BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

------------------------------------------------------------

NGUYỄN TIỂU MY

ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP TRUNG HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG LÊN THẤT NGHIỆP Ở CÁC

NƯỚC THÀNH VIÊN KHỐI APEC

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. VÕ XUÂN VINH

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2015

Lời Cam Đoan

Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số

liệu, kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này trung thực và chưa từng

được công bố ở các nghiên cứu khác.

Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Nguyễn Tiểu My

Mục lục

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHƯƠNG 1 : GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...................................................................... 1

1.1 Lý do chọn đề tài. .............................................................................................. 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu. ......................................................................................... 2

1.3 Vấn đề nghiên cứu ............................................................................................. 2

1.4 Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 3

1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3

1.6 Ý nghĩa của đề tài .............................................................................................. 3

1.7 Bố cục của Luận văn .......................................................................................... 4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP TRUNG

NGÂN HÀNG LÊN THẤT NGHIỆP .......................................................................................... 7

2.1. Cơ sở lý thuyết về ngân hàng: .............................................................................. 7

2.1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại ................................................................ 7

2.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại ........................................... 8

2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn ................................................................................. 8

2.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn .................................................................................... 8

2.1.2.3 Hoạt động cung cấp dịch vụ ............................................................................ 9

2.2. Tổng quan về tập trung ngân hàng: ..................................................................... 10

2.2.1. Thuyết Pro-Concentration ................................................................................10

2.2.2. Thuyết Pro-Deconcentration (PD) ..................................................................12

2.2.3. Các chỉ số để tính mức độ tập trung ngân hàng ............................................ .15

2.3. Tổng quan về thất nghiệp. .................................................................................. 17

2.3.1. Định nghĩa thất nghiệp ......................................................................................17

2.3.2. Các nguyên nhân đến thất nghiệp ....................................................................17

2.3.3 Ảnh hưởng của thất nghiệp đến kinh tế xã hội ................................................22

2.4. Cơ sở lý thuyết về việc tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên thất nghiệp...................23

2.4.1. Mô hình cơ cấu - hành vi - hiệu quả (Structure-Conduct-Performance

paradigm)............................................................................................................................23

2.4.2. Thuyết cấu trúc hiệu quả (Efficient Structure Hypothesis) ............................25

2.5. Kết quả các nghiên cứu lý thuyết: .................................................................. 26

2.6. Kết quả các nghiên cứu thực nghiệm: ............................................................ 27

2.6.1.Tác động của tập trung ngân hàng lên chi phí của các trung gian tài chính (lãi

biên, khả năng sinh lởi) ......................................................................................................27

2.6.2.Tác động của tập trung ngân hàng sự thành lập và tăng trưởng doanh

nghiệp.................................................................................................................................31

2.6.3.Tác động của tập trung ngân hàng lên sự thành lập và tăng trưởng doanh

nghiệp.................................................................................................................................33

2.6.4. Tác động của tập trung ngân hàng lên thất bại ngân hàng và khủng hoảng

ngân hàng hệ thống ............................................................................................................35

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TẬP TRUNG NGÂN HÀNG VÀ THẤT NGHIỆP

Ở CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN APEC .................................. ........................................38

3.1. Tổng quan về APEC .................................................................................................... 38

3.2. Mối quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên khối APEC ...................................... 39

3.3. Thực trạng tập trung ngân hàng ở các nước thành viên khối APEC ........................ 41

3.4. Thực trạng thất nghiệp ở các nước thành viên khối APEC ....................................... 51

CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...... 53

4.1. Mô hình thực nghiệm ........................................................................................ 53

4.1.1. Giới thiệu các biến độc lập và phụ thuộc được sử dụng trong mô hình ........53

4.1.2. Mô hình thực nghiệm ........................................................................................58

4.2. Ưu điểm phương pháp nghiên cứu ..................................................................... 59

4.3. Dữ liệu và mẫu quan sát. .................................................................................... 61

4.3.1. Thu thập và xử lý dữ liệu ..................................................................................61

4.3.2 Sự phù hợp của kích thước mẫu .......................................................................62

4.4. Kết quả thực nghiệm ....................................................................................... 63

4.4.1. Thống kê mô tả các biến trong mô hình: ................................................. 63

4.4.2. Kết quả hồi quy mô hình ......................................................................... 64

4.4.2.1. Ma trận tương quan giữa các biến .................................................................64

4.4.2.2 Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến ...............................................................65

4.4.2.3 Kết quả hồi quy ..............................................................................................66

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ............................................................................................................... 75

5.1 Kết luận: ........................................................................................................... 75

5.2 Hạn chế của đề tài.: .......................................................................................... 77

5.3 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tích cực của tập trung ngân hàng: 78

5.3.1. Gợi ý một số giải pháp chung cho các quốc gia thành viên khối APEC .......78

5.3.2 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tập trung ngân hàng đối với Việt

Nam.............................. .......................................................................................................82

5.4 Hướng nghiên cứu tiếp theo: ............................................................... ………88

PHỤ LỤC

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết có thể giúp xác định tác động của tập trung

ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp...............................................................26

Bảng 2.5: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm tác động của tập trung ngân hàng ảnh

hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp.......................................................................................37

Bảng 3.1: biểu đồ thể hiện thực trạng bình quân tập trung ngân hàng của các nước

APEC........................................................................................................................42

Bảng 3.2: Các thương vụ M&A của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2015…47

Bảng 3.3: Thực trạng tình hình thất nghiệp ở các quốc gia thành viên

APEC........................................................................................................................51

Bảng 4.1: Tổng hợp các nghiên cứu về các biến kiểm soát ảnh hưởng tỷ lệ thất nghiệp

dùng trong mô hình thực nghiệm.............................................................................57

Bảng 4.2: Nguồn dữ liệu........................................................................................ ..61

Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến.................................................................... ….63

Bảng 4.4: Bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến.........................................64

Bảng 4.5: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai

VIF............................................................................................................................65

Bảng 4.6: Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi phần dư - Greene

(2000)........................................................................................................................66

Bảng 4.7: Kết quả kiểm tra kiểm tra hiện tượng tự tương quan phần dư Wooldridge

(2002) và Drukker (2003).........................................................................................67

Bảng 4.8: Kết quả hồi quy mô hình hồi quy GMM sử dụng biến công

cụ..............................................................................................................................68

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Thuyết cấu trúc hiệu quả

EH (Efficient Structure Hypothesis)

EFW (Economic Freedom of the Tự do kinh tế thế giới

World)

FEM (Fixed effects model) Mô hình tác động cố định

Phương pháp moment tổng quát

GMM (Generalized Least Square)

PD (Pro-Deconcentration) Thuyết không ủng hộ tập trung ngân hàng

Thuyết cơ cấu – hành vi – hiệu quả.

SCP (Structure-Conduct- Performance)

Phương pháp bình phương bé nhất 2 giai đoạn

2SLS (Two Stage Least Square)

M&A Sáp nhập và mua lại

NHTM Ngân hàng Thương Mại

NHNN Ngân hàng Nhà Nước

NH Ngân hàng

TCTD Tổ chức Tín Dụng

APEC Cộng Đồng Kinh Tế ASEAN

Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Chiến Lược Xuyên

TPP Thái Bình Dương

TS Tiến sĩ

PGS Phó Giáo sư

Maritime Bank Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam

HDBank Ngân hàng Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh

Sài Gòn, SCB Ngân hàng Sài Gòn

SHB Ngân hàng Sài Gòn-Hà Nội

Sacombank Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín

ROA Tỷ suất sinh lời trên tài sản

Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu ROE

Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam BIDV

Ngân hàng TMCP Đệ Nhất Ficombank

Ngân hàng TMCP Việt Nam Tín Nghĩa TinNghiaBank

Ngân hàng TMCP Phương Tây WesternBank

Ngân hàng TMCP Phát Triển Nhà Đồng Bằng

Sông Cửu Long MHB

Ngân hàng TMCP Phát Triển Mê Kong MDB

Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội Habubank

Ngân hàng Đại Á Đại Á bank

tỷ lệ thất nghiệp UR

Tập trung ngân hàng BC

Biến Tín dụng ngân hàng BCre

Quy tắc thị trường tín dụng CMR

Thương lượng tập trung CCB

Dòng vốn FDI vào và ra FDIin, FDIout

GDP bình quân đầu người GDPCa

Tỷ lệ thuế thu nhập biên Itax

Tỷ lệ lạm phát INF

Chênh lệch sản lượng Ogap

Mở cửa Open

Lãi suất thực tế RIR

Hoạt động thị trường chứng khoán SMA

Căng thẳng sắc tộc ET

1

CHƯƠNG 1:

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1.1. Lý do chọn đề tài

Trong điều kiện kinh tế thị trường, thất nghiệp là vấn đề mang tính toàn cầu,

nó không loại trừ một quốc gia nào, cho dù quốc gia đó là nước đang phát triển hay

nước có nền công nghiệp phát triển. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các mặt

kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia. Những hậu quả mà nó gây ra không dễ

gì khắc phục được trong một thời gian ngắn.

Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) mới đây đã công bố những vấn đề thu hút

mối quan tâm nhiều nhất của các nhà lãnh đạo quốc tế trong vòng 12-18 tháng tới và

thất nghiệp đứng ở vị trí thứ 2 trong danh sách các vấn đề "nóng" toàn cầu là tình

trạng thiếu việc làm. Dù kinh tế thế giới đang bắt đầu hồi phục sau khủng hoảng

nhưng số người thất nghiệp trên thế giới không ngừng tăng. Rõ ràng, tổ chức này

đang không thể lạc quan với vấn nạn này. Đây là lần đầu tiên trong vòng 10 năm trở

lại đây, "thất nghiêp" trở lại trong bản báo cáo thường niên.

Không riêng đối với Việt Nam, xuất phát từ một nước nghèo, có nền kinh tế

kém phát triển, dân số tăng nhanh trong nhiều thập kỷ qua, thất nghiệp (đặc biệt là

thất nghiệp ở khu vực thành thị) là một vấn đề gây sức ép rất lớn đối với các nhà

hoạch định chính sách cũng như sự lo lắng đối với từng người lao động.

Do vậy, tìm ra nguyên nhân để có giải pháp giảm tỷ lệ thất nghiệp, bảo đảm

việc làm, ổn định đời sống cho người lao động trở thành mục tiêu quan trọng của mỗi

quốc gia. Ngoài những nguyên nhân đã được đề cập thường xuyên như: chất lượng

lao động thấp, cung cầu lao động mất cân đối, suy giảm tăng trưởng kinh tế…tác giả

muốn nhắc tới một yếu tố chưa từng được nhắc đến nhưng có tác động đáng kể đến

tình trạng thất nghiệp đó là sự tập trung của hệ thống ngân hàng. Trong khi hệ thống

ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển và tăng trưởng kinh tế.

Nhưng kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, hệ thống tài chính và ngân

hàng bị căng thẳng, để lộ nhiều điểm yếu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến toàn bộ nền

2

kinh tế. Chủ đề tập trung ngân hàng cũng là vấn đề quan tâm hàng đầu của các cuộc

tranh luận trong những năm gần đây (điển hình là Việt Nam) vì nhiều lý do (như sự

toàn cầu hóa trong vĩnh vực ngân hàng). Nhiều thị trường ngân hàng quốc gia đã hợp

nhất đáng kể, làm ảnh hưởng, thay đổi các quy định và công nghệ. Hiện đã có các

hoạt động sáp nhập đáng kể giữa các nhóm ngân hàng lớn (bao gồm cả việc mở rộng

qua biên giới), làm tăng vấn đề về tác động của việc gia tăng tập trung cả ở mức độ

toàn cầu và quốc gia. Trong đó ảnh hưởng của tập trung ngân hàng đến các kênh mà

thông qua đó nó tác động đến tỷ lệ thất nghiệp là không hề nhỏ. Hơn nữa, do hệ quả

của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần đây, nhiều quốc gia công nghiệp, đặc

biệt ở các nước đang phát triển đã trải qua cả việc gia tăng của tập trung hệ thống

ngân hàng và suy giảm trong hoạt động thị trường lao động. Như vậy, việc hiểu và

đo lường hiện trạng thất nghiệp do xu hướng này gây ra rất có ý nghĩa đối với các

nhà hoạch định chính sách của mỗi quốc gia, nhất là sau giai đoạn khủng hoảng tài

chính như hiện nay.

Để làm rõ hơn về vấn đề này, tác giả đã chọn đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng

của tập trung hệ thống ngân hàng lên thất nghiệp ở các nước thành viên APEC”

để làm luận văn thạc sĩ của mình.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu này nhằm mục tiêu kiểm định tập trung ngân hàng có thực ảnh

hưởng đến tình trạng thất nghiệp của các quốc gia khối APEC không? Nếu có ảnh

hưởng thì ảnh hưởng ra sao, mức độ tác động của việc tập trung ngân hàng đó như

thế nào?

1.3 Vấn đề nghiên cứu

Từ mục tiêu nghiên cứu trên, luận văn sẽ tập trung giải quyết các vấn đề sau:

Một là, đúc kết và tổng hợp các bằng chứng thực nghiệm trên thế giới về tập

trung ngân hàng ảnh hưởng đến những yếu tố mà đồng thời có ảnh hưởng đến tỷ lệ

thất nghiệp.

3

Hai là, dùng mô hình thực nghiệm để kiểm định tập trung ngân hàng ảnh

hưởng như thế nào đến tỷ lệ thất nghiệp, mức độ tác động của nó ra sao?

Ba là, dựa trên các kết quả nghiên cứu để đưa ra các gợi ý về mặt chính sách

nhằm gia tăng những tác động có lợi của tập trung ngân hàng cũng như giảm thiểu

mặt hạn chế nhằm cải thiện tình hình thất nghiệp.

1.4 Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu dùng dữ liệu được thu thập từ năm 1996 đến năm 2014 để tạo

ra bộ dữ liệu bảng (Panel data) theo dạng bảng động (Dynamic data). Dữ liệu được

thu thập và tổng hợp từ IMF và World Bank.

Bài nghiên cứu áp dụng mô hình tác động cố định (Fixed effect model) và ước

lượng bình phương tối thiểu (OLS) với hai phương pháp bình phương bé nhất hai giai

đoạn (Two - Stage Least Squares - 2SLS) và phương pháp ước lượng Moment tổng

quát (Generalized Method of Moments - GMM) để tiến hành kiểm định các mô hình

trong bài nghiên cứu và các biến được sử dụng trong bài nghiên cứu sẽ được mô tả

rõ hơn trong chương 3.

Bài nghiên cứu sử dụng phần mềm Stata 11 để thực hiện định lượng phục vụ

cho việc kiểm định.

1.5 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động tập trung của các ngân hàng và tỷ lệ thất

nghiệp của các nước thành viên khối APEC.

Phạm vi nghiên cứu: Các hoạt động tập trung của các ngân hàng và tỷ lệ thất

nghiệp của các nước thành viên khối APEC giai đoạn 1996-2014.

1.6 Ý nghĩa của đề tài

Đã có nhiều nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm phân tích ảnh hưởng của tập

trung hệ thống ngân hàng lên trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế. Có nhiều

bằng chứng thực nghiệm phong phú cho thấy tập trung ngân hàng thực sự có ảnh

hưởng đến hiệu suất của cả trung gian tài chính và ngành công nghiệp phi tài chính.

4

Tuy nhiên, kết quả từ những nghiên cứu này là không thuyết phục, không rõ ràng khi

cho rằng tập trung cao hơn có thể tăng hoặc giảm tỷ lệ thất nghiệp thông qua các kênh

này. Trong thực tế, các kết quả từ các nghiên cứu trước đây là không thể kết luận

không chỉ với kênh này mà còn cho tất cả các kênh khác. Đối với mỗi kênh nó là

không rõ ràng khi nghĩ rằng tập trung ngân hàng cao hơn tác động tiêu cực hoặc tích

cực lên tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, các vấn đề về tập trung ngân hàng ảnh hưởng

đến tỷ lệ thất nghiệp cần phải được giải quyết theo thực nghiệm. Và cũng chưa có

nghiên cứu nào trước đó nghiên cứu tập trung hệ thống ngân hàng có thể ảnh hưởng

thị trường lao động. Bên cạnh đó, các nghiên cứu khoa học về tập trung ngân hàng

cung cấp hướng dẫn rất hạn chế đối với các nhà hoạch định chính sách ở các nước,

nơi một số ít các ngân hàng chiếm ưu thế trong lĩnh vực tài chính.

Đề tài này quan trọng bởi vì, sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhiều

nước công nghiệp và những nước đang phát triển đã trải nghiệm sự gia tăng của tập

trung ngân hàng và sự suy giảm trên hoạt động của thị trường lao động. Vì vậy, tác

giả nghiên cứu sự ảnh hưởng của tập trung hệ thống ngân hàng trên thị trường lao

động, cụ thể là tỷ lệ thất nghiệp thực hiện ở các nước thành viên khối APEC. Đề tài

đưa ra bằng chứng khách quan khoa học góp phần giúp cho các nhà hoạch định chính

sách nhìn nhận rõ hơn ảnh hưởng của việc tập trung ngân hàng ành hưởng đến tỷ lệ

thất nghiêp nhất là đối với những nước đang phát triển có mức độ tập trung ngân hàng

và thất nghiệp cao. Từ đó giúp các nhà hoạch định chính sách có sự điều chỉnh trong

chính sách thích hợp nhất tùy theo từng quốc gia, theo mức độ, đặc điểm cụ thể và

nguồn gốc lịch sử của tập trung ngân hàng, cũng như theo cường độ và các đặc điểm

khác của sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng quốc gia tương ứng, qua đó góp phần

giảm tỷ lệ thất nghiệp, gia tăng hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng.

1.7 Bố cục của Luận văn

Nội dung chính của luận văn bao gồm 5 chương, được trình bày cụ thể theo

trình tự sau:

Chương 1: Giới thiệu đề tài.

5

Trong chương này, tác giả sẽ làm rõ lý do chọn đề tài nghiên cứu, mục tiêu

nghiên cứu, các vấn đề cần nghiên cứu đồng thời giới thiệu tổng quan về phương

pháp nghiên cứu và ý nghĩa khi thực hiện đề tài.

Chương 2: Cơ sở lý luận khoa học và các nghiên cứu thực nghiệm trên

thế giới về ảnh hưởng tập trung ngân hàng lên tỷ thất nghiệp.

Trong chương này, tác giả sẽ tổng hợp cơ sở lý luận khoa học, những nghiên

cứu thực nghiệm trên thế giới về tập trung ngân hàng tác động chi phí của các trung

gian tài chính, khả tín dụng, sự hình thành và tăng trưởng của doanh nghiệp, thất bại

ngân hàng và khủng hoảng hệ thống ngân hàng, từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ thất

nghiệp.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.

Nội dung chính của chương này tác giả sẽ trình bày phương pháp nghiên cứu,

giải thích các biến độc lập và biến phụ thuộc trong mô hình, mô tả các đặc điểm của

mô hình thực nghiệm, các giả định đặt ra để kiểm định và nguồn dữ liệu để thực hiện

nghiên cứu.

Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Trong chương này, tác giả trình bày kết quả nghiên cứu thực nghiệm về tập

trung ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp, mức độ ảnh hưởng ra sao, tác động

như thế nào; đồng thời thảo luận các kết quả thực nghiệm nhận được.

Chương 5: Kết luận.

Ở chương này, tác giả tổng kết lại các vấn đề nghiên cứu, kết luận lại kết quả

thực nghiệm từ mô hình nghiên cứu, nêu lên những hạn chế của đề tài và hướng mở

rộng đề tài. Đồng thời nêu một số gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách để có

quyết định phù hợp giảm tỷ lệ thất nghiệp, ổn định kinh tế xã hội, tăng niềm tin của

dân chúng vào các nhà lãnh đạo.

6

7

CHƯƠNG 2:

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA TẬP TRUNG NGÂN

HÀNG LÊN THẤT NGHIỆP

2.1 Cở sở lý thuyết về ngân hàng

2.1.1 Tổng quan về ngân hang thương mại

Ngân hàng thương mại

Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính đóng vai trò chu chuyển vốn

giữa các thành phần kinh tế trong xã hội. Ngân hàng thương mại giao dịch trực tiếp

với các tổ chức kinh tế và cá nhân để thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi và sử dụng

số vốn này thực hiện các nghiệp vụ cho vay, đầu tư và cung cấp đa dạng các phương

tiện thanh toán, dịch vụ ngân hàng.

Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Chất liệu kinh

doanh của ngân hàng là tiền tệ, là công cụ để nhà nước sử dụng trong quản lý kinh tế

vĩ mô nên được kiểm soát rất chặt chẽ. Ngân hàng là lĩnh vực nhạy cảm, liên quan

trực tiếp mọi ngành nghề và mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, do đó, cần phải có

sự thận trọng trong điều hành để tránh những thiệt hại cho nền kinh tế.

Chức năng của NHTM

- Trung gian tín dụng: Là trung gian chu chuyển vốn từ thành phần kinh tế

thừa vốn đến các thành phần kinh tế thiếu vốn, NHTM sẽ huy động các nguồn vốn

tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng, từ đó đáp

ứng nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu

dùng của xã hội.

- Trung gian thanh toán: NHTM đứng ra làm trung gian thanh toán, thay mặt

khách hàng thực hiện thanh toán cho các giao dịch thương mại thông qua việc phát

hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử,…

- Cung ứng dịch vụ ngân hàng: NHTM cung cấp các dịch vụ ngân hàng để

đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng như dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, dịch

vụ ủy thác và đại lý, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, kinh doanh chứng khoán,…

8

2.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại

Dựa trên các chức năng của ngân hàng, các hoạt động kinh doanh cơ bản của

NHTM gồm có hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng vốn và hoạt động cung

cấp dịch vụ ngân hàng.

2.1.2.1. Hoạt động huy động vốn

Huy động vốn là hoạt động tiền đề để tạo ra nguồn vốn hoạt động kinh doanh

của ngân hàng. NHTM huy động vốn dưới các hình thức:

- Nhận tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi giao dịch: trong đó tiền gửi tiết kiệm của

dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn vốn huy động của ngân hàng. NHTM

cũng huy động các khoản tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức. Ngoài ra các khoản tiền

gửi thanh toán với chi phí huy động thấp nhưng biến động mạnh, phức tạp và nhiều

rủi ro cũng là nguồn vốn huy động thường xuyên của NHTM.

- Phát hành chứng khoán: NHTM có thể huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân

trong và ngoài nước thông qua nghiệp vụ phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và

các giấy tờ có giá để da dạng hóa hình thức huy động vốn và đáp ứng các nhu cầu

nắm giữa tài sản đa dạng của khách hàng.

