đó ảnh hưởng kết quả
(tập trung thấp hơn dẫn tới sức mạnh thị trường thấp hơn và sau đó hiệu quả hơn).
Kết quả là, sự cạnh tranh trong lĩnh vực này có thể được đo bằng mức độ tập trung.
Một trong những phương pháp phổ biến nhất là sử dụng chỉ số Herfindahl –
Hirschman.
Các lý thuyết kinh tế xung quanh giả thuyết là các cấu trúc thị trường nhất định
có lợi cho hành vi độc quyền, và yếu tố này phổ biến ở các thị trường tập trung cao
độ, cho phép các doanh nghiệp tăng giá trên chi phí, do đó làm cho lợi nhuận bất
thường. Ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng độc quyền này là giảm cạnh tranh.
Cách tiếp cận SCP xem xét liệu một thị trường tập trung cao độ có gây ra hành vi cấu
kết giữa các ngân hàng lớn và liệu nó cải thiện hiệu suất của thị trường. Theo thuyết
Structure-Conduct-Performance, nói về cấu trúc ngân hàng ảnh hưởng đến kết quả
kinh doanh, cho thấy rằng mức độ tập trung cao hơn của ngành ngân hàng dẫn đến
lãi suất cho vay, lợi nhuận lãi biên cao hơn, giảm phúc lợi xã hội và nguồn cung cho
vay hạn chế hơn vì sự cạnh tranh giảm đi và chi phí thông đồng thấp hơn. Điều này
có thể làm giảm đầu tư, giảm tăng trưởng kinh tế và việc làm, dẫn đến làm tăng tỷ lệ
thất nghiệp, đặc biệt là khi mức lương cứng giảm (Guzman, 2000 và Smith, 1998 ).
2.4.2 Thuyết cấu trúc hiệu quả (Efficient Structure Hypothesis)
Tuy nhiên, một vài cách hiểu khác không ủng hộ giả thuyết SCP sau một thực
tế rằng các nghiên cứu hiện tại không cung cấp kết luận hoặc kết quả thực nghiệm
duy nhất. Thuyết thị trường hiệu quả hoặc cấu trúc hiệu quả trái ngược với thuyết
SCP. Theo Demsetz (1973) và Peltzman (1977) cho rằng, tập trung thị trường không
phải là sự kiện ngẫu nhiên mà là kết quả của các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả
vượt trội với thị phần lớn. Các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả do tăng kích
25
thước và do đó, với thị phần của mình họ có khả năng tạo ra lợi nhuận cao hơn, dẫn
đến sự tập trung thị trường cao hơn, điều này sẽ cho thấy tập trung dẫn đến lợi nhuận
cao hơn, trong khi trên thực tế cả hai đều gây ra bởi hiệu quả cao hơn. Các tác giả đã
cố gắng để chứng minh rằng không có mối quan hệ tồn tại giữa tập trung và khả năng
sinh lời, mà là giữa thị phần và lợi nhuận ngân hàng; không có mối quan hệ trực tiếp
giữa tập trung thị trường và cạnh tranh, và các ngành tập trung cao độ là kết quả hợp
lý của các lực lượng thị trường.
Giả thuyết EH thường được thảo luận trong hai hình thức, thuyết hiệu quả-X
và thuyết quy mô hiệu quả. Trong giả thuyết hiệu quả -X, ngân hàng hiệu quả hơn có
chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn và thị phần lớn hơn, vì họ có thể giảm thiểu chi
phí để sản xuất bất kỳ sản phẩm nào. Trong thuyết quy mô hiệu quả, một số ngân
hàng đạt được quy mô hoạt động tốt hơn và do dó giảm thiểu chi phí, lợi nhuận cao
hơn do thực tế các công ty quy mô hiệu quả hơn sản xuất gần hơn với chi phí bình
quân tối thiểu.
Như vậy, các phương pháp tiếp cận cấu trúc hiệu quả (EH) đánh giá liệu hành
vi hiệu quả của các ngân hàng lớn dẫn đến việc cải thiện hiệu suất thị trường. Theo
giả thuyết EH, một ngành công nghiệp ngân hàng tập trung hơn có thể là kết quả của
các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn giành được thị phần lớn hơn .
Theo giả thuyết này, các trung gian tài chính hoạt động hiệu quả hơn có tác
động thuận lợi với lãi suất cho vay và khả năng tiếp cận tài chính của doanh
nghiệp. Cũng tương tự vậy, Petersen và Rajan (1995) cho rằng, nếu thị trường tín
dụng được tập trung hơn, có thể có lợi cho sự phát triển kinh tế vì các ngân hàng với
sức mạnh độc quyền có động cơ lớn hơn để giả mạo và duy trì mối quan hệ lâu dài
với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ tiếp cận tín dụng. Vì họ có thể có được
thặng dư trong tương lai từ những doanh nghiệp này, họ ban đầu tính lãi vay khiêm
tốn, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp được thành lập và được tài trợ. Điều này
lần lượt có thể tạo ra việc làm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Do đó, ngân hàng tập
trung hơn có thể dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn.
26
Bảng 2.1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết có thể giúp xác định tác động của
tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
Mô hình Chiều tác động
Structure- Conduct-Performance Đồng biến
Efficient Structure Hypothesis Nghịch biến
Nguồn: tổng hợp từ tác giả
2.5 Kết quả các nghiên cứu lý thuyết
Một số kết quả nghiên cứu lý thuyết ủng hộ thuyết EH cho rằng một ngành
công nghiệp ngân hàng tập trung hơn có thể có lợi cho sự phát triển kinh tế vì các
ngân hàng với sức mạnh độc quyền có một động lực lớn hơn để giả mạo và duy trì
mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ tiếp cận tín dụng (ví
dụ Mayer, 1988 và 1990). Điều này lại có thể thúc đẩy đầu tư dài hạn và phát triển
kinh tế (theo Dewatripont và Maskin, 1995). Thật vậy, một số nghiên cứu trước đó
cho rằng một ngành công nghiệp ngân hàng tập trung có tác động tích cực vào phát
triển kinh tế ở một số nước như Italia (Cohen, 1967), Nhật Bản (Mayer, 1990), Pháp
và Đức (Gerschenkron, 1962).
Ngược lại, một số nghiên cứu ủng hộ thuyết SCP lập luận rằng ngành ngân
hàng tập trung cao làm giảm cạnh tranh, giảm hiệu quả và gây hại cho các công ty
trong quá trình tiếp cận tín dụng, làm giảm sự phát triển kinh tế (Pagano, 1993 hay
Guzman, 2000) cho thấy mức độ tập trung cao hơn dẫn đến lãi suất cho vay, lợi nhuận
lãi biên cao hơn và nguồn cung cho vay hạn chế vì sự cạnh tranh giảm đi và chi phí
thông đồng thấp hơn, làm giảm đầu tư, giảm tăng trưởng kinh tế và việc làm, điều
này làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Với những nghiên cứu lý thuyết trước đây, các tác động của một ngân hàng
tập trung nhiều hơn lên thị trường lao động có thể là có lợi hay có hại. Như các nghiên
27
cứu trước đó và những lưu ý chung của tác giả cho thấy, các hiệu ứng hệ thống ngân
hàng tập trung trên hiệu suất thị trường lao động là không rõ ràng từ một quan điểm
lý thuyết. Như vậy chúng ta sẽ xem xét hướng và độ lớn tác động của nó theo các kết
quả thực nghiệm.
2.6 Kết quả các nghiên cứu thực nghiệm
Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về tác động của tập trung ngân hàng
đến hiệu quả hoạt động của trung gian tài chính và của ngành công nghiệp phi tài
chính.
2.6.1 Tác động của tập trung ngân hàng lên chi phí của các trung gian
tài chính (lãi biên, khả năng sinh lời của ngân hàng).
Bằng cách tăng chi phí của các trung gian tài chính, tâp trung ngân hàng có
thể làm giảm đầu tư, sản lượng cân bằng, và do đó nhu cầu lao động cũng giảm. Điều
này dĩ nhiên giảm việc làm và nâng cao thất nghiệp, đặc biệt là sự có mặt của việc
tiền lương cứng giảm.
Các nước công nghiệp.
Kết quả của các nghiên cứu sau đều ủng hộ thuyết SCP: Rất nhiều nghiên cứu
thực nghiệm cho thấy rằng một hệ thống ngân hàng tập trung nhiều hơn làm tăng chi
phí trung gian và làm suy giảm tăng trưởng. Ví dụ:
Theo Corvoisier và Gropp (2002), tác giả sử dụng dữ liệu cấp quốc gia trên 10
quốc gia châu Âu trong khoảng thời gian 1993-1999, cho rằng tập trung tăng có thể
dẫn đến thông đồng và lợi suất biên cao hơn cho cả các khoản vay và nhu cầu tiền
gửi. Tác giả De Jonghe & Vennet (2008) sử dụng dữ liệu của 183 ngân hàng từ 15
nước châu Âu giai đoạn 1997-2004 đã thấy rằng các ngân hàng có thị phần lớn trên
thị trường tập trung có thể tạo ra giá thuê không cạnh tranh.
Tương tự Molyneux và Thomton (1992) nghiên cứu các yếu tố quyết định hiệu
suất ngân hàng trên 18 quốc gia châu Âu năm 1986-1989. Họ đã sử dụng một loạt
các biện pháp bao gồm cả lợi nhuận trước và sau thuế trên tổng tài sản và lợi nhuận
28
trên vốn chủ sở hữu. Nói chung, họ nhận thấy rằng tập trung thị trường có tác động
tích cực đến lợi nhuận, ngoài ra tập trung trong thị trường ngân hàng châu Âu làm
giảm chi phí thông đồng giữa các doanh nghiệp và kết quả lợi nhuận cao hơn cho tất
cả những người tham gia thị trường.
Jeon & Miller (2005), sử dụng cấp dữ liệu nhà nước ở Mỹ cho giai đoạn 1976-
2000, tác giả cho rằng tăng tập trung ngân hàng dẫn đến tăng lợi nhuận ngân hàng.
Một nghiên cứu khác trên nước Mỹ của Tregenna (2009), tác giả sử dụng dữ liệu
hàng quý cấp ngân hàng trên 644 ngân hàng giai đoạn 1994-2005, tác giả cũng tìm
thấy một mối quan hệ tích cực và rất có ý nghĩa giữa tập trung và khả năng sinh lời.
Theo Hanley, Ennew & Binks (2006), tác giả sử dụng dữ liệu của Anh trong
giai đoạn 1996-2002 cho rằng người cho vay với thị phần lớn nhất trong ngành tài
tính phí lãi suất cao hơn đáng kể cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này cho thấy
tác dụng của sức mạnh thị trường.
Tác giả Kim và cộng sự (2012) sử dụng một mẫu lớn những công ty nhỏ ở Na
Uy giai đoạn 2000-2001 cho thấy một tác động tích cực đáng kể của tập trung ngân
hàng lên các công ty lâu năm chứ không phải cho các doanh nghiệp trẻ.
Các nước đang phát triển
Hầu hết các nghiên cứu về các nước đang phát triển cũng cho thấy rằng tập
trung ngân hàng cao hơn làm tăng chi phí của các trung gian tài chính. Ví dụ:
Kết quả nghiên cứu được thực hiện bởi Sufian (2011), tác giả sử dụng dữ liệu
cấp ngân hàng và kết quả cho thấy rằng tập trung làm tăng đáng kể lợi nhuận ngân
hàng ở Hàn Quốc trong giai đoạn 1992-2003. Hay theo Aboagye và cộng sự (2008),
sử dụng dữ liệu hàng quý giai đoạn 2001-2006 tác giả cho rằng tăng tập trung ngân
hàng làm tăng đáng kể lợi nhuận lãi ròng ở Ghana.
Tovar và cộng sự (2011) sử dụng dữ liệu hàng tháng cho hệ thống ngân hàng
Columbia giai đoạn 1997-2006, tác giả thấy rằng thị trường tập trung cao hơn làm
tăng lãi suất khi hệ thống bị căng thẳng.
29
Tương tự, Martinez Peria & Mody (2004) dựa trên dữ liệu hàng quý cấp ngân
hàng từ 5 quốc gia Mỹ Latin giai đoạn 1995-2001, tác giả thấy rằng tập trung ngân
hàng làm tăng lên các chi phí hành chính.
=> Như vậy các nghiên cứu trên ủng hộ giả thuyết SCP, hai xu hướng sau ủng
hộ giả thuyết EH:
Đầu tiên, Koutsomanoli-Filippaki, Margaritis & Staikouras (2009) sử dụng dữ
liệu của 186 ngân hàng từ 10 nước ở Trung và Đông Âu giai đoạn 1998-2003, tác
giả cho rằng các ngân hàng tại các thị trường tập trung nhiều thì hiệu quả hơn, cung
cấp mức độ cạnh tranh đủ cao.
Thứ hai, Ben Naceur & Omran (2011) sử dụng dữ liệu cấp ngân hàng từ 10
nước Trung Đông và Bắc Phi, tác giả cho rằng tập trung ngân hàng cao hơn làm giảm
cả lợi nhuận lãi thuần và lợi nhuận trên tài sản trong giai đoạn 1989-2005.
Còn theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thảo và Chris Stewart, tác giả kiểm
tra 48 ngân hàng thương mại Việt qua các mẫu đầy đủ (1999-2009) và bốn phụ mẫu
(1999-2003; 2004-2009; năm NH thương mại nhà nước và 43 ngân hàng thương mại
ngoài quốc doanh). Kết quả thực nghiệm của các tác giả cho thấy ngành ngân hàng
Việt Nam ít tập trung đáng kể; Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại lớn vẫn thống
trị toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, kết quả của họ không hỗ trợ thuyết SCP hay
thuyết ES.
Các nước công nghiệp và nước đang phát triển.
Trong bài nghiên cứu của Demirgüc-Kunt & Huizinga (1999), sử dụng dữ liệu
cấp ngân hàng cho 80 quốc gia trong những năm 1988-1995, tác giả nhận thấy rằng
tập trung làm tăng lợi nhuận ngân hàng.
Demirgüc-Kunt, Laeven, & Levine (2004), sử dụng dữ liệu của hơn 1.400
ngân hàng trên toàn 72 quốc gia kỳ 1995-1999, tác giả nhận thấy rằng tập trung có
quan hệ tích cực với lãi suất biên, mối quan hệ này bị phá vỡ khi kiểm soát lạm phát
và các qui định làm cản trở cạnh tranh.
30
Evanoff và Fortier (1988) sử dụng dữ liệu của hơn 6.300 ngân hàng Mỹ trong
30 tiểu bang vào năm 1984. Họ đã kiểm tra tác động của quy định về hoạt động ngân
hàng bằng cách chia thị trường thành phần có rào cản gia nhập cao và những phần có
rào cản gia nhập thấp. Trong thị trường với thị phần rào cản gia nhập cao có tác động
mạnh đến lợi nhuận. Tuy nhiên, trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng thị
trường rào cản gia nhập thấp có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể về lợi nhuận ngân hàng.
Nhìn chung, kết quả của họ hỗ trợ thuyết ES.
Còn theo Barth và cộng sự (2004) sử dụng tiền gửi của 5 ngân hàng để tính tỷ
lệ tập trung. Ông chỉ ra rằng một mức độ tập trung cao hơn của sở hữu nhà nước có
xu hướng gắn với hiệu quả thấp hơn của ngân hàng, ít tiết kiệm và vay vốn hơn, năng
suất thấp và tăng trưởng chậm. Thị phần các khoản tiền gửi trong 5 ngân hàng lớn
nhất được tổ chức bởi các ngân hàng quốc doanh là 80% trước năm 2001 (khi họ chỉ
chiếm 10% tổng số ngân hàng tại thời điểm đó).
=>Như vậy , một mặt, ngành công nghiệp ngân hàng tập trung hơn nuôi dưỡng
mối quan hệ
lâu dài với các doanh nghiệp và do đó đầu tư lâu dài và phát triển kinh tế có
thể làm tăng việc làm, giảm thất nghiệp. Mặt khác, tập trung ngân hàng có thể có hiệu
ứng bất lợi trên thị trường lao động khi tác dụng phụ đã được chỉ ra trong các nghiên
cứu trước đây chiếm ưu thế.Tuy các kết quả có phần hỗn hợp, hầu hết các nghiên cứu
cho thấy tập trung ngân hàng làm tăng chi phí của các trung gian tài chính và như đã
nói trước đây, hiệu ứng này có thể dẫn đến tăng thất nghiệp bằng cách giảm đầu tư
và việc làm.
2.6.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của tập trung ngân
hàng lên tín dụng khả dụng.
Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tập trung ngân hàng về tính khả
tín dụng còn hỗn hợp hơn nữa. Cụ thể:
Các nước công nghiệp
31
Điều thú vị là, hầu hết các nghiên cứu ở nước công nghiệp tìm thấy tác động
thuận lợi chứ không phải là tác động xấu như:
Sử dụng một mẫu lớn của các doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ giai đoạn 1988-1989,
Petersen & Rajan (1995) chỉ ra rằng những doanh nghiệp trong thị trường tín dụng
tập trung nhiều hơn có thể tiếp cận tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn một chút.
Tương tự như vậy, kết quả nghiên cứu của Saeed & Esposito (2012) nhấn
mạnh rằng tập trung ngân hàng nới lỏng các ràng buộc về tài chính trên đầu tư cấp
công ty ở Anh trong giai đoạn 2001-2009.
Sử dụng dữ liệu của 14 quốc gia châu Âu từ 1992 tới 2005, Lee & Seol (2008),
cũng diễn giải rằng với ngành ngân hàng tập trung cao độ thì doanh nghiệp ít bị ràng
buộc tài chính hơn.
Các nước đang phát triển.
Ngược lại với các nước công nghiệp, các nghiên cứu hầu hết về nước đang
phát triển tìm thấy tác dộng ảnh hưởng xấu lên khả tín dụng. Ví dụ:
Trong bài nghiên cứu được thực hiện bởi de Castro Almeida & Jayme vào năm
2008 báo cáo rằng quá trình hợp nhất trong ngành ngân hàng Brazil giai đoạn 1995-
2004 ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động cho vay của ngân hàng, chủ yếu ở các vùng
kém phát triển của đất nước.
Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu trên 302 doanh nghiệp sản xuất
ở Ấn Độ giai đoạn 2000-2009, Saeed & Vincent (2012) diễn giải rằng tập trung ngân
hàng thắt chặt ràng buộc tài chính lên đầu tư, có thể thấy ảnh hưởng rõ ràng hơn ở
các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp phụ thuộc vào các khoản nợ ngắn hạn.
Các nước công nghiệp và nước đang phát triển.
Đầu tiên, nghiên cứu được thực hiện bởi Olivero, Li & Jeon (2011), sử dụng
dữ liệu cấp ngân hàng từ 18 nền kinh tế châu Á và Mỹ Latin (trừ hai quốc gia châu
Á, tất cả các nước còn lại là đang phát triển ), tác giả báo cáo rằng, giữa năm 1996 và
2006, kênh cho vay ngân hàng của chính sách tiền tệ đã bị suy yếu khi tập trung ngân
32
hàng tăng lên.
Trong bài nghiên cứu khác González & González (2008), sử dụng dữ liệu cấp
công ty từ 39 quốc gia chủ yếu là nước công nghiệp và tìm thấy rằng tập trung thị
trường ngân hàng mở rộng cho các doanh nghiệp tiếp cận khoản vay dài hạn trong
giai đoạn 1995-2004.
Beck, Demirgüc-Kunt & Maksimovic (2004) sử dụng dữ liệu cấp công ty từ
74 quốc gia vào cuối những năm 1990 và tác giả thấy rằng TTNH tăng trở ngại về tài
chính, ảnh hưởng lớn nhất với các doanh nghiệp nhỏ, hơn nữa mối quan hệ này chỉ
dành cho các nước có thu nhập thấp.
=>Như vậy, theo như các nguồn tín dụng có liên quan, trong khi hầu hết các
nghiên cứu về các nước công nghiệp chứng thực các giả thuyết EH, và hầu hết các
nghiên cứu về các nước đang phát triển và các nghiên cứu về cả hai loại quốc gia phát
triển và đang phát triển chứng thực cho giả thiết SCP. Ràng buộc tín dụng mạnh (yếu
hơn) có khả năng tăng (giảm) tỷ lệ thất nghiệp bởi vì chúng ảnh hưởng bất lợi (thuận
lợi) đến đầu tư, có thể làm giảm (tăng) việc làm và nhu cầu lao động.
2.6.3 Tác động của tập trung ngân hàng lên sự thành lập và tăng trưởng
doanh nghiệp
Các nước phát triển
Ba nghiên cứu sau đây tại Mỹ:
Sử dụng dữ liệu từ 1969-1976, Jackson & Thomas (1995) cho rằng: nhìn
chung, tập trung ngân hàng địa phương đã có một tác động tích cực vào việc tạo ra
doanh nghiệp. Họ cũng tìm thấy rằng tập trung ngân hàng cũng có tác động tích cực
lên tăng trưởng việc làm trong các doanh nghiệp mới và có quan hệ tiêu cực tới tăng
trưởng việc làm trong các doanh nghiệp trưởng thành.
Ngược lại, trong bài nghiên cứu được thực hiện bởi Black & Strahan vào năm
2002 sử dụng dữ liệu cấp bang của Mỹ giai đoạn 1976-1994, tác giả cho thấy bằng
chứng trên khắp các bang của Mỹ rằng các tiểu bang có thị trường ngân hàng địa
33
phương tập trung nhiều hơn có tỷ lệ thành lập công ty thấp hơn và sự tiến dần của
ngân hàng liên bang làm tăng tăng tỷ lệ tập đoàn. Các ngân hàng lớn thống trị ngành
công nghiệp tập trung ngân hàng chủ yếu cho vay vào các công ty trưởng thành và
lớn. Điều này có thể ít xuất hiện rủi ro cho họ, nhất là vì họ thường đã phát triển mối
quan hệ lâu dài với những doanh nghiệp này. Vì vậy các doanh nghiệp mới thành lập
hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít có khả năng để có thể dễ dàng tiếp cận với các
khoản vay và các khoản vay đối với họ có thể sẽ đắt hơn. Ngành ngân hàng tập trung
nhiều hơn cũng có thể gây thêm khó khăn cho họ để được biết đến. Những tác dụng
này có thể kéo theo sự sụt giảm trong thành lập doanh cũng như giảm tốc độ tăng
trưởng của các công ty trẻ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Trong khi những
doanh nghiệp này tạo ra hầu hết các công ăn việc làm mới thì các công ty lâu năm
hơn và lớn hơn tạo ra rất ít thậm chí sa thải bớt nhân công (OECD 2009). Một ngành
ngân hàng tập trung hơn có thể giảm việc làm và nâng cao tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt
bằng cách tập trung vào loại doanh nghiệp thứ hai và bỏ qua loại thứ nhất.
Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu trên 9 khu vực của Mỹ và 20
ngành sản xuất giai đoạn 1977-1988, Cetorelli (2003) cho rằng tập trung ngân hàng
hơn hàm ý các doanh nghiệp trẻ có ít lối vào thị trường hơn và tỷ lệ tạo việc làm thấp
hơn và tỷ lệ tạo công việc cao hơn cũng như ít sa thải ở các công ty lâu năm. Trong
một bài báo khác, tác giả sử liệu bao gồm 28 quốc gia OECD năm 2004, báo cáo kết
quả tương tự như nghiên cứu ở Mỹ của ông. Cụ thể, ông sử dụng dữ liệu của 27 ngành
sản xuất từ những năm 1980 và 1990, ông thấy rằng những doanh nghiệp đương
nhiệm phụ thuộc về tài chính bên ngoài nhiều hơn có một kích thước trung bình lớn
hơn nếu nó ở trong nước có ngành công nghiệp ngân hàng tập trung hơn - bằng chứng
cho thấy rằng tập trung ngân hàng có thể là rào cản để nhập cảnh trong các ngành
công nghiệp phi tài chính.
Và bài báo “Finance, investment, and growth” cũng nghiên cứu về các nước
OECD (với dữ liệu từ 27 nước công nghiệp trong giai đoạn 1970-1995) Carlin và
Mayer (2003) cho rằng tập trung ngân hàng cao hơn có liên quan với việc tăng trưởng
thấp hơn của ngành công nghiệp có vốn được tài trợ và có kỹ năng chuyên sâu. Điều
34
này cũng làm giảm việc làm và tăng tỷ lệ thất nghiệp, là bởi vì các ngành này đại diện
cho một phần quan trọng của nền kinh tế ở các nước công nghiệp
Các nước đang phát triển
Ở lĩnh vực này, không có nghiên cứu nào về các nước đang phát triển
Các nước phát triển và các nước đang phát triển
Sử dụng dữ liệu ở 41 quốc gia vào những năm 1980 và 1990, Cetorelli và
Gambera (2001) cho thấy trong khi tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên tổng thể sự
phát triển của ngành công nghiệp là tiêu cực, thì mặt khác tập trung ngân hàng thúc
đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp có tài chính dựa nhiều từ bên ngoài
bằng cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trẻ có thể tiếp cận tín dụng. Phù hợp
với nghiên cứu của Cetorelli và Gambera, Fernández, G onzález và (2010), tác giả sử
dụng dữ liệu trên 84 quốc gia giai đoạn 1980-2004, cũng cho kết quả rằng tập tập
trung ngân hàng nói chung tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Ngược lại, cũng sử dụng dữ liệu của 41 nước công nghiệp và đang phát triển
từ những năm 1980 và 1990, kết quả nghiên cứu của Claessens và Laeven (2005) cho
thấy rằng không có bằng chứng cho thấy tập trung hệ thống ngân hàng giải thích sự
phát triển ngành công nghiệp.
=>Những ghiên cứu này cũng cho ra kết quả khác nhau. Tóm lại, những nghiên
cứu về ảnh hưởng của tập tập trung ngân hàng đến hoạt động thành lập và tăng trưởng
không ưu ái cho giả thuyết SCP hơn giả thuyết EH và cũng không giải quyết một
cách rõ ràng rằng tập trung ngân hàng cao hơn tác động xấu (hoặc thuận lợi) đến tỷ
lệ thất nghiệp thông qua kênh này.
2.6.4 Tác động của tập trung ngân hàng lên thất bại ngân hàng và khủng
hoảng ngân hàng hệ thống
Các nước đang phát triển
Sử dụng dữ liệu cấp ngân hàng trên 133 nước đang phát triển trong giai đoạnh
1993-2004, Boyd, De N icolò và Loukoianova (2007) cho thấy rằng mối quan hệ
35
cùng chiều giữ tập trung ngân hàng và xác suất thất bại ngân hàng là mạnh nhất khi
ngân hàng nhà nước có thị phần khá lớn.
Các nước phát triển và các nước đang phát triển
Sử dụng một mẫu dữ liệu của khoảng 2500 các ngân hàng Mỹ trong năm 2003
và dữ liệu bảng của khoảng 2.600 ngân hàng tại 134 nước đang phát triển cho giai
đoạn 1993-2004, Boyd, De Nicolò và Jalal (2006) cho rằng rằng xác suất của các
ngân hàng thất bại là liên quan cùng chiều với tập trung ngân hàng.
Ngược lại, sử dụng dữ liệu về 69 quốc gia công nghiệp và đang phát triển giai
đoạn 1980-1997, Beck, Demirgüç-Kunt và Levine (2006, 2007) cho thấy rằng khủng
hoảng ngân hàng có hệ thống ít có khả năng xảy ra trong các nền kinh tế có hệ thống
ngân hàng tập trung hơn.
Evrensel (2008) sử dụng dữ liệu trên 79 quốc gia và 50 tập của các cuộc khủng
hoảng ngân hàng cùng kỳ 1980-1997 trong bài nghiên cứu cho thấy rằng tập trung
ngân hàng có xu hướng làm giảm nguy cơ đổ vỡ ngân hàng và khủng hoảng ngân
hàng. Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng những nước đang phát triển có cả sự tập trung
cao hơn, rủi ro đỗ vỡ ngân hàng nhiều hơn và khủng hoảng ngân hàng cao hơn.
Như vậy, tóm lại, kết quả từ những nghiên cứu này là không thuyết
phục. Trong khi người ta nghĩ rằng ngân hàng thất bại và khủng hoảng ngân hàng
nhiều hơn sẽ tăng tỷ lệ thất nghiệp, những nghiên cứu trước đây là không rõ ràng khi
cho rằng tập trung cao hơn có thể tăng hoặc giảm tỷ lệ thất nghiệp thông qua kênh
này. Trong thực tế, các kết quả từ các nghiên cứu trước đây là không thể kết luận
không chỉ với kênh này mà còn cho tất cả các kênh khác. Đối với mỗi kênh nó là
không rõ ràng khi nghĩ rằng tập trung ngân hàng cao hơn tác động tiêu cực hoặc tích
cực lên tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, các vấn đề về tập trung ngân hàng ảnh hưởng
đến tỷ lệ thất nghiệp cần phải được giải quyết theo thực nghiệm. Do đó, để xem xét
ảnh hưởng của tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên tỷ lệ thất nghiệp như thế nào,
chương 3 và chương 4 của bài nghiên cứu này, tác giả sẽ trình bày mô hình thực
nghiệm cũng như kết quả nghiên cứu tập trung ngân hàng và với mức tập trung ngân
36
hàng hiện nay đã ảnh hưởng tỷ lệ thất nghiệp ở các nước thành viên khối APEC trước,
trong và sau giai đoạn chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 1996-2014 hiện nay
ra sao.
Bảng 2.5: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm tác động của tập trung
ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp
Các nước công Các nước Các nước công Tập trung ngân
nghiệp đang phát nghiệp & các hàng tác động lên
triển nước đang phát
triển
Tích cực, ủng hộ Hỗn hợp Tích cực, ủng hộ Chi phí trung gian
thuyết SCP thuyết SCP tài chính
Tiêu cực, ủng hộ Tích cực, ủng Tiêu cực, ủng hộ Khả tín dụng
thuyết EH hộ thuyết SCP thuyết SCP
Tiêu cực, ủng hộ Không có Hỗn hợp Sự thành lập và
thuyết EH nghiên cứu tăng trưởng doanh
nghiệp
Tích cực, ủng Hỗn hợp Tích cực, ủng hộ Thất bại ngân
hộ thuyết SCP thuyết SCP hàng và khủng
hoảng ngân hàng
hệ thống
Nguồn: tổng hợp từ tác giả
37
CHƯƠNG 3:
THỰC TRẠNG TẬP TRUNG NGÂN HÀNG VÀ THẤT NGHIỆP Ở
CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN APEC
3.1 Tổng quan về APEC
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific
Economic Cooperation, viết tắt là APEC) là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm
trong khu châu Á - Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh
tế và chính trị. APEC được thành lập vào tháng 11 năm 1989. Ngày 14/11/1998, Việt
Nam cùng với Liên bang Nga và Pêru, làm thành viên chính thức của APEC. Hiện
nay, APEC gồm 21 thành viên, bao gồm tất cả các nền kinh tế lớn trong khu vực và
các nền kinh tế năng động nhất, tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Các nền kinh tế
của các thành viên APEC cho thấy sự đa dạng, phong phú của khu vực cũng như các
trình độ và phương thức phát triển khác nhau. Mặc dù giữa các nền kinh tế trong khu
vực có nhiều điểm khác biệt nhưng việc họ hợp tác được với nhau trong một diễn đàn
đã phản ánh mục đích và quyết tâm chính trị chung là thúc đẩy sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế bền vững trong khu vực và trên thế giới. Các nước đang phát
triển (ASEAN) cũng muốn tăng cường tiếng nói trong khu vực để thúc đẩy phát triển
kinh tế, nhưng không muốn làm lu mờ những cơ chế hợp tác chính trị sẵn có.
Mục tiêu hoạt động của APEC: có 3 mục tiêu
Tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực Châu Á - Thái Bình -
Dương vào năm 2020.
- Tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa hai khu vực phát triển.
- Hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật nhằm hỗ trợ lẫn nhau
phát triển, phát huy những thành tựu tích cực mà nền kinh tế của các nước trong khu
vực đã tạo ra vì lợi ích của khu vực và cả thế giới
Nguyên tắc hoạt động của APEC: Hợp tác giữa các thành viên APEC được
tiến hành theo 9 nguyên tắc sau:
- Toàn diện: Tiến trình tự do hóa và thuận lợi hóa trong APEC sẽ được
38
triển khai ở tất cả các lĩnh vực kinh tế để giải quyết tất cả các hình thức cản trở mục
tiêu lâu dài của thương mại và đầu tư tự do.
- Phối hợp với WTO: Các biện pháp áp dụng trong APEC phải phù hợp
những cam kết để đạt được ở WTO.
- Đảm bảo môi trường tương xứng giữa các thành viên trong việc thực
hiện tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, xem xét thích đáng tới mức độ tự
do hóa và thuận lợi hóa đã đạt được ở mỗi nước.
- Thực hiện chủ nghĩa khu vực mở, không phân biệt đối xử: Tự do hóa
thương mại và đầu tư trong APEC sẽ được thực hiện trên cơ sở không phân biệt đối
xử ( kể cả các nước không phải là thành viên).
- Đảm bảo sự rõ ràng công khai mọi luật lệ chính sách hiện hành tại các
nước thành viên APEC.
- Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc, chỉ có giảm, không tăng thêm các
biện pháp bảo hộ.
- Tiến trình tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư của APEC
được tất cả các nước thành viên đồng loạt triển khai, thực hiện liên tục, với những
thời gian biểu khác nhau. Mọi thành viên APEC đều bình đẳng, mọi quyết định đều
đạt tới bằng sự nhất trí chung tôn trọng quan điểm của các nước tham gia.
- Có sự linh hoạt trong việc thực hiện các vấn đề tự do hóa thương mại
và đầu tư vì trình độ phát triển kinh tế của các nước APEC khác nhau.
- Hợp tác: APEC chủ trương hợp tác kinh tế, kỹ thuật để thúc đẩy kinh
tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững
3.2 Mối quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên khối APEC
Ngay từ đầu, APEC đã tích cực theo đuổi mục tiêu tăng cường hệ thống thương
mại đa phương mở. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ nhằm huy
động có hiệu quả các nguồn lực trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, duy trì tốc
độ tăng trưởng bền vững của các nền kinh tế, đồng thời giảm bớt sự chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các thành viên, APEC cũng rất coi trọng đẩy mạnh hợp tác
kinh tế và kỹ thuật. APEC hoạt động trên nguyên tắc cùng có lợi, đồng thuận, tự
39
nguyện,
Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc là mối quan hệ phát triển
năng động và toàn diện nhất của ASEAN. Trung Quốc hiện đã trở thành đối tác
thương mại lớn nhất của ASEAN, với thương mại hai chiều đạt trên 200 tỉ USD.
ASEAN hiện là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Australia với kim
ngạch thương mại hai chiều đã tăng gấp đôi trong vòng thập kỷ qua (từ 45 tỷ USD
tăng lên 92 tỷ USD).
Trong 7 năm qua, APEC đã đóng vai trò quan trọng duy trì quá trình tự do hoá
và tạo thuận lợi hoá cho dòng chảy thương mại và đầu tư trong khu vực. Thị trường
APEC cũng đang tạo nhiều cơ hội hơn cho Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI
và gia tăng khôi lượng thương mại với các đối tác trong APEC. APEC cũng chính là
điều kiện để Việt Nam khẳng định quá trình hội nhập kinh tế đầy đủ của mình. Việt
Nam có nhiều đối tác lớn trong APEC như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên bang Nga. Thị trường APEC có tiềm năng rất lớn đối với
Việt Nam trong hiện tại và tương lai, lợi ích APEC đem lại cho Việt Nam là rất cụ
thể khi thuế thương mại giảm; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các
thị trường trong khu vực chiếm tới 60%, nguyên vật liệu cho sản xuất trong nước và
xuất khẩu nhập khẩu chính từ các nền kinh tế APEC. Ngoài ra, đây là nơi hội tụ kinh
nghiệm quản lý, công nghệ, đầu tư. Đây là khu vực đầu tư lớn nhất vào Việt Nam,
chiếm khoảng 65%. Nguồn viện trợ phát triển (ODA) quan trọng đối với Việt Nam
cũng chủ yếu đến từ các thành viên APEC. Bên cạnh đó, 75% khách du lịch tới Việt
Nam cũng là từ các thị trường châu Á-Thái Bình Dương. Trong đó có thể kể đến
những đối tác chiến lược quan trọng như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc…
Tình hình kinh tế APEC 2015 theo World bank:
Tăng trưởng kinh tế sẽ giảm nhẹ ở các nước trong khu vực các nước đang phát
triển ở Đông Á và Thái Bình Dương trong năm nay, mặc dù có những lợi ích từ việc
giảm giá dầu và sự phục hồi kinh tế vẫn tiếp tục trong các nền kinh tế phát triển.
40
Khu vực này sẽ vẫn chiếm tới một phần ba tăng trưởng toàn cầu, gấp đôi so
với tất cả các khu vực đang phát triển khác.
Các nền kinh tế đang phát triển của Đông Á được dự báo sẽ tăng trưởng 6,7%
trong năm 2015 và năm 2016, giảm nhẹ từ 6,9% trong năm 2014.
Tăng trưởng của Trung Quốc dự kiến trung bình khoảng 7% trong hai năm tới,
so với 7,4% trong năm 2014.
Tăng trưởng của các nước phát triển Đông Á còn lại dự kiến sẽ tăng 0,5%,
xuống còn 5,1% trong năm nay, chủ yếu do nhu cầu trong nước trong các nền kinh tế
lớn Đông Nam Á.
3.3 Thực trạng tập trung ngân hàng tập trung ở các nước thành viên
khối APEC
Cơ cấu của ngành ngân hàng từ lâu đã là một vấn đề quan tâm của chính sách
tập trung chủ yếu xoay quanh xu hướng tập trung và ảnh hưởng của nó lên hiệu quả
kinh tế, lợi nhuận ngân hàng, tài chính và ổn định kinh tế vĩ mô. Việc hợp nhất các
ngành công nghiệp nói chung và ngành ngân hàng nói riêng ở các quốc gia đã và đang
phổ biến rộng rãi trong nhiều thập kỷ gần đây đã dẫn đến một sự suy giảm về số lượng
các ngân hàng nhỏ. Thay đổi công nghệ và quản lý khi hợp nhất liên tục đang tiếp tục
giảm số lượng các ngân hàng nhỏ, và các ngân hàng đa quốc gia lớn sẽ đóng một vai
trò ngày càng quan trọng trong thị trường ngân hàng trong nước. Nhiều đối thủ cạnh
tranh trung bình trong nước và nước ngoài có thể làm giảm những lo ngại về những
ảnh hưởng của tập trung lên cạnh tranh nhưng tăng các vấn đề quan trọng đối với bảo
đảm chính sách an toàn và ổn định tài chính.
41
Bảng 3.1: biểu đồ thể hiện thực trạng bình quân tập trung ngân hàng của
các nước APEC
Nguồn: tổng hợp từ Excel trên số liệu tác giả thu thập với cỡ mẫu gồm 381
quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1998– 2011.
Tập trung tăng đặc biệt là trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2009.
Mức độ cũng khác nhau giữa các nước. Tập trung tài sản được tổ chức bởi ba ngân
hàng lớn nhất ở Singapore là 94,46%, tức tài sản trong lĩnh vực ngân hàng được gần
như hoàn toàn kiểm soát bởi các ngân hàng này. Tuy nhiên, tập trung tài sản được
của ba ngân hàng lớn nhất tại Nga là khá thấp ở mức 28,9%, nghĩa là tài sản trong
lĩnh vực ngân hàng rất đa dạng.
Theo các số liệu thống kê mô tả từ Statista, đến 2015, các nước phát triển với
mức độ tập trung cao nhất trong ngành ngân hàng trong khu vực là Mỹ và Nhật Bản.
Tại Mỹ, nơi các ngân hàng ‘quá lớn để sụp đổ’ khiến nền kinh tế đến bên bờ vực sụp
đổ năm 2008, các ngân hàng đã ít tập trung hơn; ba ngân hàng lớn nhất kiểm soát
khoảng 45% tổng tài sản của ngân hàng. Và trong khi mức độ tập trung của Mỹ đã
thấy giảm bớt kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính thì ở Canada tập trung không
ngừng tăng lên. Theo báo cáo của Global Financial Stability cho thấy rằng Canada là
42
một trong số ít các quốc gia mà ba ngân hàng lớn nhất - RBC, TD và Scotiabank -
kiểm soát hơn 60% của tất cả tài sản ngân hàng.
Chile và Peru được đặc trưng bởi một hệ thống ngân hàng tương đối tập trung
với số lượng nhỏ của các tổ chức. Tính đến tháng 12 năm 2012 Chile đã có 24 ngân
hàng và tổng tài sản $ 253 tỷ và Peru đã có 16 ngân hàng và tổng số tài sản của $ 80
tỷ. Một trong những khác biệt chính trong hệ thống ngân hàng là sự hiện diện và kích
thước lớn của các ngân hàng nước ngoài.
Có một xu hướng giảm của thị trường tập trung cho đến khi cuộc khủng hoảng
tài chính châu Á năm 1997 (bắt đầu từ năm 1982, khi các quy định về tài chính được
bãi bỏ làm xuất hiện các ngân hàng mới và gây ra cạnh tranh gay gắt giữa các ngân
hàng hiện có). Tập trung ngân hàng tại Hàn Quốc vẫn giảm cho đến khi cuộc khủng
hoảng tài chính châu Á năm 1997-98. Do được bãi bỏ quy định về tài chính, nó đã
tăng lên rõ rệt kể từ cuộc khủng hoảng do giảm số lượng ngân hàng, hợp nhất ngân
hàng, và tạo ra các ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng. Ngược lại, tập trung thị
trường Trung Quốc liên tục giảm từ 1994 đến 2008 do thay đổi trong chính sách của
chính phủ Trung Quốc về ngân hàng, cho phép thành lập ngân hàng nhiều hơn và
thúc đẩy cạnh tranh. Mặc dù một số vụ sáp nhập của các ngân hàng xảy ra trong
những năm gần đây, số lượng các ngân hàng mới tạo ra vẫn vượt xa số lượng ngân
hàng được mua và sáp nhập. Khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008
giảm giá trị thị trường của các ngân hàng Mỹ và phương Tây, bốn ngân hàng Trung
Quốc vẫn xếp hạng trong top 10 ngân hàng trên thế giới.
Thông qua việc chuyển đổi tài chính để đối phó cuộc khủng hoảng 1997, số
lượng các ngân hàng ở Đông Nam Á giảm tới năm 2005 do hợp nhất ngân hàng và
đóng cửa các ngân hàng nhỏ hơn và thất bại. Ví dụ, Hàn Quốc và Malaysia đã dẫn
đến cải cách ngành ngân hàng nơi củng cố vai trò trung tâm. Theo các bước sau là
Thái Lan và Philippines, nhưng ở một giai đoạn chậm mà chương trình kết hợp giữa
chính phủ và IMF đã để lại những giải pháp cho các lực lượng thị trường. Trong
Indonesia 68 ngân hàng đã đóng cửa, 33 bị quốc hữu hóa, 27 ngân hàng được tái cấp
43
vốn, 4 ngân hàng nhà nước đã được sáp nhập vào một ngân hàng quốc doanh mới và
một số ngân hàng tư nhân cũng đã được sáp nhập [3]. Tuy nhiên, việc giảm số lượng
ngân hàng không trực tiếp chuyển thành tăng hoặc giảm nồng độ [4].
Ngành ngân hàng Việt dường như có một sự tập trung cao với sự thống trị của
các ngân hàng thương mại quốc doanh. 4 ngân hàng thương mại quốc doanh chính
bao gồm Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV tài khoản cho 38% tổng số vốn
điều lệ và 49% tổng tài sản của toàn hệ thống. Kể từ khi cuộc khủng hoảng toàn cầu
gần đây, ngành ngân hàng Việt Nam đã thể hiện nhiều yếu kém, làm chậm sự phục
hồi của nền kinh tế. Kết quả là, vào ngày 01 tháng 3 năm 2012, các chiến lược cải
cách tái cấu trúc ngành ngân hàng với số lượng các ngân hàng trong nước được dự
báo sẽ giảm xuống còn khoảng 15-17 đơn vị trong năm 2017. Cụ thể:
Sau giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế Thế Giới vào cuối năm 2008, nền kinh
tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đứng trước tình thế bắt buộc
phải tiến hành tái cơ cấu ngay lập tức. Cụ thể, NHNN đã đưa ra đề án 254 “Tái cơ
cấu các TCTD trong giai đoạn 2011-2015” với mục tiêu tái cơ cấu lại toàn bộ hệ
thống các TCTD, đặc biệt trước tiên là với các ngân hàng có quy mô nhỏ hoặc đang
có vấn đề trong hoạt động. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN, tính đến tháng 9
năm 2015, hoạt động M&A giữa các NHTM Việt Nam cho dù chưa thể được tiến
hành mạnh mẽ theo đúng như kế hoạch nhưng cũng đã đạt được một số kết quả khả
quan trong việc tái cơ cấu các ngân hàng nhỏ và hoạt động yếu kém qua các thương
vụ M&A như sau:
Giai đoạn 1991-2005
Sau năm 1991, hàng loạt các NHTM cổ phần ra đời và hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam. Năm 1997 là năm có số lượng NHTM cao nhất với 84 ngân hàng. Từ năm
1998 đến năm 2001, NHNN áp dụng chương trình 3 năm củng cố hệ thống ngân hàng
và nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NH.