- Vay vốn từ các NHTM khác: Khi thiếu hụt thanh khoản tạm thời, NHTM có

thể vay vốn tại các NHTM khác trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay ngắn hạn tại

ngân hàng trung ương để bổ sung cho thiếu hụt tạm thời về vốn.

2.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn

Hoạt động sử dụng vốn của NHTM giúp ngân hàng có nguồn thu để bù đắp

chi phí, đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng gồm

có hoạt động cấp tín dụng và hoạt động đầu tư.

Hoạt động cấp tín dụng

Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động cơ bản, truyền thống của NHTM, mang

lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng. NHTM cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới

các hình thức:

- Cho vay trực tiếp: bao gồm cho vay ngắn, trung và dài hạn, cho vay có bảo

đảm, cho vay tín chấp, cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng

9

- Chiết khấu giấy tờ có giá: ngân hàng sẽ chiết khấu cho người vay một số tiền

nhỏ hơn mệnh giá của giấy tờ có giá chưa đến hạn, thay vào đó, người vay sẽ tạm

thời chuyển nhượng quyền sở hữu chứng từ có giá cho ngân hàng.

- Bao thanh toán: ngân hàng đứng ra mua nợ trên cơ sở hóa đơn, chứng từ của

người bán hàng và người mua phải thanh toán toàn bộ số tiền cho ngân hàng khi đến

hạn.

- Cho thuê tài chính: ngân hàng mua máy móc, thiết bị và cho thuê máy móc,

thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê.

- Bảo lãnh: là hình thức tín dụng bằng chữ ký, nhờ chứng thư bảo lãnh của

ngân hàng mà người được bảo lãnh có thể ký kết và thực hiện cách hợp đồng kinh tế

một cách thuận lợi.

Hoạt động đầu tư

NHTM thực hiện các hoạt động đầu tư để đa dạng hóa nguồn thu nhập và

giảm thiểu rủi ro, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp:

- Đầu tư gián tiếp: NHTM sẽ tham gia mua bán các chứng khoán do chính

phủ và các công ty phát hành trên thị trường chứng khoán.

- Đầu tư trực tiếp: NHTM trực tiếp góp vốn vào các doanh nghiệp, công ty.

2.1.2.3. Hoạt động cung cấp dịch vụ

Các dịch vụ ngân hàng cung cấp ngày càng đa dạng và đem lại nguồn thu nhập

không nhỏ cho các NHTM hiện nay. Các dịch vụ ngân hàng bao gồm các dịch

vụ thanh toán và ngân quỹ, dịch vụ ủy thác, đại lý, kinh doanh ngoại hối, kinh

doanh chứng khoán,… Ngoài ra, trong thời đại phát triển của công nghệ thông

tin, các dịch vụ mới như dịch vụ thẻ, InternetBanking, SMS Banking,…cũng

giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng hơn.

10

2.2 Tổng quan về tập trung ngân hàng

Theo nghiên cứu của Sathye (2002), của Athanasoglou và các cộng sự (2005):

Tập trung đề cập đến mức độ kiểm soát hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp lớn.

Tăng mức độ tập trung có thể là do sự bành trướng đáng kể của các công ty chi phối

hoặc giảm kích thước đáng kể của công ty không chi phối. Ngược lại, giảm mức độ

tập trung có thể là do giảm đáng kể kích thước của các công ty chi phối hoặc mở rộng

kích thước đáng kể của công ty không chi phối.

Có rất nhiều phương pháp để đo tập trung ngân hàng. Theo Rose (1999: 687):

"mức độ tập trung trong một thị trường được đo bằng tỷ lệ tài sản hoặc các khoản tiền

gửi được kiểm soát bởi các ngân hàng lớn nhất phục vụ thị trường". Còn theo

Demirguc-Kunt và Levine (2000): biện pháp đo tập trung ngân hàng thông qua phần

vốn vay ngân hàng kiểm soát bởi ba ngân hàng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng.

Mức độ mà cơ cấu thị trường ngân hàng liên quan các vấn đề về cạnh tranh và

hiệu suất là một chủ đề nóng luôn được tranh luận sôi nổi. Các kết quả của nhiều

nghiên cứu đã dẫn đến sự tồn tại của nhiều lý thuyết tập trung ngân hàng. Chủ yếu

các lý thuyết này có thể được phân loại thành hai loại: các lý thuyết ủng hộ tập trung

(pro-concentration) và thuyết không ủng hộ tập trung (pro-deconcentration).

2.2.1 Thuyết Pro-Concentration:

Những người ủng hộ tập trung ngân hàng cho rằng nền kinh tế của quy mô sáp

nhập và mua lại ngân hàng (tức mức độ tập trung tăng) đi liền với những cải tiến hiệu

quả (Demirguc-Kunt và Levine, 2000: 1). Để củng cố quan điểm này, Boyd và Runkle

(1993) đã khảo sát 122 ngân hàng Mỹ và tìm thấy một mối quan hệ nghịch giữa kích

thước và sự biến động của lãi tài sản. Tuy nhiên, những kết quả này được dựa trên

các tình huống hợp nhất là tự nguyện.

Một số lập luận lý thuyết và so sánh các quốc gia cho rằng ngân hàng ít tập

trung hơn khi có nhiều ngân hàng nhỏ dễ bị khủng hoảng tài chính hơn là một lĩnh

vực ngân hàng tập trung với một vài ngân hàng lớn (Allen và Gale, 2000; và Beck,

Demirgüç-Kunt và Levine, 2004 ). Một nghiên cứu được thực hiện bởi Cục Nghiên

11

cứu Kinh tế Quốc gia Hoa Kỳ năm 2003 thấy rằng có một sự tương quan ngược chiều

đáng kể giữa kích thước ngân hàng và thất bại ngân hàng, khi kích thước của các ngân

hàng tăng lên, số lượng thất bại ngân hàng giảm, tập trung cao dẫn đến sự ổn định

hơn trong ngành ngân hàng. Họ phát hiện ra rằng một mức độ tập trung 72% hoặc

cao hơn có tương quan trực tiếp đến ít lần xuất hiện của thất bại ngân hàng trong

phạm vi quốc gia đó. Điều này là do:

- Thứ nhất, giảm tập trung trong thị trường ngân hàng làm gia tăng cạnh

tranh giữa các ngân hàng và ngược lại, do đó các ngân hàng tập trung hơn không cần

phải chấp nhận rủi ro để tạo ra lợi nhuận, khả năng sụp đổ ngân hàng giảm đi. Bên

cạnh đó, cạnh tranh quá mức có thể tạo ra môi trường không ổn định trong lĩnh vực

ngân hàng dẫn đến hoạt động không hiệu quả.

- Thứ hai, những người ủng hộ quan điểm "tập trung - ổn định" này cho

rằng các ngân hàng lớn có thể đa dạng hóa tốt hơn. Điều này cho phép họ điều chỉnh

trong các lĩnh vực khác khi một lĩnh vực trở nên tồi tệ hơn trong thị trường. Một ngân

hàng nhỏ hơn, tập trung vào một hoặc hai lĩnh vực là rất dễ bị biến động trong trường

hợp này. Do đó hệ thống ngân hàng được đặc trưng bởi một số ngân hàng lớn sẽ có

xu hướng ít vỡ hơn hệ thống với nhiều ngân hàng nhỏ (Allen và Gale, 2003).

- Thứ ba, hệ thống ngân hàng tập trung cũng có thể tăng cường sức mạnh

thị trường để tăng cường lợi nhuận. Lợi nhuận cao cung cấp một "vùng đệm" chống

lại những cú sốc bất lợi và làm tăng điều lệ hoặc giá trị chuyển nhượng thương mại

làm tăng giá trị thương hiệu của ngân hàng. Ngoài ra, với giá trị thương hiệu cao hơn

các ngân hàng sẽ có ít động lực để chấp nhận rủi ro tài chính trong việc theo đuổi lợi

nhuận (Hellmann và cộng sự, 2000; Besanko và Thakor, 1993; Boot và Greenbaum,

1993, Matutes và Vives, 2000) và đỗ vỡ ngân hàng do đó cũng thấp hơn.

- Thứ tư, giám sát một vài ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng tập

trung sẽ dễ dàng hơn đáng kể so với theo dõi rất nhiều ngân hàng nhỏ trong hệ thống

ngân hàng lan tỏa. Vì hệ thống với các ngân hàng lớn sẽ tương tự giống nhau hơn

thay vì phải tìm hiểu hệ thống của nhiều ngân hàng nhỏ. Do đó kiểm soát doanh

12

nghiệp của các ngân hàng sẽ có hiệu quả hơn và nguy cơ lây lan ít hơn trong một hệ

thống ngân hàng tập trung (Beck, Demirguc-Kunt và Levine, 2003: 1).

- Thứ năm, huy động vốn là đầu vào để ngân hàng có khả năng đáp ứng

nhu cầu vốn đầu tư, sản xuất, kinh doanh của nền kinh tế. Nguồn vốn ổn định giúp

các ngân hàng có lợi thế trong cạnh tranh hơn. Ngân hàng không phải sử dụng nguồn

vốn trên thị trường liên ngân hàng để cấp tín dụng cho khách hàng, do vậy sẽ giảm

thiểu rủi ro thanh khoản khi nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng không ổn định

và kỳ hạn thấp. Mất khả năng thanh khoản có thể dẫn đến sự sụp đổ của ngân hàng

việc mở rộng thị phần huy động vốn luôn là bài toán của các ngân hàng thương mại.

Sử dụng linh hoạt công cụ giá (lãi suất) hay các chương trình khuyến mãi hấp dẫn

cũng không thể tạo ra sự tăng trưởng đột biến và các ngân hàng thương mại cổ phần

vẫn khó có thể phân bổ lại thị phần huy động vốn một sớm một chiều. Giải pháp tối

ưu có lợi từ yếu tố cộng sinh để gia tăng thị phần huy động vốn chính là thực hiện

chiến lược M&A với ngân hàng khác. Nguyên tắc này thể hiện thị phần huy động vốn

của 2 ngân hàng sau sáp nhập sẽ lớn hơn tổng thị phần huy động riêng lẻ của mỗi

ngân hàng.

2.2.2 Thuyết Pro-Deconcentration (PD):

Kết quả từ một nghiên cứu được thực hiện bởi Chong (1991) chỉ ra rằng sự

hợp nhất ngân hàng có xu hướng làm tăng rủi ro danh mục đầu tư của ngân hàng.

Những người ủng hộ PD cũng cho rằng tập trung sẽ tăng cường sức mạnh thị trường

và ảnh hưởng chính trị của các tập đoàn tài chính, cản trở cạnh tranh và tiếp cận các

dịch vụ tài chính. Điều này làm giảm hiệu quả và mất ổn định hệ thống tài chính như

khi ngân hàng trở nên quá lớn để kỷ luật hay sử dụng ảnh hưởng của mình để hình

thành những quy định và chính sách ngân hàng (Demirguc-Kunt và Levine, 2000;

Beck, Demirgüç-Kunt và Levine, 2004; và Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, 2001).

Trong hệ thống ngân hàng tập trung, các ngân hàng lớn hơn, có quan hệ chính

trị có thể sẽ dễ dàng chấp nhận rủi ro cao hơn vì họ có thể dựa vào các nhà hoạch

định chính sách giúp đỡ khi có cú sốc bất lợi làm tổn thương khả năng thanh toán

13

hoặc lợi nhuận của họ. Tương tự, các ngân hàng như vậy có thể hình thành các chính

sách và các quy định ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng theo cách giúp đỡ

các ngân hàng, nhưng không nhất thiết là giúp nền kinh tế tổng thể. Ví dụ, các ngân

hàng tập trung mạnh có thể chống lại việc cấp bảo hiểm tiền gửi hào phóng. Các ngân

hàng nhỏ hơn không được hưởng chính sách “quá lớn để sụp đổ” của hầu hết các

chính phủ trong nền kinh tế có mức độ tập trung cao. Các ngân hàng tập trung cũng

có thể tìm cách cản trở sự phát triển của thị trường chứng khoán bằng cách đẩy các

loại thuế cao hơn đánh vào lợi nhuận vốn và bằng cách không khuyến khích các quy

định bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư nhỏ hay thúc đẩy minh bạch kế toán. Để

tăng lợi nhuận của các khách hàng lớn, các ngân hàng mạnh cũng có thể kiểm soát

thị trường bằng cách làm suy yếu luật chống độc quyền và các chính sách thúc đẩy

cạnh tranh. Hơn nữa, nếu các ngân hàng mạnh tập trung ảnh hưởng quá mức đến sự

hình thành các chính sách và quy định, điều này có thể cản trở sự toàn vẹn chính trị

và giảm tuân thủ thuế (Demirguc-Kunt và Levine, 2000: 3)

Cũng có bằng chứng cho thấy tập trung ngân hàng làm giảm nguồn cung tín

dụng: Tại Mỹ, Berger và cộng sự (1995) tìm thấy bằng chứng cho thấy sự gia tăng

trong tỷ lệ tài sản ngành ngân hàng được kiểm soát bởi các tổ chức ngân hàng lớn

nhất trong những năm 1990, do chính sách tự do hóa địa lý các ngân hàng ở Mỹ, đã

chịu trách nhiệm một phần về cuộc khủng hoảng tín dụng giai đoạn 1989-1992. Ngày

càng nhiều bằng chứng thấy sự liên kết giữa tập trung cao trong thị trường ngân hàng

và giảm cho vay đối với các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Peek và Rosengren

(1996), kết hợp dữ liệu chéo về cho vay các doanh nghiệp ở các bang New England

năm 1994 với một số thông tin về sáp nhập, tác giả thấy rằng sau khi các tổ chức ngân

hàng sáp nhập với các tổ chức nhỏ hơn, các tổ chức hợp nhất thường giảm cho vay

đối với doanh nghiệp nhỏ (doanh nghiệp đã được cho vay trước đó từ tổ chức mua).

Berger và Udell (1996) thấy rằng các ngân hàng lớn không chỉ có xu hướng giảm tỷ

lệ các khoản vay với khách hàng nhỏ, mà còn có xu hướng tính giá trung bình cao

hơn so với các ngân hàng khác với khách hàng vay nhỏ, tức các ngân hàng lớn chỉ

phát hành các khoản tín dụng có chất lượng cao hơn (Cañonero, 1997: 5).

14

Boyd và De Nicolo (2005) nhấn mạnh rằng tập trung cao hơn trong thị trường

ngân hàng địa phương, giá các dịch vụ tài chính cao hơn, và do đó lợi nhuận ngân

hàng cũng cao hơn. Điều này là do môi trường ít cạnh tranh hơn, mức lãi suất các

ngân hàng tập trung tính cho các doanh nghiệp sẽ cao hơn, điều này đặc biệt không

tốt cho các nhà đầu tư vì nó làm cho đầu tư nhiều rủi ro hơn. Nếu tập trung quan hệ

cùng chiều với các ngân hàng có sức mạnh thị trường, thì tập trung sẽ làm tăng cả tỷ

lệ lợi nhuận trên tài sản dự kiến của ngân hàng và độ lệch chuẩn của lợi nhuận (Beck,

Demirgüç-Kunt và Levine, 2004: 2). Nghĩa là tập trung thị trường cao hơn có liên

quan đến phúc lợi kinh tế xã hội thấp hơn nên tập trung cao hơn là điều không được

mong muốn. Do đó, một quốc gia như Anh (Monopolies và Mergers Commission,

1996) đã cảnh giác với một tỷ lệ tập trung là 25% hoặc hơn của thị trường ngân hàng

về tổng tài sản hoặc tiền gửi (Holden và El-Bannany, 2006).

Cuối cùng, các ngân hàng lớn thường xuyên nhận được các khoản trợ cấp

thông qua chính sách ngầm "quá lớn để sụp đổ" (khoản này các ngân hàng nhỏ không

được nhận), bảo vệ này làm tăng thêm ưu đãi mạo hiểm cho các ngân hàng lớn. Trợ

cấp nhiều hơn cho các ngân hàng lớn có thể tăng cường, khuyến khích ngân hàng

chấp nhận rủi ro hơn, do đó làm tăng sự mong manh của hệ thống ngân hàng tập trung

(Boyd và Runkle 1993; Mishkin 1999; O'Hara và Shaw 1990). Từ quan điểm này,

tập trung hệ thống ngân hàng với một vài ngân hàng lớn sẽ có xu hướng mong manh

hơn hệ thống ngân hàng lan tỏa với nhiều ngân hàng nhỏ. Một số mô hình dự đoán

"tập trung – dễ vỡ", tức tăng tập trung tăng tính mong manh dễ vỡ ngân hàng. Điều

này xảy ra khi nhà quản lý lo sợ hậu quả kinh tế vĩ mô của tiềm năng đổ vỡ các ngân

hàng lớn. Những người ủng hộ quan điểm “tập trung – dễ vỡ” không đồng ý với các

đề xuất rằng một số ngân hàng lớn là dễ dàng hơn để theo dõi hơn nhiều ngân hàng

nhỏ. Nếu kích thước tương quan thuận với độ phức tạp, thì các ngân hàng lớn còn

khó quan sát hơn so với các ngân hàng nhỏ, và do đó theo dõi khó khăn hơn. Điều

này sẽ có xu hướng tạo ra một mối quan hệ tích cực giữa tập trung và mong manh.

Theo Allen và Gale (2000), Mỹ với số lượng lớn các ngân hàng đã có một lịch sử bất

ổn tài chính lớn hơn nhiều so với Anh hay Canada, nơi mà ngành ngân hàng đang

15

chiếm ưu thế bởi ít các ngân hàng lớn.

2.2.3 Các chỉ số để tính mức độ tập trung ngân hàng:

Các chỉ số cơ bản để đánh giá mức độ tập trung của thị trường bao gồm: mức

độ tập trung (chỉ số CR – Concentration Ratio) và chỉ số Herfindahl - Hirschmann

Index (HHI).

Cách đơn giản nhất và do đó thường được sử dụng nhất là tỷ lệ tập trung ngân

hàng k. Chỉ số tập trung đánh giá mức độ tập trung thị phần liệu có rơi vào một nhóm

các ngân hàng không. Chỉ số mức độ tập trung thị phần nhóm (CR) là tổng thị phần

của một nhóm ngân hàng có thị phần lớn nhất. Nếu chỉ số CR có giá trị lớn hơn 80%

thì số lượng các định chế tài chính được lựa chọn sẽ chiếm thị phần lớn của thị trường.

Thông thường thì chỉ số CR được tính dựa trên số lượng định chế tài chính từ 3 tổ

chức trở lên tùy thuộc vào quy mô thị trường và số lượng ngân hàng hoạt động. Cách

𝑘

thức xác định chỉ số này như sau:

𝑖=0

𝐶𝑅𝒌 = ∑ Si

Trong đó si là thị phần của ngân hàng lớn thứ i trong ngành; k = 3 hoặc 5 tùy trường

hợp cần xác định CR3 hay CR5. Ví dụ, CR3 = 70% hàm ý rằng 3 ngân hàng lớn

nhất trên thị trường đã chiếm tới 70% thị phần.

Một cách khác được sử dụng rộng rãi để đo tập trung là Herfindahl-Hirschman

Index (HHI). Chỉ số HHI giúp nhận biết được mức độ cạnh tranh hoàn hảo hay độc

quyền cao của hệ thống ngân hàng. Chỉ số HHI được Bộ Tư pháp Mỹ sử dụng

để đánh giá mức độ tập trung và xu hướng mua bán - sáp nhập (M&A) giữa các ngân

hàng, được sử dụng rộng rãi như là một thiết bị sàng lọc cho vụ sáp nhập, đồng thời

là cơ sở để đánh giá mức độ độc quyền hay độc quyền nhóm của một số ngân hàng.

Theo Motta (2004) khả năng sáp nhập các doanh nghiệp để trích xuất sức mạnh thị

trường phụ thuộc vào mức độ tập trung trong thị trường. Vì vậy không chỉ có mức độ

của HHI là quan trọng mà những biến đổi của nó do sáp nhập cũng là quan trọng.

HHI được định nghĩa là tổng bình phương của thị phần của tất cả các ngân hàng; công

16

𝑛

thức:

𝑖=1

𝐻𝐻𝐼 = ∑ Si2

Trong đó n là tổng số ngân hàng và si là thị phần của ngân hàng thứ i trong

ngành.

Chỉ số HHI (hoặc Chỉ số Herfindahl) được sử dụng để đo lường quy mô của

ngân hàng trong mối tương quan với ngành và là một chỉ báo về mức độ cạnh tranh

giữa các ngân hàng trong ngành và thường và có giá trị từ 0 đến 10.000. Chỉ số HHI

nhỏ hơn mức 1.500 thể hiện mức độ cạnh tranh gay gắt giữa các định chế tài chính,

nếu nằm trong khoảng 1.500 đến 2.000 thì mức độ cạnh tranh vừa phải, và vượt mức

2.500 thì thị phần tập trung cao ở một số ngân hàng và có yếu tố độc quyền nhóm.

Khi tất cả các doanh nghiệp trong ngành đều có thị phần bằng nhau thì HHI =

1/N*10.000.

Sự khác biệt chính giữa chỉ số tỷ lệ tập trung và chỉ số HHI là HHI tính thị

phần của tất cả các ngân hàng chứ không phải là thị phần tùy chọn của k ngân hàng

lớn nhất. Bên cạnh đó, theo Marfels (1971), thị phần của các ngân hàng được sử dụng

như là tỷ trọng của nó. Điều này ngụ ý rằng một tỷ trọng lớn hơn được gắn vào các

ngân hàng với một thị phần lớn hơn. Ưu điểm chủ yếu của chỉ số HHI so với các cách

đo khác (chẳng hạn như tỷ lệ tập trung - CR) là đã tính tỷ trọng lớn hơn đối với các

doanh nghiệp lớn.

2.3 Tổng quan về thất nghiệp

2.3.1 Định nghĩa thất nghiệp

Vấn đề thất nghiệp đã được nhiều tổ chức, nhiều nhà khoa học bàn luận. Người

đầu tiên nghiên cứu về thất nghiệp là William Petty. Do ảnh hưởng của chủ nghĩa

trọng thương nên William Petty cho rằng để giảm bớt tình trạng thất nghiệp thì phải

đẩy mạnh xuất khẩu ra bên ngoài để thu hút lực lượng dân cư thừa trong xã hội (đây

cũng là một trong những nguyên nhân để các nước tư bản mở rộng thuộc địa).

17

Tuy nhiên Adam Smith mới là người nghiên cứu một cách có hệ thống về việc

làm và thất nghiệp, những nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp. Cùng với Ricardo, Adam

Smith khẳng định rằng nạn nhân khẩu thừa (tức thất nghiệp) là không thể tránh khỏi

trong nền kinh tế thị trường. Adam Smith cho rằng do việc sử dụng máy móc, sự tích

tụ tư bản trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, sự can thiệp quá mức của

nhà nước, làm ảnh hưởng đến việc giải quyết việc làm, tăng thêm tình trạng thất

nghiệp.

Nhà kinh tế học Keynes đã nghiên cứu rất sâu về thất nghiệp trên cơ sở phân

tích cung - cầu về lao động trong thị trường và các mối quan hệ kinh tế, xã hội khác.

Keynes thừa nhận vấn đề thất nghiệp không phải là những hiện tượng độc lập của đời

sống kinh tế mà là kết quả của những tính quy luật nhất định trong việc đạt được cân

bằng của hệ thống kinh tế. Theo ông, nạn thất nghiệp sẽ tồn tại dưới dạng “bắt buộc”,

là một trạng thái mà trong đó “tổng cung về lao động của những người lao động muốn

làm việc, thì tại mức tiền lương danh nghĩa đó đều lớn hơn khối lượng việc làm hiện

có”. Do thiếu cầu có khả năng thanh toán nên có nhiều người không có việc làm. Ông

định nghĩa thất nghiệp như sau: “Những người được coi là thất nghiệp bắt buộc, nếu

mỗi khi giá cả hàng hoá mua bằng tiền công tăng lên đôi chút so với tiền lương danh

nghĩa, thì tổng cung của những người lao động muốn làm việc, thì tại mức tiền công

danh nghĩa đó và tổng cầu về lao động tại mức tiền lương danh nghĩa đó đều lớn hơn

việc làm hiện có”. Từ đó ông cho rằng để giảm thất nghiệp thì cần phải tạo ra nhiều

chỗ làm việc trên cơ sở tăng đầu tư cho sản xuất. Lý thuyết của Keynes mặc dù còn

những phiến diện và hạn chế của lịch sử nhưng những luận điểm mà ông nêu ra vẫn

còn có ý nghĩa đến ngày nay.

Khi nền kinh tế thị trường phát triển ở mức cao, các lý thuyết về việc làm và

thất nghiệp của Keynes và các nhà kinh tế học trước đó đã tỏ ra bất lực trước tình

trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng mà các biện pháp nêu trong các lý thuyết của họ

đã không khắc phục được. Nhiều nhà kinh tế học đã đưa ra những lý thuyết mới về

thất nghiệp, phân tích các nguyên nhân và các tác động kinh tế và tác động xã hội của

thất nghiệp. Một trong số các nhà kinh tế đưa ra lý thuyết mới về thất nghiệp đó là

18

Samuelson- nhà kinh tế học người Mỹ. Samuelson đã phân tích cung-cầu về lao động

để thấy rõ bản chất của thất nghiệp. Từ đó ông đã phân ra một số dạng thất nghiệp

như:

- Thất nghiệp tự nguyện: Là những người lao động có nhu cầu làm việc

nhưng lại không muốn làm việc với mức lương thịnh hành trên thị trường lúc đó.

- Thất nghiệp không tự nguyện: Là những người không có việc làm,

muốn làm việc với mức lương đang thịnh hành nhưng không thể tìm được việc làm

do cầu về lao động thấp.

- Sau khi phân tích những biến động của thị trường lao động và các biến

động của nền kinh tế, Samuelson còn phân ra 3 loại thất nghiệp, đó là:

- Thất nghiệp tạm thời: Là dạng thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển

không ngừng của con người giữa các vùng, các công việc hoặc các giai đoạn khác

nhau của cuộc sống. Ông cho rằng trong một nền kinh tế có đầy đủ việc làm, nhưng

vẫn có thể luôn có một bộ phận người lao động di chuyển từ nơi này sang nơi khác

do nhu cầu của cuộc sống và chưa thể có việc làm ngay.

- Thất nghiệp có tính cơ cấu: Là dạng thất nghiệp xảy ra khi có sự mất

cân đối giữa cung và cầu lao động. Trong một nền kinh tế biến động, cầu về một loại

lao động nào đó tăng lên, trong khi mức cầu về một loại lao động khác lại giảm đi,

nhưng mức cung lao động lại không được điều chỉnh đồng thời nên xảy ra tình trạng

thất nghiệp cơ cấu.

- Thất nghiệp chu kỳ: Là dạng thất nghiệp xảy ra khi mức cầu chung về

lao động thấp. Khi tổng mức chi và sản lượng giảm, thất nghiệp sẽ tăng lên ở khắp

mọi nơi trong toàn bộ nền kinh tế. Khác với thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ

cấu, thất nghiệp chu kỳ phản ánh sự rệu rã, suy thoái của một nền kinh tế.

Trên thực tế cũng còn nhiều ý kiến khác nhau nhất là về thất nghiệp:

- Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO), “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại

một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc

làm ở mức tiền lương thịnh hành”.

19

- Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế lần thứ tám năm 1954 tại Giơnevơ

đưa ra định

nghĩa: Thất nghiệp là người đã qua một độ tuổi xác định mà trong một ngành

hoặc một tuần xác định, thuộc những loại sau đây:

 Người lao động có thể đi làm nhưng hết hạn hợp đồng hoặc bị

tạm ngừng hợp đồng, đang không có việc làm và đang tìm việc làm.

 Người lao động có thể đi làm trong một thời gian xác định và

đang tìm việc làm có lương mà trước đó chưa hề có việc làm, hoặc vị trí hành nghề

cuối cùng trước đó không phải là người làm công ăn lương (ví dụ người sử dụng lao

động chẳng hạn ) hoặc đã thôi việc.

 Người lao động không có việc làm và có thể đi làm ngay và đã

có sự chuẩn bị cuối cùng để làm một công việc mới vào một ngày nhất định sau một

thời kỳ đã được xác định.

 Người phải nghỉ việc tạm thời hoặc không thời hạn mà không có

lương.

Các định nghĩa tuy có khác nhau về mức độ, giới hạn (tuổi, thời gian mất việc)

nhưng đều thống nhất người thất nghiệp ít nhất phải có 3 đặc trưng: Có khả năng lao

động; Đang không có việc làm; Đang đi tìm việc làm.

- Định nghĩa thất nghiệp ở Việt Nam : “Thất nghiệp là những người trong

độ tuổi lao động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm, đang không có việc

làm”.

- Theo ông Tite Habiyakare, chuyên gia về thống kê lao động, Tổ chức

Lao động Quốc tế khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, khái niệm quốc tế về thất

nghiệp hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới ngày nay xuất phát từ Nghị

quyết của Hội nghị Thống kê Lao động Quốc tế (ICLS) lần thứ 13 năm 1982. Khái

niệm này được sử dụng phần lớn các nước trên thế giới, cả ở các nền kinh tế phát

triển và đang phát triển. Theo tiêu chuẩn quốc tế, “người thất nghiệp” bao gồm những

người ở độ tuổi nhất định (chẳng hạn từ 15 tuổi trở lên) mà trong thời gian khảo sát

20

(thường là trong tuần trước đó hoặc 7 ngày trước đó) đáp ứng tất cả 3 điều kiện:

“không có việc làm” (không làm việc dù chỉ là 1 giờ, không làm việc làm công ăn

lương lương hoặc việc tự làm), “sẵn sàng làm việc” và “đang tìm việc”.

Như vậy, “thất nghiệp” là một thái cực trên một dải lực lượng lao động bao

gồm cả những người “thiếu việc làm” và “có việc làm”.

2.3.2 Các nguyên nhân dẫn đến thất nghiệp

Hiện tượng thất nghiệp xảy ra như là quy luật của nền kinh tế nhưng việc nhận

thức và tìm hiểu những nguyên nhân là một vấn đề hết sức quan trọng trong giảm

thiểu tỷ lệ thất nghiệp nói riêng cũng như tạo tiền đề phát triển kinh tế nói chung. Có

thể thấy hai nguyên nhân chủ yếu của thất nghiệp mà Việt Nam cũng gặp phải như ở

các nước khác:

 Thất nghiệp do có sự không tương hợp (Thất nghiệp do kết cấu): diễn

ra khi có sự không tương hợp giữa kỹ năng và địa điểm mà những việc đang khuyết

người làm đòi hỏi kỹ năng và chỗ ở hiện tại của những cá nhân thất nghiệp.

- Do tính không linh hoạt của các tiền lương tương đối. Mức tiền lương tối

thiểu có khi lại giảm sút so với mức tiền lương trung bình. Mức tiền lương cứng nhắc

không tạo được điều kiện giải quyết việc làm thường đi đôi với hiện tượng các doanh

nghiệp sử dụng quỹ lương hạn chế nên xảy ra hiện tượng dư thừa lao động là tất yếu.

Đáng chú ý nhất là thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường hay còn gọi là thất nghiệp

theo lý thuyết cổ điển: nó xảy ra khi tiền lương được ấn định không bởi các lực lượng

thị trường và cao hơn mức lương cân bằng.

- Do thiếu đào tạo nghiệp vụ. Những việc thiếu người làm thường là những

việc có những đòi hỏi về các kỹ năng đặc thù; thể hiện là sự thiếu thông tin trong việc

nhận thức đòi hỏi của thị trường lao động (cung lao động không phù hợp do có sự

mất cân đối của đào tạo với yêu cầu của công việc). Bên cạnh đó các hãng lại không

muốn đào tạo và đào tạo lại công nhân của mình vì sợ công nhân sẽ rời bỏ hãng.

- Sự phân bố không hợp lý của lực lượng lao động giữa vùng lãnh thổ cũng

như giữa các ngành, các lĩnh vực. Những lao động có kỹ năng nhất định phân phối

không tương xứng với ngành nghề thích hợp gây ra sự thiếu ở nơi này nhưng lại thừa

21

ở nơi khác.

- Sự phân biệt đối xử đối với lực lượng lao động. Một số chủ doanh nghiệp

lại không muốn thuê mướn phụ nữ, người thiểu số hay vị thành niên, đẩy số lao động

này vào tình trạng thất nghiệp trong thời gian dài ...

 Thất nghiệp do cọ sát (do luân chuyển) và việc đi tìm công ăn việc làm:

là hiện tượng thất nghiệp xảy ra khi có sự luân chuyển lao động. Bởi lực lượng lao

động không ở trạng thái tĩnh mà luôn luôn di chuyển theo lãnh thổ cũng như giữa các

ngành các lĩnh vực.

- Kinh tế học về sự khước từ công việc làm. Một người khi gia nhập vào lực

lượng lao động không đơn giản là tìm ngay được một công việc thích hợp hay chấp

nhận một công việc mà lần đầu tìm thấy cho nên anh ta sẽ di chuyển để tìm cho mình

một công việc thích hợp và mức lương tương xứng.

- Sự điều chỉnh của Chính phủ đối với lực lượng lao động bằng hàng loạt các

chính sách về tiền lương hay đào tạo hoặc phân vùng ... đôi khi không phù hợp thường

gây ra thất nghiệp ngoài mong muốn ...

 Ngoài ra, các chính sách khác của Chính phủ như: Chính sách tài khoá,

sự điều chỉnh lạm phát ... tác động ngược chiều với sự giảm của tỷ lệ thất nghiệp hay

việc đầu tư mất cân đối cũng gây ra sự dư thừa lao động trong nền kinh tế ...

2.3.3 Ảnh hưởng của thất nghiệp đến kinh tế xã hội

Thất nghiệp được coi là bạn đồng hành của nền kinh tế thị trường. Thất nghiệp

và lạm phát là hai vấn đề nan giải nhất của các quốc gia trong nền kinh tế thị trường,

có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và sự ổn định kinh tế - chính trị - xã hội của

từng nước. Vì vậy, chính phủ các nước thường xuyên có các đối sách để giải quyết

hai vấn đề này tuỳ thuộc vào điều kiện của mình trong từng giai đoạn. Vì vậy, cần

phân tích rõ tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế - xã hội đối với thất nghiệp và

ngược lại, ảnh hưởng của thất nghiệp đến sự phát triển kinh tế - xã hội; hạn chế những

tác động đến gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.

22

Về mặt kinh tế, thất nghiệp dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng về sản lượng.

Theo định luật Okun, những thời kỳ mức thất nghiệp cao là những thời kỳ GDP thực

tế thấp hơn tiềm năng của nó. Theo Okun, cứ 1% vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên

thì GDP bị giảm đi 2,5% (giả dụ, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên là 3%, nếu tỷ lệ thất nghiệp

thực tế là 6,7% thì sự giảm GDP sẽ là 3,7% x 2,5% = 16,75%). Hay nói cách khác,

mức thất nghiệp cao đi liền với mức cao của sản lượng bị bỏ đi hoặc không sản xuất.

Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động.

Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập. Do

đó, đời sống bản thân người lao động và gia đình họ sẽ khó khăn, gây ra những tổn

hại về mặt tinh thần và sức khỏe cho người lao động, thất nghiệp “đẩy” người lao

động đến bần cùng, đến chán nản với cuộc sống, với xã hội; dẫn họ đến những sai

phạm đáng tiếc….

Thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội, an toàn xã hội.

Đối với quốc gia, thất nghiệp là sự phí phạm nguồn nhân lực, không thúc đẩy

sự phát triển kinh tế, đồng thời dễ dẫn đến những xáo trộn về xã hội, bãi công, biểu

tình chống chính phủ, thậm chí dẫn đến biến động về chính trị.Thất nghiệp gia tăng

làm trật tự xã hội không ổn định Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm quyền

cũng bị suy giảm…Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đến biến

động về chính trị.

2.4 Cơ sở lý thuyết về việc tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên thất

nghiệp.

Từ một quan điểm lý thuyết, tập trung hệ thống ngân hàng cao hơn có thể có

một trong hai tác động bất lợi hay thuận lợi lên trung gian tài chính và thất nghiệp.

Có hai mô hình lý thuyết có thể giúp xác định ảnh hưởng của tập trung ngân hàng

đến tỷ lệ thất nghiệp:

2.4.1 Mô hình cơ cấu - hành vi - hiệu quả (Structure-Conduct-

Performance paradigm)

23

Mô hình cạnh tranh trong kinh tế học, gọi tắt là IO (industrial organization),

được tổng quát hóa thông qua mối quan hệ giữa cơ cấu ngành (structure of industry),

vận hành hay chiến lược (conduct/straytery) của doanh nghiệp và kết quả kinh doanh

(performnce) của ngành, còn gọi là mô hình SCP (Structure-Conduct-Performance)

hay mô hình Bain-Masson. Nền tảng lý thuyết của mô hình này thường được biết đến

là giả thuyết thông đồng và các tác phẩm tiên phong của Bain (1950, 1951) được áp

dụng cho các lĩnh vực sản xuất. Mô hình này sau đó đã được Schweiger và McGee

(1961) đưa vào các ngành công nghiệp ngân hàng và đã phục vụ rất tốt cho các bài

kiểm tra thực nghiệm về tác động của thị trường tập trung vào lợi nhuận ngân hàng.

Điểm then chốt của mô hình SCP là kết quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào

cơ cấu của ngành mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh với nhau. Cơ cấu của ngành

quyết định hành vi (chiến lược kinh doanh) của doanh nghiệp và điều này sẽ dẫn đến

kết quả kinh doanh ngành. Mô hình này cũng giúp chúng ta phân tích kết quả kinh

doanh của ngành (các doanh nghiệp trong ngành) và nhận dạng tiềm năng của từng

ngành kinh doanh (các ngành khác nhau có hiệu quả kinh doanh khác nhau).

Mô hình SCP chỉ ra rằng có mối liên hệ giữa ba yếu tố cấu trúc thị trường, sự

vận hành và kết quả thực hiện. Cấu trúc thị trường và sự vận hành thị trường ảnh

hưởng đến kết quả thực hiện thị trường. Ngược lại, kết quả thị trường sẽ tác động trở

lại đến cấu trúc và sự vận hành thị trường trong dài hạn. Kết quả thị trường phụ thuộc

vào sự vận hành thị trường của những người bán và người mua thông qua các chính

sách định giá, chủng loại sản phẩm, đầu tư phương tiện sản xuất. Sự vận hành thị

trường ảnh hưởng chi phối ngược lại cấu trúc thị trường bao gồm ảnh hưởng đến số

lượng và quy mô sản xuất kinh doanh của những người bán và người mua, các kênh

marketing, mức độ khác biệt hóa sản phẩm, sự tồn tại hay không của các rào cản gia

nhập và xuất ngành.

Như vậy, mô hình SCP liên kết cấu trúc và hoạt động của các ngành công

nghiệp, cơ cấu tính mức độ tập trung trên thị trường. Những hành vi của các doanh

nghiệp trong việc thiết lập giá cả, làm nghiên cứu và phát triển ... kết quả đề cập đến

24

hiệu quả của các doanh nghiệp, được xác định bởi các sức mạnh thị trường, với sức

mạnh thị trường lớn hơn ngụ ý hiệu quả thấp hơn. Mô hình này dựa trên giả thuyết

rằng cấu trúc ảnh hưởng đến hành vi (tập trung thấp hơn dẫn đến hành vi cạnh tranh

hơn của doanh nghiệp); hành vi ảnh hưởng kết quả (hành vi cạnh tranh hơn dẫn đến

ít sực mạnh thị trường, sau đó hiệu quả lớn hơn) và cấu trúc do đó ảnh hưởng kết quả

(tập trung thấp hơn dẫn tới sức mạnh thị trường thấp hơn và sau đó hiệu quả hơn).

Kết quả là, sự cạnh tranh trong lĩnh vực này có thể được đo bằng mức độ tập trung.

Một trong những phương pháp phổ biến nhất là sử dụng chỉ số Herfindahl –

Hirschman.

Các lý thuyết kinh tế xung quanh giả thuyết là các cấu trúc thị trường nhất định

có lợi cho hành vi độc quyền, và yếu tố này phổ biến ở các thị trường tập trung cao

độ, cho phép các doanh nghiệp tăng giá trên chi phí, do đó làm cho lợi nhuận bất

thường. Ảnh hưởng trực tiếp của khuynh hướng độc quyền này là giảm cạnh tranh.

Cách tiếp cận SCP xem xét liệu một thị trường tập trung cao độ có gây ra hành vi cấu

kết giữa các ngân hàng lớn và liệu nó cải thiện hiệu suất của thị trường. Theo thuyết

Structure-Conduct-Performance, nói về cấu trúc ngân hàng ảnh hưởng đến kết quả

kinh doanh, cho thấy rằng mức độ tập trung cao hơn của ngành ngân hàng dẫn đến

lãi suất cho vay, lợi nhuận lãi biên cao hơn, giảm phúc lợi xã hội và nguồn cung cho

vay hạn chế hơn vì sự cạnh tranh giảm đi và chi phí thông đồng thấp hơn. Điều này

có thể làm giảm đầu tư, giảm tăng trưởng kinh tế và việc làm, dẫn đến làm tăng tỷ lệ

thất nghiệp, đặc biệt là khi mức lương cứng giảm (Guzman, 2000 và Smith, 1998 ).

2.4.2 Thuyết cấu trúc hiệu quả (Efficient Structure Hypothesis)

Tuy nhiên, một vài cách hiểu khác không ủng hộ giả thuyết SCP sau một thực

tế rằng các nghiên cứu hiện tại không cung cấp kết luận hoặc kết quả thực nghiệm

duy nhất. Thuyết thị trường hiệu quả hoặc cấu trúc hiệu quả trái ngược với thuyết

SCP. Theo Demsetz (1973) và Peltzman (1977) cho rằng, tập trung thị trường không

phải là sự kiện ngẫu nhiên mà là kết quả của các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả

vượt trội với thị phần lớn. Các doanh nghiệp này hoạt động hiệu quả do tăng kích

25

thước và do đó, với thị phần của mình họ có khả năng tạo ra lợi nhuận cao hơn, dẫn

đến sự tập trung thị trường cao hơn, điều này sẽ cho thấy tập trung dẫn đến lợi nhuận

cao hơn, trong khi trên thực tế cả hai đều gây ra bởi hiệu quả cao hơn. Các tác giả đã

cố gắng để chứng minh rằng không có mối quan hệ tồn tại giữa tập trung và khả năng

sinh lời, mà là giữa thị phần và lợi nhuận ngân hàng; không có mối quan hệ trực tiếp

giữa tập trung thị trường và cạnh tranh, và các ngành tập trung cao độ là kết quả hợp

lý của các lực lượng thị trường.

Giả thuyết EH thường được thảo luận trong hai hình thức, thuyết hiệu quả-X

và thuyết quy mô hiệu quả. Trong giả thuyết hiệu quả -X, ngân hàng hiệu quả hơn có

chi phí thấp hơn, lợi nhuận cao hơn và thị phần lớn hơn, vì họ có thể giảm thiểu chi

phí để sản xuất bất kỳ sản phẩm nào. Trong thuyết quy mô hiệu quả, một số ngân

hàng đạt được quy mô hoạt động tốt hơn và do dó giảm thiểu chi phí, lợi nhuận cao

hơn do thực tế các công ty quy mô hiệu quả hơn sản xuất gần hơn với chi phí bình

quân tối thiểu.

Như vậy, các phương pháp tiếp cận cấu trúc hiệu quả (EH) đánh giá liệu hành

vi hiệu quả của các ngân hàng lớn dẫn đến việc cải thiện hiệu suất thị trường. Theo

giả thuyết EH, một ngành công nghiệp ngân hàng tập trung hơn có thể là kết quả của

các ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn giành được thị phần lớn hơn .

Theo giả thuyết này, các trung gian tài chính hoạt động hiệu quả hơn có tác

động thuận lợi với lãi suất cho vay và khả năng tiếp cận tài chính của doanh

nghiệp. Cũng tương tự vậy, Petersen và Rajan (1995) cho rằng, nếu thị trường tín

dụng được tập trung hơn, có thể có lợi cho sự phát triển kinh tế vì các ngân hàng với

sức mạnh độc quyền có động cơ lớn hơn để giả mạo và duy trì mối quan hệ lâu dài

với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ tiếp cận tín dụng. Vì họ có thể có được

thặng dư trong tương lai từ những doanh nghiệp này, họ ban đầu tính lãi vay khiêm

tốn, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp được thành lập và được tài trợ. Điều này

lần lượt có thể tạo ra việc làm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Do đó, ngân hàng tập

trung hơn có thể dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn.