Do sự khó khăn của một nền kinh tế non trẻ và sự tác động mạnh mẽ của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 khiến cho nhiều NH lâm vào tình trạng khó
44
khăn, NHNN chịu áp lực phải củng cố tập trung xây dựng hệ thống NH vững mạnh.
Vì vậy, NHNN đã thực hiện chiến lược chấn chỉnh tổ chức tín dụng cổ phần, và đã
có khoảng trên 10 ngân hàng cổ phần nông thôn được củng cố bằng con đường giải
thể, rút giấy phép, sáp nhập với những NH lớn ở đô thị. Đối tượng sáp nhập: hoạt
động sáp nhập diễn ra giữa các NHTM cổ phần với nhau và giữa các NHTM Cổ phần
với các quỹ tín dụng nhân dân
Có thể kể ra một số ví dụ như:
- NH quốc tế Hà Nội mua lại NHTM Cổ phần Mekong.
- NHTM Cổ phần Phương Nam đã sáp nhập với NHTM CP Châu Phú (An
Giang), Quỹ tín dụng nhân dân Định Công (Thanh Trì - Hà Nội), NHTM Cổ phần
Đại Nam, NHTM Cổ phần Đông Á mua lại NHTM Cổ phần tứ giác Long Xuyên
- NHTM Cổ phần Thương Tín sáp nhập với NHTM Cổ phần Thạnh Thắng -
Cần Thơ.
- NHTM Cổ phần Tây Đô sáp nhập vào NHTM Cổ phần Phương Đông vào
năm 2003 nâng vốn điều lệ của NHTM Cổ phần Phương Đông lên 101 tỷ đồng.
Như vậy, hoạt động sáp nhập Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1991-2003 chủ
yếu là do NH Nhà nước chỉ định sáp nhập một số NHTM Cổ phần để cơ cấu lại tổ
chức NH sao có hiệu quả hơn, ngoài ra còn có thêm lý do ý thức tự thân của các
NHTM Cổ phần sáp nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh với 4 NHTM NN. Nhưng
nhìn chung chưa có vụ sáp nhập ngân hàng nào thực sự diễn ra.
Giai đoạn 2005-2010
Đánh dấu cho hoạt động M&A ở Việt Nam là việc Nhà nước ban hành Luật
Doanh nghiệp 2005, trong đó các khái niệm về M&A lần đầu tiên được ghi nhận
trong luật pháp Việt Nam tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động sau này.
M&A trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam giai đoạn hiện nay thực sự chỉ
diễn ra sôi động trong những năm 2006 - 2007. Tuy nhiên, các thương vụ này chủ
yếu là do NH trong nước bán cổ phần cho các tập đoàn tài chính, các quỹ đầu tư nước
ngoài và một số cổ đông chiến lược khác với hai xu hướng rõ rệt là các NH, các nhà
45
đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các NH Việt Nam. Ngoài ra, không thể bỏ qua
một xu hướng nữa là các NH lớn của Việt Nam mua cổ phần của các NH nhỏ.
Như vậy, trên thị trường M&A ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn này có những
đặc trưng sau:
- Không có một thương vụ M&A hoàn toàn mà chỉ là mua một lượng phần
trăm cổ phần nào đó, dừng lại ở mức là hợp tác, hỗ trợ, các cổ đông chiến lược. Điều
này là hiển nhiên vì các NHTM bị hạn chế tỷ lệ nắm giữ của các nhân, tổ chức nước
ngoài là 30%, mỗi một cá nhân tổ chức nước ngoài chỉ được nắm giữ tối đa 10% trừ
cổ đông chiến lược là 20%.
- Động lực của các thương vụ M&A là một quá trình tự thân, không phải do
NHNN hay bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào chỉ định, các ngân hàng đến với nhau
đơn giản để có được những lợi ích cho ngân hàng mình
- Hai xu hướng M&A rõ ràng là NH lớn nước ngoài mua cổ phần của các NH
Việt Nam, và các NH Việt Nam lớn mua cổ phần của các NH nhỏ.
Giai đoạn 2011 đến nay
Năm 2011, hoạt động M&A Ngân hàng luôn là một trong những ngành sôi
động nhất (chỉ sau thực phẩm - trong hoạt động M&A có sự tham gia của nước ngoài,
và sau dịch vụ tài chinh- trong hoạt động M&A nội địa) ( biểu đồ 1.1). Với sự tham
gia của một số quỹ đầu tư và các ngân hàng nước ngoài, một số ngân hàng Việt Nam
đã thực hiện thành công việc mua bán cổ phần của mình, giúp tăng nguồn vốn kinh
doanh và cải thiện tình hình quản trị và ứng dụng công nghệ, điển hình như:
- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
bán cho Mizuho 15% vốn tính trên số cổ phiếu đã phát hành, đang lưu hành. Khoản
đầu tư này tương đương 567,3 triệu USD, bằng 11.800 tỷ đồng, lớn nhất từ trước tới
nay trong hoạt động mua bán - sáp nhập (M&A) tại Việt Nam.
- IFC mua 10% cổ phần VietinBank với tổng giá trị lên tới 182 triệu USD là
thương vụ tiêu biểu đánh dấu hoạt động mua cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước
46
ngoài đối với các ngân hàng Việt Nam và cũng là thương vụ phát hành cổ phần có
giá trị lớn nhất trong năm.
- Commonwealth Bank of Australia đã mua thêm 25 triệu cổ phần của Ngân
hàng Quốc tế (VIB) với giá lên tới 45.000 đồng/cp; qua đó tăng tỷ lệ nắm giữ từ 15%
lên 20%.
Ngoài ra, còn các thương vụ M&A tiêu biểu khác như giữa Standard Chartered
và ACB, Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) và Techcombank, OCBC
và VPBank, Deutsche Bank và Habubank, Ngân hàng Singapore (UOB) và Ngân
hàng TMCP Phương Nam (PNB) hay Maybank và ABBank...
M&A trong nước cũng có những sự kiện đình đám có thể kể tới:
- Sáp nhập 3 ngân hàng: Ngân hàng TMCP Sài Gòn, Ngân hàng TMCP Đệ
Nhất (Ficombank) và Ngân hàng TMCP Tín nghĩa, dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với vai trò là đại diện vốn Nhà nước tại ngân
hàng mới sau sáp nhập.
- Công ty Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện - một công ty trực thuộc VNPost - đã
được sáp nhập vào Ngân hàng Liên Việt và ngân hàng này đã đổi tên thành Ngân
hàng Bưu điện Liên Việt.
Bảng 3.2: Các thương vụ M&A của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-
2015
Các ngân hàng tham gia M&A Ngân hàng sau M&A Năm
Ficombank, TinNghiaBank, SCB SCB 2011
Habubank, SHB SHB 2012
PVFC, Western Bank Pvcombank 2013
Đại Á Bank, HDBank HDBank 2013
MHB, BIDV BIDV 2015
MDB, Maritime Bank Maritime Bank 2015
PGBank, Vietinbank Vietinbank 2015
47
Sacombank, Ngân hàng Phương Nam Sacombank 2015
Nguồn: Người viết tự tổng hợp
Năm 2012 ghi dấu các cuộc sáp nhập:
- Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (HBB) vào ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà
Nội (SHB).
- Tập đoàn DOJI mua cổ phần của TienPhongBank, đạt tỷ lệ nắm giữ tối đa
20%.
Ngoài ra, còn một số NH tự tái cơ cấu như NaviBank, TrustBank,
TienphongBank và GP Bank. Theo đánh giá của các chuyên gia, tái cơ cấu ngân hàng
đạt được kết quả bước đầu sau 1 năm thực hiện. Trong đó, đáng chú ý là an toàn hệ
thống các TCTD được cải thiện rõ rệt; nguy cơ đổ vỡ hệ thống từng bước được đẩy
lùi; tài sản của Nhà nước và nhân dân được bảo đảm an toàn; tiền gửi của nhân dân
được chi trả bình thường, kể cả ở ngân hàng yếu kém. Các TCTD yếu kém có nguy
cơ đổ vỡ đã được NHNN kiểm soát chặt chẽ và từng bước được xử lý bằng các giải
pháp thích hợp nhờ đó thị trường tiền tệ dần đi vào ổn định
Năm 2013 khởi động với thương vụ VietinBank ký hợp đồng bán 20% cổ phần
cho Ngân hàng Nhật Tokyo Mitsubishi UFJ - giá trị đầu tư lên tới 743 triệu
USD. Tiếp đến có thể kể đến một số thương vụ nổi bật như:
- Thương vụ giữa IFC và Maybank với ABBank: IFC trở thành cổ đông lớn
của ABBank với tỷ lệ sở hữu 10% và Maybank tiếp tục sở hữu 20% vốn điều lệ. Với
thương vụ này vốn điều lệ của ABBank tăng từ gần 4 200 tỷ đồng lên gần 4 800 tỷ
đồng.
- Thương vụ sáp nhập WesternBank và PVFC thành NH TMCP Đại Chúng
(PVcomBank) với mức vốn điều lệ 9000 tỷ đồng
- Thương vụ DaiABank và HD Bank hợp nhất thành HD Bank với mức vốn
điều lệ tăng từ 5000 tỷ đồng lên 8100 tỷ đồng.
48
Mở màn làn sóng M&A năm 2015 là thương vụ Mekong Bank (MDB) sáp
nhập Maritime Bank. Cái được lớn nhất trong thương vụ sáp nhập giữa hai NH này
là xóa được tình trạng sở hữu chéo, khi mà Maritimebank đang nắm giữ 10,16% cổ
phần của MDB. Maritime Bank sau sáp nhập sẽ có vốn điều lệ gần 11.800 tỷ đồng
(Maritime Bank 8.000 tỷ đồng và MDB vốn 3.750 tỷ đồng), với tổng tài sản khoảng
113.000 tỷ đồng.
HDBank rất thành công khi hoán đổi cổ phiếu của DaiABank sang HDBank
1: 1. Sau đó, hệ thống công nghệ thông tin và dữ liệu khách hàng DaiABank đã được
tích hợp thành công vào HDBank sau 6 tháng kể từ khi M&A và hoạt động trên nền
tảng duy nhất là Core Banking SYMBOLS, đảm bảo tính xuyên suốt, đồng nhất, an
toàn. Mạng lưới hoạt động đã được tổ chức, sắp xếp hợp lý, đồng thời việc thay đổi
hệ thống nhận diện thương hiệu đã hoàn thành tại tất cả các đơn vị kinh doanh. Người
lao động được đảm bảo việc làm và các chế độ, tạo được sự ổn định trong hoạt động
của hệ thống NH. HDBank đang từng bước đẩy mạnh tái cấu trúc. Khi đó, cùng với
việc triển khai tái cấu trúc, HDBank duy trì tốc độ phát triển khả quan, đảm bảo mục
tiêu an toàn, bền vững. Sau sáp nhập, vốn điều lệ của HDBank đến cuối năm 2013
đạt 8.100 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 86.227 tỷ đồng, tăng 21,76%, tổng vốn huy động
đạt 76.304 tỷ đồng, tăng 25,91%, dư nợ tín dụng đạt 44.030 tỷ đồng, tăng 34,4%, tỷ
lệ an toàn vốn: 12,2%. ROA: 0,57%, ROE: 5,66%, lợi nhuận trước thuế hợp nhất sau
dự phòng 396 tỷ đồng, nợ xấu được kiểm soát ở mức an toàn. Một thương vụ sáp
nhập thu hút sự quan tâm của dư luận gần đây là việc PG Bank về với VietinBank.
Việc sáp nhập là phù hợp với chủ trương của Chính phủ và NHNN, tạo cơ hội cho
VietinBank đạt được mục tiêu trở thành ngân hàng hàng đầu về quy mô và tiềm lực
tài chính và nâng tầm mối quan hệ hợp tác chiến lược với Tập đoàn Petrolimex và
các đơn vị thành viên. Sau sáp nhập, tổng tài sản của VietinBank sẽ tăng thêm trên
25.000 tỷ đồng, vốn điều lệ tăng thêm 3.000 tỷ đồng lên trên 40.000 tỷ đồng. Chi
nhánh của VietinBank được mở rộng, trong bối cảnh việc mở mới này bị NHNN siết
chặt, VietinBank có thể khai thác mạng lưới của Petrolimex cùng các dịch vụ tài
chính đi kèm (hơn 6.200 cây xăng, trong đó 2.200 cây xăng của Petrolimex), đẩy
49
mạnh dịch vụ tài chính cho nhóm khách hàng của Petrolimex. Thế nhưng, không phải
trường hợp nào cũng có thể thành công rực rỡ như HDBank.
Trong suốt thập niên vừa qua, hệ thống tài chính Việt Nam “bùng nổ” về số
lượng, với 5 ngân hàng thương mại nhà nước, trong đó có 2 ngân hàng thương mại
đã cổ phần hóa là Vietcombank và VietinBank); 37 ngân hàng thương mại cổ phần,
trong đó có 13 ngân hàng thương mại chuyển đổi từ mô hình nông thôn lên thành thị;
40 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 5 ngân hàng
liên doanh 18 công ty tài chính; 12 công ty cho thuê tài chính; 1 quỹ tín dụng nhân
dân Trung ương. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của hệ thống chỉ đơn thuần về mặt số
lượng, không đi kèm với sự cải thiện về chất lượng. Có thể thấy, thị trường đang tồn
tại nhiều ngân hàng có quy mô nhỏ, hoạt động cầm chừng. Hoạt động trong một môi
trường có mức độ cạnh tranh cao, tất yếu sẽ dẫn đến việc một số ngân hàng phải sáp
nhập với nhau nhằm hình thành chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Vậy đây chính
là thời điểm để thị trường ngành Ngân hàng Việt Nam cơ cấu lại và có những điều
chỉnh hợp lý để hoạt động ổn định, an toàn và phát triển hơn.
50
3.4 Thực trạng thất nghiệp ở các quốc gia thành viên APEC
6
5
4
3
2
1
0
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013
Trung binh 4.82 4.82 5.5 5.69 5.315 5.34 5.54 5.58 5.32 4.9 4.66 4.33 4.4555.435 5.09 4.74 4.54 4.49
Bảng 3.3: Thực trạng tình hình thất nghiệp ở các quốc gia thành viên APEC:
Nguồn: tổng hợp từ Excel trên số liệu tác giả thu thập với cỡ mẫu gồm 381
quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014
Những năm thất nghiệp tăng cao là 1998, 2003, 2009 tương ứng là hệ quả của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, khủng hoảng tà chính 2008 và năm kinh tế
thế gới ảm đạm 2001 bắt nguồn từ vụ tấn công khủng bố 11/9, và scandal kiểm toán,
cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ trong 3 năm từ 2001 tới 2003 không chỉ ảnh hưởng lớn
đến kinh tế Mỹ, mà còn tới nhiều quốc gia khác. Khủng hoảng tài chính châu Á 1997
đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn
đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998.
Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Một số
nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu
giảm và do FDI vào giảm.
Trong những năm đầu của cuộc khủng hoảng tài chính 2008, khu vực
Đông Á – Thái Bình Dương lại là điểm sáng khi đóng góp tới 40% tăng trưởng
GDP thế giới. Những nền kinh tế châu Á, như Nhật Bản, Singapore hay Hong Kong
51
(Trung Quốc) cũng thoát khỏi suy thoái tương đối sớm. Sau giai đoạn khủng hoảng,
tỷ lệ thất nghiệp tương đối giảm nhẹ vì hầu hết các nước đều cố gắng đối phó khi
các chính phủ thực hiện đồng bộ 2 công cụ chính sách tài khoá và tiền tệ. Một mặt,
kích thích tiêu dùng; mặt khác, giảm bớt khó khăn, giảm chi phí và giá thành cho
các doanh nghiệp. Đồng thời, trên thị trường tài chính, tập trung vào hỗ trợ và củng
cố lại các định chế tài chính đã bị tổn thất do khủng hoảng tài chính gây ra như phối
hợp giảm lãi suất, bơm mạnh cung tiền, cứu trợ trực tiếp các ngân hàng và tổ chức
tài chính nhằm tạo việc làm, giảm nhẹ tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng đối
với người thu nhập thấp; kích thích đầu tư và tiêu dùng để phục hồi tăng trưởng
kinh tế. Tiêu biểu là Luật tái đầu tư và phục hồi Mỹ (ARRA) năm 2009, “chính sách
kinh tế - xã hội mới” của chính phủ Hàn Quốc, gói kích thích tài chính trị giá 4000
tỷ của Trung Quốc. Các nước ASEAN chưa chịu tác động trực tiếp, nhưng khủng
hoảng tài chính đã làm bộc lộ điểm yếu của các nước này là lệ thuộc nhiều vào thị
trường xuất khẩu (Mỹ, châu Âu) và chưa thực sự chú trọng thị trường trong nước.
Vì vậy, các biện pháp kích thích của các nước đều hướng vào kích thích nhu cầu
trong nước; giải quyết việc làm, tăng cường đổi mới và nâng cao năng lực cạnh
tranh (Singapo: 13,7 tỷ USD, Thái Lan: 8,7 tỷ USD, Inđônêxia: 6,3 tỷ USD, Philipin
6,3 tỷ USD..). Tỷ lệ thất nghiệp tại Indonesia và Philippines giảm rõ rệt nhờ những
tiến bộ trong tăng trưởng việc làm. Thậm chí ngay cả Thái Lan, quốc gia bị ảnh hưởng
nặng nề bởi lũ lụt năm 2011, tiền lương và tỷ lệ việc làm cũng tăng mạnh.
Theo WEF, tình hình việc làm đã được cải thiện ở Mỹ và Nhật Bản tuy nhiên
ở một số nước tăng trưởng giảm sút khiến cho tình trạng thất nghiệp vẫn ở mức cao
đặc biệt với những người trẻ tuổi đang nản lòng bởi các xu hướng lương không còn
phù hợp với sự cải thiện chung trong trình độ học vấn. Các nước phải đối mặt với
thanh niên có thất nghiệp cao hoặc tăng nhanh; đặc biệt dễ bị tổn thương đến bất ổn
xã hội.
52
CHƯƠNG 4:
PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Mô hình thực nghiệm
4.1.1. Các biến độc lập và phụ thuộc được sử dụng trong mô hình
Biến phụ thuộc
Theo ILO, tỷ lệ thất nghiệp (UR) là tỷ lệ người không có việc làm trên tổng
lực lượng lao động.
Biến độc lập
- Tập trung ngân hàng (BC): Phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây,
biến ‘tập trung ngân hàng’ được tính bằng tỷ trọng tài sản của ba ngân hàng lớn nhất
trong tổng tài sản hệ thống ngân hàng, ngoại trừ ngân hàng trung ương.
- Biến Tín dụng ngân hàng (BCre): Định nghĩa: giá trị của tín dụng tiền
gửi ngân hàng cho khu vực tư. Ngân hàng tiền gửi bao gồm tất cả các tổ chức tài
chính (không bao gồm các ngân hàng trung ương) có trách nhiệm trong hình thức
tiền gửi có thể sử dụng trong thanh toán. Tác giả dùng biến ‘tín dụng ngân hàng’ để
kiểm soát tác động của hoạt động hệ thống ngân hàng. Nó đo hoạt động chính của
các ngân hàng là cung cấp các khoản vay.
- Biến Quy tắc thị trường tín dụng (CMR): Định nghĩa: chỉ số 'Quy tắc
thị trường tín dụng' của Tự Do Kinh Tế Thế Giới (EFW), có giá trị từ 0 (hạn chế tối
thiểu) và 1 (hạn chế nhất). Chỉ số bao gồm các khía cạnh sau: tỷ lệ tiền gửi ngân
hàng tại các ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân, tỷ lệ giấy phép ngân hàng nước ngoài
bị từ chối, tỷ lệ tài sản ngân hàng nước ngoài trên tổng tài sản ngành ngân hàng, tỷ
lệ tín dụng trong nước của khu vực tư nhân, mức độ điều khiển lãi suất. Tác giả
kiểm soát tác động của quy tắc thị trường tín dụng vì hai lý do. Đầu tiên, một số lý
thuyết và nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng quy định chặt chẽ hơn có thể làm
tăng tỷ lệ thất nghiệp (ví dụ, Acemoglu, 2001; Feldmann, 2006, 2012a). Thứ hai, vì
sự nghiêm minh của các chế tài điều tiết thị trường tín dụng có thể ảnh hưởng đến
mức độ tập trung ngân hàng, cần phải đảm bảo rằng ‘tập trung ngân hàng’ không
53
làm đại diện cho nó.
- Biến Thương lượng tập trung (CCB): Định nghĩa: chỉ số 'thương lượng
tập trung tập thể' của EFW, có giá trị từ 0 (tập trung ít nhất) và 1 (tập trung nhiều
nhất). Lý thuyết kinh tế lao động cho thấy rằng các tổ chức cứng nhắc hơn bình
thường làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Ví dụ, thương lượng tập trung có khả năng tăng
cường sức mạnh đoàn, dẫn đến việc tăng lương và cơ cấu lương quá mức, cả hai lần
lượt làm tăng thất nghiệp (Calmfors, 1993; McHugh, 2002).
- Biến dòng vốn FDI vào và ra (FDIin, FDIout): Định nghĩa: Dòng vốn
ròng đầu tư trực tiếp (vào, ra) nước ngoài. Tác giả kiểm soát tác động của FDI, cả
dòng vốn ròng vào và ra. Trong khi đó, dòng vốn ròng vào thường được dự kiến sẽ
giảm tỷ lệ thất nghiệp, dòng vốn ròng đi ra có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực
lên thị trường lao động (ví dụ, Blomstrom, Fors, & Lipsey, 1997; Lipsey, Sjöholm,
& Sun, 2010).