26

Bảng 2.1: Tóm tắt các mô hình lý thuyết có thể giúp xác định tác động của

tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp

Mô hình Chiều tác động

Structure- Conduct-Performance Đồng biến

Efficient Structure Hypothesis Nghịch biến

Nguồn: tổng hợp từ tác giả

2.5 Kết quả các nghiên cứu lý thuyết

Một số kết quả nghiên cứu lý thuyết ủng hộ thuyết EH cho rằng một ngành

công nghiệp ngân hàng tập trung hơn có thể có lợi cho sự phát triển kinh tế vì các

ngân hàng với sức mạnh độc quyền có một động lực lớn hơn để giả mạo và duy trì

mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho họ tiếp cận tín dụng (ví

dụ Mayer, 1988 và 1990). Điều này lại có thể thúc đẩy đầu tư dài hạn và phát triển

kinh tế (theo Dewatripont và Maskin, 1995). Thật vậy, một số nghiên cứu trước đó

cho rằng một ngành công nghiệp ngân hàng tập trung có tác động tích cực vào phát

triển kinh tế ở một số nước như Italia (Cohen, 1967), Nhật Bản (Mayer, 1990), Pháp

và Đức (Gerschenkron, 1962).

Ngược lại, một số nghiên cứu ủng hộ thuyết SCP lập luận rằng ngành ngân

hàng tập trung cao làm giảm cạnh tranh, giảm hiệu quả và gây hại cho các công ty

trong quá trình tiếp cận tín dụng, làm giảm sự phát triển kinh tế (Pagano, 1993 hay

Guzman, 2000) cho thấy mức độ tập trung cao hơn dẫn đến lãi suất cho vay, lợi nhuận

lãi biên cao hơn và nguồn cung cho vay hạn chế vì sự cạnh tranh giảm đi và chi phí

thông đồng thấp hơn, làm giảm đầu tư, giảm tăng trưởng kinh tế và việc làm, điều

này làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Với những nghiên cứu lý thuyết trước đây, các tác động của một ngân hàng

tập trung nhiều hơn lên thị trường lao động có thể là có lợi hay có hại. Như các nghiên

27

cứu trước đó và những lưu ý chung của tác giả cho thấy, các hiệu ứng hệ thống ngân

hàng tập trung trên hiệu suất thị trường lao động là không rõ ràng từ một quan điểm

lý thuyết. Như vậy chúng ta sẽ xem xét hướng và độ lớn tác động của nó theo các kết

quả thực nghiệm.

2.6 Kết quả các nghiên cứu thực nghiệm

Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về tác động của tập trung ngân hàng

đến hiệu quả hoạt động của trung gian tài chính và của ngành công nghiệp phi tài

chính.

2.6.1 Tác động của tập trung ngân hàng lên chi phí của các trung gian

tài chính (lãi biên, khả năng sinh lời của ngân hàng).

Bằng cách tăng chi phí của các trung gian tài chính, tâp trung ngân hàng có

thể làm giảm đầu tư, sản lượng cân bằng, và do đó nhu cầu lao động cũng giảm. Điều

này dĩ nhiên giảm việc làm và nâng cao thất nghiệp, đặc biệt là sự có mặt của việc

tiền lương cứng giảm.

 Các nước công nghiệp.

Kết quả của các nghiên cứu sau đều ủng hộ thuyết SCP: Rất nhiều nghiên cứu

thực nghiệm cho thấy rằng một hệ thống ngân hàng tập trung nhiều hơn làm tăng chi

phí trung gian và làm suy giảm tăng trưởng. Ví dụ:

Theo Corvoisier và Gropp (2002), tác giả sử dụng dữ liệu cấp quốc gia trên 10

quốc gia châu Âu trong khoảng thời gian 1993-1999, cho rằng tập trung tăng có thể

dẫn đến thông đồng và lợi suất biên cao hơn cho cả các khoản vay và nhu cầu tiền

gửi. Tác giả De Jonghe & Vennet (2008) sử dụng dữ liệu của 183 ngân hàng từ 15

nước châu Âu giai đoạn 1997-2004 đã thấy rằng các ngân hàng có thị phần lớn trên

thị trường tập trung có thể tạo ra giá thuê không cạnh tranh.

Tương tự Molyneux và Thomton (1992) nghiên cứu các yếu tố quyết định hiệu

suất ngân hàng trên 18 quốc gia châu Âu năm 1986-1989. Họ đã sử dụng một loạt

các biện pháp bao gồm cả lợi nhuận trước và sau thuế trên tổng tài sản và lợi nhuận

28

trên vốn chủ sở hữu. Nói chung, họ nhận thấy rằng tập trung thị trường có tác động

tích cực đến lợi nhuận, ngoài ra tập trung trong thị trường ngân hàng châu Âu làm

giảm chi phí thông đồng giữa các doanh nghiệp và kết quả lợi nhuận cao hơn cho tất

cả những người tham gia thị trường.

Jeon & Miller (2005), sử dụng cấp dữ liệu nhà nước ở Mỹ cho giai đoạn 1976-

2000, tác giả cho rằng tăng tập trung ngân hàng dẫn đến tăng lợi nhuận ngân hàng.

Một nghiên cứu khác trên nước Mỹ của Tregenna (2009), tác giả sử dụng dữ liệu

hàng quý cấp ngân hàng trên 644 ngân hàng giai đoạn 1994-2005, tác giả cũng tìm

thấy một mối quan hệ tích cực và rất có ý nghĩa giữa tập trung và khả năng sinh lời.

Theo Hanley, Ennew & Binks (2006), tác giả sử dụng dữ liệu của Anh trong

giai đoạn 1996-2002 cho rằng người cho vay với thị phần lớn nhất trong ngành tài

tính phí lãi suất cao hơn đáng kể cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này cho thấy

tác dụng của sức mạnh thị trường.

Tác giả Kim và cộng sự (2012) sử dụng một mẫu lớn những công ty nhỏ ở Na

Uy giai đoạn 2000-2001 cho thấy một tác động tích cực đáng kể của tập trung ngân

hàng lên các công ty lâu năm chứ không phải cho các doanh nghiệp trẻ.

 Các nước đang phát triển

Hầu hết các nghiên cứu về các nước đang phát triển cũng cho thấy rằng tập

trung ngân hàng cao hơn làm tăng chi phí của các trung gian tài chính. Ví dụ:

Kết quả nghiên cứu được thực hiện bởi Sufian (2011), tác giả sử dụng dữ liệu

cấp ngân hàng và kết quả cho thấy rằng tập trung làm tăng đáng kể lợi nhuận ngân

hàng ở Hàn Quốc trong giai đoạn 1992-2003. Hay theo Aboagye và cộng sự (2008),

sử dụng dữ liệu hàng quý giai đoạn 2001-2006 tác giả cho rằng tăng tập trung ngân

hàng làm tăng đáng kể lợi nhuận lãi ròng ở Ghana.

Tovar và cộng sự (2011) sử dụng dữ liệu hàng tháng cho hệ thống ngân hàng

Columbia giai đoạn 1997-2006, tác giả thấy rằng thị trường tập trung cao hơn làm

tăng lãi suất khi hệ thống bị căng thẳng.

29

Tương tự, Martinez Peria & Mody (2004) dựa trên dữ liệu hàng quý cấp ngân

hàng từ 5 quốc gia Mỹ Latin giai đoạn 1995-2001, tác giả thấy rằng tập trung ngân

hàng làm tăng lên các chi phí hành chính.

=> Như vậy các nghiên cứu trên ủng hộ giả thuyết SCP, hai xu hướng sau ủng

hộ giả thuyết EH:

Đầu tiên, Koutsomanoli-Filippaki, Margaritis & Staikouras (2009) sử dụng dữ

liệu của 186 ngân hàng từ 10 nước ở Trung và Đông Âu giai đoạn 1998-2003, tác

giả cho rằng các ngân hàng tại các thị trường tập trung nhiều thì hiệu quả hơn, cung

cấp mức độ cạnh tranh đủ cao.

Thứ hai, Ben Naceur & Omran (2011) sử dụng dữ liệu cấp ngân hàng từ 10

nước Trung Đông và Bắc Phi, tác giả cho rằng tập trung ngân hàng cao hơn làm giảm

cả lợi nhuận lãi thuần và lợi nhuận trên tài sản trong giai đoạn 1989-2005.

Còn theo nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Thảo và Chris Stewart, tác giả kiểm

tra 48 ngân hàng thương mại Việt qua các mẫu đầy đủ (1999-2009) và bốn phụ mẫu

(1999-2003; 2004-2009; năm NH thương mại nhà nước và 43 ngân hàng thương mại

ngoài quốc doanh). Kết quả thực nghiệm của các tác giả cho thấy ngành ngân hàng

Việt Nam ít tập trung đáng kể; Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại lớn vẫn thống

trị toàn bộ hệ thống ngân hàng. Hơn nữa, kết quả của họ không hỗ trợ thuyết SCP hay

thuyết ES.

 Các nước công nghiệp và nước đang phát triển.

Trong bài nghiên cứu của Demirgüc-Kunt & Huizinga (1999), sử dụng dữ liệu

cấp ngân hàng cho 80 quốc gia trong những năm 1988-1995, tác giả nhận thấy rằng

tập trung làm tăng lợi nhuận ngân hàng.

Demirgüc-Kunt, Laeven, & Levine (2004), sử dụng dữ liệu của hơn 1.400

ngân hàng trên toàn 72 quốc gia kỳ 1995-1999, tác giả nhận thấy rằng tập trung có

quan hệ tích cực với lãi suất biên, mối quan hệ này bị phá vỡ khi kiểm soát lạm phát

và các qui định làm cản trở cạnh tranh.

30

Evanoff và Fortier (1988) sử dụng dữ liệu của hơn 6.300 ngân hàng Mỹ trong

30 tiểu bang vào năm 1984. Họ đã kiểm tra tác động của quy định về hoạt động ngân

hàng bằng cách chia thị trường thành phần có rào cản gia nhập cao và những phần có

rào cản gia nhập thấp. Trong thị trường với thị phần rào cản gia nhập cao có tác động

mạnh đến lợi nhuận. Tuy nhiên, trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng thị

trường rào cản gia nhập thấp có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể về lợi nhuận ngân hàng.

Nhìn chung, kết quả của họ hỗ trợ thuyết ES.

Còn theo Barth và cộng sự (2004) sử dụng tiền gửi của 5 ngân hàng để tính tỷ

lệ tập trung. Ông chỉ ra rằng một mức độ tập trung cao hơn của sở hữu nhà nước có

xu hướng gắn với hiệu quả thấp hơn của ngân hàng, ít tiết kiệm và vay vốn hơn, năng

suất thấp và tăng trưởng chậm. Thị phần các khoản tiền gửi trong 5 ngân hàng lớn

nhất được tổ chức bởi các ngân hàng quốc doanh là 80% trước năm 2001 (khi họ chỉ

chiếm 10% tổng số ngân hàng tại thời điểm đó).

=>Như vậy , một mặt, ngành công nghiệp ngân hàng tập trung hơn nuôi dưỡng

mối quan hệ

lâu dài với các doanh nghiệp và do đó đầu tư lâu dài và phát triển kinh tế có

thể làm tăng việc làm, giảm thất nghiệp. Mặt khác, tập trung ngân hàng có thể có hiệu

ứng bất lợi trên thị trường lao động khi tác dụng phụ đã được chỉ ra trong các nghiên

cứu trước đây chiếm ưu thế.Tuy các kết quả có phần hỗn hợp, hầu hết các nghiên cứu

cho thấy tập trung ngân hàng làm tăng chi phí của các trung gian tài chính và như đã

nói trước đây, hiệu ứng này có thể dẫn đến tăng thất nghiệp bằng cách giảm đầu tư

và việc làm.

2.6.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của tập trung ngân

hàng lên tín dụng khả dụng.

Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tập trung ngân hàng về tính khả

tín dụng còn hỗn hợp hơn nữa. Cụ thể:

 Các nước công nghiệp

31

Điều thú vị là, hầu hết các nghiên cứu ở nước công nghiệp tìm thấy tác động

thuận lợi chứ không phải là tác động xấu như:

Sử dụng một mẫu lớn của các doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ giai đoạn 1988-1989,

Petersen & Rajan (1995) chỉ ra rằng những doanh nghiệp trong thị trường tín dụng

tập trung nhiều hơn có thể tiếp cận tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn một chút.

Tương tự như vậy, kết quả nghiên cứu của Saeed & Esposito (2012) nhấn

mạnh rằng tập trung ngân hàng nới lỏng các ràng buộc về tài chính trên đầu tư cấp

công ty ở Anh trong giai đoạn 2001-2009.

Sử dụng dữ liệu của 14 quốc gia châu Âu từ 1992 tới 2005, Lee & Seol (2008),

cũng diễn giải rằng với ngành ngân hàng tập trung cao độ thì doanh nghiệp ít bị ràng

buộc tài chính hơn.

 Các nước đang phát triển.

Ngược lại với các nước công nghiệp, các nghiên cứu hầu hết về nước đang

phát triển tìm thấy tác dộng ảnh hưởng xấu lên khả tín dụng. Ví dụ:

Trong bài nghiên cứu được thực hiện bởi de Castro Almeida & Jayme vào năm

2008 báo cáo rằng quá trình hợp nhất trong ngành ngân hàng Brazil giai đoạn 1995-

2004 ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động cho vay của ngân hàng, chủ yếu ở các vùng

kém phát triển của đất nước.

Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu trên 302 doanh nghiệp sản xuất

ở Ấn Độ giai đoạn 2000-2009, Saeed & Vincent (2012) diễn giải rằng tập trung ngân

hàng thắt chặt ràng buộc tài chính lên đầu tư, có thể thấy ảnh hưởng rõ ràng hơn ở

các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp phụ thuộc vào các khoản nợ ngắn hạn.

 Các nước công nghiệp và nước đang phát triển.

Đầu tiên, nghiên cứu được thực hiện bởi Olivero, Li & Jeon (2011), sử dụng

dữ liệu cấp ngân hàng từ 18 nền kinh tế châu Á và Mỹ Latin (trừ hai quốc gia châu

Á, tất cả các nước còn lại là đang phát triển ), tác giả báo cáo rằng, giữa năm 1996 và

2006, kênh cho vay ngân hàng của chính sách tiền tệ đã bị suy yếu khi tập trung ngân

32

hàng tăng lên.

Trong bài nghiên cứu khác González & González (2008), sử dụng dữ liệu cấp

công ty từ 39 quốc gia chủ yếu là nước công nghiệp và tìm thấy rằng tập trung thị

trường ngân hàng mở rộng cho các doanh nghiệp tiếp cận khoản vay dài hạn trong

giai đoạn 1995-2004.

Beck, Demirgüc-Kunt & Maksimovic (2004) sử dụng dữ liệu cấp công ty từ

74 quốc gia vào cuối những năm 1990 và tác giả thấy rằng TTNH tăng trở ngại về tài

chính, ảnh hưởng lớn nhất với các doanh nghiệp nhỏ, hơn nữa mối quan hệ này chỉ

dành cho các nước có thu nhập thấp.

=>Như vậy, theo như các nguồn tín dụng có liên quan, trong khi hầu hết các

nghiên cứu về các nước công nghiệp chứng thực các giả thuyết EH, và hầu hết các

nghiên cứu về các nước đang phát triển và các nghiên cứu về cả hai loại quốc gia phát

triển và đang phát triển chứng thực cho giả thiết SCP. Ràng buộc tín dụng mạnh (yếu

hơn) có khả năng tăng (giảm) tỷ lệ thất nghiệp bởi vì chúng ảnh hưởng bất lợi (thuận

lợi) đến đầu tư, có thể làm giảm (tăng) việc làm và nhu cầu lao động.

2.6.3 Tác động của tập trung ngân hàng lên sự thành lập và tăng trưởng

doanh nghiệp

 Các nước phát triển

Ba nghiên cứu sau đây tại Mỹ:

Sử dụng dữ liệu từ 1969-1976, Jackson & Thomas (1995) cho rằng: nhìn

chung, tập trung ngân hàng địa phương đã có một tác động tích cực vào việc tạo ra

doanh nghiệp. Họ cũng tìm thấy rằng tập trung ngân hàng cũng có tác động tích cực

lên tăng trưởng việc làm trong các doanh nghiệp mới và có quan hệ tiêu cực tới tăng

trưởng việc làm trong các doanh nghiệp trưởng thành.

Ngược lại, trong bài nghiên cứu được thực hiện bởi Black & Strahan vào năm

2002 sử dụng dữ liệu cấp bang của Mỹ giai đoạn 1976-1994, tác giả cho thấy bằng

chứng trên khắp các bang của Mỹ rằng các tiểu bang có thị trường ngân hàng địa

33

phương tập trung nhiều hơn có tỷ lệ thành lập công ty thấp hơn và sự tiến dần của

ngân hàng liên bang làm tăng tăng tỷ lệ tập đoàn. Các ngân hàng lớn thống trị ngành

công nghiệp tập trung ngân hàng chủ yếu cho vay vào các công ty trưởng thành và

lớn. Điều này có thể ít xuất hiện rủi ro cho họ, nhất là vì họ thường đã phát triển mối

quan hệ lâu dài với những doanh nghiệp này. Vì vậy các doanh nghiệp mới thành lập

hay các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít có khả năng để có thể dễ dàng tiếp cận với các

khoản vay và các khoản vay đối với họ có thể sẽ đắt hơn. Ngành ngân hàng tập trung

nhiều hơn cũng có thể gây thêm khó khăn cho họ để được biết đến. Những tác dụng

này có thể kéo theo sự sụt giảm trong thành lập doanh cũng như giảm tốc độ tăng

trưởng của các công ty trẻ và các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Trong khi những

doanh nghiệp này tạo ra hầu hết các công ăn việc làm mới thì các công ty lâu năm

hơn và lớn hơn tạo ra rất ít thậm chí sa thải bớt nhân công (OECD 2009). Một ngành

ngân hàng tập trung hơn có thể giảm việc làm và nâng cao tỷ lệ thất nghiệp đặc biệt

bằng cách tập trung vào loại doanh nghiệp thứ hai và bỏ qua loại thứ nhất.

Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu trên 9 khu vực của Mỹ và 20

ngành sản xuất giai đoạn 1977-1988, Cetorelli (2003) cho rằng tập trung ngân hàng

hơn hàm ý các doanh nghiệp trẻ có ít lối vào thị trường hơn và tỷ lệ tạo việc làm thấp

hơn và tỷ lệ tạo công việc cao hơn cũng như ít sa thải ở các công ty lâu năm. Trong

một bài báo khác, tác giả sử liệu bao gồm 28 quốc gia OECD năm 2004, báo cáo kết

quả tương tự như nghiên cứu ở Mỹ của ông. Cụ thể, ông sử dụng dữ liệu của 27 ngành

sản xuất từ những năm 1980 và 1990, ông thấy rằng những doanh nghiệp đương

nhiệm phụ thuộc về tài chính bên ngoài nhiều hơn có một kích thước trung bình lớn

hơn nếu nó ở trong nước có ngành công nghiệp ngân hàng tập trung hơn - bằng chứng

cho thấy rằng tập trung ngân hàng có thể là rào cản để nhập cảnh trong các ngành

công nghiệp phi tài chính.

Và bài báo “Finance, investment, and growth” cũng nghiên cứu về các nước

OECD (với dữ liệu từ 27 nước công nghiệp trong giai đoạn 1970-1995) Carlin và

Mayer (2003) cho rằng tập trung ngân hàng cao hơn có liên quan với việc tăng trưởng

thấp hơn của ngành công nghiệp có vốn được tài trợ và có kỹ năng chuyên sâu. Điều

34

này cũng làm giảm việc làm và tăng tỷ lệ thất nghiệp, là bởi vì các ngành này đại diện

cho một phần quan trọng của nền kinh tế ở các nước công nghiệp

 Các nước đang phát triển

Ở lĩnh vực này, không có nghiên cứu nào về các nước đang phát triển

 Các nước phát triển và các nước đang phát triển

Sử dụng dữ liệu ở 41 quốc gia vào những năm 1980 và 1990, Cetorelli và

Gambera (2001) cho thấy trong khi tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên tổng thể sự

phát triển của ngành công nghiệp là tiêu cực, thì mặt khác tập trung ngân hàng thúc

đẩy sự tăng trưởng của các ngành công nghiệp có tài chính dựa nhiều từ bên ngoài

bằng cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trẻ có thể tiếp cận tín dụng. Phù hợp

với nghiên cứu của Cetorelli và Gambera, Fernández, G onzález và (2010), tác giả sử

dụng dữ liệu trên 84 quốc gia giai đoạn 1980-2004, cũng cho kết quả rằng tập tập

trung ngân hàng nói chung tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.

Ngược lại, cũng sử dụng dữ liệu của 41 nước công nghiệp và đang phát triển

từ những năm 1980 và 1990, kết quả nghiên cứu của Claessens và Laeven (2005) cho

thấy rằng không có bằng chứng cho thấy tập trung hệ thống ngân hàng giải thích sự

phát triển ngành công nghiệp.

=>Những ghiên cứu này cũng cho ra kết quả khác nhau. Tóm lại, những nghiên

cứu về ảnh hưởng của tập tập trung ngân hàng đến hoạt động thành lập và tăng trưởng

không ưu ái cho giả thuyết SCP hơn giả thuyết EH và cũng không giải quyết một

cách rõ ràng rằng tập trung ngân hàng cao hơn tác động xấu (hoặc thuận lợi) đến tỷ

lệ thất nghiệp thông qua kênh này.

2.6.4 Tác động của tập trung ngân hàng lên thất bại ngân hàng và khủng

hoảng ngân hàng hệ thống

 Các nước đang phát triển

Sử dụng dữ liệu cấp ngân hàng trên 133 nước đang phát triển trong giai đoạnh

1993-2004, Boyd, De N icolò và Loukoianova (2007) cho thấy rằng mối quan hệ

35

cùng chiều giữ tập trung ngân hàng và xác suất thất bại ngân hàng là mạnh nhất khi

ngân hàng nhà nước có thị phần khá lớn.

 Các nước phát triển và các nước đang phát triển

Sử dụng một mẫu dữ liệu của khoảng 2500 các ngân hàng Mỹ trong năm 2003

và dữ liệu bảng của khoảng 2.600 ngân hàng tại 134 nước đang phát triển cho giai

đoạn 1993-2004, Boyd, De Nicolò và Jalal (2006) cho rằng rằng xác suất của các

ngân hàng thất bại là liên quan cùng chiều với tập trung ngân hàng.

Ngược lại, sử dụng dữ liệu về 69 quốc gia công nghiệp và đang phát triển giai

đoạn 1980-1997, Beck, Demirgüç-Kunt và Levine (2006, 2007) cho thấy rằng khủng

hoảng ngân hàng có hệ thống ít có khả năng xảy ra trong các nền kinh tế có hệ thống

ngân hàng tập trung hơn.

Evrensel (2008) sử dụng dữ liệu trên 79 quốc gia và 50 tập của các cuộc khủng

hoảng ngân hàng cùng kỳ 1980-1997 trong bài nghiên cứu cho thấy rằng tập trung

ngân hàng có xu hướng làm giảm nguy cơ đổ vỡ ngân hàng và khủng hoảng ngân

hàng. Tuy nhiên, bà cũng lưu ý rằng những nước đang phát triển có cả sự tập trung

cao hơn, rủi ro đỗ vỡ ngân hàng nhiều hơn và khủng hoảng ngân hàng cao hơn.

Như vậy, tóm lại, kết quả từ những nghiên cứu này là không thuyết

phục. Trong khi người ta nghĩ rằng ngân hàng thất bại và khủng hoảng ngân hàng

nhiều hơn sẽ tăng tỷ lệ thất nghiệp, những nghiên cứu trước đây là không rõ ràng khi

cho rằng tập trung cao hơn có thể tăng hoặc giảm tỷ lệ thất nghiệp thông qua kênh

này. Trong thực tế, các kết quả từ các nghiên cứu trước đây là không thể kết luận

không chỉ với kênh này mà còn cho tất cả các kênh khác. Đối với mỗi kênh nó là

không rõ ràng khi nghĩ rằng tập trung ngân hàng cao hơn tác động tiêu cực hoặc tích

cực lên tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, các vấn đề về tập trung ngân hàng ảnh hưởng

đến tỷ lệ thất nghiệp cần phải được giải quyết theo thực nghiệm. Do đó, để xem xét

ảnh hưởng của tập trung ngân hàng ảnh hưởng lên tỷ lệ thất nghiệp như thế nào,

chương 3 và chương 4 của bài nghiên cứu này, tác giả sẽ trình bày mô hình thực

nghiệm cũng như kết quả nghiên cứu tập trung ngân hàng và với mức tập trung ngân

36

hàng hiện nay đã ảnh hưởng tỷ lệ thất nghiệp ở các nước thành viên khối APEC trước,

trong và sau giai đoạn chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính 1996-2014 hiện nay

ra sao.

Bảng 2.5: Tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm tác động của tập trung

ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp

Các nước công Các nước Các nước công Tập trung ngân

nghiệp đang phát nghiệp & các hàng tác động lên

triển nước đang phát

triển

Tích cực, ủng hộ Hỗn hợp Tích cực, ủng hộ Chi phí trung gian

thuyết SCP thuyết SCP tài chính

Tiêu cực, ủng hộ Tích cực, ủng Tiêu cực, ủng hộ Khả tín dụng

thuyết EH hộ thuyết SCP thuyết SCP

Tiêu cực, ủng hộ Không có Hỗn hợp Sự thành lập và

thuyết EH nghiên cứu tăng trưởng doanh

nghiệp

Tích cực, ủng Hỗn hợp Tích cực, ủng hộ Thất bại ngân

hộ thuyết SCP thuyết SCP hàng và khủng

hoảng ngân hàng

hệ thống

Nguồn: tổng hợp từ tác giả

37

CHƯƠNG 3:

THỰC TRẠNG TẬP TRUNG NGÂN HÀNG VÀ THẤT NGHIỆP Ở

CÁC QUỐC GIA THÀNH VIÊN APEC

3.1 Tổng quan về APEC

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (tiếng Anh: Asia-Pacific

Economic Cooperation, viết tắt là APEC) là tổ chức quốc tế của các quốc gia nằm

trong khu châu Á - Thái Bình Dương với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh

tế và chính trị. APEC được thành lập vào tháng 11 năm 1989. Ngày 14/11/1998, Việt

Nam cùng với Liên bang Nga và Pêru, làm thành viên chính thức của APEC. Hiện

nay, APEC gồm 21 thành viên, bao gồm tất cả các nền kinh tế lớn trong khu vực và

các nền kinh tế năng động nhất, tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Các nền kinh tế

của các thành viên APEC cho thấy sự đa dạng, phong phú của khu vực cũng như các

trình độ và phương thức phát triển khác nhau. Mặc dù giữa các nền kinh tế trong khu

vực có nhiều điểm khác biệt nhưng việc họ hợp tác được với nhau trong một diễn đàn

đã phản ánh mục đích và quyết tâm chính trị chung là thúc đẩy sự tăng trưởng và phát

triển kinh tế bền vững trong khu vực và trên thế giới. Các nước đang phát

triển (ASEAN) cũng muốn tăng cường tiếng nói trong khu vực để thúc đẩy phát triển

kinh tế, nhưng không muốn làm lu mờ những cơ chế hợp tác chính trị sẵn có.

Mục tiêu hoạt động của APEC: có 3 mục tiêu

Tự do hóa thương mại và đầu tư trong khu vực Châu Á - Thái Bình -

Dương vào năm 2020.

- Tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa hai khu vực phát triển.

- Hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật nhằm hỗ trợ lẫn nhau

phát triển, phát huy những thành tựu tích cực mà nền kinh tế của các nước trong khu

vực đã tạo ra vì lợi ích của khu vực và cả thế giới

Nguyên tắc hoạt động của APEC: Hợp tác giữa các thành viên APEC được

tiến hành theo 9 nguyên tắc sau:

- Toàn diện: Tiến trình tự do hóa và thuận lợi hóa trong APEC sẽ được

38

triển khai ở tất cả các lĩnh vực kinh tế để giải quyết tất cả các hình thức cản trở mục

tiêu lâu dài của thương mại và đầu tư tự do.

- Phối hợp với WTO: Các biện pháp áp dụng trong APEC phải phù hợp

những cam kết để đạt được ở WTO.

- Đảm bảo môi trường tương xứng giữa các thành viên trong việc thực

hiện tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, xem xét thích đáng tới mức độ tự

do hóa và thuận lợi hóa đã đạt được ở mỗi nước.

- Thực hiện chủ nghĩa khu vực mở, không phân biệt đối xử: Tự do hóa

thương mại và đầu tư trong APEC sẽ được thực hiện trên cơ sở không phân biệt đối

xử ( kể cả các nước không phải là thành viên).

- Đảm bảo sự rõ ràng công khai mọi luật lệ chính sách hiện hành tại các

nước thành viên APEC.

- Lấy mức bảo hộ hiện tại làm mốc, chỉ có giảm, không tăng thêm các

biện pháp bảo hộ.

- Tiến trình tự do hóa, thuận lợi hóa thương mại và đầu tư của APEC

được tất cả các nước thành viên đồng loạt triển khai, thực hiện liên tục, với những

thời gian biểu khác nhau. Mọi thành viên APEC đều bình đẳng, mọi quyết định đều

đạt tới bằng sự nhất trí chung tôn trọng quan điểm của các nước tham gia.

- Có sự linh hoạt trong việc thực hiện các vấn đề tự do hóa thương mại

và đầu tư vì trình độ phát triển kinh tế của các nước APEC khác nhau.

- Hợp tác: APEC chủ trương hợp tác kinh tế, kỹ thuật để thúc đẩy kinh

tế tăng trưởng và phát triển một cách bền vững

3.2 Mối quan hệ kinh tế giữa các nước thành viên khối APEC

Ngay từ đầu, APEC đã tích cực theo đuổi mục tiêu tăng cường hệ thống thương

mại đa phương mở. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ nhằm huy

động có hiệu quả các nguồn lực trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, duy trì tốc

độ tăng trưởng bền vững của các nền kinh tế, đồng thời giảm bớt sự chênh lệch về

trình độ phát triển giữa các thành viên, APEC cũng rất coi trọng đẩy mạnh hợp tác

kinh tế và kỹ thuật. APEC hoạt động trên nguyên tắc cùng có lợi, đồng thuận, tự

39

nguyện,

Quan hệ đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc là mối quan hệ phát triển

năng động và toàn diện nhất của ASEAN. Trung Quốc hiện đã trở thành đối tác

thương mại lớn nhất của ASEAN, với thương mại hai chiều đạt trên 200 tỉ USD.

ASEAN hiện là một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Australia với kim

ngạch thương mại hai chiều đã tăng gấp đôi trong vòng thập kỷ qua (từ 45 tỷ USD

tăng lên 92 tỷ USD).

Trong 7 năm qua, APEC đã đóng vai trò quan trọng duy trì quá trình tự do hoá

và tạo thuận lợi hoá cho dòng chảy thương mại và đầu tư trong khu vực. Thị trường

APEC cũng đang tạo nhiều cơ hội hơn cho Việt Nam trong thu hút nguồn vốn FDI

và gia tăng khôi lượng thương mại với các đối tác trong APEC. APEC cũng chính là

điều kiện để Việt Nam khẳng định quá trình hội nhập kinh tế đầy đủ của mình. Việt

Nam có nhiều đối tác lớn trong APEC như các nước ASEAN, Nhật Bản, Trung Quốc,

Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Liên bang Nga. Thị trường APEC có tiềm năng rất lớn đối với

Việt Nam trong hiện tại và tương lai, lợi ích APEC đem lại cho Việt Nam là rất cụ

thể khi thuế thương mại giảm; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang các

thị trường trong khu vực chiếm tới 60%, nguyên vật liệu cho sản xuất trong nước và

xuất khẩu nhập khẩu chính từ các nền kinh tế APEC. Ngoài ra, đây là nơi hội tụ kinh

nghiệm quản lý, công nghệ, đầu tư. Đây là khu vực đầu tư lớn nhất vào Việt Nam,

chiếm khoảng 65%. Nguồn viện trợ phát triển (ODA) quan trọng đối với Việt Nam

cũng chủ yếu đến từ các thành viên APEC. Bên cạnh đó, 75% khách du lịch tới Việt

Nam cũng là từ các thị trường châu Á-Thái Bình Dương. Trong đó có thể kể đến

những đối tác chiến lược quan trọng như Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Úc…

 Tình hình kinh tế APEC 2015 theo World bank:

Tăng trưởng kinh tế sẽ giảm nhẹ ở các nước trong khu vực các nước đang phát

triển ở Đông Á và Thái Bình Dương trong năm nay, mặc dù có những lợi ích từ việc

giảm giá dầu và sự phục hồi kinh tế vẫn tiếp tục trong các nền kinh tế phát triển.

40

Khu vực này sẽ vẫn chiếm tới một phần ba tăng trưởng toàn cầu, gấp đôi so

với tất cả các khu vực đang phát triển khác.

Các nền kinh tế đang phát triển của Đông Á được dự báo sẽ tăng trưởng 6,7%

trong năm 2015 và năm 2016, giảm nhẹ từ 6,9% trong năm 2014.

Tăng trưởng của Trung Quốc dự kiến trung bình khoảng 7% trong hai năm tới,

so với 7,4% trong năm 2014.

Tăng trưởng của các nước phát triển Đông Á còn lại dự kiến sẽ tăng 0,5%,

xuống còn 5,1% trong năm nay, chủ yếu do nhu cầu trong nước trong các nền kinh tế

lớn Đông Nam Á.

3.3 Thực trạng tập trung ngân hàng tập trung ở các nước thành viên

khối APEC

Cơ cấu của ngành ngân hàng từ lâu đã là một vấn đề quan tâm của chính sách

tập trung chủ yếu xoay quanh xu hướng tập trung và ảnh hưởng của nó lên hiệu quả

kinh tế, lợi nhuận ngân hàng, tài chính và ổn định kinh tế vĩ mô. Việc hợp nhất các

ngành công nghiệp nói chung và ngành ngân hàng nói riêng ở các quốc gia đã và đang

phổ biến rộng rãi trong nhiều thập kỷ gần đây đã dẫn đến một sự suy giảm về số lượng

các ngân hàng nhỏ. Thay đổi công nghệ và quản lý khi hợp nhất liên tục đang tiếp tục

giảm số lượng các ngân hàng nhỏ, và các ngân hàng đa quốc gia lớn sẽ đóng một vai

trò ngày càng quan trọng trong thị trường ngân hàng trong nước. Nhiều đối thủ cạnh

tranh trung bình trong nước và nước ngoài có thể làm giảm những lo ngại về những

ảnh hưởng của tập trung lên cạnh tranh nhưng tăng các vấn đề quan trọng đối với bảo

đảm chính sách an toàn và ổn định tài chính.

41

Bảng 3.1: biểu đồ thể hiện thực trạng bình quân tập trung ngân hàng của

các nước APEC

Nguồn: tổng hợp từ Excel trên số liệu tác giả thu thập với cỡ mẫu gồm 381

quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1998– 2011.

Tập trung tăng đặc biệt là trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến năm 2009.

Mức độ cũng khác nhau giữa các nước. Tập trung tài sản được tổ chức bởi ba ngân

hàng lớn nhất ở Singapore là 94,46%, tức tài sản trong lĩnh vực ngân hàng được gần

như hoàn toàn kiểm soát bởi các ngân hàng này. Tuy nhiên, tập trung tài sản được

của ba ngân hàng lớn nhất tại Nga là khá thấp ở mức 28,9%, nghĩa là tài sản trong

lĩnh vực ngân hàng rất đa dạng.

Theo các số liệu thống kê mô tả từ Statista, đến 2015, các nước phát triển với

mức độ tập trung cao nhất trong ngành ngân hàng trong khu vực là Mỹ và Nhật Bản.

Tại Mỹ, nơi các ngân hàng ‘quá lớn để sụp đổ’ khiến nền kinh tế đến bên bờ vực sụp

đổ năm 2008, các ngân hàng đã ít tập trung hơn; ba ngân hàng lớn nhất kiểm soát

khoảng 45% tổng tài sản của ngân hàng. Và trong khi mức độ tập trung của Mỹ đã

thấy giảm bớt kể từ khi cuộc khủng hoảng tài chính thì ở Canada tập trung không

ngừng tăng lên. Theo báo cáo của Global Financial Stability cho thấy rằng Canada là

42

một trong số ít các quốc gia mà ba ngân hàng lớn nhất - RBC, TD và Scotiabank -

kiểm soát hơn 60% của tất cả tài sản ngân hàng.

Chile và Peru được đặc trưng bởi một hệ thống ngân hàng tương đối tập trung

với số lượng nhỏ của các tổ chức. Tính đến tháng 12 năm 2012 Chile đã có 24 ngân

hàng và tổng tài sản $ 253 tỷ và Peru đã có 16 ngân hàng và tổng số tài sản của $ 80

tỷ. Một trong những khác biệt chính trong hệ thống ngân hàng là sự hiện diện và kích

thước lớn của các ngân hàng nước ngoài.

Có một xu hướng giảm của thị trường tập trung cho đến khi cuộc khủng hoảng

tài chính châu Á năm 1997 (bắt đầu từ năm 1982, khi các quy định về tài chính được

bãi bỏ làm xuất hiện các ngân hàng mới và gây ra cạnh tranh gay gắt giữa các ngân

hàng hiện có). Tập trung ngân hàng tại Hàn Quốc vẫn giảm cho đến khi cuộc khủng

hoảng tài chính châu Á năm 1997-98. Do được bãi bỏ quy định về tài chính, nó đã

tăng lên rõ rệt kể từ cuộc khủng hoảng do giảm số lượng ngân hàng, hợp nhất ngân

hàng, và tạo ra các ngân hàng lớn trong hệ thống ngân hàng. Ngược lại, tập trung thị

trường Trung Quốc liên tục giảm từ 1994 đến 2008 do thay đổi trong chính sách của

chính phủ Trung Quốc về ngân hàng, cho phép thành lập ngân hàng nhiều hơn và

thúc đẩy cạnh tranh. Mặc dù một số vụ sáp nhập của các ngân hàng xảy ra trong

những năm gần đây, số lượng các ngân hàng mới tạo ra vẫn vượt xa số lượng ngân

hàng được mua và sáp nhập. Khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008

giảm giá trị thị trường của các ngân hàng Mỹ và phương Tây, bốn ngân hàng Trung

Quốc vẫn xếp hạng trong top 10 ngân hàng trên thế giới.

Thông qua việc chuyển đổi tài chính để đối phó cuộc khủng hoảng 1997, số

lượng các ngân hàng ở Đông Nam Á giảm tới năm 2005 do hợp nhất ngân hàng và

đóng cửa các ngân hàng nhỏ hơn và thất bại. Ví dụ, Hàn Quốc và Malaysia đã dẫn

đến cải cách ngành ngân hàng nơi củng cố vai trò trung tâm. Theo các bước sau là

Thái Lan và Philippines, nhưng ở một giai đoạn chậm mà chương trình kết hợp giữa

chính phủ và IMF đã để lại những giải pháp cho các lực lượng thị trường. Trong

Indonesia 68 ngân hàng đã đóng cửa, 33 bị quốc hữu hóa, 27 ngân hàng được tái cấp

43

vốn, 4 ngân hàng nhà nước đã được sáp nhập vào một ngân hàng quốc doanh mới và

một số ngân hàng tư nhân cũng đã được sáp nhập [3]. Tuy nhiên, việc giảm số lượng

ngân hàng không trực tiếp chuyển thành tăng hoặc giảm nồng độ [4].

Ngành ngân hàng Việt dường như có một sự tập trung cao với sự thống trị của

các ngân hàng thương mại quốc doanh. 4 ngân hàng thương mại quốc doanh chính

bao gồm Agribank, Vietcombank, Vietinbank, BIDV tài khoản cho 38% tổng số vốn

điều lệ và 49% tổng tài sản của toàn hệ thống. Kể từ khi cuộc khủng hoảng toàn cầu

gần đây, ngành ngân hàng Việt Nam đã thể hiện nhiều yếu kém, làm chậm sự phục

hồi của nền kinh tế. Kết quả là, vào ngày 01 tháng 3 năm 2012, các chiến lược cải

cách tái cấu trúc ngành ngân hàng với số lượng các ngân hàng trong nước được dự

báo sẽ giảm xuống còn khoảng 15-17 đơn vị trong năm 2017. Cụ thể:

Sau giai đoạn hậu khủng hoảng kinh tế Thế Giới vào cuối năm 2008, nền kinh

tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đứng trước tình thế bắt buộc

phải tiến hành tái cơ cấu ngay lập tức. Cụ thể, NHNN đã đưa ra đề án 254 “Tái cơ

cấu các TCTD trong giai đoạn 2011-2015” với mục tiêu tái cơ cấu lại toàn bộ hệ

thống các TCTD, đặc biệt trước tiên là với các ngân hàng có quy mô nhỏ hoặc đang

có vấn đề trong hoạt động. Dưới sự chỉ đạo quyết liệt của NHNN, tính đến tháng 9

năm 2015, hoạt động M&A giữa các NHTM Việt Nam cho dù chưa thể được tiến

hành mạnh mẽ theo đúng như kế hoạch nhưng cũng đã đạt được một số kết quả khả

quan trong việc tái cơ cấu các ngân hàng nhỏ và hoạt động yếu kém qua các thương

vụ M&A như sau:

Giai đoạn 1991-2005

Sau năm 1991, hàng loạt các NHTM cổ phần ra đời và hoạt động trên lãnh thổ

Việt Nam. Năm 1997 là năm có số lượng NHTM cao nhất với 84 ngân hàng. Từ năm

1998 đến năm 2001, NHNN áp dụng chương trình 3 năm củng cố hệ thống ngân hàng

và nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống NH.

Do sự khó khăn của một nền kinh tế non trẻ và sự tác động mạnh mẽ của cuộc

khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 khiến cho nhiều NH lâm vào tình trạng khó

44

khăn, NHNN chịu áp lực phải củng cố tập trung xây dựng hệ thống NH vững mạnh.

Vì vậy, NHNN đã thực hiện chiến lược chấn chỉnh tổ chức tín dụng cổ phần, và đã

có khoảng trên 10 ngân hàng cổ phần nông thôn được củng cố bằng con đường giải

thể, rút giấy phép, sáp nhập với những NH lớn ở đô thị. Đối tượng sáp nhập: hoạt

động sáp nhập diễn ra giữa các NHTM cổ phần với nhau và giữa các NHTM Cổ phần

với các quỹ tín dụng nhân dân

Có thể kể ra một số ví dụ như:

- NH quốc tế Hà Nội mua lại NHTM Cổ phần Mekong.

- NHTM Cổ phần Phương Nam đã sáp nhập với NHTM CP Châu Phú (An

Giang), Quỹ tín dụng nhân dân Định Công (Thanh Trì - Hà Nội), NHTM Cổ phần

Đại Nam, NHTM Cổ phần Đông Á mua lại NHTM Cổ phần tứ giác Long Xuyên

- NHTM Cổ phần Thương Tín sáp nhập với NHTM Cổ phần Thạnh Thắng -

Cần Thơ.

- NHTM Cổ phần Tây Đô sáp nhập vào NHTM Cổ phần Phương Đông vào

năm 2003 nâng vốn điều lệ của NHTM Cổ phần Phương Đông lên 101 tỷ đồng.

Như vậy, hoạt động sáp nhập Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 1991-2003 chủ

yếu là do NH Nhà nước chỉ định sáp nhập một số NHTM Cổ phần để cơ cấu lại tổ

chức NH sao có hiệu quả hơn, ngoài ra còn có thêm lý do ý thức tự thân của các

NHTM Cổ phần sáp nhập để nâng cao năng lực cạnh tranh với 4 NHTM NN. Nhưng

nhìn chung chưa có vụ sáp nhập ngân hàng nào thực sự diễn ra.

Giai đoạn 2005-2010

Đánh dấu cho hoạt động M&A ở Việt Nam là việc Nhà nước ban hành Luật

Doanh nghiệp 2005, trong đó các khái niệm về M&A lần đầu tiên được ghi nhận

trong luật pháp Việt Nam tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các hoạt động sau này.

M&A trong lĩnh vực tài chính ngân hàng Việt Nam giai đoạn hiện nay thực sự chỉ

diễn ra sôi động trong những năm 2006 - 2007. Tuy nhiên, các thương vụ này chủ

yếu là do NH trong nước bán cổ phần cho các tập đoàn tài chính, các quỹ đầu tư nước

ngoài và một số cổ đông chiến lược khác với hai xu hướng rõ rệt là các NH, các nhà

45

đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các NH Việt Nam. Ngoài ra, không thể bỏ qua

một xu hướng nữa là các NH lớn của Việt Nam mua cổ phần của các NH nhỏ.