- Biến GDP bình quân đầu người (GDPCa): Định nghĩa: Tổng sản phẩm
quốc gia bình quân đầu người, quy đổi theo tỷ giá ngang giá sức mua. Tác giả cũng
sử dụng ‘GDP bình quân đầu người’ trong tất cả các mô hình hồi quy vì hai lý
do. Đầu tiên, do sự khác biệt rất lớn trong phát triển kinh tế và tác động tiềm năng
của nó đối với tình trạng thất nghiệp. Thứ hai, để đảm bảo rằng ‘tập trung ngân
hàng’ không làm đại diện cho trình độ phát triển kinh tế. Lý do sau quan trọng vì
mức độ tập trung hệ thống ngân hàng có thể liên kết một cách hệ thống với mức độ
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong mẫu của tác giả, hệ số tương quan giữa hai biến
là nhỏ và không có ý nghĩa thống kê.
- Biến tỷ lệ thuế thu nhập biên (Itax): Định nghĩa: chỉ số 'Thuế suất cận
biên' của EFW có giá trị giữa 0 và 1, với giá trị cao hơn cho thấy mức thu nhập biên
và thuế suất biên cao hơn. Thuế lao động cao hơn làm tăng thất nghiệp vì làm tăng
chi phí tiền lương và giảm lương ròng của nhân viên.
- Biến tỷ lệ lạm phát (INF): Định nghĩa: Thay đổi hàng năm của chỉ số
giá tiêu dùng. Tỷ lệ lạm phát cao làm sai lệch tín hiệu giá và giá tương đối, cản trở
việc phân bổ hiệu quả nguồn lực. Hơn nữa, khi đánh thuế lợi nhuận chủ yếu trên cơ
54
sở danh nghĩa, thu thuần thực sự của doanh nghiệp từ đầu tư giảm trong môi trường
lạm phát. Vì vậy, đầu tư và tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm trong dài hạn, tỷ
lệ thất nghiệp tăng. Ngoài ra, nếu tiền lương cứng danh nghĩa giảm, lạm phát có thể
theo sự xuất hiện của những cú sốc, tạo thuận lợi điều chỉnh tiền lương thực tế, giảm
thất nghiệp. Thật vậy, có bằng chứng cho mối quan hệ qua lại vĩnh viễn giữa lạm
phát và thất nghiệp: tỷ lệ lạm phát vừa phải tại Hoa Kỳ (Akerlof, Dickens và Perry,
1996, 2000; Groshen & Chweitzer, 1999) và các nước công nghiệp khác
(Wyplosz, 2001). Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu trên diện mẫu rộng
của các nước công nghiệp và đang phát triển, Feldmann (2010) thấy rằng lạm phát
cao có tương quan với thất nghiệp ít.
- Biến Chênh lệch sản lượng (Ogap): Định nghĩa: Sự khác biệt giữa GDP
thực tế và GDP tiềm năng. GDP tiềm năng được tính bằng cách tính toán xu hướng
thành phần của GDP, sau đó thu được bằng cách sử dụng lọc Hodrick-Prescott (λ=
6.25). Bởi vì thất nghiệp chịu tác động mạnh bởi các điều kiện theo chu kỳ, nên tác
giả sử dụng các biến chênh lệch sản lượng.
- Biến mở cửa (Open): Định nghĩa: Tỷ lệ xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ trong GDP. Tác giả bổ sung kiểm soát các tác động của mở cửa
thương mại vì: Một mặt, sự cởi mở hơn trong thương mại có thể dẫn đến phân bổ
lao động quốc tế hiệu quả hơn, giảm tỷ lệ thất nghiệp (Grossman & Rossi-Hansberg,
2008; Felbermayr, Prat, & Schmerer, 2011). Mặt khác, do sự cạnh tranh nhập khẩu
khó khăn hơn, hay tác động bất lợi cho những công nhân có tay nghề thấp, có thể
làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, ít nhất là trong giai đoạn chuyển tiếp (OECD 2007).
- Biến nhân khẩu học (0-14; 65+): Định nghĩa: Tỷ lệ dân số trong độ tuổi
từ 0-14 và từ 65 tuổi trở lên trong tổng số dân số. Tác giả bổ sung sử dụng hai biến
nhân khẩu học, đo tỷ trọng người trẻ và già trong dân số. Tỷ trọng khác nhau trong
mẫu của tác giả, tỷ trọng của một trong hai độ tuổi già hay trẻ đều có thể làm tăng
tỷ lệ thất nghiệp bởi vì cả hai nhóm này thường có nhiều khó khăn khi tìm việc làm.
- Biến Lãi suất thực tế (RIR) : Định nghĩa: Lãi suất cho vay được điều
chỉnh theo lạm phát được đo bằng chỉ số giảm phát GDP. Tác giả kiểm soát tác động
55
của lãi suất thực vì lãi suất thực tăng làm giảm đầu tư và nhu cầu lao động, tăng tỷ
lệ thất nghiệp. Thật vậy, có bằng chứng thực nghiệm cho cả nước công nghiệp và
đang phát triển rằng lãi suất thực tế cao hơn làm tăng tỷ lệ thất nghiệp (Ví
dụ, Feldmann, 2012b; Fitoussi, Jestaz, Phelps, & Zoega, 2000 )..
- Biến Hoạt động thị trường chứng khoán (SMA): Định nghĩa: Giá trị
của cổ phiếu được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán trong nước.
- Biến Căng thẳng sắc tộc (ET): Định nghĩa: thành phần ‘căng thẳng sắc
tộc’ của International Country Risk Guide, cho thấy mức độ căng thẳng trong một
quốc gia do bộ phận chủng tộc, quốc tịch, hoặc ngôn ngữ. Thang đánh giá nằm trong
khoảng 0-1. Xếp hạng cao hơn khi quốc gia có căng thẳng chủng tộc và quốc tịch
rất cao vì các nhóm đối lập cố chấp và không sẵn sàng thỏa hiệp. Xếp hạng thấp hơn
được trao cho các quốc gia mà căng thẳng là tối thiểu, mặc dù sự khác biệt như vậy
vẫn có thể tồn tại. Trong một nghiên cứu trước, tác giả sử dụng một mẫu lớn của
các nước công nghiệp và đang phát triển, kết quả cho rằng phân chia sắc tộc làm gia
tăng thất nghiệp, có thể là do việc phân chia căng thẳng làm giảm hiệu quả của thị
trường lao động ( Feldmann, 2012c ).
Trong mẫu của tác giả không thấy trong năm biến kiểm soát lĩnh vực tài chính có
tương quan với ‘tập trung ngân hàng’. Thay vào đó, hệ số tương quan giữa biến này
có kích thước nhỏ tuyệt đối và không đáng kể về mặt thống kê.
56
Bảng 4.1: Tổng hợp các nghiên cứu về các biến kiểm soát ảnh hưởng tỷ lệ
thất nghiệp dùng trong mô hình thực nghiệm.
Biến Chiều tác động Tác giả
(Mwalungo, 2011), (Miguel Ángel, Francisco, Bcre Ngược chiều
Victor Hugo, 2014), (Lorenzo và cộng sự, 2010)
Cùng chiều (Jason và cộng sự, 2015)
(Acemoglu, 2011), (Feldmann, 2006) CMR Cùng chiều
(McHugh, 2002), (Calmfors,1999) BBC Cùng chiều
(Feldmann, 2012c). ET Cùng chiều
(Lipsey, Sjöholm, & Sun, 2010). FDIout Cùng chiều
(Blomström, Fors & Lipsey, 1997), (Lipsey, Ngược chiều
Eric, Magnus Blom, 2002)
(Rahman-2013), (Ali, Maryam, 2011) GDPCa Ngược chiều
(Boeri & van Ours, 2008), (Daveri & Tabellini, Itax Cùng chiều
2000).
(Miguel Ángel, Francisco & Victor Hugo, 2014) INF Cùng chiều
(Akerlof, Dickens & Perry, 1996, 2000), (Groshen Ngược chiều
& Schweitzer, 1999), (Wyplosz, 2001), (Akerlof,
Dickens, & Perry, 1996), (Akerlof, Dickens &
Perry, 2000), (Groshen & Schweitzer, 1999),
(Wyplosz, C. - 2001), (Feldmann, 2010).
(Grossman, & Rossi-Hansberg, 2008), Open Ngược chiều
(Felbermayr, Prat & Schmerer, 2011).
57
OECD, 2007 Cùng chiều
Labor Force Statistics from the Current Population 0-14, 65+ Cùng chiều
Survey, (Douglas & William, 1989)
(Feldmann, 2012b), (Fitoussi và cộng sự, 2000). RIR Cùng chiều
(Farzad Farsio, Shokoofeh Fazel - 2013), (Jesús & SMA Ngược chiều
AbderrahimTaamouti, 2011)
Nguồn tổng hợp từ tác giả
4.1.2 Mô hình thực nghiệm
Trong bài nghiên cứu “Banking system concentration and unemployment in
developing countries” của Horst Feldmann thực hiện năm 2015 nghiên cứu tập trung
ngân hàng ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng thất nghiệp của các quốc gia đang
phát triển thông qua các mối quan hệ dựa vào các nghiên cứu trước đây. Rất phù hợp
với mục tiêu nghiên cứu trong luận văn nên tác giả đã dựa vào 3 mô hình tiến hành
kiểm định: mô hình tác động cố định (Fixed effects model) FEM, kiểm định các mối
quan hệ bằng cách áp dụng phương pháp hồi quy tuyến tính cổ điển OLS (phương
pháp bình phương tối thiểu) để ước lượng đối chiếu, sử dụng biến công cụ (Istrument
variable) để giải quyết hiện tượng nội sinh do biến trễ (tác giả sử dụng mô hình dữ
liệu bảng động - Dynamic Panel Data) thông qua phương pháp hồi quy 2 giai đoạn
(Two Stage Least Square – 2SLS) và phương pháp moment tổng quát (Generalized
Least Square - GMM) cho bộ dữ liệu được thu thập trong mô hình tiến hành nghiên
cứu thực nghiệm tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp ở các
quốc gia thành viên APEC.
Mô hình hồi quy hai giai đoạn như sau:
Bước hai:
𝑼𝒊,𝒕 = 𝜷𝟏𝑩𝒊,𝒕 + 𝜷𝟐𝑿𝒊,𝒕 + 𝜶𝒊 + 𝝀𝒕 + 𝜺𝒊,𝒕
Bước một:
58
𝑠
+ 𝜷𝟒𝑿𝒊,𝒕 + 𝜸𝒊 + 𝜿𝒕 + 𝜼𝒊,𝒕
𝑠=1
𝑩𝒊,𝒕 = ∑ 𝜷𝟑(𝑩𝒊,𝒕−𝒔 − 𝑩𝒊,𝒕−𝒔−𝟏)
Trong đó:
𝑼𝒊,𝒕: là biến phụ thuộc thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của nước i vào năm thứ t,
được đo lường theo tiêu chuẩn quốc tế: bằng tỷ lệ số người không có việc làm trên
tổng lực lượng lao động
B là biến độc lập nhằm xem xét cường độ tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến
tỷ lệ thất nghiệp như thế nào, được đo lường bằng tỷ trọng tài sản của ba ngân hàng
lớn nhất trong tổng tài sản hệ thống ngân hàng.
X là vector các biến kiểm soát (như đã trình bày ở phần biến phụ thuộc ở trên
trừ biến tập trung ngân hàng).
Quốc gia cố định những ảnh hưởng trong hồi quy giai đoạn hai và giai đoạn
đầu tiên tương ứng là 𝜶𝒊 và 𝜸𝒊, nhằm kiểm soát đối với các tác động của các đặc điểm
quốc gia cụ thể mà không quan sát được.
Năm cố định những ảnh hưởng tương ứng với giai đoạn hai và giai đoạn đầu
tiên là 𝝀𝒕 và 𝜿𝒕, nhằm kiểm soát các tác động của các cú sốc được phổ biến trên khắp
nước. Và sai số tương ứng là 𝜺𝒊,𝒕 và 𝜼𝒊,𝒕
Tác giả dùng biến 'tập trung ngân hàng’ để trích xuất các thành phần ngoại
sinh. Các công cụ được lùi lại so với biến công cụ ba năm trước. Chênh lệch độ trễ
của các biến công cụ đã được kiểm định là hợp lệ.
4.2 Ưu điểm phương pháp nghiên cứu.
Ưu điểm của mô hình GMM so với mô hình ước lượng biến công cụ đó là
mô hình GMM dễ dàng chọn các biến công cụ hơn bởi vì sử dụng các biến ngoại sinh
ở khoảng thời gian khác hoặc lấy độ trễ của các biến có thể sử dụng như biến công
cụ cho các biến nội sinh tại thời điểm hiện tại. Do đó, GMM đã đưa ra nhiều biến
công cụ để có thể dễ dàng đạt được điều kiện của một biến công cụ chuẩn
(Overidentification of Estimators). Hơn nữa, ước lượng Arellano và Bond còn phù
59
hợp với các dữ liệu bảng ngắn; do đó, phương pháp GMM được giới thiệu bởi
Arellano và Bond (1991) sẽ dược sử dụng.
Các ưu điểm của dữ liệu bảng so với dữ liệu theo chuỗi thời gian và không
gian, theo Baltagi:
- Vì dữ liệu bảng liên quan đến các cá nhân, doanh nghiệp, tiểu bang, đất
nước, v.v… theo thời gian, nên nhất định phải có tính dị biệt (không đồng nhất) trong
các đơn vị này. Kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng có thể chính thức xem xét đến tính
dị biệt đó bằng cách xem xét các biến số có tính đặc thù theo từng cá nhân, được trình
bày ngay sau đây. Ta sử dụng thuật ngữ cá nhân theo ý nghĩa chung bao gồm các đơn
vị vi mô như các cá nhân, các doanh nghiệp, tiểu bang, và đất nước.
- Thông qua kết hợp các chuỗi theo thời gian của các quan sát theo không
gian, dữ liệu bảng cung cấp “những dữ liệu có nhiều thông tin hơn, đa dạng hơn, ít
cộng tuyến hơn giữa các biến số, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả hơn.
- Thông qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại, dữ liệu bảng
phù hợp hơn để nghiên cứu tính động của thay đổi. Tình trạng thất nghiệp, luân
chuyển công việc, và tính lưu chuyển lao động sẽ được nghiên cứu tốt hơn với dữ
liệu bảng.
- Dữ liệu bảng có thể phát hiện và đo lường tốt hơn những ảnh hưởng mà
không thể quan sát trong dữ liệu chuỗi thời gian thuần túy hay dữ liệu chéo theo
không gian thuần túy. Ví dụ, ảnh hưởng của luật tiền lương tối thiểu đối với việc làm
và thu nhập có thể được nghiên cứu tốt hơn nếu chúng ta xem xét các đợt gia tăng
tiền lương tối thiểu liên tiếp nhau trong mức lương tối thiểu của liên bang và (hoặc)
tiểu bang.
- Dữ liệu bảng giúp ta nghiên cứu những mô hình hành vi phức tạp hơn. Ví
dụ, các hiện tượng như lợi thế kinh tế theo qui mô và thay đổi kỹ thuật có thể được
xem xét thông qua dữ liệu bảng tốt hơn so với dữ liệu theo chuỗi thời gian thuần túy
hay theo không gian thuần túy.
- Bằng cách thu thập những số liệu có sẵn cho vài nghìn đơn vị, dữ liệu bảng
có thể tối thiểu hóa sự thiên lệch có thể xảy ra nếu ta tổng hợp các cá nhân hay các
60
doanh nghiệp thành số liệu tổng.
Nói vắn tắt, dữ liệu bảng có thể giúp chúng ta phân tích thực nghiệm theo
những cách thức mà không chắc có thể đạt được nếu ta chỉ sử dụng các dữ liệu theo
chuỗi thời gian hay không gian thuần túy.
4.3 Dữ liệu và mẫu quan sát
4.3.1 Thu thập và xử lý dữ liệu
Dựa vào mô hình được trình bày ở phần 4.1.2, tác giả tiến hành thu thập dữ
liệu phục vụ cho việc ước tính kết quả nghiên cứu cho phần 4.4. Bài nghiên cứu được
thực hiện trên các quốc gia là thành viên của tổ chức APEC và giai đoạn nghiên cứu
là từ năm 1996 đến năm 2014. Dữ liệu thống kê trong bài được thu thập và tổng hợp
để tính toán các biến độc lập và biến phụ thuộc trong hai mô hình thực nghiệm được
lấy từ IMF, ILO và World Bank. Dữ liệu trong bài nghiên cứu là dạng dữ liệu bảng
động (Dynamic panel data). Cụ thể:
Bảng 4.2 : Nguồn dữ liệu
Biến quan sát Nguồn
BC, BCre, SMA Beck và cộng sự (2012)
BBC, CMR, Itax, RIT Gwartney và Lawson (2009)
PRS Group (2009) ET
FDIin, FDIout, GDPCa, INF, Open, World Bank
Ogap, 0-14, 65+, RIR,
ILO, World Bank UR
Nguồn: tổng hợp từ tác giả
Trong quá trình thu thập dữ liệu, các quốc gia không đủ dữ liệu sẽ được loại
bỏ (Đài Loan). Do đó, sau khi giới hạn lại, mẫu của bài nghiên cứu còn lại 20 quốc
61
gia tương đương 381 quan sát. Dữ liệu thất nghiệp tác giả lấy từ chỉ số cơ bản của
ILO (2009). Được dựa trên các cuộc điều tra lực lượng lao động và do đó không đề
cập đến tỷ lệ thất nghiệp đã đăng ký. Thay vào đó chúng được dựa trên một tiêu chuẩn
quốc tế để xác định những người thất nghiệp là tất cả những người ở trên một độ tuổi
cụ thể, trong thời gian tham khảo, hiện đang sẵn sàng cho công việc nhưng không có
việc làm, và đang tìm việc làm. Mặc dù bảo hiểm thất nghiệp ở các quốc gia có thể
khác nhau vì nó liên quan đến các yếu tố như giới hạn độ tuổi và tiêu chí tìm việc
làm, ILO đã thực hiện nỗ lực rất lớn để có thể so sánh giữa các quốc gia. Ví dụ, đối
với giới hạn tuổi, gần như tất cả các quốc gia trình bày trong bài này đề cập đến nhóm
15 tuổi trở lên. Hơn nữa, ILO đã 'làm sạch' tất cả các chuỗi thời gian quốc gia để loại
bỏ vi phạm trong chuỗi. Do đó những dữ liệu có thể so sánh theo thời gian. Mặc dù
số liệu thất nghiệp của ILO không hoàn toàn hài hòa giữa các nước, nhưng nó hài hòa
hóa đến một mức độ lớn.
Trong bài nghiên cứu của Horst Feldmann, mô hình kiểm định các yếu tố tác
động đến thất nghiệp có sử dụng biến Quy tắc giao dịch vốn được thu thập theo tính
toán của Ostry. Tuy nhiên, do điều kiện dữ liệu của các nước APEC chưa thể tiến
hành tính toán như vậy nên tác giả loại biến này khỏi mô hình thực nghiệm của mình.
Các biến luật bảo vệ lao động, lương tối thiểu, quy tắc thị trường sản phầm, trợ cấp
thất nghiệp, chiến tranh khi đưa vào mô hình hồi quy thì số quan sát rất thấp nên tác
giả cũng loại các biến này khỏi mô hình.
4.3.2 Sự phù hợp của kích thước mẫu
Mẫu của bài nghiên cứu 21 quốc gia, giai đoạn 19 năm 1996 – 2014, tương
đương 381 quan sát với dữ liêụ bảng. Theo Baltagi dữ liệu này chưa là macro panel
data, tuy nhiên mẫu với 381 quan sát là một cỡ mẫu lớn đối với hàm hồi quy trong
thống kê. Do đó kết quả nghiên cứu từ mô hình hồi quy có thể chấp nhận được về độ
tin cậy. Hơn nữa, thời gian kiểm tra bao gồm các cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu gần đây, kết quả của nghiên cứu này có thể cung cấp một cái nhìn toàn diện về
tình hình thất nghiệp, tập trung ngân hàng của các quốc gia trong khu vực này.
62
Dựa vào mô hình của Horst Feldmann được trình bày ở trên cùng với bộ dữ
liệu được thu thập cho phù hợp với đặc điểm các biến và mô hình, tác giả tiến hành
thực hiện kiểm định mô hình bằng phần mềm Stata 11 ở phần 4.4.
4.4 Kết quả thực nghiệm
4.4.1 Thống kê mô tả các biến trong mô hình
Sau khi thu thập và tính toán dữ liệu, kết quả trình bày theo bảng thống kê mô
tả trong bảng 4.4.1 dưới đây. Kết quả chỉ ra phạm vi, giá trị trung bình và độ lệch
chuẩn của các biến sử dụng trong nghiên cứu này.
Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến
2.379974 7.508585 4.539005 7.335665 6.05E+10 2.70E+12
13.3 40.6071 25.789 43.0508 3.48E+11 1.44E+13
0.7 11.71126 2.435003 -4.71824 -2.51E+10 -4.61E+11
5.031389 24.48337 8.692577 3.960294 2.99E+10 1.38E+12
360 380 380 161 366 380
UR 0-14 65+ FDIout FDIin Ogap
Biến quan Độ lệch Lớn Số quan sát Trung bình Nhỏ nhất sát chuẩn nhất
16104.84 7.960742 7.029391 0.914736 1.381373 1.8287
67511.8 75.2713 69.2765 9.03 9.98 10
337.05 -22.0914 -24.6002 5.18 4.01 1.5
16944.3 4.971163 4.761219 7.408391 8.081935 6.290323
379 378 373 87 93 93
Open GDPCa INF RIR CCB CMR Itax
46.3304
198.05
7.77
73.71476
297
BCre
21.22091
21.39901
100
61.10763
239
BC
98.82091
0.04
726.54
69.69741
275
SMA
1.251656
2
6
4.226823
320
ET
105.6925 98.61596 18.75639 455.2767 365
Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ
mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014
63
Kết quả phân tích thống kê mô tả giữa các biến trong mô hình theo bảng 4.1
cho thấy, trong mô hình cho thấy các biến có độ lệch chuẩn chênh lệch khá lớn so với
trung bình. Dữ liệu không đồng đều ở các biến. Cỡ mẫu nghiên cứu gồm 381 quan
sát, là cỡ mẫu tương đối trong thống kê. Dữ liệu đầu vào phù hợp thực hiện hồi quy.