Như vậy, trên thị trường M&A ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn này có những

đặc trưng sau:

- Không có một thương vụ M&A hoàn toàn mà chỉ là mua một lượng phần

trăm cổ phần nào đó, dừng lại ở mức là hợp tác, hỗ trợ, các cổ đông chiến lược. Điều

này là hiển nhiên vì các NHTM bị hạn chế tỷ lệ nắm giữ của các nhân, tổ chức nước

ngoài là 30%, mỗi một cá nhân tổ chức nước ngoài chỉ được nắm giữ tối đa 10% trừ

cổ đông chiến lược là 20%.

- Động lực của các thương vụ M&A là một quá trình tự thân, không phải do

NHNN hay bất cứ cơ quan có thẩm quyền nào chỉ định, các ngân hàng đến với nhau

đơn giản để có được những lợi ích cho ngân hàng mình

- Hai xu hướng M&A rõ ràng là NH lớn nước ngoài mua cổ phần của các NH

Việt Nam, và các NH Việt Nam lớn mua cổ phần của các NH nhỏ.

Giai đoạn 2011 đến nay

Năm 2011, hoạt động M&A Ngân hàng luôn là một trong những ngành sôi

động nhất (chỉ sau thực phẩm - trong hoạt động M&A có sự tham gia của nước ngoài,

và sau dịch vụ tài chinh- trong hoạt động M&A nội địa) ( biểu đồ 1.1). Với sự tham

gia của một số quỹ đầu tư và các ngân hàng nước ngoài, một số ngân hàng Việt Nam

đã thực hiện thành công việc mua bán cổ phần của mình, giúp tăng nguồn vốn kinh

doanh và cải thiện tình hình quản trị và ứng dụng công nghệ, điển hình như:

- Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)

bán cho Mizuho 15% vốn tính trên số cổ phiếu đã phát hành, đang lưu hành. Khoản

đầu tư này tương đương 567,3 triệu USD, bằng 11.800 tỷ đồng, lớn nhất từ trước tới

nay trong hoạt động mua bán - sáp nhập (M&A) tại Việt Nam.

- IFC mua 10% cổ phần VietinBank với tổng giá trị lên tới 182 triệu USD là

thương vụ tiêu biểu đánh dấu hoạt động mua cổ phần của nhà đầu tư chiến lược nước

46

ngoài đối với các ngân hàng Việt Nam và cũng là thương vụ phát hành cổ phần có

giá trị lớn nhất trong năm.

- Commonwealth Bank of Australia đã mua thêm 25 triệu cổ phần của Ngân

hàng Quốc tế (VIB) với giá lên tới 45.000 đồng/cp; qua đó tăng tỷ lệ nắm giữ từ 15%

lên 20%.

Ngoài ra, còn các thương vụ M&A tiêu biểu khác như giữa Standard Chartered

và ACB, Ngân hàng Hồng Kông và Thượng Hải (HSBC) và Techcombank, OCBC

và VPBank, Deutsche Bank và Habubank, Ngân hàng Singapore (UOB) và Ngân

hàng TMCP Phương Nam (PNB) hay Maybank và ABBank...

M&A trong nước cũng có những sự kiện đình đám có thể kể tới:

- Sáp nhập 3 ngân hàng: Ngân hàng TMCP Sài Gòn, Ngân hàng TMCP Đệ

Nhất (Ficombank) và Ngân hàng TMCP Tín nghĩa, dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng

Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với vai trò là đại diện vốn Nhà nước tại ngân

hàng mới sau sáp nhập.

- Công ty Dịch vụ tiết kiệm Bưu điện - một công ty trực thuộc VNPost - đã

được sáp nhập vào Ngân hàng Liên Việt và ngân hàng này đã đổi tên thành Ngân

hàng Bưu điện Liên Việt.

Bảng 3.2: Các thương vụ M&A của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-

2015

Các ngân hàng tham gia M&A Ngân hàng sau M&A Năm

Ficombank, TinNghiaBank, SCB SCB 2011

Habubank, SHB SHB 2012

PVFC, Western Bank Pvcombank 2013

Đại Á Bank, HDBank HDBank 2013

MHB, BIDV BIDV 2015

MDB, Maritime Bank Maritime Bank 2015

PGBank, Vietinbank Vietinbank 2015

47

Sacombank, Ngân hàng Phương Nam Sacombank 2015

Nguồn: Người viết tự tổng hợp

Năm 2012 ghi dấu các cuộc sáp nhập:

- Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (HBB) vào ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà

Nội (SHB).

- Tập đoàn DOJI mua cổ phần của TienPhongBank, đạt tỷ lệ nắm giữ tối đa

20%.

Ngoài ra, còn một số NH tự tái cơ cấu như NaviBank, TrustBank,

TienphongBank và GP Bank. Theo đánh giá của các chuyên gia, tái cơ cấu ngân hàng

đạt được kết quả bước đầu sau 1 năm thực hiện. Trong đó, đáng chú ý là an toàn hệ

thống các TCTD được cải thiện rõ rệt; nguy cơ đổ vỡ hệ thống từng bước được đẩy

lùi; tài sản của Nhà nước và nhân dân được bảo đảm an toàn; tiền gửi của nhân dân

được chi trả bình thường, kể cả ở ngân hàng yếu kém. Các TCTD yếu kém có nguy

cơ đổ vỡ đã được NHNN kiểm soát chặt chẽ và từng bước được xử lý bằng các giải

pháp thích hợp nhờ đó thị trường tiền tệ dần đi vào ổn định

Năm 2013 khởi động với thương vụ VietinBank ký hợp đồng bán 20% cổ phần

cho Ngân hàng Nhật Tokyo Mitsubishi UFJ - giá trị đầu tư lên tới 743 triệu

USD. Tiếp đến có thể kể đến một số thương vụ nổi bật như:

- Thương vụ giữa IFC và Maybank với ABBank: IFC trở thành cổ đông lớn

của ABBank với tỷ lệ sở hữu 10% và Maybank tiếp tục sở hữu 20% vốn điều lệ. Với

thương vụ này vốn điều lệ của ABBank tăng từ gần 4 200 tỷ đồng lên gần 4 800 tỷ

đồng.

- Thương vụ sáp nhập WesternBank và PVFC thành NH TMCP Đại Chúng

(PVcomBank) với mức vốn điều lệ 9000 tỷ đồng

- Thương vụ DaiABank và HD Bank hợp nhất thành HD Bank với mức vốn

điều lệ tăng từ 5000 tỷ đồng lên 8100 tỷ đồng.

48

Mở màn làn sóng M&A năm 2015 là thương vụ Mekong Bank (MDB) sáp

nhập Maritime Bank. Cái được lớn nhất trong thương vụ sáp nhập giữa hai NH này

là xóa được tình trạng sở hữu chéo, khi mà Maritimebank đang nắm giữ 10,16% cổ

phần của MDB. Maritime Bank sau sáp nhập sẽ có vốn điều lệ gần 11.800 tỷ đồng

(Maritime Bank 8.000 tỷ đồng và MDB vốn 3.750 tỷ đồng), với tổng tài sản khoảng

113.000 tỷ đồng.

HDBank rất thành công khi hoán đổi cổ phiếu của DaiABank sang HDBank

1: 1. Sau đó, hệ thống công nghệ thông tin và dữ liệu khách hàng DaiABank đã được

tích hợp thành công vào HDBank sau 6 tháng kể từ khi M&A và hoạt động trên nền

tảng duy nhất là Core Banking SYMBOLS, đảm bảo tính xuyên suốt, đồng nhất, an

toàn. Mạng lưới hoạt động đã được tổ chức, sắp xếp hợp lý, đồng thời việc thay đổi

hệ thống nhận diện thương hiệu đã hoàn thành tại tất cả các đơn vị kinh doanh. Người

lao động được đảm bảo việc làm và các chế độ, tạo được sự ổn định trong hoạt động

của hệ thống NH. HDBank đang từng bước đẩy mạnh tái cấu trúc. Khi đó, cùng với

việc triển khai tái cấu trúc, HDBank duy trì tốc độ phát triển khả quan, đảm bảo mục

tiêu an toàn, bền vững. Sau sáp nhập, vốn điều lệ của HDBank đến cuối năm 2013

đạt 8.100 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 86.227 tỷ đồng, tăng 21,76%, tổng vốn huy động

đạt 76.304 tỷ đồng, tăng 25,91%, dư nợ tín dụng đạt 44.030 tỷ đồng, tăng 34,4%, tỷ

lệ an toàn vốn: 12,2%. ROA: 0,57%, ROE: 5,66%, lợi nhuận trước thuế hợp nhất sau

dự phòng 396 tỷ đồng, nợ xấu được kiểm soát ở mức an toàn. Một thương vụ sáp

nhập thu hút sự quan tâm của dư luận gần đây là việc PG Bank về với VietinBank.

Việc sáp nhập là phù hợp với chủ trương của Chính phủ và NHNN, tạo cơ hội cho

VietinBank đạt được mục tiêu trở thành ngân hàng hàng đầu về quy mô và tiềm lực

tài chính và nâng tầm mối quan hệ hợp tác chiến lược với Tập đoàn Petrolimex và

các đơn vị thành viên. Sau sáp nhập, tổng tài sản của VietinBank sẽ tăng thêm trên

25.000 tỷ đồng, vốn điều lệ tăng thêm 3.000 tỷ đồng lên trên 40.000 tỷ đồng. Chi

nhánh của VietinBank được mở rộng, trong bối cảnh việc mở mới này bị NHNN siết

chặt, VietinBank có thể khai thác mạng lưới của Petrolimex cùng các dịch vụ tài

chính đi kèm (hơn 6.200 cây xăng, trong đó 2.200 cây xăng của Petrolimex), đẩy

49

mạnh dịch vụ tài chính cho nhóm khách hàng của Petrolimex. Thế nhưng, không phải

trường hợp nào cũng có thể thành công rực rỡ như HDBank.

Trong suốt thập niên vừa qua, hệ thống tài chính Việt Nam “bùng nổ” về số

lượng, với 5 ngân hàng thương mại nhà nước, trong đó có 2 ngân hàng thương mại

đã cổ phần hóa là Vietcombank và VietinBank); 37 ngân hàng thương mại cổ phần,

trong đó có 13 ngân hàng thương mại chuyển đổi từ mô hình nông thôn lên thành thị;

40 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 5 ngân hàng

liên doanh 18 công ty tài chính; 12 công ty cho thuê tài chính; 1 quỹ tín dụng nhân

dân Trung ương. Tuy nhiên, sự tăng trưởng của hệ thống chỉ đơn thuần về mặt số

lượng, không đi kèm với sự cải thiện về chất lượng. Có thể thấy, thị trường đang tồn

tại nhiều ngân hàng có quy mô nhỏ, hoạt động cầm chừng. Hoạt động trong một môi

trường có mức độ cạnh tranh cao, tất yếu sẽ dẫn đến việc một số ngân hàng phải sáp

nhập với nhau nhằm hình thành chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Vậy đây chính

là thời điểm để thị trường ngành Ngân hàng Việt Nam cơ cấu lại và có những điều

chỉnh hợp lý để hoạt động ổn định, an toàn và phát triển hơn.

50

3.4 Thực trạng thất nghiệp ở các quốc gia thành viên APEC

6

5

4

3

2

1

0

1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013

Trung binh 4.82 4.82 5.5 5.69 5.315 5.34 5.54 5.58 5.32 4.9 4.66 4.33 4.4555.435 5.09 4.74 4.54 4.49

Bảng 3.3: Thực trạng tình hình thất nghiệp ở các quốc gia thành viên APEC:

Nguồn: tổng hợp từ Excel trên số liệu tác giả thu thập với cỡ mẫu gồm 381

quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014

Những năm thất nghiệp tăng cao là 1998, 2003, 2009 tương ứng là hệ quả của

cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, khủng hoảng tà chính 2008 và năm kinh tế

thế gới ảm đạm 2001 bắt nguồn từ vụ tấn công khủng bố 11/9, và scandal kiểm toán,

cuộc suy thoái kinh tế tại Mỹ trong 3 năm từ 2001 tới 2003 không chỉ ảnh hưởng lớn

đến kinh tế Mỹ, mà còn tới nhiều quốc gia khác. Khủng hoảng tài chính châu Á 1997

đã gây ra những ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, nhiều doanh nghiệp bị phá sản, dẫn

đến hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo trong các năm 1997-1998.

Những nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất là Indonesia, Hàn Quốc và Thái Lan. Một số

nước không bị khủng hoảng, nhưng kinh tế cũng chịu ảnh hưởng xấu do xuất khẩu

giảm và do FDI vào giảm.

Trong những năm đầu của cuộc khủng hoảng tài chính 2008, khu vực

Đông Á – Thái Bình Dương lại là điểm sáng khi đóng góp tới 40% tăng trưởng

GDP thế giới. Những nền kinh tế châu Á, như Nhật Bản, Singapore hay Hong Kong

51

(Trung Quốc) cũng thoát khỏi suy thoái tương đối sớm. Sau giai đoạn khủng hoảng,

tỷ lệ thất nghiệp tương đối giảm nhẹ vì hầu hết các nước đều cố gắng đối phó khi

các chính phủ thực hiện đồng bộ 2 công cụ chính sách tài khoá và tiền tệ. Một mặt,

kích thích tiêu dùng; mặt khác, giảm bớt khó khăn, giảm chi phí và giá thành cho

các doanh nghiệp. Đồng thời, trên thị trường tài chính, tập trung vào hỗ trợ và củng

cố lại các định chế tài chính đã bị tổn thất do khủng hoảng tài chính gây ra như phối

hợp giảm lãi suất, bơm mạnh cung tiền, cứu trợ trực tiếp các ngân hàng và tổ chức

tài chính nhằm tạo việc làm, giảm nhẹ tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng đối

với người thu nhập thấp; kích thích đầu tư và tiêu dùng để phục hồi tăng trưởng

kinh tế. Tiêu biểu là Luật tái đầu tư và phục hồi Mỹ (ARRA) năm 2009, “chính sách

kinh tế - xã hội mới” của chính phủ Hàn Quốc, gói kích thích tài chính trị giá 4000

tỷ của Trung Quốc. Các nước ASEAN chưa chịu tác động trực tiếp, nhưng khủng

hoảng tài chính đã làm bộc lộ điểm yếu của các nước này là lệ thuộc nhiều vào thị

trường xuất khẩu (Mỹ, châu Âu) và chưa thực sự chú trọng thị trường trong nước.

Vì vậy, các biện pháp kích thích của các nước đều hướng vào kích thích nhu cầu

trong nước; giải quyết việc làm, tăng cường đổi mới và nâng cao năng lực cạnh

tranh (Singapo: 13,7 tỷ USD, Thái Lan: 8,7 tỷ USD, Inđônêxia: 6,3 tỷ USD, Philipin

6,3 tỷ USD..). Tỷ lệ thất nghiệp tại Indonesia và Philippines giảm rõ rệt nhờ những

tiến bộ trong tăng trưởng việc làm. Thậm chí ngay cả Thái Lan, quốc gia bị ảnh hưởng

nặng nề bởi lũ lụt năm 2011, tiền lương và tỷ lệ việc làm cũng tăng mạnh.

Theo WEF, tình hình việc làm đã được cải thiện ở Mỹ và Nhật Bản tuy nhiên

ở một số nước tăng trưởng giảm sút khiến cho tình trạng thất nghiệp vẫn ở mức cao

đặc biệt với những người trẻ tuổi đang nản lòng bởi các xu hướng lương không còn

phù hợp với sự cải thiện chung trong trình độ học vấn. Các nước phải đối mặt với

thanh niên có thất nghiệp cao hoặc tăng nhanh; đặc biệt dễ bị tổn thương đến bất ổn

xã hội.

52

CHƯƠNG 4:

PHƯƠNG PHÁP, DỮ LIỆU VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Mô hình thực nghiệm

4.1.1. Các biến độc lập và phụ thuộc được sử dụng trong mô hình

 Biến phụ thuộc

Theo ILO, tỷ lệ thất nghiệp (UR) là tỷ lệ người không có việc làm trên tổng

lực lượng lao động.

 Biến độc lập

- Tập trung ngân hàng (BC): Phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đây,

biến ‘tập trung ngân hàng’ được tính bằng tỷ trọng tài sản của ba ngân hàng lớn nhất

trong tổng tài sản hệ thống ngân hàng, ngoại trừ ngân hàng trung ương.

- Biến Tín dụng ngân hàng (BCre): Định nghĩa: giá trị của tín dụng tiền

gửi ngân hàng cho khu vực tư. Ngân hàng tiền gửi bao gồm tất cả các tổ chức tài

chính (không bao gồm các ngân hàng trung ương) có trách nhiệm trong hình thức

tiền gửi có thể sử dụng trong thanh toán. Tác giả dùng biến ‘tín dụng ngân hàng’ để

kiểm soát tác động của hoạt động hệ thống ngân hàng. Nó đo hoạt động chính của

các ngân hàng là cung cấp các khoản vay.

- Biến Quy tắc thị trường tín dụng (CMR): Định nghĩa: chỉ số 'Quy tắc

thị trường tín dụng' của Tự Do Kinh Tế Thế Giới (EFW), có giá trị từ 0 (hạn chế tối

thiểu) và 1 (hạn chế nhất). Chỉ số bao gồm các khía cạnh sau: tỷ lệ tiền gửi ngân

hàng tại các ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân, tỷ lệ giấy phép ngân hàng nước ngoài

bị từ chối, tỷ lệ tài sản ngân hàng nước ngoài trên tổng tài sản ngành ngân hàng, tỷ

lệ tín dụng trong nước của khu vực tư nhân, mức độ điều khiển lãi suất. Tác giả

kiểm soát tác động của quy tắc thị trường tín dụng vì hai lý do. Đầu tiên, một số lý

thuyết và nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng quy định chặt chẽ hơn có thể làm

tăng tỷ lệ thất nghiệp (ví dụ, Acemoglu, 2001; Feldmann, 2006, 2012a). Thứ hai, vì

sự nghiêm minh của các chế tài điều tiết thị trường tín dụng có thể ảnh hưởng đến

mức độ tập trung ngân hàng, cần phải đảm bảo rằng ‘tập trung ngân hàng’ không

53

làm đại diện cho nó.

- Biến Thương lượng tập trung (CCB): Định nghĩa: chỉ số 'thương lượng

tập trung tập thể' của EFW, có giá trị từ 0 (tập trung ít nhất) và 1 (tập trung nhiều

nhất). Lý thuyết kinh tế lao động cho thấy rằng các tổ chức cứng nhắc hơn bình

thường làm tăng tỷ lệ thất nghiệp. Ví dụ, thương lượng tập trung có khả năng tăng

cường sức mạnh đoàn, dẫn đến việc tăng lương và cơ cấu lương quá mức, cả hai lần

lượt làm tăng thất nghiệp (Calmfors, 1993; McHugh, 2002).

- Biến dòng vốn FDI vào và ra (FDIin, FDIout): Định nghĩa: Dòng vốn

ròng đầu tư trực tiếp (vào, ra) nước ngoài. Tác giả kiểm soát tác động của FDI, cả

dòng vốn ròng vào và ra. Trong khi đó, dòng vốn ròng vào thường được dự kiến sẽ

giảm tỷ lệ thất nghiệp, dòng vốn ròng đi ra có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực

lên thị trường lao động (ví dụ, Blomstrom, Fors, & Lipsey, 1997; Lipsey, Sjöholm,

& Sun, 2010).

- Biến GDP bình quân đầu người (GDPCa): Định nghĩa: Tổng sản phẩm

quốc gia bình quân đầu người, quy đổi theo tỷ giá ngang giá sức mua. Tác giả cũng

sử dụng ‘GDP bình quân đầu người’ trong tất cả các mô hình hồi quy vì hai lý

do. Đầu tiên, do sự khác biệt rất lớn trong phát triển kinh tế và tác động tiềm năng

của nó đối với tình trạng thất nghiệp. Thứ hai, để đảm bảo rằng ‘tập trung ngân

hàng’ không làm đại diện cho trình độ phát triển kinh tế. Lý do sau quan trọng vì

mức độ tập trung hệ thống ngân hàng có thể liên kết một cách hệ thống với mức độ

phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong mẫu của tác giả, hệ số tương quan giữa hai biến

là nhỏ và không có ý nghĩa thống kê.

- Biến tỷ lệ thuế thu nhập biên (Itax): Định nghĩa: chỉ số 'Thuế suất cận

biên' của EFW có giá trị giữa 0 và 1, với giá trị cao hơn cho thấy mức thu nhập biên

và thuế suất biên cao hơn. Thuế lao động cao hơn làm tăng thất nghiệp vì làm tăng

chi phí tiền lương và giảm lương ròng của nhân viên.

- Biến tỷ lệ lạm phát (INF): Định nghĩa: Thay đổi hàng năm của chỉ số

giá tiêu dùng. Tỷ lệ lạm phát cao làm sai lệch tín hiệu giá và giá tương đối, cản trở

việc phân bổ hiệu quả nguồn lực. Hơn nữa, khi đánh thuế lợi nhuận chủ yếu trên cơ

54

sở danh nghĩa, thu thuần thực sự của doanh nghiệp từ đầu tư giảm trong môi trường

lạm phát. Vì vậy, đầu tư và tăng trưởng kinh tế có xu hướng giảm trong dài hạn, tỷ

lệ thất nghiệp tăng. Ngoài ra, nếu tiền lương cứng danh nghĩa giảm, lạm phát có thể

theo sự xuất hiện của những cú sốc, tạo thuận lợi điều chỉnh tiền lương thực tế, giảm

thất nghiệp. Thật vậy, có bằng chứng cho mối quan hệ qua lại vĩnh viễn giữa lạm

phát và thất nghiệp: tỷ lệ lạm phát vừa phải tại Hoa Kỳ (Akerlof, Dickens và Perry,

1996, 2000; Groshen & Chweitzer, 1999) và các nước công nghiệp khác

(Wyplosz, 2001). Tương tự như vậy, bằng cách sử dụng dữ liệu trên diện mẫu rộng

của các nước công nghiệp và đang phát triển, Feldmann (2010) thấy rằng lạm phát

cao có tương quan với thất nghiệp ít.

- Biến Chênh lệch sản lượng (Ogap): Định nghĩa: Sự khác biệt giữa GDP

thực tế và GDP tiềm năng. GDP tiềm năng được tính bằng cách tính toán xu hướng

thành phần của GDP, sau đó thu được bằng cách sử dụng lọc Hodrick-Prescott (λ=

6.25). Bởi vì thất nghiệp chịu tác động mạnh bởi các điều kiện theo chu kỳ, nên tác

giả sử dụng các biến chênh lệch sản lượng.