4.4.2 Kết quả hồi quy
Dựa vào bộ dữ liệu được thu thập dưới dạng dữ liệu bảng từ năm 1996 đến
năm 2014 theo dạng dữ liệu bảng động (Dynamic panel-data) đã được mô tả ở chương
3. Tác giả sẽ tiến hành kiểm định mô hình trên phần mềm thống kê Stata11.
4.4.2.1 Ma trận tương quan giữa các biến
Hệ số tương quan dùng để chỉ mối quan hệ giữa các biến trong mô hình. Dựa
vào kết quả ma trận tương quan, tác giả sẽ phân tích mối tương quan giữa các biến
phụ thuộc với các biến độc lập trong mô hình và mối tương quan giữa các biến độc
lập với nhau.
Biến
UR
BC
BCre
CMR
CCB
RIR
INF
Open
Ogap GDPCa
65+
0- 14
UR
1.00
BC
-0.14
1.00
BCre
-0.38
0.24
1.00
CMR
-0.27
0.06
0.23
1.00
CCB
0.03
0.13
0.32
0.07
1.00
RIR
-0.09
0.30
-0.05
0.09
0.08
1.00
INF
0.43
-0.28
-0.54
-0.38
-0.15
-0.54
1.00
Open
-0.24
0.32
0.33
0.24
0.38
-0.04
-0.16
1.00
Ogap
-0.03
-0.44
0.01
0.11
0.25
-0.02
-0.20
-0.32
1.00
GDPCa
-0.10
0.04
0.49
0.45
0.45
0.02
-0.45
0.11
0.53
1.00
0-14
0.18
0.09
-0.60
-0.14
-0.51
0.26
0.19
-0.17
-0.27
-0.64 1.00
65+
-0.03
-0.23
0.46
0.19
0.42
-0.17
-0.21
-0.15
0.41
-0.72 0.86
1.00
Bảng 4.4: Bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến
Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ mẫu gồm
381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014
Theo Gujarati (2004), ông cho rằng để loại trừ vấn đề đa cộng tuyến, cần
64
nghiên cứu kỹ hệ số tương quan giữa các biến, nếu chúng vượt quá 0,8 thì mô hình
hồi quy sẽ gặp vấn đề đa cộng tuyến nghiêm trọng. Như vậy dựa vào bảng 4.4.2.1 ta
thấy không có mối tương quan nào đáng kể giữa các biến độc lập với nhau. Hệ số
tương quan cao nhất giữa các biến độc lập với nhau là 0,74, kết quả hiệp phương sai
giữa các biến đều nhỏ hơn 0.8, do đó tương quan giữa các biến không nghiêm trọng.
Do giữa các biến có tương quan khá cao với nhau và các biến này có liên quan
mật thiết về ý nghĩa kinh tế trong mô hình nên tác giả tiếp tục tiến hành kiểm tra hiện
tượng đa cộng tuyến thông qua nhân tử phóng đại phương sai VIF.
4.4.2.2 Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
Bảng 4.5: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương
VIF
1/VIF
Variable
2.89
0.346198
BC
2.99
0.334272
BCre
1.62
0.617802
CMG
2.83
0.353137
CCB
4.24
0.235668
Itax
2.43
0.411129
RIR
3.66
0.273025
INF
5.44
0.183767
Open
3.66
Ogap
0.273188
5.82
0.171774
GDPCa
7.77
0.128739
0-14
12.45
0.080333
65+
4.65
Mean VIF
sai VIF
Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ
mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014 (Phụ lục...)
65
Dựa vào bảng 4.2.2 kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại
phương sai, cho thấy trung bình VIF của các biến trong mô hình là 4.65 nhỏ hơn 10.
Không có VIF của biến độc lập nào vượt quá 10.
Kết luận: không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến với tiêu chuẩn nhân tử phóng
đại phương sai VIF
4.4.2.3 Kết quả hồi quy
Tác giả tiến hành kiểm tra một số giả thuyết cổ điển như hiện tượng tự tương
quan giữa các phần dư và hiện tượng phương sai thay đổi cho mô hình. Kết quả kiểm
định phương sai thay đổi và tự tương quan được trình bày trong bảng 4.2.3A dưới
đây:
Bảng 4.6: Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi phần dư - Greene (2000)
Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ
mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014
Giả thuyết Ho: Mô hình không có hiện tượng phương sai thay đổi
Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi
Từ bảng 4.2.3A, kết quả kiểm định Greene (2000) phần mềm Stata11 cho thấy
kết quả p-value = 0.0000 < α = 0.05. Suy ra, bác bỏ giả thuyết Ho ở mức ý nghĩa 5%
cho thấy tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình.
Kết luận: Tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình ở mức ý nghĩa
5%.
66
Bảng 4.7: Kết quả kiểm tra hiện tượng tự tương quan phần dư –
Wooldridge (2002) và Drukker (2003)
Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ
mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014
Giả thuyết Ho: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan
Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan
Kết quả kiểm định bằng phần mềm Stata11 cho thấy kết quả p-value = 0.0189
< α = 0.05. Suy ra, bác bỏ giả thuyết Ho ở mức ý nghĩa 5% …
Kết luận: Tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 1 trong mô hình với mức ý
nghĩa 5%.
Với kết quả kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan giữa
các phần dư, thì trong mô hình vừa tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi vừa tồn tại
hiện tượng tự tương quan. Hàm hồi quy sẽ được thực hiện hồi quy để kiểm định các
giả thuyết nghiên cứu.
Theo kết quả nghiên cứu của Arellano và Bond (1991), phương pháp hồi quy
tuyến tính dữ liệu bảng động (linear dynamic panel-data estimation) là một giải pháp
hữu hiệu để ước lượng hồi quy trong mô hình trong trường hợp mô hình vừa có hiện
tượng phương sai thay đổi, tự tương quan và nội sinh. Bên cạnh đó, Arellano và Bond
(1991) đã đề nghị hai kiểm định chủ chốt để kiểm tra tính hiệu lực của mô hình GMM.
- Kiểm định đầu tiên đó là kiểm định Overidentifying Restrictions
Overidentifying Restrictions Test) hay còn gọi là kiểm định Sargent (Sargent Test)
(hoặc kiểm định J (J – Test)) hay kiểm định Hansen cho tính hiệu lực
(Overidentification) của mô hình. Đây là kiểm định cần thiết trong trường hợp số biến
67
công cụ nhiều hơn số biến trong mô hình. Ý tưởng của kiểm định là xem xét biến
công cụ có tương quan với phần dư của mô hình không. Nếu câu trả lời là không, khi
đó biến công cụ là nội sinh, thì biến công cụ được chọn là phù hợp và mô hình sử
dụng biến đó để ước lượng cũng phù hợp. Kiểm định Sargent sử dụng thống kê J (J
– statistic) nhằm kiểm định giả thiết H0 - biến công cụ là nội sinh, mô hình phù hợp.
Thống kê J tuân theo phân phối Chi Bình phương và được trình bày trên bảng kết quả
ước lượng của phần mềm thống kê cùng với giá trị P – value tương ứng của nó.
- Kiểm định thứ hai được sử dụng đó là kiểm định Arellano-Bond nhằm
kiểm định cho sự tự tương quan.
Mô hình Arellano và Bond (1991) kiểm soát được hiện tượng tự tương quan
giữa phần dư, hiện tượng phương sai thay đổi và nội sinh . Kết quả hồi quy mô hình
như sau:
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy mô hình hồi quy GMM sử dụng biến công cụ
Tỷ lệ thất nghiệp Biến quan
sát (1)+0-14, 65+ (2)+SMA (3)+RIT (4)+FDIout (5)+ET
-0.0347** -0.0472*** -0.0220 -0.0336** -0.0420*
(-2.04) (-3.34) (-5.01) BC (-2.01) (-1.93)
-0.0450 0.0621*** 0.0524** -0.0478 -0.0571
(-1.48) (5.17) (-1.96) (-1.32) BCre (-1.33)
3.507*** 0.188 0.223 -0.153 1.292
(2.65) (0.13) (0.85) (-0.20) (0.68) CMR
0.0816 0.662 1.018* 1.202** 0.881
(0.14) (1.14) (1.90) (2.38) (1.27) CCB
-0.0697 -0.0868 -0.122 0.303 -0.132
(-0.21) (-0.65) (-0.67) (0.41) (-0.57) Itax
0.156** 0.0350 -0.0340 -0.364 -0.0124
(2.35) (0.21) (-0.11) (-1.46) (-0.05) RIR
0.229*** 0.0119 -0.115 -0.218 -0.0856 INF
68
(3.36) (0.07) (-0.40) (-0.98) (-0.41)
0.0196*** 0.0127 0.0168 0.0269 0.00668
(0.81) (1.53) (0.66) Open (3.82) (1.53)
-0.000157*** 0.0000104 0.0000576 0.0000071 -0.0000649
GDPCa (0.14) (-0.73) (0.18) (-1.00) (-4.08)
0.152* .. (1.81) 0-14
0.426** ... (2.51) 65+
-0.0117**
(-2.34) SMA
-0.249
(-0.14) RIT
-0.174*
(-189) FDIout
0.932
ET (1.62)
-34.27** 3.631 -4.909 0 -9.562
(-2.53) (0.31) (-0.31) (.) Hằng số (-0.60)
58 44 44 42 N 44
*** prob. < 0,01; ** prob. < 0,05; * prob. < 0,10
Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ
mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014 (Phụ lục 4)
Kết quả kiểm định Hansen về tính hiệu lực của mô hình cho thấy số biến công
cụ trong mô hình GMM là vừa đủ và phù hợp, với giá trị p lớn hơn 0.1. Ngoài ra kiểm
định AR(1) (kiểm định tương quan chuỗi bậc 1) của GMM cho kết quả hợp lệ: giá trị
p lớn hơn 0.1, nghĩa là có tồn tại mối tương quan chuỗi bậc 1. Do đó, tất cả các kết
quả trong GMM hệ thống đều có ý nghĩa.
69
Bảng 4.5.2.3C mô hình (1) cho thấy kết quả dựa trên mô hình GMM hai giai
đoạn bằng cách sử dụng lệnh xtabond2 được giới thiệu bởi Roodman (2009). Từ bảng
này cho thấy kết quả hồi quy giữa tỉ lệ thất nghiệp với các biến độc lập trong mô hình
nghiên cứu. Riêng biến thương lượng tập trung, thuế thu nhập chưa có ý nghĩa thống
kê nên không giải thích được tác động của chúng tác động đến tỷ lệ thất nghiệp của
các quốc gia thành viên khối APEC trong giai đoạn 1996 - 2014. Kết quả ước lượng
này đồng nhất với kết quả của mô hình dữ liệu bảng với mô hình FEM, 2SLS (đối
chiếu Phụ lục 4)
(Trình tự thực hiện kiểm định toàn bộ mô hình được trình bày đầy đủ trong phụ lục
4).
Kết quả phân tích hồi quy của từng biến theo mô hình (1) như sau:
Tập trung ngân hàng là nghịch biến với tỷ lệ thất nghiệp (với mức ý nghĩa 5%)
trong giai đoạn 1996 - 2014, các quốc gia có tỉ lệ tập trung ngân hàng càng cao thất
nghiệp càng ít. Kết quả này là phù hợp với quan điểm của Thuyết cấu trúc hiệu quả
nhưng trái với quan điểm của Lý thuyết cơ cấu-hành vi-hiệu quả. Bằng chứng này
phù hợp với các nghiên cứu của Evanoff và Fortier (1988), Koutsomanoli và cộng sự
(2009), Ben Naceur & Omran (2011) nhưng trái với với nghiên cứu của Horst
Feldmann (2015), mà đều đưa ra bằng chứng về sự nghịch biến giữa tập trung ngân
hàng và tỷ lệ thất nghiệp. Tập trung tài sản ngân hàng cao không phải là một trong
những đặc điểm của các ngân hàng, nhưng sau khi tái cơ cấu hậu khủng hoảng, kéo
theo các biện pháp như đóng cửa ngân hàng, sáp nhập và tái cơ cấu vốn, tập trung tài
sản được thấy tăng rõ rệt ở một số nền kinh tế. Và cũng không thấy bất lợi nghiêm
trọng của sự tập trung tài sản ngân hàng. Lúc đầu, thoạt nhìn có thể thấy tập trung
ngân hàng sẽ cản trở cạnh tranh, nhưng kết quả lý thuyết và thực nghiệm cho thấy
rằng lợi ích của hiệu quả và quy mô nền kinh tế tạo ra bởi tập trung tài sản có thể bù
đắp chi phí cao hơn của hoạt động ngân hàng. Việc tập trung cao hơn thông qua hoạt
động mua bán sát nhập giúp các nước nhận đầu tư tạo công ăn việc làm cho người
dân. Khi đầu tư vào nước khác, các công ty được mua lại hay sát nhập đều là yếu kém
70
hay sắp phá sản. Như vậy, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các quốc gia sẽ đặt
một mức ưu tiên nào đó cho việc tăng tỷ lệ tập trung ngân hàng (có thể kể đến hiện
tượng mua bán và sát nhập các ngân hàng nhỏ), điều này mặc dù được coi có thể là
con dao hai lưỡi song trong giai đoạn chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng
tài chính gần đây nhất, các quốc gia có nền kinh tế khó khăn thì việc tăng tỷ lệ tập
trung ngân hàng sẽ tận dụng cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực dồi dào, thị trường
rộng lớn, và qui mô lớn hơn, tạo khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh doanh, sẽ giúp
cho ngân hàng có năng lực cạnh tranh tổng hợp và có thể thực hiện chiến lược mở
rộng kinh doanh, làm tăng khả năng cung ứng cho những dự án lớn hơn. Bên cạnh đó
là làm giảm chi phí huy động (do áp lực cạnh tranh lãi suất giảm), giảm chi phí văn
phòng dẫn đến năng lực cạnh tranh tăng lên đủ sức vượt quan những biến cố khó khăn
của nền kinh tế. Việc tăng tập trung ngân hàng đồng nghĩa với mua bán sát nhập
những ngân hàng nhỏ yếu kém, sau khi cơ cấu lại và quản trị tốt có thể tận dụng khách
hàng, cơ sở vật chất, nhân sự, và như vậy không những duy trì được nhân sự cũ mà
còn có khả năng mở rộng thêm. Kết quả là thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng, kinh tế
được phục hồi, nhiều công ăn việc làm được tạo ra đồng nghĩa tỷ lệ thất nghiệp giảm.
Các quy trình hợp lý hóa và thay đổi kích thước trong hệ thống ngân hàng trong khu
vực này cho thấy hiệu quả tổng thể của hệ thống đã được tăng cường trong giai đoạn
từ năm 2008 đến nay.
Tín dụng ngân hàng thể hiện mối quan hệ dồng biến với tỷ lệ thất nghiệp (mức
ý nghĩa 1%) nghĩa là sự sụt giảm việc làm đi theo xu hướng mở rộng tín dụng. Bằng
chứng này là phù hợp với kết quả nghiên cứu của Jason và cộng sự (2015), Mwalungo
(2011), Miguel Ángel và cộng sự (2014) nhưng trái với nghiên cứu của Feldmann
(2015). Trong giai đoạn hiện nay, khi các hộ gia đình có xu hướng vay nợ có bảo đảm
tham gia rủi ro bằng cách tìm kiếm việc làm với mức lương cao nhưng xác suất việc
làm thấp. Trong cân bằng tổng thể, các doanh nghiệp đáp ứng sự ưa thích méo mó
này của hộ gia đình, trả lương cao nhưng lại có ít chỗ trống. Điều này ngụ ý rằng nợ
hộ gia đình cao dẫn đến tình trạng thất nghiệp cao, một kết quả làm sáng tỏ hơn về lý
71
do tại sao sự phục hồi của thị trường lao động là khá chậm chạp sau khi cuộc khủng
hoảng tài chính nên đã dẫn đến mối quan hệ nghịch biến này.
Quy tắc thị trường tín dụng đồng biến với tỷ lệ thất nghiệp (mức ý nghĩa 1%),
kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Acemoglu (2011), Feldmann (2006,
2012a). Cụ thể, hạn chế về mở rộng tín dụng đến các khu vực tư nhân, về quyền sở
hữu tư nhân của ngân hàng, về cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài, và về việc
xác định miễn lãi suất xuất hiện làm giảm tỷ lệ việc làm và thất nghiệp gia tăng, đặc
biệt là trong giới trẻ. Kết quả này càng đúng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính
như hiện nay, nền kinh tế suy giảm nhanh chóng, các công ty hoạt động không hiệu
quả, càng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng, doanh nghiệp lâm vào cành khó
khăn phải thu hẹp sản suất, việc làm tất nhiên bị co hẹp.
Biến GDP trên đầu người thể hiện mối quan hệ nghịch biến với tỷ lệ thất
nghiệp (mức ý nghĩa 1%) như mong đợi phù hợp với nghiên cứu của Horst Feldmann
(2015), Ali, Maryam (2011) và Rahman (2013). Trong thực tế, xu hướng dân số phù
hợp sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước là yếu tố quan trọng kích thích
phát triển nhanh, bền vững, nâng cao đời sống nhân dân và tiềm lực sản xuất; đây là
yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tính trạng thất nghiệp.
Tỷ lệ thất nghiệp là cùng chiểu với tỷ lệ lạm phát (mức ý nghĩa 1%), kết quả
phù hợp với nghiên cứu của Miguel Ángel và cộng sự (2014) và phù hợp với thực
tế hiện nay trong khu vực khối APEC khi mà tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát ở
hầu hết các nước đều giảm. Điều này có thể là do những năm gần đây sau khi đối phó
với cuộc khủng hoảng tài chính 2008, thất nghiệp đã giảm (theo mục 3.4 )Chính phủ
ở các quốc gia APEC thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa ổn định kinh
tế vĩ mô, CPI thường chịu tác động của 4 nhóm yếu tố: chi phí đẩy, cầu kéo, tiền tệ -
tín dụng và tâm lý. Cụ thể: (i) Về yếu tố chi phí trong năm qua cho thấy, giá cả hàng
hóa thế giới giảm, các mặt hàng giảm giá mạnh nhất đó là dầu mỏ và các sản phẩm
liên quan tới dầu mỏ. Nhiều khoản thuế đã được cắt giảm tạo điều kiện cho doanh
nghiệp giảm bớt chi phí, lãi suất cho vay của ngân hàng đã giảm khá nhanh. (ii) Về
72
yếu tố cầu cũng giảm. (iii) Về tiền tệ - tín dụng, áp lực đối với lạm phát đang có xu
hướng giảm. Cụ thể: tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cũng đã giảm nhanh, thanh
khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện. (iv) Trong khi đó, tâm lý
kỳ vọng lạm phát không bị áp lực lớn như trước.
Lãi suất thực tế là đồng biến với tỷ lệ thất nghiệp (với mức ý nghĩa 5%) như
mong đợi phù hợp với thực tế trong giai đoạn 2008 – 2012, các quốc gia có lãi suất
thực càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng lớn. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu
của Feldmann (2015) và (2012b), Fitoussi và cộng sự (2000), đều đưa ra bằng chứng
về sự đồng biến lãi suất thực tế và thất nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn khủng hoảng
tài chính, các nhà hoạch định chính sách kỳ vọng đối phó với lạm phát bằng cách duy
trì lãi suất cho vay ở mức cao. Nhưng thực tế lại có thể gây ra tâm lý e ngại đầu tư
sản xuất bởi mức lãi suất quá cao, khó đầu tư có lãi. Doanh nghiệp và nền kinh tế
cảm thấy sức ép lớn, quá sức chịu đựng của hoạt động sản xuất kinh doanh, gây đình
trệ, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ở góc độ kinh doanh, trong
các năm vừa qua, từ 2008 trở lại đây, tại các quốc gia ta thấy các doanh nghiệp vừa
và nhỏ gặp khủng hoảng kinh tế thiệt hại nhiều trong khi các ngân hàng luôn có lãi
lớn! Điều này, thực sự không động viên các nguồn lực quốc gia vào công cuộc sản
xuất kinh doanh làm ra của cải vật chất mà chỉ khuyến khích người có vốn mang tiền
đi cho vay kiếm lời hay mua bán lòng vòng tạo ra các giá trị "ảo" như "bong bong bất
động sản", "bong bong cổ phiếu" (Việt Nam, Trung Quốc,..) hay các cơ hội đầu tư
mối quan hệ quyền lực nhóm để kiếm lời. Hoạt động sản suất đình trệ, doanh nghiệp
cắt giảm lao động và dĩ nhiên thất nghiệp tăng là hậu quả không thể tránh khỏi.
Mở cửa thương mại cũng thể hiện mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ thất nghiệp
(mức ý nghĩa thống kê 1%). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Feldmann (2015) với
kết quả nhận được thể hiện mối quan hệ ngược chiều giữa mở của thương mại và thất
nghiệp có ý nghĩa thống kê. Theo thực tiễn, việc mở rộng thương mại có vai trò rất
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và tạo của cải vật chất cho cả quốc gia phát
triển và đang phát triển. Nhưng tác giả cho rằng tăng cường mở của thương mại cũng
73
có thể làm tăng thất nghiệp vì mở cửa tự do hơn đồng nghĩa với cạnh tranh nhập khẩu
căng thẳng hơn. Như Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc – Úc (FTA) mới đây
giúp các công ty Úc có cơ hội tiếp cận thị trường Trung Quốc nhiều hơn, tuy nhiên
cũng cho phép nhiều người lao động Trung Quốc - gồm cả thương nhân - làm việc ở
Úc với visa nhập cư lao động lành nghề tạm thời. Hội đồng liên hiệp mậu dịch Úc
(ACTU) nói rằng hiệp định thương mại tự do làm giảm dần việc làm nội địa và có
thể gia tăng tình trạng thất nghiệp.
Thuế thu nhập cũng thể hiện mối quan hệ ngược chiều nhưng không có ý nghĩa
thống kê (P-value = 83,3%) nên chưa giải thích được tác động thuế thu nhập đến tỷ
lệ thất nghiệp trong giai đoạn 1996 – 2015. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Horst
Feldmann (2015) với kết quả nhận được cũng thể hiện mối quan hệ ngược chiều thuế
thu nhập và tỷ lệ thất nghiệp có ý nghĩa thống kê mà ông cho rằng mối quan hệ ngược
chiều này đề nghị xu hướng giảm thuế thu nhập tiền lương.
Tóm lại, kết quả hồi quy nhận được đã chỉ ra bằng chứng rằng tỷ lệ thất nghiệp
chịu ảnh hưởng ngược chiều với mức độ tập trung ngân hàng, thuế thu nhập và GDP
trên đầu người nhưng chịu ảnh hưởng cùng chiều với tín dụng ngân hàng, các quy
tắc thị trường tín dụng, thương lượng tập trung và lạm phát. Trong chương tiếp theo
tác giả sẽ thảo luận về các kết luận và đóng góp của nghiên cứu cũng như những hạn
chế trong luận văn, từ đó đưa ra các hướng nghiên cứu tiếp theo.
74
CHƯƠNG 5:
KẾT LUẬN
Trong chương này, sẽ tóm tắt lại và thảo luận về việc phân tích dữ liệu nghiên
cứu đã thu thập được, nêu những hạn chế và chỉ ra các hướng nghiên cứu tiếp theo.
Cuối cùng trong chương sẽ trình bày nhận xét và đưa ra ý kiến gợi ý giải pháp cho
các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.
5.1 Kết luận
Tác giả sử dụng mô hình OLS tổng thể để kiểm định mối quan hệ giữa tập
trung ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp, mô hình ảnh hưởng cố định được sử dụng để xử
lý vấn đề về hiện tượng không đồng nhất không quan sát được, mô hình bình phương
bé nhất hai giai đoạn để giải quyết hiện tượng nội sinh và phương pháp moment tổng
quát có sử dụng biến công cụ để giải quyết hiện tượng nội sinh và tự tương quan.
Quan trọng hơn, không như những nghiên cứu khác, đây là một trong những nghiên
cứu đầu tiên sử dụng phương pháp GMM để kiểm định mối quan hệ giữa tập trung
ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp vì những lý do sau: Đầu tiên, mô hình động GMM giải
quyết những vấn đề liên quan đến dữ liệu bảng ngắn. Thứ hai, mô hình GMM sẽ
chính xác hơn trong việc tồn tại hiện tượng nội sinh giữa tập trung ngân hàng và tỷ lệ
thất nghiệp. Kết quả bài nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng Moment tổng
quát - GMM cho bộ dữ liệu bảng động (Dynamic data) từ 21 quốc gia thành viên khối
APEC trong giai đoạn từ 1996– 2014, với kỳ quan sát tính theo năm. Mặc dù tiếp cận
ở các phương pháp khác nhau, nhưng tất cả các kết quả của các mô hình đều đồng
nhất và cùng kết quả như kỳ vọng. Các kết quả tìm được từ các mô hình GMM đã
ủng hộ giả thuyết đó là tập trung ngân hàng, được đo bằng tỷ lệ tài sản được nắm giữ
bởi ba ngân hàng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng, có mối tương quan âm với tỷ lệ
thất nghiệp, ở mức ý nghĩa 5%
Nhìn chung, kết quả hồi quy cho thấy mối quan hệ giữa tập trung ngân hàng,
các đặc điểm của nền kinh tế, thể chế, thị trường lao động và tỷ lệ thất nghiệp của
mỗi quốc gia, mối quan hệ gồm có i) Quan hệ cùng chiều, ii) Quan hệ ngược chiều
75
và iii) Không có mối quan hệ. Cụ thể có mối quan hệ cùng chiều như: tín dụng ngân
hàng, quy tắc thị trường, lãi suất thực, lạm phát, mở cửa thương mại, độ tuổi dưới 14
và hơn 65, dòng FDI đi ra, tiền gửi ngân hàng. Mối quan hệ ngược chiều gồm: tập
trung ngân hàng, GDP bình quân đầu người, hoạt động thị trường chứng khoán.
Không có mối quan hệ gồm: thương lượng tập trung, thuế thu nhập, căng thẳng sắc
tộc, quy tắc thương mại quốc tế. Kết quả của hồi quy trái ngược với kết quả nghiên
cứu của Feldmann nhưng phù hợp với những nghiên cứu trước đây. Điều này có thể
là do thực tế rằng thị trường vốn đặc biệt, thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp
và đầu tư mạo hiểm - được ít nhiều phát triển ở các nước này. Nó sẽ có khả năng ảnh
hưởng ngược chiều của ngân hàng tập trung vào tình trạng thất nghiệp. Mặc dù các
kênh truyền mà thông qua đó tập trung hệ thống ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất
nghiệp vẫn cần được nghiên cứu kỹ hơn, nhưng chúng ta có thể kết luận rằng tập
trung ngân hàng ảnh hưởng tốt đến tỷ lệ thất nghiệp ở các nước trong khu vực APEC.
Như đã giải thích trong chương 4, mỗi hiệu ứng có tác động tích cực đối với tình
trạng thất nghiệp. Theo như lý thuyết liên quan, kết quả của tác giả chứng thực thuyết
cấu trúc hiệu quả. Một số nghiên cứu trên các nước công nghiệp cũng tìm thấy sự tập
trung cao hơn là tương quan với tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn (ví dụ như, Di Tella &
MacCulloch, 2005; Feldmann, 2011).
Hơn nữa, tác giả cũng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng GDP bình quân đầu
người tăng có liên quan với tỷ lệ thất nghiệp thấp, các nước đang phát triển giàu hơn
có thể có công nhân tích cực hơn ở thị trường việc làm. Một kết luận khác, hệ số của
‘mở cửa’ cho thấy rằng các nước phát triển là cởi mở hơn đối với thương mại quốc
tế có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn, vì cạnh tranh việc làm trong ngành công nghiệp nhập
khẩu. Thêm nữa, luồng FDI cao hơn có liên quan với tình trạng thất nghiệp hơn, có
lẽ vì chúng làm giảm số lượng việc làm trong các công ty di động quốc tế. Cuối cùng,
quy định chặt chẽ của các dòng vốn xuyên quóc gia có mối tương quan với tỷ lệ thất
nghiệp ít, vì nó có thể tránh được những tác động gây rối có thể như di chuyển vốn
thất thường hay dừng đột ngột trên thị trường.
Như vậy kết quả này là quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách khi có
76
kế hoạch củng cố hệ thống tài chính của họ bằng cách điều chỉnh cơ cấu ngân hàng
của họ, những phát hiện từ nghiên cứu này ngụ ý rằng chính sách này có thể không
có một ảnh hưởng bất lợi về triển vọng kinh tế hay thị trường lao động của họ.
5.2 Hạn chế của đề tài
Bên cạnh các vấn đề được nghiên cứu ở trên, Luận văn đã cố gắng thực hiện
với khả năng về phạm vi và dữ liệu tối đa trong khả năng, tuy nhiên vì điều kiện
khách quan và chủ quan còn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, đề tài sử dụng bộ dữ liệu có kích thước mẫu là 381 quan sát của từ
21 quốc gia thành viên khối APEC trong giai đoạn từ 1996– 2014, một số các quốc
gia còn có số quan sát nhỏ khó so sánh các kết quả phân tích cho tất cả 21 quốc gia.
Đây là lượng quan sát khá ít nếu so với dữ liệu của các nghiên cứu trước đây trên thế
giới, ví dụ như trong bài nghiên cứu “Banking system concentration and
unemployment in develop countries” được tiến hành trên 42 nước đang phát triển
trong giai đoạn 1987 – 2007 với 882 quan sát. Do số quan sát còn hạn chế có thể làm
cho các kết quả ước tính từ mô hình chưa thể giải thích hết mối quan hệ giữa các biến
với nhau.
Thứ hai, đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng tập trung ngân hàng đến tỷ lệ thất
nghiệp rất hạn chế (tác giả nghiên cứu là lần đầu tiên) nên chưa có điều kiện so sánh
các kết quả thực nghiệm. Việc so sánh với kết quả thực nghiệm về vấn đề này với các
nghiên cứu thế giới thì vẫn còn nhiều hạn chế vì đặc điểm và tính chất của các quốc
gia ở các khu vực khác nhau là không giống nhau nên việc so sánh với các kết quả
này chỉ mang tính đối chiếu chứ chưa giải thích hết bản chất của vấn đề đặt ra.
Thứ ba, đề tài chỉ nghiên cứu tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất
nghiệp chứ vẫn tìm ra được mức tập trung tối ưu mà ở đó hoạt động của ngân hàng
là hiệu quả cao nhất, ảnh hưởng tốt nhất đến thị trường lao động.
Thứ tư, một số vấn đề chính sách và tính chất tương quan của chúng khi áp
dụng đối với từng quốc gia chưa được đề cập trong bài viết này.
77
5.3 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tích cực của tập trung
ngân hàng.
5.3.1 Gợi ý một số giải pháp chung cho các quốc gia thành viên khối
APEC:
Như đã thể hiện rõ qua các phần trước, lĩnh vực ngân hàng ở các quốc gia
thành viên APEC là tương đối tập trung cao, các ngân hàng lớn đóng một vai trò quan
trọng trong toàn bộ khu vực tài chính và ảnh hưởng của nó lên nền kinh tế cũng như
thị trường lao động là không hề nhỏ. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 làm
tăng các mối quan tâm trên các quy định tài chính ở cả cấp toàn cầu và quốc gia,
hoạch định chính sách có thể tìm thấy những kết quả có giá trị trong phạm vi mà họ
cho rằng việc điều chỉnh cơ cấu ngân hàng có thể không gây hại cho tăng trưởng kinh
tế, hiệu quả hoạt động thị trường lao động của một quốc gia. Nói cách khác, nếu các
nước đang phát triển trong kế hoạch cụ thể để củng cố hệ thống tài chính của họ bằng
cách điều chỉnh cơ cấu ngân hàng của họ, những phát hiện từ nghiên cứu này ngụ ý
rằng chính sách này có thể không có một ảnh hưởng bất lợi về triển vọng kinh tế của
họ.
Nghiên cứu sâu hơn có thể cung cấp hướng dẫn rõ ràng, chi tiết hơn cho việc
cơ cấu tài chính hiệu quả và thích hợp nhất cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
mạnh mẽ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tập trung ngân hàng có mối quan hệ ngược
chiều với tỷ lệ thất nghiệp. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà làm chính
sách - đặc biệt đối với các quốc gia (nhất là những nước đang phát triển) có mức độ
tập trung ngân hàng hay tình trạng thất nghiệp cao là kết quả sau cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách cần xem xét lại mối quan
hệ này để đề ra chính sách phù hợp với tiêu chí của mỗi quốc gia, tăng mức độ tập
trung ngân hàng và làm cho ngành ngân hàng ít cạnh tranh hơn. Các biện pháp chính
sách thích hợp nhất phải tùy theo từng quốc gia, tùy theo mức độ, tính chất đặc thù
và nguồn gốc lịch sử của sự tập trung ngân hàng, cũng như theo cường độ và các đặc
điểm khác của sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng quốc gia tương ứng.
78
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của luận văn, tác giả xin đưa ra các
gợi ý cho các quốc gia như sau:
- Các quốc gia mong muốn hoạch định chính sách có thể giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong nước nên cân nhắc xu hướng điều chỉnh cơ cấu ngành ngân hàng vì nó
không gây ra ảnh hưởng bất lợi lên thị trường lao động. Một số ý kiến cho rằng việc
tập trung ngân hàng khiến cho các ngân hàng được mua bán hay sát nhập sẽ sa thải
nhân viên hàng loạt sau khi hoàn tất các giao dịch làm tỷ lệ thất nghiệp tăng. Tuy
nhiên có nhiều động cơ dẫn đến các giao dịch mua lại và sáp nhập (M&A). Trong
phần lớn các trường hợp, lý do điển hình để thực hiện một giao dịch M&A là nâng
cao giá trị doanh nghiệp được mua lại bằng cách làm cho doanh nghiệp đó phát triển
hơn nữa. Các nghiên cứu trước và kết quả hồi quy cũng đã chỉ ra rằng M&A thực sự
tạo thêm việc làm, và giúp cải thiện hiệu quả chung của nền kinh tế qua việc nâng
cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, để đẩy mạnh đầu tư nước ngoài
nói chung hay hoạt động mua lại và sát nhập các nhà làm chính sách ở các quốc gia
có thể quan tâm những vấn đề như:
Khuyến khích sự liên kết hợp tác nhằm tránh những mặt tiêu cực của tập
trung ngân hàng thông qua hoạt động mua bán sat nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, các nhà quản
lý cũng cần khuyến khích đổi mới tài chính giữa các ngân hàng dựa trên tiền đề của
quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn cho phép các ngân hàng trở nên ổn định hơn thông
qua sự khác biệt sản phẩm.
Kích thích phát triển thể chế có thể tăng cường sự ổn định của ngân hàng
trong khu vực này.
Việc tăng tập trung ngân hàng có liên quan đến rủi ro đạo đức và rủi ro
chuyển đổi hệ thống ngân hàng ở APEC.
- Và theo kết quả thì tập trung ngân hàng làm giảm tỷ lệ thất nghiệp,
nhưng tập trung quá mức sẽ gây lo ngại hiện tượng “quá lớn để sụp đổ”, để đối phó
với vấn đề này, như Calomiris và Herring chỉ ra, chính phủ không nên bảo lãnh các
khoản nợ trước khi chuyển đổi diễn ra và thực hiện kích hoạt chuyển đổi trước khi
79
ngân hàng phá sản, nên giảm cho vay chính sách bằng cách cho phép và khuyến khích
các ngân hàng tự phát triển một nền văn hóa tín dụng độc lập mạnh mẽ. Bên cạnh đó,
để ngăn chặn sự tập trung quá mức, quản lý cần áp dụng cách tiếp cận thận trọng để
đánh giá các hoạt động mua bán sáp nhập.
- Theo kết quả hồi quy, thì các quốc gia cũng cần lưu ý việc mở cửa
thương mại nền kinh tế vì nếu tỷ lệ này tăng lên cũng đồng thới làm cho tình hình
thất nghiệp khó khăn hơn. Mặc dù nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng được mở
rộng, người lao động và các chính phủ đại vẫn đang bày tỏ mối lo ngại ngày càng lớn
về tự do hóa thương mại. Phần lớn những thay đổi về chỗ làm dẫn tới việc mất công
ăn việc làm đều là do những tiến bộ về công nghệ, ngành công nghiệp đang phải đối
mặt với cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên các chính phủ không
nên giải quyết vấn đề bất ổn việc làm bằng cách từ bỏ các nguyên tắc cam kết mở cửa
thị trường hay bằng cách tăng cường các hình thức bảo hộ hành chính và các chính
sách khác nhằm tạo đặc quyền cho các công ty trong nước hoặc cho một số lĩnh vực
trong nền kinh tế. Chủ nghĩa bảo hộ là một cách đối phó sai lầm. Các giải pháp tốt
hơn cần được nghiên cứu đề xuất cho chính phủ nhằm hóa giải nỗi lo lắng đó cho
người lao động.
- Các chủ trương chính sách vĩ mô nhằm can thiệp ngắn hạn vào nền kinh
tế bằng cách điều chỉnh lãi suất để mong giảm thất nghiệp trước mắt, hay xa hơn là
tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia, ... về lâu dài
tác động ra sao cần các chính sách có tầm nhìn dài hạn hơn, như ổn định kinh tế vĩ
mô hoặc chống lạm phát hay giảm phát là điều cần cân nhắc. Không nên can thiệp
từng li, từng chút trước các căn bệnh ngắn hạn của nền kinh tế nhằm đạt tiêu chí tỷ lệ
thất nghiệp bằng các mệnh lệnh hành chính mà cứ để thị trường tự điều tiết thì sẽ có
tác động tốt hơn trong dài hạn. Và nhà nước đóng vai người xây dựng và hoàn thiện
luật kinh doanh trên cơ sở các pháp luật kinh doanh quốc tế đã được xây dựng lâu
đời, hợp lý và được nhìn nhận rộng rãi, hơn là chạy theo các biến động thị trường
từng ngày, từng tháng.
80
- Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, GDP bình quân đầu người có mối
quan hệ ngược chiều với tỷ lệ thất nghiệp. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là một mục
tiêu quan trọng, tuy nhiên, theo đuổi sự tăng trưởng không đúng hướng, không quan
tâm đến yếu tố môi trường có thể sẽ dẫn đến việc không tăng trưởng, thậm chí là thụt
lùi, kinh tế bấp bênh, thất nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó, chính sách đuổi theo thất
nghiệp cũng cần được cẩn trọng, ví dụ như: Tỉ lệ thất nghiệp ở Mỹ giảm gần 10%
nhưng khó nói chất lượng cuộc sống của người dân Mỹ đã cải thiện sau khi đưa ra
các chính sách hạ lãi suất và kích thích kinh tế (nới lỏng định lượng). Ngược lại,
Trung Quốc cũng đang đối mặt với vấn đề chất lượng cuộc sống và môi trường ô
nhiễm dù đã duy trì chính sách đồng tiền yếu trước giờ.
- Tập trung cao hơn tại khu vực ngân hàng yêu cầu nguồn nhân lực có
chất lương cao hơn phù hợp với tiến bộ công nghệ và quản lý. Nhưng thực tế sau
khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến các nền kinh tế của APEC
và một trong những nguyên nhân làm APEC phục hồi chậm là chất lượng nguồn nhân
lực chưa đáp ứng yêu cầu của chuỗi cung ứng. Tình trạng không phù hợp giữa nhu
cầu của doanh nghiệp với kỹ năng, trình độ chuyên môn của người lao động còn diễn
ra phổ biến, điển hình là ở hai nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam. Đối với các nước
đang phát triển, nguồn nhân lực có trình độ và sự phù hợp giữa kỹ năng đào tạo với
việc làm đúng ngành nghề thấp hơn. Vì vậy, các nhà làm chính sách có thể nên chú
ý đến những điểm chủ chốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng
chuỗi cung ứng như:
Nâng cao hợp tác về pháp lý cũng như sự gắn kết hài hòa pháp lý giữa các
nền kinh tế. Xây dựng các thỏa thuận, minh bạch về khung pháp lý và thủ tục hành
chính, Phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan chính phủ nhằm thực thi kết nối.
Hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư từ khu vực
tư nhân và thúc đẩy tinh thần kinh doanh của thanh niên để thúc đẩy nhu cầu lao động
có chất lượng cho kết nối. Thúc đẩy dịch chuyển lao động hiệu quả
Đầu tư nhiều hơn vào hệ thống giáo dục.
81
- Tập trung ngân hàng là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó có
những tác động tích cực đến nền kinh tế, song mặt bên kia của tập trung kinh tế lớn
lại chính là nguy cơ hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh. Vì vậy, các quốc gia
với phương châm phòng thủ từ xa đã ban hành pháp luật cạnh tranh - một đạo luật
không thể thiếu của nền kinh tế thị trường để kiểm soát các vụ tập trung ngân hàng.
Giải quyết tình trạng thất nghiệp không phải “một sớm, một chiều”, không chỉ
bằng một chính sách hay một biện pháp mà phải là một hệ thống các chính sách đồng
bộ, phải luôn coi trọng trong suốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Kết quả hồi
quy cho thấy tăng tập trung ngân hàng có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp nhưng không cổ
xúy việc tăng tập trung quá mức nhằm mục tiêu giảm thất nghiệp. Bởi lẽ, tăng tập
trung ngân hàng đến mức nào đó sẽ gây hại đến hệ thống tài chính (ví dụ điển hình là
suy thoái kinh tế Mỹ 2008) và thất nghiệp luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường và
tăng (giảm) theo chu kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường. Theo nhà kinh tế học
William Beverigde, thất nghiệp không phải là căn bệnh, nhưng nó là triệu chứng của
một hoặc một vài căn bệnh của nền kinh tế.
5.3.2 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tập trung ngân hàng đối
với Việt Nam:
Đối với ngân hàng nhà nước và các cơ quan chức năng
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang thực hiện cuộc cải cách lớn trong chuyển
dịch cơ cấu và tiến bộ để tạo ra một hệ thống an toàn và nâng cao hiệu quả của các
ngân hàng thương mại. Giảm thất nghiệp, tăng hiệu quả hoạt động của thị trường lao
động trong nước cũng là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết của các nhà hoạch
định chính sách và các giám sát viên phải đối mặt với việc toàn cầu hóa không thể
tránh khỏi trong thị trường dịch vụ ngân hàng, tài chính và thị trường lao động. Rõ
ràng, hiểu được tình trạng hiện tại của tính chất tác động của tập trung ngành ngân
hàng Việt Nam là nhiệm vụ đầu tiên để có thể đưa ra một số gợi ý cho chính phủ Việt
Nam và Ngân hàng nhà nước trong quyết định chính sách để thực hiện thành công.
Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực áp dụng các giải pháp tái cơ cấu,
82
thúc đẩy cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam phù hợp với từng ngân
hàng, với lộ trình thực hiện cụ thể và giám sát chặt chẽ quá trình tái cơ cấu của các
ngân hàng thương mại.
Theo World Bank, một trong các trở ngại của môi trường đầu tư Việt Nam là
thủ tục quan liêu. Trong Báo cáo "Môi trường Kinh doanh 2008" của Ngân hàng Thế
giới và Tập đoàn Tài chính Quốc tế, Việt Nam đứng thứ 91 trong số 178 nền kinh tế
về mức độ thuận lợi kinh doanh, trong khi Trung Quốc đứng thứ 83 và Thái Lan thứ
15. Vì vậy, Ngân hàng nhà nước và chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa khung chính
sách, pháp lý tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư, phù hợp với
các cam kết quốc tế, đồng thời các quy định, thủ tục tiến hành tập trung phải minh
bạch, rõ ràng và công bằng hơn. Việc mua bán và sát nhập cần được ban hành những
hướng dẫn thi hành luật cụ thể hơn với những quy định rõ ràng về thời hạn hiệu lực
tối thiểu của luật.
Đối với Chính Phủ: cần tạo ra hành lang pháp lý cho việc xử lý các tài sản
bảo đảm của các khoản nợ xấu ngân hàng. Việc chồng chéo trong các luật đối với
việc xử lý các tài sản bảo đảm là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho
quá trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng bị chậm. Ngoài ra, các thủ tục, trình tự xử
lý đối với tài sản bảo đảm tại Việt Nam lại rất khó khăn và tốn thời gian nên cũng
làm cho một bộ phận không nhỏ các khách hàng nợ ngân hàng chây ì trong việc trả
nợ.