- Biến mở cửa (Open): Định nghĩa: Tỷ lệ xuất khẩu và nhập khẩu hàng

hóa và dịch vụ trong GDP. Tác giả bổ sung kiểm soát các tác động của mở cửa

thương mại vì: Một mặt, sự cởi mở hơn trong thương mại có thể dẫn đến phân bổ

lao động quốc tế hiệu quả hơn, giảm tỷ lệ thất nghiệp (Grossman & Rossi-Hansberg,

2008; Felbermayr, Prat, & Schmerer, 2011). Mặt khác, do sự cạnh tranh nhập khẩu

khó khăn hơn, hay tác động bất lợi cho những công nhân có tay nghề thấp, có thể

làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, ít nhất là trong giai đoạn chuyển tiếp (OECD 2007).

- Biến nhân khẩu học (0-14; 65+): Định nghĩa: Tỷ lệ dân số trong độ tuổi

từ 0-14 và từ 65 tuổi trở lên trong tổng số dân số. Tác giả bổ sung sử dụng hai biến

nhân khẩu học, đo tỷ trọng người trẻ và già trong dân số. Tỷ trọng khác nhau trong

mẫu của tác giả, tỷ trọng của một trong hai độ tuổi già hay trẻ đều có thể làm tăng

tỷ lệ thất nghiệp bởi vì cả hai nhóm này thường có nhiều khó khăn khi tìm việc làm.

- Biến Lãi suất thực tế (RIR) : Định nghĩa: Lãi suất cho vay được điều

chỉnh theo lạm phát được đo bằng chỉ số giảm phát GDP. Tác giả kiểm soát tác động

55

của lãi suất thực vì lãi suất thực tăng làm giảm đầu tư và nhu cầu lao động, tăng tỷ

lệ thất nghiệp. Thật vậy, có bằng chứng thực nghiệm cho cả nước công nghiệp và

đang phát triển rằng lãi suất thực tế cao hơn làm tăng tỷ lệ thất nghiệp (Ví

dụ, Feldmann, 2012b; Fitoussi, Jestaz, Phelps, & Zoega, 2000 )..

- Biến Hoạt động thị trường chứng khoán (SMA): Định nghĩa: Giá trị

của cổ phiếu được giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán trong nước.

- Biến Căng thẳng sắc tộc (ET): Định nghĩa: thành phần ‘căng thẳng sắc

tộc’ của International Country Risk Guide, cho thấy mức độ căng thẳng trong một

quốc gia do bộ phận chủng tộc, quốc tịch, hoặc ngôn ngữ. Thang đánh giá nằm trong

khoảng 0-1. Xếp hạng cao hơn khi quốc gia có căng thẳng chủng tộc và quốc tịch

rất cao vì các nhóm đối lập cố chấp và không sẵn sàng thỏa hiệp. Xếp hạng thấp hơn

được trao cho các quốc gia mà căng thẳng là tối thiểu, mặc dù sự khác biệt như vậy

vẫn có thể tồn tại. Trong một nghiên cứu trước, tác giả sử dụng một mẫu lớn của

các nước công nghiệp và đang phát triển, kết quả cho rằng phân chia sắc tộc làm gia

tăng thất nghiệp, có thể là do việc phân chia căng thẳng làm giảm hiệu quả của thị

trường lao động ( Feldmann, 2012c ).

Trong mẫu của tác giả không thấy trong năm biến kiểm soát lĩnh vực tài chính có

tương quan với ‘tập trung ngân hàng’. Thay vào đó, hệ số tương quan giữa biến này

có kích thước nhỏ tuyệt đối và không đáng kể về mặt thống kê.

56

Bảng 4.1: Tổng hợp các nghiên cứu về các biến kiểm soát ảnh hưởng tỷ lệ

thất nghiệp dùng trong mô hình thực nghiệm.

Biến Chiều tác động Tác giả

(Mwalungo, 2011), (Miguel Ángel, Francisco, Bcre Ngược chiều

Victor Hugo, 2014), (Lorenzo và cộng sự, 2010)

Cùng chiều (Jason và cộng sự, 2015)

(Acemoglu, 2011), (Feldmann, 2006) CMR Cùng chiều

(McHugh, 2002), (Calmfors,1999) BBC Cùng chiều

(Feldmann, 2012c). ET Cùng chiều

(Lipsey, Sjöholm, & Sun, 2010). FDIout Cùng chiều

(Blomström, Fors & Lipsey, 1997), (Lipsey, Ngược chiều

Eric, Magnus Blom, 2002)

(Rahman-2013), (Ali, Maryam, 2011) GDPCa Ngược chiều

(Boeri & van Ours, 2008), (Daveri & Tabellini, Itax Cùng chiều

2000).

(Miguel Ángel, Francisco & Victor Hugo, 2014) INF Cùng chiều

(Akerlof, Dickens & Perry, 1996, 2000), (Groshen Ngược chiều

& Schweitzer, 1999), (Wyplosz, 2001), (Akerlof,

Dickens, & Perry, 1996), (Akerlof, Dickens &

Perry, 2000), (Groshen & Schweitzer, 1999),

(Wyplosz, C. - 2001), (Feldmann, 2010).

(Grossman, & Rossi-Hansberg, 2008), Open Ngược chiều

(Felbermayr, Prat & Schmerer, 2011).

57

OECD, 2007 Cùng chiều

Labor Force Statistics from the Current Population 0-14, 65+ Cùng chiều

Survey, (Douglas & William, 1989)

(Feldmann, 2012b), (Fitoussi và cộng sự, 2000). RIR Cùng chiều

(Farzad Farsio, Shokoofeh Fazel - 2013), (Jesús & SMA Ngược chiều

AbderrahimTaamouti, 2011)

Nguồn tổng hợp từ tác giả

4.1.2 Mô hình thực nghiệm

Trong bài nghiên cứu “Banking system concentration and unemployment in

developing countries” của Horst Feldmann thực hiện năm 2015 nghiên cứu tập trung

ngân hàng ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng thất nghiệp của các quốc gia đang

phát triển thông qua các mối quan hệ dựa vào các nghiên cứu trước đây. Rất phù hợp

với mục tiêu nghiên cứu trong luận văn nên tác giả đã dựa vào 3 mô hình tiến hành

kiểm định: mô hình tác động cố định (Fixed effects model) FEM, kiểm định các mối

quan hệ bằng cách áp dụng phương pháp hồi quy tuyến tính cổ điển OLS (phương

pháp bình phương tối thiểu) để ước lượng đối chiếu, sử dụng biến công cụ (Istrument

variable) để giải quyết hiện tượng nội sinh do biến trễ (tác giả sử dụng mô hình dữ

liệu bảng động - Dynamic Panel Data) thông qua phương pháp hồi quy 2 giai đoạn

(Two Stage Least Square – 2SLS) và phương pháp moment tổng quát (Generalized

Least Square - GMM) cho bộ dữ liệu được thu thập trong mô hình tiến hành nghiên

cứu thực nghiệm tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến tình trạng thất nghiệp ở các

quốc gia thành viên APEC.

Mô hình hồi quy hai giai đoạn như sau:

Bước hai:

𝑼𝒊,𝒕 = 𝜷𝟏𝑩𝒊,𝒕 + 𝜷𝟐𝑿𝒊,𝒕 + 𝜶𝒊 + 𝝀𝒕 + 𝜺𝒊,𝒕

Bước một:

58

𝑠

+ 𝜷𝟒𝑿𝒊,𝒕 + 𝜸𝒊 + 𝜿𝒕 + 𝜼𝒊,𝒕

𝑠=1

𝑩𝒊,𝒕 = ∑ 𝜷𝟑(𝑩𝒊,𝒕−𝒔 − 𝑩𝒊,𝒕−𝒔−𝟏)

Trong đó:

𝑼𝒊,𝒕: là biến phụ thuộc thể hiện tỷ lệ thất nghiệp của nước i vào năm thứ t,

được đo lường theo tiêu chuẩn quốc tế: bằng tỷ lệ số người không có việc làm trên

tổng lực lượng lao động

B là biến độc lập nhằm xem xét cường độ tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến

tỷ lệ thất nghiệp như thế nào, được đo lường bằng tỷ trọng tài sản của ba ngân hàng

lớn nhất trong tổng tài sản hệ thống ngân hàng.

X là vector các biến kiểm soát (như đã trình bày ở phần biến phụ thuộc ở trên

trừ biến tập trung ngân hàng).

Quốc gia cố định những ảnh hưởng trong hồi quy giai đoạn hai và giai đoạn

đầu tiên tương ứng là 𝜶𝒊 và 𝜸𝒊, nhằm kiểm soát đối với các tác động của các đặc điểm

quốc gia cụ thể mà không quan sát được.

Năm cố định những ảnh hưởng tương ứng với giai đoạn hai và giai đoạn đầu

tiên là 𝝀𝒕 và 𝜿𝒕, nhằm kiểm soát các tác động của các cú sốc được phổ biến trên khắp

nước. Và sai số tương ứng là 𝜺𝒊,𝒕 và 𝜼𝒊,𝒕

Tác giả dùng biến 'tập trung ngân hàng’ để trích xuất các thành phần ngoại

sinh. Các công cụ được lùi lại so với biến công cụ ba năm trước. Chênh lệch độ trễ

của các biến công cụ đã được kiểm định là hợp lệ.

4.2 Ưu điểm phương pháp nghiên cứu.

 Ưu điểm của mô hình GMM so với mô hình ước lượng biến công cụ đó là

mô hình GMM dễ dàng chọn các biến công cụ hơn bởi vì sử dụng các biến ngoại sinh

ở khoảng thời gian khác hoặc lấy độ trễ của các biến có thể sử dụng như biến công

cụ cho các biến nội sinh tại thời điểm hiện tại. Do đó, GMM đã đưa ra nhiều biến

công cụ để có thể dễ dàng đạt được điều kiện của một biến công cụ chuẩn

(Overidentification of Estimators). Hơn nữa, ước lượng Arellano và Bond còn phù

59

hợp với các dữ liệu bảng ngắn; do đó, phương pháp GMM được giới thiệu bởi

Arellano và Bond (1991) sẽ dược sử dụng.

 Các ưu điểm của dữ liệu bảng so với dữ liệu theo chuỗi thời gian và không

gian, theo Baltagi:

- Vì dữ liệu bảng liên quan đến các cá nhân, doanh nghiệp, tiểu bang, đất

nước, v.v… theo thời gian, nên nhất định phải có tính dị biệt (không đồng nhất) trong

các đơn vị này. Kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng có thể chính thức xem xét đến tính

dị biệt đó bằng cách xem xét các biến số có tính đặc thù theo từng cá nhân, được trình

bày ngay sau đây. Ta sử dụng thuật ngữ cá nhân theo ý nghĩa chung bao gồm các đơn

vị vi mô như các cá nhân, các doanh nghiệp, tiểu bang, và đất nước.

- Thông qua kết hợp các chuỗi theo thời gian của các quan sát theo không

gian, dữ liệu bảng cung cấp “những dữ liệu có nhiều thông tin hơn, đa dạng hơn, ít

cộng tuyến hơn giữa các biến số, nhiều bậc tự do hơn và hiệu quả hơn.

- Thông qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại, dữ liệu bảng

phù hợp hơn để nghiên cứu tính động của thay đổi. Tình trạng thất nghiệp, luân

chuyển công việc, và tính lưu chuyển lao động sẽ được nghiên cứu tốt hơn với dữ

liệu bảng.

- Dữ liệu bảng có thể phát hiện và đo lường tốt hơn những ảnh hưởng mà

không thể quan sát trong dữ liệu chuỗi thời gian thuần túy hay dữ liệu chéo theo

không gian thuần túy. Ví dụ, ảnh hưởng của luật tiền lương tối thiểu đối với việc làm

và thu nhập có thể được nghiên cứu tốt hơn nếu chúng ta xem xét các đợt gia tăng

tiền lương tối thiểu liên tiếp nhau trong mức lương tối thiểu của liên bang và (hoặc)

tiểu bang.

- Dữ liệu bảng giúp ta nghiên cứu những mô hình hành vi phức tạp hơn. Ví

dụ, các hiện tượng như lợi thế kinh tế theo qui mô và thay đổi kỹ thuật có thể được

xem xét thông qua dữ liệu bảng tốt hơn so với dữ liệu theo chuỗi thời gian thuần túy

hay theo không gian thuần túy.

- Bằng cách thu thập những số liệu có sẵn cho vài nghìn đơn vị, dữ liệu bảng

có thể tối thiểu hóa sự thiên lệch có thể xảy ra nếu ta tổng hợp các cá nhân hay các

60

doanh nghiệp thành số liệu tổng.

Nói vắn tắt, dữ liệu bảng có thể giúp chúng ta phân tích thực nghiệm theo

những cách thức mà không chắc có thể đạt được nếu ta chỉ sử dụng các dữ liệu theo

chuỗi thời gian hay không gian thuần túy.

4.3 Dữ liệu và mẫu quan sát

4.3.1 Thu thập và xử lý dữ liệu

Dựa vào mô hình được trình bày ở phần 4.1.2, tác giả tiến hành thu thập dữ

liệu phục vụ cho việc ước tính kết quả nghiên cứu cho phần 4.4. Bài nghiên cứu được

thực hiện trên các quốc gia là thành viên của tổ chức APEC và giai đoạn nghiên cứu

là từ năm 1996 đến năm 2014. Dữ liệu thống kê trong bài được thu thập và tổng hợp

để tính toán các biến độc lập và biến phụ thuộc trong hai mô hình thực nghiệm được

lấy từ IMF, ILO và World Bank. Dữ liệu trong bài nghiên cứu là dạng dữ liệu bảng

động (Dynamic panel data). Cụ thể:

Bảng 4.2 : Nguồn dữ liệu

Biến quan sát Nguồn

BC, BCre, SMA Beck và cộng sự (2012)

BBC, CMR, Itax, RIT Gwartney và Lawson (2009)

PRS Group (2009) ET

FDIin, FDIout, GDPCa, INF, Open, World Bank

Ogap, 0-14, 65+, RIR,

ILO, World Bank UR

Nguồn: tổng hợp từ tác giả

Trong quá trình thu thập dữ liệu, các quốc gia không đủ dữ liệu sẽ được loại

bỏ (Đài Loan). Do đó, sau khi giới hạn lại, mẫu của bài nghiên cứu còn lại 20 quốc

61

gia tương đương 381 quan sát. Dữ liệu thất nghiệp tác giả lấy từ chỉ số cơ bản của

ILO (2009). Được dựa trên các cuộc điều tra lực lượng lao động và do đó không đề

cập đến tỷ lệ thất nghiệp đã đăng ký. Thay vào đó chúng được dựa trên một tiêu chuẩn

quốc tế để xác định những người thất nghiệp là tất cả những người ở trên một độ tuổi

cụ thể, trong thời gian tham khảo, hiện đang sẵn sàng cho công việc nhưng không có

việc làm, và đang tìm việc làm. Mặc dù bảo hiểm thất nghiệp ở các quốc gia có thể

khác nhau vì nó liên quan đến các yếu tố như giới hạn độ tuổi và tiêu chí tìm việc

làm, ILO đã thực hiện nỗ lực rất lớn để có thể so sánh giữa các quốc gia. Ví dụ, đối

với giới hạn tuổi, gần như tất cả các quốc gia trình bày trong bài này đề cập đến nhóm

15 tuổi trở lên. Hơn nữa, ILO đã 'làm sạch' tất cả các chuỗi thời gian quốc gia để loại

bỏ vi phạm trong chuỗi. Do đó những dữ liệu có thể so sánh theo thời gian. Mặc dù

số liệu thất nghiệp của ILO không hoàn toàn hài hòa giữa các nước, nhưng nó hài hòa

hóa đến một mức độ lớn.

Trong bài nghiên cứu của Horst Feldmann, mô hình kiểm định các yếu tố tác

động đến thất nghiệp có sử dụng biến Quy tắc giao dịch vốn được thu thập theo tính

toán của Ostry. Tuy nhiên, do điều kiện dữ liệu của các nước APEC chưa thể tiến

hành tính toán như vậy nên tác giả loại biến này khỏi mô hình thực nghiệm của mình.

Các biến luật bảo vệ lao động, lương tối thiểu, quy tắc thị trường sản phầm, trợ cấp

thất nghiệp, chiến tranh khi đưa vào mô hình hồi quy thì số quan sát rất thấp nên tác

giả cũng loại các biến này khỏi mô hình.

4.3.2 Sự phù hợp của kích thước mẫu

Mẫu của bài nghiên cứu 21 quốc gia, giai đoạn 19 năm 1996 – 2014, tương

đương 381 quan sát với dữ liêụ bảng. Theo Baltagi dữ liệu này chưa là macro panel

data, tuy nhiên mẫu với 381 quan sát là một cỡ mẫu lớn đối với hàm hồi quy trong

thống kê. Do đó kết quả nghiên cứu từ mô hình hồi quy có thể chấp nhận được về độ

tin cậy. Hơn nữa, thời gian kiểm tra bao gồm các cuộc khủng hoảng tài chính toàn

cầu gần đây, kết quả của nghiên cứu này có thể cung cấp một cái nhìn toàn diện về

tình hình thất nghiệp, tập trung ngân hàng của các quốc gia trong khu vực này.

62

Dựa vào mô hình của Horst Feldmann được trình bày ở trên cùng với bộ dữ

liệu được thu thập cho phù hợp với đặc điểm các biến và mô hình, tác giả tiến hành

thực hiện kiểm định mô hình bằng phần mềm Stata 11 ở phần 4.4.

4.4 Kết quả thực nghiệm

4.4.1 Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Sau khi thu thập và tính toán dữ liệu, kết quả trình bày theo bảng thống kê mô

tả trong bảng 4.4.1 dưới đây. Kết quả chỉ ra phạm vi, giá trị trung bình và độ lệch

chuẩn của các biến sử dụng trong nghiên cứu này.

Bảng 4.3: Thống kê mô tả các biến

2.379974 7.508585 4.539005 7.335665 6.05E+10 2.70E+12

13.3 40.6071 25.789 43.0508 3.48E+11 1.44E+13

0.7 11.71126 2.435003 -4.71824 -2.51E+10 -4.61E+11

5.031389 24.48337 8.692577 3.960294 2.99E+10 1.38E+12

360 380 380 161 366 380

UR 0-14 65+ FDIout FDIin Ogap

Biến quan Độ lệch Lớn Số quan sát Trung bình Nhỏ nhất sát chuẩn nhất

16104.84 7.960742 7.029391 0.914736 1.381373 1.8287

67511.8 75.2713 69.2765 9.03 9.98 10

337.05 -22.0914 -24.6002 5.18 4.01 1.5

16944.3 4.971163 4.761219 7.408391 8.081935 6.290323

379 378 373 87 93 93

Open GDPCa INF RIR CCB CMR Itax

46.3304

198.05

7.77

73.71476

297

BCre

21.22091

21.39901

100

61.10763

239

BC

98.82091

0.04

726.54

69.69741

275

SMA

1.251656

2

6

4.226823

320

ET

105.6925 98.61596 18.75639 455.2767 365

Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ

mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014

63

Kết quả phân tích thống kê mô tả giữa các biến trong mô hình theo bảng 4.1

cho thấy, trong mô hình cho thấy các biến có độ lệch chuẩn chênh lệch khá lớn so với

trung bình. Dữ liệu không đồng đều ở các biến. Cỡ mẫu nghiên cứu gồm 381 quan

sát, là cỡ mẫu tương đối trong thống kê. Dữ liệu đầu vào phù hợp thực hiện hồi quy.

4.4.2 Kết quả hồi quy

Dựa vào bộ dữ liệu được thu thập dưới dạng dữ liệu bảng từ năm 1996 đến

năm 2014 theo dạng dữ liệu bảng động (Dynamic panel-data) đã được mô tả ở chương

3. Tác giả sẽ tiến hành kiểm định mô hình trên phần mềm thống kê Stata11.

4.4.2.1 Ma trận tương quan giữa các biến

Hệ số tương quan dùng để chỉ mối quan hệ giữa các biến trong mô hình. Dựa

vào kết quả ma trận tương quan, tác giả sẽ phân tích mối tương quan giữa các biến

phụ thuộc với các biến độc lập trong mô hình và mối tương quan giữa các biến độc

lập với nhau.

Biến

UR

BC

BCre

CMR

CCB

RIR

INF

Open

Ogap GDPCa

65+

0- 14

UR

1.00

BC

-0.14

1.00

BCre

-0.38

0.24

1.00

CMR

-0.27

0.06

0.23

1.00

CCB

0.03

0.13

0.32

0.07

1.00

RIR

-0.09

0.30

-0.05

0.09

0.08

1.00

INF

0.43

-0.28

-0.54

-0.38

-0.15

-0.54

1.00

Open

-0.24

0.32

0.33

0.24

0.38

-0.04

-0.16

1.00

Ogap

-0.03

-0.44

0.01

0.11

0.25

-0.02

-0.20

-0.32

1.00

GDPCa

-0.10

0.04

0.49

0.45

0.45

0.02

-0.45

0.11

0.53

1.00

0-14

0.18

0.09

-0.60

-0.14

-0.51

0.26

0.19

-0.17

-0.27

-0.64 1.00

65+

-0.03

-0.23

0.46

0.19

0.42

-0.17

-0.21

-0.15

0.41

-0.72 0.86

1.00

Bảng 4.4: Bảng ma trận hệ số tương quan giữa các biến

Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ mẫu gồm

381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014

Theo Gujarati (2004), ông cho rằng để loại trừ vấn đề đa cộng tuyến, cần

64

nghiên cứu kỹ hệ số tương quan giữa các biến, nếu chúng vượt quá 0,8 thì mô hình

hồi quy sẽ gặp vấn đề đa cộng tuyến nghiêm trọng. Như vậy dựa vào bảng 4.4.2.1 ta

thấy không có mối tương quan nào đáng kể giữa các biến độc lập với nhau. Hệ số

tương quan cao nhất giữa các biến độc lập với nhau là 0,74, kết quả hiệp phương sai

giữa các biến đều nhỏ hơn 0.8, do đó tương quan giữa các biến không nghiêm trọng.

Do giữa các biến có tương quan khá cao với nhau và các biến này có liên quan

mật thiết về ý nghĩa kinh tế trong mô hình nên tác giả tiếp tục tiến hành kiểm tra hiện

tượng đa cộng tuyến thông qua nhân tử phóng đại phương sai VIF.

4.4.2.2 Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến

Bảng 4.5: Kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương

VIF

1/VIF

Variable

2.89

0.346198

BC

2.99

0.334272

BCre

1.62

0.617802

CMG

2.83

0.353137

CCB

4.24

0.235668

Itax

2.43

0.411129

RIR

3.66

0.273025

INF

5.44

0.183767

Open

3.66

Ogap

0.273188

5.82

0.171774

GDPCa

7.77

0.128739

0-14

12.45

0.080333

65+

4.65

Mean VIF

sai VIF

Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ

mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014 (Phụ lục...)