Đối với NHNN:
Ngân hàng nhà nước chú trọng nhận định các ngân hàng nhỏ không thực sự
hiệu quả trên thị trường, những ngân hàng hoạt động yếu, kém trong thời gian qua,
kiên quyết xử lý triệt để. Ngân hàng nhà nước cần tích cực chỉ đạo các tổ chức tín
dụng tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn hoạt động ngân hàng, từng bước
kiểm soát, kiểm tra, xử lý thận trọng, chỉ đạo chặt chẽ về kết quả hoạt động những
ngân hàng này. Tùy thuộc vào sự khắc phục, cũng như điều kiện khắc phục những
tồn tại, yếu kém của các ngân hàng và tiến trình xử lý các ngân hàng yếu kém cần
83
theo chủ trương của Đề án tái cơ cấu ngành. Quyết tâm đạt mục tiêu tái cơ cấu hệ
thống ngân hàng, đảm bảo được tính thanh khoản hệ thống, tạo ổn định ngành, ổn
định kinh tế vĩ mô.
Có hướng dẫn cụ thể về việc xử lý các khoản nợ xấu đối với NHTM. Trước
hết, NHNN cần ban hành các hướng dẫn cụ thể về việc ủy quyền của VAMC cho các
NHTM trong việc xử lý nợ xấu. Đồng thời, việc ban hành các hướng dẫn cụ thể về
xử lý các khoản nợ xấu (tỷ lệ chiết khấu, thời gian xử lý) cũng sẽ giúp các ngân hàng
chủ động hơn trong việc loại bỏ các khoản nợ xấu ra khỏi báo cáo tài chính.
Xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Theo kinh nghiệm về
xử lý nợ xấu thành công của Hàn Quốc và sự thất bại của Nhật Bản, các nhà đầu tư
nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với quá trình xử lý nợ xấu. Vì vậy, việc xây
dựng các chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có việc điều chỉnh
sửa đổi Luật Đất đai và Luật Kinh doanh bất động sản, là rất cần thiết đối với Việt
Nam trong thời điểm hiện nay.
Phát triển thị trường trái phiếu và tạo hành lang pháp lý cho chứng khoán hóa
các khoản nợ xấu. Xây dựng một thị trường vốn sâu rộng với nhiều công cụ khác
nhau, đặc biệt là việc thiết lập thị trường trái phiếu giúp tạo ra một kênh huy động
vốn thay thế cho ngân hàng. Một số chính sách thúc đẩy thị trường trái phiếu như:
Đơn giản hóa quy trình phát hành trái phiếu với các quy định về phân loại trái phiếu
theo các mức độ rủi ro phù hợp với nhà đầu tư, bảo hiểm cho thị trường trái phiếu.
Cần chuẩn hóa lại mẫu hợp đồng mua bán, sáp nhập các TCTD. Ngoài những
nội dung chính được nêu trong Luật Doanh nghiệp và Thông tư 04/2010/TT-NHNN,
hợp đồng mẫu mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng cần được nghiên cứu và xây
dựng và quy định các lĩnh vực đặc thù như: (i) điều kiện mua lại và sáp nhập, (ii)
quyền và nghĩa vụ các bên, (iii) việc phối hợp giải quyết các khoản nợ tồn đọng của
tổ chức tín dụng bị mua lại/sáp nhập, (iv) các điều khoản khác như giải quyết tranh
chấp và phương án lao động.
Ngân hàng nhà nước cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những
84
trường hợp tập trung gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và những trường
hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế, cho thị trường lao động.
Các giao dịch M&A đang diễn ra khá sôi động và số lượng cũng như tổng giá
trị giao dịch ngày càng gia tăng nhưng số lượng các giao dịch thuộc đối tượng kiểm
soát theo Luật Cạnh tranh là không lớn. Tuy nhiên, đó là những thương vụ có khả
năng tác động tới cạnh tranh trên thị trường sau tập trung ngân hàng có vị trí thống
lĩnh trên thị trường. Việc kiểm soát các giao dịch M&A lớn nhằm giám sát hoạt động
cạnh tranh của ngân hàng sau tập trung để hạn chế khả năng lạm dụng vị trí thống
lĩnh của các ngân hàng này, tránh độc quyền làm giảm phúc lợi xã hội và gây hại cho
thị trường lao động, duy trì cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Ngân hàng có vị trí
thống lĩnh sẽ tác động đối với tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng tiếp cận thị
trường của doanh nghiệp mới. Với xu hướng gia tăng của hoạt động M&A trong thời
gian tới, trong đó sẽ có các thương vụ lớn, thuộc đối tượng kiểm soát tập trung kinh
tế, Ngân hàng nhà nước cần tăng cường giám sát, kiểm soát tập trung trên thị trường.
(Việc giám sát sẽ được thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu về ngân hàng có vị trí thống
lĩnh trên thị trường (được đánh giá theo các chỉ số CR3, HHI)). Tăng cường hợp tác
với cơ quan cạnh tranh các nước trên thế giới để kiểm soát hoạt động tập trung ngân
hàng xuyên biên giới, trong khuôn khổ chương cạnh tranh của các Hiệp định thương
mại tự do (FTAs) đã, đang và sẽ ký kết trong tương lai mà Việt Nam là một bên tham
gia như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định thương mại tự do
EVFTA, Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP, Khu mậu dịch tự do
ASEAN VKFTA. Việc kiểm soát tập trung ngân hàng ở Việt Nam là nhiệm vụ mới
mẻ nên thực sự khó khăn đối với các cơ quan thực thi luật (chẩng hạn Luật cạnh
tranh), đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Khoa học pháp lý cũng chưa
nghiên cứu kỹ về tập trung ngân hàng, do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của các nước
đi trước để trang bị đầy đủ các kiến thức kinh tế, pháp lý để kiểm soát hữu hiệu hiện
tượng tập trung ngân hàng là việc bắt buộc phải thực hiện đối với các nhà lập pháp,
của ngân hàng trung ương cũng như các quản lý ngân hàng thương mại.
85
Mặc dù các ngân hàng đều phải trả giá sau mỗi thương vụ mua bán và sát nhập,
nhưng rõ ràng có thể thấy các ngân hàng nói chung “được nhiều hơn là mất”, Sau gần
4 năm thực hiện tái cơ cấu theo Đề án 254, đến thời điểm này, hệ thống ngân hàng đã
gặt hái được những thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên việc tái cơ cấu có thể đối diện
với 2 trở ngại lớn là:
Sự thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao theo yêu cầu.
Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt
Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một rào cản lớn. Số người lao động
qua đào tạo đang chiếm một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp ứng được những
công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng. Đào tạo đại học và nghề chưa theo sát với
nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề nhân lực là một trở ngại lớn
đối với nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam. Nguy cơ gia tăng
áp lực thất nghiệp cho những lao động trình độ tay nghề và kinh nghiệm thấp và đội
ngũ lao động giản đơn chưa qua đào tạo, từ đó làm tăng áp lực cả cho Nhà nước, cũng
như các doanh nghiệp và xã hội…
Trở ngại này càng tăng trong bối cảnh thất nghiệp ngày càng đè nặng lên hầu hết các
nước. Vì vậy, tái cấu trúc phải gắn chặt chẽ với năng suất và chất lượng, việc đào tạo
là việc hết sức cấp thiết và quan trọng, nếu tái cấu trúc không gắn với hệ thống đào
tạo nguồn lực thì tái cấu trúc cũng chỉ là nhất thời, không có kết quả lâu dài. Điều này
đòi hỏi Chính phủ và Bộ giáo dục đào tạo cần có ngay một chiến lược và lộ trình hợp
lý. Bên cạnh đó, lộ trình tái cơ cấu của ngân hàng thương mại Việt Nam cần rút tỉa
những kinh nghiệm, giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các lợi thế
của, nội hàm và lộ trình cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và
bối cảnh tình hình đất nước sao cho phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển.
Đối với các ngân hàng thương mại
Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt Đề án 254 "Cơ cấu lại hệ thống
các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 2015" với mục đích tái cấu trúc Ngành Ngân
hàng, tinh giảm số lượng ngân hàng để lành mạnh hệ thống. Theo đó đến năm 2017
86
hệ thống ngân hàng chỉ còn khoảng 15-17 ngân hàng, giảm một nửa so với hiện tại.
Đầu năm 2015, Chính phủ tiếp tục có Nghị quyết số 01/NQCP về những nhiệm vụ,
giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội
2015. Trong đó Chính phủ yêu cầu NHNN và các cơ quan, bộ, ngành tạo điều kiện
thúc đẩy nhanh các phương án mua lại, sáp nhập các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở
tự nguyện và đúng pháp luật. Mục tiêu giảm số lượng ngân hàng trong toàn hệ thống
đòi hỏi các ngân hàng tự bản thân phải có sự nỗ lực rất lớn trong hoạt động mới có
thể nâng cao được năng lực cạnh tranh và tồn tại trên thị trường. Do đó, trong thời
gian tới, hoạt động của ngành ngân hàng cũng đòi hỏi phải có sự thay đổi về mọi mặt,
cả quản trị lẫn công tác quản lý rủi ro. Điều này cũng cần tăng cường khả năng kiểm
soát của Cục quản lý cạnh tranh - Cơ quan có chức năng kiểm soát tập trung theo
hướng cơ quan quản lý cạnh tranh nhằm hạn chế mặt tiêu cực của tập trung ngân
hàng, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh đối với các ngân
hàng. Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kinh tế và pháp lý, chính sách và pháp luật cạnh
tranh cho nhân sự của các cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ chức có liên quan.
Ngành ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều chỗ cần sự cải tiến như chúng ta
vẫn thấy là năng lực cạnh tranh, khuôn khổ pháp lý, bộ máy hành chính, hoạt động
không hiệu quả so với các nước trong khu vực. Các nhà quản lý cần tiếp tục đẩy mạnh
tự do hóa tài chính và thị trường dịch vụ ngân hàng để nâng cao thị trường cạnh tranh
giữa các ngân hàng thương mại. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ
cam kết cao hơn cả về phạm vi và mức độ, vì vậy, cần chủ động nâng cao nội lực
nhằm thích ứng tốt với những đỏi hỏi và yêu cầu mới.
Với xu hướng gia tăng của hoạt động M&A trong thời gian tới, trong đó sẽ có
các thương vụ lớn, thuộc đối tượng kiểm soát tập trung kinh tế, cùng với việc tăng
cường giám sát, kiểm soát tập trung trên thị trường, các ngân hàng thương mại cần
lưu ý một số điểm sau đây: ngân hàng/đại diện được ủy quyền của ngân hàng nên
tham vấn với Cục Quản lý cạnh tranh để nắm được quy định/quy trình của Luật Cạnh
tranh khi thực hiện vụ việc M&A có khả năng nằm trong ngưỡng phải thông báo/bị
cấm.
87
Quản trị rủi ro hậu sáp nhập, đây là một trong những yếu tố quyết định thương
vụ M&A có thành công được hay không. Các ngân hàng hậu sáp nhập gặp áp lực cần
phải quản lý được tốt hơn hệ thống quản lý rủi ro của mình, đặc biệt là rủi ro tín dụng
và rủi ro thanh khoản, các khoản nợ xấu cần phải được xử lý trước khi tiến hành sáp
nhập, nếu không thì ngân hàng hậu sáp nhập vẫn chỉ là một ngân hàng không khỏe
mạnh. Bên cạnh đó, quản trị về mặt nhân sự, hoạt động, công nghệ và thương hiệu
cũng là những nội dung quan trọng cần phải được đầu tư và thực hiện một cách cẩn
trọng.
5.4 Hướng nghiên cứu tiếp theo
Từ những giới hạn nêu trên tác giả xin đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo như
sau:
- Hướng nghiên cứu tiếp theo trước tiên là nên giải quyết những hạn chế
đã nêu trên của đề tài đã được trình bày ở phần trên.
- Các kết quả hồi quy bổ sung của mô hình cung cấp một số bằng chứng
trên các kênh thông qua đó tập trung hệ thống ngân hàng có thể làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp. Vì kết quả của mô hình tuy đáng tin cậy và phù hợp với những nghiên cứu
trước đó nhưng không cùng kết quả với hai nghiên cứu của Feldmann trên các nước
công nghiệp và các nước phát triển riêng biệt. Vì vậy, trong tương lai cần nghiên cứu
thêm cả thực nghiệm và lý thuyết ở lĩnh vực tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến thị
trường lao động ở các khu vực khác nữa để xác định rõ kết quả mối quan hệ giữa
chúng.
- Quan trọng nhất, như đã nói ở phần trước, các kênh truyền dẫn từ tập
trung hệ thống ngân hàng đến tỷ lệ thất nghiệp cần phải được phân tích kỹ lưỡng hơn.
Hơn nữa, nên tiếp tục xem xét một nghiên cứu tương tự xuyên quốc gia trong tương
lai, sử dụng những đo lường thay thế tập trung và mẫu quốc gia lớn hơn.
- Nghiên cứu trường hợp của từng quốc gia, theo dõi sát diễn biến của
tập trung ngân hàng, hoạt động của thị trường lao động và sự liên kết giữa hai yếu tố
cũng cần thiết được tiến hành vì mỗi quốc gia có mỗi đặc tính riêng nên tác động của
88
tập trung ngân hàng có mức độ ảnh hưởng cũng là khác nhau. Nghiên cứu sâu hơn có
thể cung cấp hướng dẫn hơn cho các nhà làm chính sách cơ cấu tài chính hiệu quả và
thích hợp nhất cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.
89
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Dữ liệu bảng
Mô hình hồi quy bằng cách sử dụng dữ liệu bảng có những lợi thế sau đây:
- Bằng cách kiểm soát tính không đồng nhất, dữ liệu bảng giảm thiểu độ chệch
trong các kết quả.
- Phần dư của dữ liệu theo bảng liên quan chặt chẽ với nhau, dữ liệu bảng cung
cấp thêm thông tin về những tác động, giảm sự đa cộng tuyến giữa các biến số, tăng
mức độ chính xác của mô hình.
- Dữ liệu bảng có thể giải thích tính động của sự thay đổi của các biến trong
mô hình một cách tốt hơn so với dữ liệu chuỗi thời gian. Nghiên cứu với dữ liệu bảng
giúp gia tăng khả năng quan sát về sự khác biệt trong dữ liệu chéo và qua khoảng thời
gian cho một đơn vị quan sát (ngân hàng thương mại), điều này làm cho ước lượng
hiệu quả hơn (Judge và các cộng sự, 1980).
- Với mục đích tối ưu hóa về mặt thống kê các dữ liệu có sẵn, cách tiếp cận
bằng dữ liệu bảng có thể ước tính cho cả dữ liệu chéo và chuỗi thời gian.
𝒀𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝜷𝑿𝒊𝒕 + 𝒖𝒊𝒕
i = 1, 2 , ...N (dữ liệu chéo) và t = 1, 2, ...T (dữ liệu chuỗi thời gian)
𝒖𝒊𝒕 = 𝝁𝒊 + 𝒗𝒊
Trong đó: α là vecto vô hướng, β là ma trận (k x 1), Xit là ngân hàng thứ i với
biến giải thích K, μi là tác động đặc trưng không thể quan sát được, νi biểu thị phần
dư.
Mô hình hồi quy theo dữ liệu bảng được chia thành mô hình FE (Fixed effects –
tác động cố định) và mô hình RE (Random effects – tác động ngẫu nhiên). Trong mô hình
FE, νi được giả định là tham số cố định được ước lượng và phần dư ngẫu nhiên với νi (độc
lập và phân phối tương tự nhau) cho mọi i và t. Mô hình FE có thể là một chỉ dẫn kỹ thuật
phù hợp nếu so sánh chéo những thay đổi giữa các doanh nghiệp, mô hình giả định hệ số
90
là như nhau cho tất cả các doanh nghiệp, nhưng hệ số chặn là khác nhau. Một đặc tính
quan trọng của mô hình FE là nó sử dụng sự thay đổi của các biến trong mỗi đơn vị quan
sát, bỏ qua sự thay đổi của trung bình ngành.
Theo kết quả, mô hình FE lãng phí một số thông tin về trung bình của từng
đơn vị quan sát, do đó mô hình này không hoàn toàn hiệu quả. Mô hình RE là sự cải
tiến từ mô hình FE. Mô hình RE giải quyết các thông tin còn thiếu trong mô hình FE
bằng cách giả định phân phối của μi. Đặc điểm kỹ thuật của RE xử lý μi như là một
rối loạn ngẫu nhiên với mỗi đơn vị quan sát thứ i hoặc cả nhóm ngành. Mô hình RE
có thể được viết như sau:
𝒚𝒊𝒕 = 𝜷𝑿𝒊𝒕 + 𝜼𝒊𝒕
Trong đó, phần sai số ŋit bao gồm hai thành phần thống kê độc lập, một phần
kết hợp với dữ liệu chéo, phần còn lại vit là với dữ liệu chuỗi.
Phụ lục 2: Danh sách các quốc gia được dùng làm mẫu nghiên cứu
APEC được thành lập vào tháng 11 năm 1989 với 12 thành viên sáng lập: Úc, Nhật
Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái
Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada và Hoa Kỳ.
Hiện nay, APEC gồm 21 thành viên, ngoài 12 thành viên sáng lập, các thành viên
khác bao gồm: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông, Đài
Loan, Mexico,Papua New Guinea, Chile, Peru, Nga và Việt Nam.
Phụ lục 3: Định nghĩa một số biến thêm
- Biến Tiền gửi ngân hàng (Bde): Định nghĩa: Nhu cầu, kì hạn gửi và tiền
gửi tiết kiệm trong ngân hàng tiền gửi. Trong hai hồi quy bổ sung của tác giả, tác giả
đo kích thước của ngành ngân hàng chứ không phải là các hoạt động của nó. Khi ngân
hàng cho vay nhiều hơn khả năng so với kích thước khu vực ngân hàng là vấn đề đối
tình trạng thất nghiệp và khi có một mức độ tương quan đáng kể giữa hai biến, tác
giả thích sử dụng biến ‘tín dụng ngân hàng’ hơn biến ‘tiền gửi ngân hàng’. Mục đích
của 2 biến kiểm soát là để đảm bảo rằng biến 'tập trung ngân hàng’ không đại diện
91
cho các hoạt động hay kích thước cho ngân hàng, hoặc cho sự phát triển khu vực tài
chính nói chung. Ví dụ, các nước có ngành công nghiệp ngân hàng lớn hơn, so với
quy mô của nền kinh tế, có thể có một tỷ lệ tập trung ngân hàng thấp hơn. Nguồn:
Beck và cộng sự (2012)
- Biến Tỷ lệ lãi biên (NIM): Định nghĩa: Tỷ lệ giá trị kế toán của doanh
thu lãi thuần của ngân hàng trong tổng thu nhập. Nguồn: Beck và cộng sự (2012)
- Biến Chi phí quản lý ngân hàng (BOC): Định nghĩa: Tỷ lệ giá trị kế
toán của chi phí quản lý của một ngân hàng trong tổng tài sản của nó. Nguồn: Beck
và cộng sự (2012)
- Biến Quy tắc thương mại quốc tế (ReIT): Định nghĩa: Chỉ số ‘Tự do
thương mại quốc tế’ của EFW, có giá trị từ 0 (hạn chế tối thiểu) và 1 (hạn chế nhất),
bao gồm các khía cạnh sau: thuế đối với thương mại quốc tế, các quy định rào cản
thương mại, kích thước thực tế so với kích thước dự kiến của các ngành thương mại,
tỷ giá chợ đen, và kiểm soát thị trường vốn quốc tế. Tác giả kiểm soát tác động của
quy định pháp luật trên cả thương mại quốc tế và di chuyển vốn quốc tế. Quy định
thương mại quốc tế ít hạn chế hơn có ảnh hưởng đối lập với mở cửa thương mại. Một
mặt, nó làm tăng hiệu quả của phân công lao động giữa các nước, giảm thất
nghiệp. Mặt khác, có thể gây mất việc làm do cạnh tranh nhập khẩu gia tăng. Hạn chế
giao dịch tài chính qua biên giới ít hơn cải thiện việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực
và thu hút dòng vốn FDI, giảm thất nghiêp. Tuy nhiên, nó cũng có thể dẫn đến biến
động luân chuyển vốn như dòng chảy đầu cơ vào ra dừng đột ngột, thất nghiệp gia
tăng. Nguồn: Gwartney và Lawson (2009).
92
Phụ lục 4: Kết quả hồi quy mô hình
- Kiểm tra đa cộng tuyến với tiêu chuẩn hệ số phóng đại hiệp phương sai VIF
→ Các hệ số phóng đại hiệp phương sai VIF đều nhỏ (<10) cho thấy không tồn tại đa
cộng tuyến nghiêm trọng trong mô hình hồi quy.
93
Kết quả hồi quy mô hình gốc 2SLS: -
Kết quả hồi quy mô hình OLS tổng thể:
Kết quả hồi quy OLS cho thấy tập trung ngân hàng có tác động lên tỷ lệ thất
nghiệp. Cụ thể, hệ số tương quan của biến sở hữu nhà nước có dấu âm (- 0,0067) và
có ý nghĩa 1%. Điểm cần lưu ý, đó là hệ số R2 của mô hình ở mức vừa phải, 34,52%.
Điều này có nghĩa, nhìn chung, mô hình này giải thích được tương đối kết quả về tỷ
lệ thất nghiệp của quốc gia. Bên cạnh đó, kiểm định F với giá trị p dưới 0,05 cũng
cho thấy mô hình sử dụng là phù hợp. Tuy nhiên, độ vững và tính hiệu quả của các
hệ số trong phân tích dữ liệu bảng dựa trên phương pháp hồi quy bình phương nhỏ
nhất tổng thể có thể bị nghi ngờ vì mô hình OLS tổng thể không cần quan tâm đến
các yếu tố không thể thu thập được hoặc ảnh hưởng riêng lẻ, đặc thù từng quốc gia,
trong khi vấn đề ảnh hưởng riêng lẻ là một trong những hiện tượng xảy ra thường
xuyên ở những nghiên cứu thực nghiệm (Baltagi, 2005). Do đó, để xử lý vấn đề về
các yếu tố không quan sát được (unobserved heterogeneity), mô hình ảnh hưởng cố
định được sử dụng
94
Kết quả hồi quy mô hình FEM:
Mặc dù mô hình hồi quy cố định với điều chỉnh sai số được sử dụng để xử lý
vấn đề về các biến không đồng nhất phương sai thay đổi, Wintoki và cộng sự (2012)
cho rằng những sai lệch liên quan đến vấn đề nội sinh vẫn tồn tại trong kiểm định mối
quan hệ giữa tập trung ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp. Khi tập trung ngân hàng là yếu
tố nội sinh, kết quả của một số nghiên cứu trước đây sử dụng OLS tổng thể, mô hình
ảnh hưởng ngẫu nhiên (RE) hoặc cố định (FE) để ước tính sẽ bị sai lệch, đặc biệt là
với những dữ liệu bảng ngắn (Cameron Colin, 2007). Để giải quyết vấn đề này, các
nghiên cứu trước đây đã sử dụng ước lượng biến công cụ (ước lượng IV). Tuy nhiên,
vấn đề phát sinh khi sử dụng ước lượng biến biến công cụ là thường khó kiếm được
biến công cụ phù hợp bởi vì nếu chọn những biến công cụ yếu, ước lượng IV có thể
bị chệch (Mileve, 2007). Nói cách khác, sử dụng ước lượng IV mà không chọn được
biến công cụ phù hợp thì các vấn đề của ước lượng OLS cũng sẽ không được cải
thiện. Từ đó, mô hình dữ liệu bảng động sử dụng biến công cụ thông qua 2 phương
pháp được sử dụng là: phương pháp bình phương bé nhất 2 giai đoạn 2SLS và phương
pháp moment tổng quát 2 giai đoan GMM.
95
Kết quả mô hình hồ quy 2SLS:
Thêm biến Stock market activity:
Thêm biến Regulation of international trade:
96
Thêm biến FDI inflows, FDI outflows:
Thêm biến Ethnictensions:
97
Thêm biến Aged 0-14, aged 65+:
Thêm biến Bank deposits, bỏ biến Bank credit:
98
Thêm biến bankdeposits:
Thêm biến Net interest margin:
99
Thêm biến Bank overheadcost:
Mô hình có ý nghĩa phát triển GMM cũng dùng biến công cụ được đề
xuất sử dụng theo như nghiên cứu của Arellano và Bond (1991).
Thêm biến Stockmarket activity:
100
101
Thêm biến Regulation of international trade:
Thêm biến FDI inflows, FDI outflows:
102
103
Thêm biến Ethnics tension:
104
Thêm biến Aged 0-14, age 65+
105
Thêm biến Bank deposits, bỏ biến Bank credit
106
Thêm biến Net interest margin:
107
Thêm biến Bank overheadcosts:
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2014, 2015. Bộ Công Thương, Cục
Quản Lý Cạnh Tranh, Hà Nội.
2. Dương Kha, 2012. Tập bài giảng Mô hình tài chính. Đại học kinh tế thành phố
Hồ Chí Minh
3. Damodar N. Gujarati, 2004. Kinh tế lượng cơ sở. Chương trình giảng dạy kinh
tế Fullbright. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch Băng Tâm, 2005.
4. Kyenes. Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ. NXB Giáo dục,
1994.
5. Nguyễn Đình Thọ, 2011. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh
– Thiết kế và thực hiện. Nhà xuất bản lao động xã hội
6. Nguyễn Bá Ngọc và cộng sự, 2014. Báo cáo APEC: nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu chuỗi cung ứng. Bộ Lao Động Thương
Binh và Xã Hội, Viện Khoa Học Lao Động và Xã Hội.
7. Nguyễn Minh Tuấn và Trần Nguyễn Minh Ái, 2015. Kinh tế học vĩ mô.
Nhà xuất bản Kinh Tế TP Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Quang Hiển: “Thị trường lao động thực trạnh và giải pháp, Nhà xuất
bản thống kê 2001.
9. Trần Thị Thu Hường - Nguyễn Bích Ngọc “M&A ngân hàng tại Việt Nam:
Thực trạng, động cơ và thách thức trong thời gian tới” (TC Thị trường - Tài chính -
Tiền tệ số 9.5.2014)
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
10. Aboagye, A. Q. Q., Akoena, S. K., Antwi-Asare, T. O., & Gockel, A. F., 2008.
Explaining interest rate spreads in Ghana. African Development Review, 20(3),
378–399.
11. Akerlof, G. A., Dickens, W. T., & Perry, G. L, 1996. The macroeconomics of
low inflation. Brookings Papers on Economic Activity, 1, 1-59
109
12. Akerlof, G. A., Dickens, W. T., & Perry, G. L., 2000. Near-rational wage and
price setting and the long-run Phillips curve. Brookings Papers on Economic
Activity, 1 , 1–44
13. Allen, F. and Gale, D., 2000. Comparing Financial Systems, Cambridge and
London: MIT Press.
14. Allen, F. and Gale, D., 2003. Competition and Financial Stability. Journal of
Money, Credit, and Banking, 36, pp. 433-480.
15. Athanasoglou, P.P., Brissimis, S.N. and Delis, M.D., 2005. Bank-Specific,
Industry-Specific and Macroeconomic Determinants of Bank Profitability. Bank of
Greece Working Paper, No. 25.
16. Banking Supervision Report 2010, 2011. The Central Bank Of The Russian
Federation.
17. Barth, J.R., Caprio, G. Jr and Levine, R., 2004. Bank regulation and
supervision: what works best? Journal of Financial Intermediation, Vol. 13 No. 2,
pp. 205‐248.
18. Bassanini, A., & Duval, R., 2006. The determinants of unemployment across
OECD countries: Reassessing the role of policies and institutions. OECD Economic
Studies, 42, 7–86.
19. Besanko, D. and Thakor, A.V., 1993. Relationship Banking, Deposit
Insurance and Bank Portfolio, in: Mayer, C. and Vives, X. (eds.): Capital Markets
and Financial Intermediation, Cambridge, UK: Cambridge University Press, 292-
318.
20. Beck, T., Demirguc-Kunt, A. and Levine, R., 2003 .Bank Concentration and
Crises. NBER Working Paper No. 9921.
21. Beck, T., Demirgüc¸ -Kunt, A., & Levine, R., 2006. Bank concentration,
competition, and crises: First results. Journal of Banking and Finance, 30(5), 1581–
1603.
22. Beck, T., Demirgüc¸ -Kunt, A., Levine, R., Cihak, M., & Feyen, E. H. B.,
2012. Financial structure dataset (updated September 2012).
110
23. Black, S. E., & Strahan, P. E., 2002. Entrepreneurship and bank credit
availability. Journal of Finance, 57(6), 2807–2833.
24. Blanchard, O., & Giavazzi, F., 2003. Macroeconomic effects of regulation and
deregulation in goods and labor markets. Quarterly Journal of Economics, 118(3),
879–907.
25. Blomström, M., Fors, G., & Lipsey, R. E., 1997. Foreign direct investment
and employment: Home country experience in the United States and Sweden.
Economic Journal, 107(445), 1787–1797.
26. Berger, A. et al, 1995. The Transformation of the U.S. Banking Industry: What
a Long, Strange Trip it’s Been. Brookings Papers on Economic Activity, 2.
27. Bill Mitchell, 2013. A case for public banking. Economics.
28. Boot, A.W. and Greenbaum, S., 1993. Bank Regulation, Reputation, and
Rents: Theory and Policy Implications, in: Mayer, C. and Vives, X. (eds.): Capital
Markets and Financial Intermediation, Cambridge, UK: Cambridge University Press,
292-318.
29. Boyd, J.H. and Runkle, D.E., 1993. Size and Performance of Banking Firms:
Testing the Predictions of Theory. Journal of Monetary Economics, 31, pp. 47-67
30. Boyd, J.H., and De Nicolo, G., 2005. The Theory of Bank Risk-Taking and
Competition Revisited. Journal of Finance, forthcoming.
31. Boyd, J. H., De Nicolò, G., & Jalal, A. M., 2006. Bank risk-taking and
competition revisited: New theory and new evidence, IMF Working Paper 06/297.
Washington, DC: IMF
32. Camen Reinhart, Mohsin S.Khan, 1995. Capital flows in the APEC region,
International Monetary Fund.
33. Cañonero, G., 1997. Bank Concentration and the Supply of Credit in
Argentina. IMF Working Paper, WP/97/40, April.
34. Chong, B.S., 1991. Effects of Interstate Banking on Commercial Banks’ Risk
and Profitability. Review of Economics and Statistics, 73, pp. 78-84.
35. Claessens, S., & Laeven, L., 2005. Financial dependence, banking sector
111
competition, and economic growth. Journal of the European Economic Association,
3(1), 179–207.
36. Cohen, J. S., 1967. Financing industrialization in Italy, 1984-1914: The
partial tranformation of a Late-Coner. Journal of Economic History, 27(3), 363-82.
37. Corvoisier, S., & Gropp, R., 2002. Bank concentration and retail interest
rates. Journal of Banking and Finance, 26(11), 2155–2189.
38. de Castro Almeida, D. B., & Jayme, F. G., Jr., 2008. Bank consolidation and
credit concentration in Brazil (1995–2004). CEPAL Review, 95, 155–171.
39. De Jonghe, O., & Vennet, R. V., 2008. Competition versus efficiency: What
drives franchise values in European banking? Journal of Banking and Finance, 32(9),
1820–1835.
40. Demsetz, H., 1973. Industry structure, market rivalry, and public policy.
Journal ofLaw and Economics, 16(1), 1–9.
41. Demirgüc¸ -Kunt, A., Laeven, L., & Levine, R., 2004. Regulations, market
structure, institutions, and the cost of financial intermediation. Journal ofMoney,
Credit, and Banking, 36(3 (Pt. 2)), 593–622.
42. Dewatripont, M., and E. Maskin, 1995. Credit and efficiency in centralized
economics. Review of Economic Studies, 62(4), 541-55
43. Dillip K. Das-Gupta, 2005. Asian economy and finance: a post – crisis
perspective. Innovations in Financail Markets and Institutions
44. Ernst & Young, 2013. Banking in emerging markets Seizing opportunities,
overcoming challenge, Country reports.
45. Evrensel, A. Y., 2008. Banking crisis and financial structure: A survival-time
analysis. International Review of Economics and Finance, 17(4), 589–602.
46. Felbermayr, G., Prat, J., & Schmerer, H.-J., 2011. Trade and unemployment:
What do the data say? European Economic Review, 55(6), 741–758.
47. Feldmann, H., 2006. Credit market regulation and labor market performance
around the world. Kyklos, 59(4), 497–525.
112
48. Feldmann, H., 2009. The unemployment effects of labor regulation around the
world. Journal of Comparative Economics, 37(1),76–90.
49. Feldmann, H., 2010. Economic freedom and unemployment. In J. D.
Gwartney, J. C. Hall, & R. A. Lawson (Eds.), Economic freedom of the world: 2010
annual report (pp. 187–201). Vancouver (BC): Fraser Institute.
50. Feldmann, H., 2011. Central bank independence, wage bargaining and labor
market performance: New evidence. Southern Economic Journal, 77(3), 692–725.
51. Feldmann, H., 2012b. Real interest rate and labor market performance in
developing countries. Economics Letters, 117(1), 200–203.
52. Feldmann, H., 2012c. Ethnic fractionalization and unemployment. Economics
Letters, 117(1), 192–195.
53. Feldmann, H., 2012d. Product market regulation and labor market
performance around the world. Labour, 26(3), 369–391.
54. Feldmann, H., 2013. Banking system concentration and labor market
performance in industrial countries. Contemporary Economic Policy, 31(4), 719–
732.
55. Fernández, A. I., González, F., & Suárez, N., 2010. How institutions and
regulation shape the influence ofbank concentration on economic growth:
International evidence. International Review ofLaw and Economics, 30(1), 28–36.
56. Fitoussi, J.-P., Jestaz, D., Phelps, E. S., & Zoega, G., 2000. Roots of the recent
recoveries: Labor reforms or private sector forces? Brookings Papers on Economic
Activity, 1, 237–311
57. Gerschenkron, A. Economic Backwardness in Historical Perspective: A Book
of Essays. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press, 1962.
58. González, V. M., & González, F., 2008. Influence of bank concentration and
institutions on capital structure: New international evidence. Journal ofCorporate
Finance, 14(4), 363–375.
113
59. Groshen, E. L., & Schweitzer, M. E., 1999. Identifying inflation’s grease and
sand effects in the labor market. In M. Feldstein (Ed.), The costs and benefits ofprice
stability (pp. 273–308). Chicago (IL): University of Chicago Press.
60. Grossman, G. M., & Rossi-Hansberg, E., 2008. Trading tasks: A simple theory
of off shoring. American Economic Review, 98(5), 1978–1997.
61. Gujarati, D., 2004. Basic Econometrics, United States Military Academy,
West Point, PP 636-652.
62. Guzman, M. G., 2000. Bank structure, capital accumulation and growth: A
simple macroeconomic model. Economic Theory, 16(2), 421–455.
63. Gwartney, J. D., & Lawson, R. A., 2009. Economic freedom of the world:
2009 annual report. Vancouver (BC): Fraser Institute.
64. Hanley, A., Ennew, C., & Binks, M., 2006. The price of UK commercial credit
lines: A research note. Journal of Business Finance and Accounting, 33(5–6), 932–
938
65. Hellmann, Thomas F., Kevin C. Murdock, and Joseph E. Stiglitz, 2000.
Liberalization, Moral Hazard in Banking, and Prudential Regulation: Are Capital
Requirements Enough?. American Economic Review, 90(1): 147-165
66. Heckman, J. J., & Pagés, C. (Eds.). 2004. Law and employment: Lessons from
Latin America and the Caribbean. Chicago (IL): University of Chicago Press.
67. Holden, K. and El-Bannany, M., 2006. Investment in Information Technology
Systems and Other Determinants of Bank Profitability in the UK.
68. Horst Feldmann, 2015. Banking system concentration and unemployment in
developing countries, Journal of Economic and Business, 77(2015) 60-78.
69. Horst Feldmann, 2013. Banking system concentration and labor market
performance in industry countries, Contemporary Economic Policy, 31 (4), pp.719-
732.
70. Jackson, J. E., & Thomas, A. R., 1995. Bank structure and new business
creation: Lessons from an earlier time. Regional Science and Urban Economics,
25(3), 323–353.
114
71. Jeon, Y., & Miller, S. M., 2005. Bank performance: Market power or efficient
structure? Department of Economics Working Paper 2005–23. Storrs (Conn.):
University of Connecticut.
72. Ines Orozco, 2014. An Analysis of the Banking System Structure in Chile,
Colombia and Peru in Light of the Creation of the Integrated Latin American Market
– MILA Market, The Leonard N. Stern School of Business Glucksman Institute for
Research in Securities Markets.
73. Kang H. Park, 2012. Concentration and Competition in Commercial Banking:
How does China differ from South Korea? Department of Economics and Finance
Southeast Missouri State University Cape Girardeau, MO 63701
74. Kousted, J., Rand, J., Tarp, F., Nguyen, D.T., Nguyen, V.H., Ta,
M.T. and Luu, D.K., 2005. From Mono Bank to Commercial Bank: Financial Sector
Reforms in Vietnam, Institute of Southeast Asian
75. Koutsomanoli-Filippaki, A., Margaritis, D., & Staikouras, C. (2009).
Efficiency and productivity growth in the banking industry of central and eastern
Europe. Journal ofBanking and Finance, 33(3), 557–567.
76. Kim, M., Kristiansen, E. G., & Vale, B., 2012. Life-cycle patterns of interest-
rate mark-ups in small-firm finance. Scandinavian Journal ofEconomics, 114(2),
629–657.
77. Koutsomanoli-Filippaki, A., Margaritis, D., & Staikouras, C., 2009. Efficiency
and productivity growth in the banking industry of central and eastern Europe.
Journal ofBanking and Finance, 33(3), 557–567.
78. Laeven, L., & Valencia, F., 2008. Systemic banking crises: A new database,
Working Paper 08/224. Washington, DC: IMF.
79. Laeven, L., & Valencia, F., 2010. Resolution ofbanking crises: The good, the
bad, and the ugly, Working Paper 10/146. Washington,DC: IMF.
80. Le Trung Hai, 2014. Market concentration and competition in Vietnamese
banking Sector, State Bank of Vietnam - Banking Academy of Vietnam, pp.57406.
81. Lipsey, R. E., Sjöholm, F., & Sun, J., 2010. Foreign ownership and
115
employment growth in Indonesian manufacturing, NBER Working Paper 15936.
Cambridge (Mass.): NBER.
82. Marfels, C., 1971, Absolute and relative measures of concentration
reconsidered, Kyklos, vol. 24, no. 4, 753-766
83. Martinez Peria, M. S., & Mody, A., 2004. How foreign participation and
market concentration impact bank spreads: Evidence from Latin America, Policy
Research Working Paper 3210. Washington, DC: World Bank.
84. Matutes, Carmen and Vives, Xavier, 2000. Imperfect Competition, Risk
Taking and Regulation in Banking, European Economic Review 44, 184-216.
85. Maurice Doll, 2010. Bank concentration, competition and financial stability,
Master thesis International Economics and Finance, Tilburg University.
86. Mayer, C., 1988. New Issues in Corporate Finance. European Economic
Review, 32(5), 1167–83.
87. Mayer, C., 1990. Financial Systems, Corporate Finance, and Economic
Development, in Asymmetric Information, Corporate Finance, and Investment,
edited by R. G. Hubbard. Chicago: University of Chicago Press, 307–32.
88. McHugh, J. (2002). Wage centralization, union bargaining, and
macroeconomic performance, Working Paper 02/143. Washington, DC
89. Nickell, S., Nunziata, L., & Ochel, W., 2005. Unemployment in the OECD
since the 1960s. What do we know? Economic Journal, 115(500), 1–27.
90. OECD, 2008. Competition and regulation in retail banking. Paris: OECD.
91. Ostry, J. D., Prati, A., & Spilimbergo, A., 2009. Structural reforms and
economic performance in advanced and developing countries, Occasional Paper 268.
Washington, DC: IMF.
92. Pagano, M., 1993. Financial market and growrh: An overview. European
Economic Review, 37(2-3), 613-22.
93. Peek, J. and Rosengren, E., 1996. Small Business Credit Availability: How
Important is Size of the Lender? In Universal Banking: Financial System, Design
Reconsidered, edited by Saunders and Walter, Irwin Publishing.
116
94. Peltzman, S., 1977. The gains and losses from industrial concentration.
Journal ofLaw and Economics, 20(2), 229–263.
95. Petersen, M. A., & Rajan, R. G., 1995. The effect of credit market competition
on lending relationships. Quarterly Journal of Economics, 110(2), 407–443.
96. Rujun Wang, B.Ec, 2014. The relationship between banking concentration
and economic growth, A Thesis, The Graduate School of Arts and Sciences of
Georgetown University.
97. Ratti, R. A., Lee, S., & Seol, Y., 2008. Bank concentration and financial
constraints on firm-level investment in Europe. Journal of Banking and Finance,
32(12), 2684–2694
98. Ross Levine, 2000. Bank concentration: Chile and international
comparisions, Economic Papers.
99. Rose, P., 1999 Commercial Bank Management. Boston: McGraw-Hill.
100. Saeed, A., & Esposito, F. (2012). Bank concentration and financial
constraints on firm investment in UK. Studies in Economics and Finance, 29(1), 11–
25.
101. Shazida Jan Mohd Khan, 2014. Concentration in Southest Asia banking.
American Journal of Economics. 4(3): 150-158
102. Sufian, F., 2011. Profitability of the Korean banking sector: Panel evidence
on bank-specific and macroeconomic determinants.Journal of Economics and
Management, 7(1), 43–72.
103. Sathye, M. ,2002 The Impact of Foreign Banks on Market Concentration: The
Case of India. Applied Econometrics and International Development (AEEADE),
Vol. 2-1, pp. 7-20.
104. Thao Ngoc Nguyen, Chris Stewart, 2013. Concentration and efficiency in the
Vietnamese banking system between 1999 and 2009: A structural model
approach, Journal of Financial Regulation and Compliance, Vol. 21 Iss: 3, pp.268 –
283.
117
105. Thorsten Beck, Asli Demirgüç-Kunt and Ross Levine, 2005. Bank
Concentration, Competition, and Crises: First results.
106. Thorsten Beck, Asli Demirguc-Kunt and Ross Levine, 2003. Bank
concentration and csrises, World Bank Policy Research Working, pp.3041
107. Tovar, J., Jaramillo, C., & Hernández, C. E. (2011). Risk, concentration and
market power in the banking industry: Evidence from the Colombian system (1997–
2006). Banks and Bank Systems, 6(1), 49–61.
108. Tregenna, F., 2009. The fat years: The structure and profitability of the US
banking sector in the pre-crisis period. Cambridge Journal ofEconomics, 33(4), 609–
632.
109. Xiaoqing (Maggie) Fu1 , Yongjia (Rebecca) Lin2 and Philip Molyneux
(2010). Bank Competition and Financial Stability in Asia Pacific. Journal of Banking
& Finance, volume 38, p 64-77
110. Uhomoibhi Toni Aburime, 2006. Concentration implications of the banks
consolidation exercise in Nigeria.
111. Wyplosz, C., 2001. Do we know how low should inflation be? In A. García
Herrero, V. Gaspar, L. Hoogduin, J. Morgan, & B. Winkler (Eds.), Why price
stability? (pp. 15–33). Frankfurt am Main: ECB.
112. Wooldridge, J. M. (2002). Econometric analysis of cross section and panel
data. The MIT press, PP 142-179
Trang web của Ngân hàng thế giới : lấy dữ liệu các biến: Biến dòng vốn FDI
Website tham khảo
vào và ra, Biến GDP bình quân đầu người, Biến tỷ lệ thuế thu nhập biên, Biến
tỷ lệ lạm phát, Biến GDP, Biến mở cửa, Biến nhân khẩu học, Biến Quy tắc thị
trường sản phẩm, Biến Lãi suất thực tế, Biến tăng trưởng kinh tế.
http://data.worldbank.org/
Trang web của Tổ chức Lao động Quốc tế: lấy dữ liệu các biến: Biến Tỷ lệ
thất nghiệp.
118
Trang web của Quỹ tiền tệ quốc tế: lấy dữ liệu biến: Biến Khủng hoảng ngân
www.ilo.org
hàng hệ thống.
www.imf.org