65

Dựa vào bảng 4.2.2 kết quả kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại

phương sai, cho thấy trung bình VIF của các biến trong mô hình là 4.65 nhỏ hơn 10.

Không có VIF của biến độc lập nào vượt quá 10.

Kết luận: không tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến với tiêu chuẩn nhân tử phóng

đại phương sai VIF

4.4.2.3 Kết quả hồi quy

Tác giả tiến hành kiểm tra một số giả thuyết cổ điển như hiện tượng tự tương

quan giữa các phần dư và hiện tượng phương sai thay đổi cho mô hình. Kết quả kiểm

định phương sai thay đổi và tự tương quan được trình bày trong bảng 4.2.3A dưới

đây:

Bảng 4.6: Kết quả kiểm tra phương sai thay đổi phần dư - Greene (2000)

Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ

mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014

Giả thuyết Ho: Mô hình không có hiện tượng phương sai thay đổi

Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng phương sai thay đổi

Từ bảng 4.2.3A, kết quả kiểm định Greene (2000) phần mềm Stata11 cho thấy

kết quả p-value = 0.0000 < α = 0.05. Suy ra, bác bỏ giả thuyết Ho ở mức ý nghĩa 5%

cho thấy tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình.

Kết luận: Tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi trong mô hình ở mức ý nghĩa

5%.

66

Bảng 4.7: Kết quả kiểm tra hiện tượng tự tương quan phần dư –

Wooldridge (2002) và Drukker (2003)

Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ

mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014

Giả thuyết Ho: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan

Giả thuyết H1: Mô hình có hiện tượng tự tương quan

Kết quả kiểm định bằng phần mềm Stata11 cho thấy kết quả p-value = 0.0189

< α = 0.05. Suy ra, bác bỏ giả thuyết Ho ở mức ý nghĩa 5% …

Kết luận: Tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 1 trong mô hình với mức ý

nghĩa 5%.

Với kết quả kiểm định hiện tượng phương sai thay đổi và tự tương quan giữa

các phần dư, thì trong mô hình vừa tồn tại hiện tượng phương sai thay đổi vừa tồn tại

hiện tượng tự tương quan. Hàm hồi quy sẽ được thực hiện hồi quy để kiểm định các

giả thuyết nghiên cứu.

Theo kết quả nghiên cứu của Arellano và Bond (1991), phương pháp hồi quy

tuyến tính dữ liệu bảng động (linear dynamic panel-data estimation) là một giải pháp

hữu hiệu để ước lượng hồi quy trong mô hình trong trường hợp mô hình vừa có hiện

tượng phương sai thay đổi, tự tương quan và nội sinh. Bên cạnh đó, Arellano và Bond

(1991) đã đề nghị hai kiểm định chủ chốt để kiểm tra tính hiệu lực của mô hình GMM.

- Kiểm định đầu tiên đó là kiểm định Overidentifying Restrictions

Overidentifying Restrictions Test) hay còn gọi là kiểm định Sargent (Sargent Test)

(hoặc kiểm định J (J – Test)) hay kiểm định Hansen cho tính hiệu lực

(Overidentification) của mô hình. Đây là kiểm định cần thiết trong trường hợp số biến

67

công cụ nhiều hơn số biến trong mô hình. Ý tưởng của kiểm định là xem xét biến

công cụ có tương quan với phần dư của mô hình không. Nếu câu trả lời là không, khi

đó biến công cụ là nội sinh, thì biến công cụ được chọn là phù hợp và mô hình sử

dụng biến đó để ước lượng cũng phù hợp. Kiểm định Sargent sử dụng thống kê J (J

– statistic) nhằm kiểm định giả thiết H0 - biến công cụ là nội sinh, mô hình phù hợp.

Thống kê J tuân theo phân phối Chi Bình phương và được trình bày trên bảng kết quả

ước lượng của phần mềm thống kê cùng với giá trị P – value tương ứng của nó.

- Kiểm định thứ hai được sử dụng đó là kiểm định Arellano-Bond nhằm

kiểm định cho sự tự tương quan.

Mô hình Arellano và Bond (1991) kiểm soát được hiện tượng tự tương quan

giữa phần dư, hiện tượng phương sai thay đổi và nội sinh . Kết quả hồi quy mô hình

như sau:

Bảng 4.8: Kết quả hồi quy mô hình hồi quy GMM sử dụng biến công cụ

Tỷ lệ thất nghiệp Biến quan

sát (1)+0-14, 65+ (2)+SMA (3)+RIT (4)+FDIout (5)+ET

-0.0347** -0.0472*** -0.0220 -0.0336** -0.0420*

(-2.04) (-3.34) (-5.01) BC (-2.01) (-1.93)

-0.0450 0.0621*** 0.0524** -0.0478 -0.0571

(-1.48) (5.17) (-1.96) (-1.32) BCre (-1.33)

3.507*** 0.188 0.223 -0.153 1.292

(2.65) (0.13) (0.85) (-0.20) (0.68) CMR

0.0816 0.662 1.018* 1.202** 0.881

(0.14) (1.14) (1.90) (2.38) (1.27) CCB

-0.0697 -0.0868 -0.122 0.303 -0.132

(-0.21) (-0.65) (-0.67) (0.41) (-0.57) Itax

0.156** 0.0350 -0.0340 -0.364 -0.0124

(2.35) (0.21) (-0.11) (-1.46) (-0.05) RIR

0.229*** 0.0119 -0.115 -0.218 -0.0856 INF

68

(3.36) (0.07) (-0.40) (-0.98) (-0.41)

0.0196*** 0.0127 0.0168 0.0269 0.00668

(0.81) (1.53) (0.66) Open (3.82) (1.53)

-0.000157*** 0.0000104 0.0000576 0.0000071 -0.0000649

GDPCa (0.14) (-0.73) (0.18) (-1.00) (-4.08)

0.152* .. (1.81) 0-14

0.426** ... (2.51) 65+

-0.0117**

(-2.34) SMA

-0.249

(-0.14) RIT

-0.174*

(-189) FDIout

0.932

ET (1.62)

-34.27** 3.631 -4.909 0 -9.562

(-2.53) (0.31) (-0.31) (.) Hằng số (-0.60)

58 44 44 42 N 44

*** prob. < 0,01; ** prob. < 0,05; * prob. < 0,10

Nguồn: Kết quả truy xuất từ Stata11 dựa trên số liệu tác giả thu thập với cỡ

mẫu gồm 381 quan sát của 21 quốc gia trong giai đoạn 1996 – 2014 (Phụ lục 4)

Kết quả kiểm định Hansen về tính hiệu lực của mô hình cho thấy số biến công

cụ trong mô hình GMM là vừa đủ và phù hợp, với giá trị p lớn hơn 0.1. Ngoài ra kiểm

định AR(1) (kiểm định tương quan chuỗi bậc 1) của GMM cho kết quả hợp lệ: giá trị

p lớn hơn 0.1, nghĩa là có tồn tại mối tương quan chuỗi bậc 1. Do đó, tất cả các kết

quả trong GMM hệ thống đều có ý nghĩa.

69

Bảng 4.5.2.3C mô hình (1) cho thấy kết quả dựa trên mô hình GMM hai giai

đoạn bằng cách sử dụng lệnh xtabond2 được giới thiệu bởi Roodman (2009). Từ bảng

này cho thấy kết quả hồi quy giữa tỉ lệ thất nghiệp với các biến độc lập trong mô hình

nghiên cứu. Riêng biến thương lượng tập trung, thuế thu nhập chưa có ý nghĩa thống

kê nên không giải thích được tác động của chúng tác động đến tỷ lệ thất nghiệp của

các quốc gia thành viên khối APEC trong giai đoạn 1996 - 2014. Kết quả ước lượng

này đồng nhất với kết quả của mô hình dữ liệu bảng với mô hình FEM, 2SLS (đối

chiếu Phụ lục 4)

(Trình tự thực hiện kiểm định toàn bộ mô hình được trình bày đầy đủ trong phụ lục

4).

Kết quả phân tích hồi quy của từng biến theo mô hình (1) như sau:

Tập trung ngân hàng là nghịch biến với tỷ lệ thất nghiệp (với mức ý nghĩa 5%)

trong giai đoạn 1996 - 2014, các quốc gia có tỉ lệ tập trung ngân hàng càng cao thất

nghiệp càng ít. Kết quả này là phù hợp với quan điểm của Thuyết cấu trúc hiệu quả

nhưng trái với quan điểm của Lý thuyết cơ cấu-hành vi-hiệu quả. Bằng chứng này

phù hợp với các nghiên cứu của Evanoff và Fortier (1988), Koutsomanoli và cộng sự

(2009), Ben Naceur & Omran (2011) nhưng trái với với nghiên cứu của Horst

Feldmann (2015), mà đều đưa ra bằng chứng về sự nghịch biến giữa tập trung ngân

hàng và tỷ lệ thất nghiệp. Tập trung tài sản ngân hàng cao không phải là một trong

những đặc điểm của các ngân hàng, nhưng sau khi tái cơ cấu hậu khủng hoảng, kéo

theo các biện pháp như đóng cửa ngân hàng, sáp nhập và tái cơ cấu vốn, tập trung tài

sản được thấy tăng rõ rệt ở một số nền kinh tế. Và cũng không thấy bất lợi nghiêm

trọng của sự tập trung tài sản ngân hàng. Lúc đầu, thoạt nhìn có thể thấy tập trung

ngân hàng sẽ cản trở cạnh tranh, nhưng kết quả lý thuyết và thực nghiệm cho thấy

rằng lợi ích của hiệu quả và quy mô nền kinh tế tạo ra bởi tập trung tài sản có thể bù

đắp chi phí cao hơn của hoạt động ngân hàng. Việc tập trung cao hơn thông qua hoạt

động mua bán sát nhập giúp các nước nhận đầu tư tạo công ăn việc làm cho người

dân. Khi đầu tư vào nước khác, các công ty được mua lại hay sát nhập đều là yếu kém

70

hay sắp phá sản. Như vậy, trong giai đoạn khủng hoảng tài chính, các quốc gia sẽ đặt

một mức ưu tiên nào đó cho việc tăng tỷ lệ tập trung ngân hàng (có thể kể đến hiện

tượng mua bán và sát nhập các ngân hàng nhỏ), điều này mặc dù được coi có thể là

con dao hai lưỡi song trong giai đoạn chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng

tài chính gần đây nhất, các quốc gia có nền kinh tế khó khăn thì việc tăng tỷ lệ tập

trung ngân hàng sẽ tận dụng cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực dồi dào, thị trường

rộng lớn, và qui mô lớn hơn, tạo khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh doanh, sẽ giúp

cho ngân hàng có năng lực cạnh tranh tổng hợp và có thể thực hiện chiến lược mở

rộng kinh doanh, làm tăng khả năng cung ứng cho những dự án lớn hơn. Bên cạnh đó

là làm giảm chi phí huy động (do áp lực cạnh tranh lãi suất giảm), giảm chi phí văn

phòng dẫn đến năng lực cạnh tranh tăng lên đủ sức vượt quan những biến cố khó khăn

của nền kinh tế. Việc tăng tập trung ngân hàng đồng nghĩa với mua bán sát nhập

những ngân hàng nhỏ yếu kém, sau khi cơ cấu lại và quản trị tốt có thể tận dụng khách

hàng, cơ sở vật chất, nhân sự, và như vậy không những duy trì được nhân sự cũ mà

còn có khả năng mở rộng thêm. Kết quả là thúc đẩy sản xuất và tăng trưởng, kinh tế

được phục hồi, nhiều công ăn việc làm được tạo ra đồng nghĩa tỷ lệ thất nghiệp giảm.

Các quy trình hợp lý hóa và thay đổi kích thước trong hệ thống ngân hàng trong khu

vực này cho thấy hiệu quả tổng thể của hệ thống đã được tăng cường trong giai đoạn

từ năm 2008 đến nay.

Tín dụng ngân hàng thể hiện mối quan hệ dồng biến với tỷ lệ thất nghiệp (mức

ý nghĩa 1%) nghĩa là sự sụt giảm việc làm đi theo xu hướng mở rộng tín dụng. Bằng

chứng này là phù hợp với kết quả nghiên cứu của Jason và cộng sự (2015), Mwalungo

(2011), Miguel Ángel và cộng sự (2014) nhưng trái với nghiên cứu của Feldmann

(2015). Trong giai đoạn hiện nay, khi các hộ gia đình có xu hướng vay nợ có bảo đảm

tham gia rủi ro bằng cách tìm kiếm việc làm với mức lương cao nhưng xác suất việc

làm thấp. Trong cân bằng tổng thể, các doanh nghiệp đáp ứng sự ưa thích méo mó

này của hộ gia đình, trả lương cao nhưng lại có ít chỗ trống. Điều này ngụ ý rằng nợ

hộ gia đình cao dẫn đến tình trạng thất nghiệp cao, một kết quả làm sáng tỏ hơn về lý

71

do tại sao sự phục hồi của thị trường lao động là khá chậm chạp sau khi cuộc khủng

hoảng tài chính nên đã dẫn đến mối quan hệ nghịch biến này.

Quy tắc thị trường tín dụng đồng biến với tỷ lệ thất nghiệp (mức ý nghĩa 1%),

kết quả này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Acemoglu (2011), Feldmann (2006,

2012a). Cụ thể, hạn chế về mở rộng tín dụng đến các khu vực tư nhân, về quyền sở

hữu tư nhân của ngân hàng, về cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài, và về việc

xác định miễn lãi suất xuất hiện làm giảm tỷ lệ việc làm và thất nghiệp gia tăng, đặc

biệt là trong giới trẻ. Kết quả này càng đúng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính

như hiện nay, nền kinh tế suy giảm nhanh chóng, các công ty hoạt động không hiệu

quả, càng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng, doanh nghiệp lâm vào cành khó

khăn phải thu hẹp sản suất, việc làm tất nhiên bị co hẹp.

Biến GDP trên đầu người thể hiện mối quan hệ nghịch biến với tỷ lệ thất

nghiệp (mức ý nghĩa 1%) như mong đợi phù hợp với nghiên cứu của Horst Feldmann

(2015), Ali, Maryam (2011) và Rahman (2013). Trong thực tế, xu hướng dân số phù

hợp sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước là yếu tố quan trọng kích thích

phát triển nhanh, bền vững, nâng cao đời sống nhân dân và tiềm lực sản xuất; đây là

yếu tố cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm tính trạng thất nghiệp.

Tỷ lệ thất nghiệp là cùng chiểu với tỷ lệ lạm phát (mức ý nghĩa 1%), kết quả

phù hợp với nghiên cứu của Miguel Ángel và cộng sự (2014) và phù hợp với thực

tế hiện nay trong khu vực khối APEC khi mà tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát ở

hầu hết các nước đều giảm. Điều này có thể là do những năm gần đây sau khi đối phó

với cuộc khủng hoảng tài chính 2008, thất nghiệp đã giảm (theo mục 3.4 )Chính phủ

ở các quốc gia APEC thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và tài khóa ổn định kinh

tế vĩ mô, CPI thường chịu tác động của 4 nhóm yếu tố: chi phí đẩy, cầu kéo, tiền tệ -

tín dụng và tâm lý. Cụ thể: (i) Về yếu tố chi phí trong năm qua cho thấy, giá cả hàng

hóa thế giới giảm, các mặt hàng giảm giá mạnh nhất đó là dầu mỏ và các sản phẩm

liên quan tới dầu mỏ. Nhiều khoản thuế đã được cắt giảm tạo điều kiện cho doanh

nghiệp giảm bớt chi phí, lãi suất cho vay của ngân hàng đã giảm khá nhanh. (ii) Về

72

yếu tố cầu cũng giảm. (iii) Về tiền tệ - tín dụng, áp lực đối với lạm phát đang có xu

hướng giảm. Cụ thể: tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng cũng đã giảm nhanh, thanh

khoản của hệ thống ngân hàng thương mại được cải thiện. (iv) Trong khi đó, tâm lý

kỳ vọng lạm phát không bị áp lực lớn như trước.

Lãi suất thực tế là đồng biến với tỷ lệ thất nghiệp (với mức ý nghĩa 5%) như

mong đợi phù hợp với thực tế trong giai đoạn 2008 – 2012, các quốc gia có lãi suất

thực càng cao thì tỷ lệ thất nghiệp càng lớn. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu

của Feldmann (2015) và (2012b), Fitoussi và cộng sự (2000), đều đưa ra bằng chứng

về sự đồng biến lãi suất thực tế và thất nghiệp. Như vậy, trong giai đoạn khủng hoảng

tài chính, các nhà hoạch định chính sách kỳ vọng đối phó với lạm phát bằng cách duy

trì lãi suất cho vay ở mức cao. Nhưng thực tế lại có thể gây ra tâm lý e ngại đầu tư

sản xuất bởi mức lãi suất quá cao, khó đầu tư có lãi. Doanh nghiệp và nền kinh tế

cảm thấy sức ép lớn, quá sức chịu đựng của hoạt động sản xuất kinh doanh, gây đình

trệ, làm suy giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ở góc độ kinh doanh, trong

các năm vừa qua, từ 2008 trở lại đây, tại các quốc gia ta thấy các doanh nghiệp vừa

và nhỏ gặp khủng hoảng kinh tế thiệt hại nhiều trong khi các ngân hàng luôn có lãi

lớn! Điều này, thực sự không động viên các nguồn lực quốc gia vào công cuộc sản

xuất kinh doanh làm ra của cải vật chất mà chỉ khuyến khích người có vốn mang tiền

đi cho vay kiếm lời hay mua bán lòng vòng tạo ra các giá trị "ảo" như "bong bong bất

động sản", "bong bong cổ phiếu" (Việt Nam, Trung Quốc,..) hay các cơ hội đầu tư

mối quan hệ quyền lực nhóm để kiếm lời. Hoạt động sản suất đình trệ, doanh nghiệp

cắt giảm lao động và dĩ nhiên thất nghiệp tăng là hậu quả không thể tránh khỏi.

Mở cửa thương mại cũng thể hiện mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ thất nghiệp

(mức ý nghĩa thống kê 1%). Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Feldmann (2015) với

kết quả nhận được thể hiện mối quan hệ ngược chiều giữa mở của thương mại và thất

nghiệp có ý nghĩa thống kê. Theo thực tiễn, việc mở rộng thương mại có vai trò rất

quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế và tạo của cải vật chất cho cả quốc gia phát

triển và đang phát triển. Nhưng tác giả cho rằng tăng cường mở của thương mại cũng

73

có thể làm tăng thất nghiệp vì mở cửa tự do hơn đồng nghĩa với cạnh tranh nhập khẩu

căng thẳng hơn. Như Hiệp định thương mại tự do Trung Quốc – Úc (FTA) mới đây

giúp các công ty Úc có cơ hội tiếp cận thị trường Trung Quốc nhiều hơn, tuy nhiên

cũng cho phép nhiều người lao động Trung Quốc - gồm cả thương nhân - làm việc ở

Úc với visa nhập cư lao động lành nghề tạm thời. Hội đồng liên hiệp mậu dịch Úc

(ACTU) nói rằng hiệp định thương mại tự do làm giảm dần việc làm nội địa và có

thể gia tăng tình trạng thất nghiệp.

Thuế thu nhập cũng thể hiện mối quan hệ ngược chiều nhưng không có ý nghĩa

thống kê (P-value = 83,3%) nên chưa giải thích được tác động thuế thu nhập đến tỷ

lệ thất nghiệp trong giai đoạn 1996 – 2015. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Horst

Feldmann (2015) với kết quả nhận được cũng thể hiện mối quan hệ ngược chiều thuế

thu nhập và tỷ lệ thất nghiệp có ý nghĩa thống kê mà ông cho rằng mối quan hệ ngược

chiều này đề nghị xu hướng giảm thuế thu nhập tiền lương.

Tóm lại, kết quả hồi quy nhận được đã chỉ ra bằng chứng rằng tỷ lệ thất nghiệp

chịu ảnh hưởng ngược chiều với mức độ tập trung ngân hàng, thuế thu nhập và GDP

trên đầu người nhưng chịu ảnh hưởng cùng chiều với tín dụng ngân hàng, các quy

tắc thị trường tín dụng, thương lượng tập trung và lạm phát. Trong chương tiếp theo

tác giả sẽ thảo luận về các kết luận và đóng góp của nghiên cứu cũng như những hạn

chế trong luận văn, từ đó đưa ra các hướng nghiên cứu tiếp theo.

74

CHƯƠNG 5:

KẾT LUẬN

Trong chương này, sẽ tóm tắt lại và thảo luận về việc phân tích dữ liệu nghiên

cứu đã thu thập được, nêu những hạn chế và chỉ ra các hướng nghiên cứu tiếp theo.

Cuối cùng trong chương sẽ trình bày nhận xét và đưa ra ý kiến gợi ý giải pháp cho

các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng.

5.1 Kết luận

Tác giả sử dụng mô hình OLS tổng thể để kiểm định mối quan hệ giữa tập

trung ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp, mô hình ảnh hưởng cố định được sử dụng để xử

lý vấn đề về hiện tượng không đồng nhất không quan sát được, mô hình bình phương

bé nhất hai giai đoạn để giải quyết hiện tượng nội sinh và phương pháp moment tổng

quát có sử dụng biến công cụ để giải quyết hiện tượng nội sinh và tự tương quan.

Quan trọng hơn, không như những nghiên cứu khác, đây là một trong những nghiên

cứu đầu tiên sử dụng phương pháp GMM để kiểm định mối quan hệ giữa tập trung

ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp vì những lý do sau: Đầu tiên, mô hình động GMM giải

quyết những vấn đề liên quan đến dữ liệu bảng ngắn. Thứ hai, mô hình GMM sẽ

chính xác hơn trong việc tồn tại hiện tượng nội sinh giữa tập trung ngân hàng và tỷ lệ

thất nghiệp. Kết quả bài nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng Moment tổng

quát - GMM cho bộ dữ liệu bảng động (Dynamic data) từ 21 quốc gia thành viên khối

APEC trong giai đoạn từ 1996– 2014, với kỳ quan sát tính theo năm. Mặc dù tiếp cận

ở các phương pháp khác nhau, nhưng tất cả các kết quả của các mô hình đều đồng

nhất và cùng kết quả như kỳ vọng. Các kết quả tìm được từ các mô hình GMM đã

ủng hộ giả thuyết đó là tập trung ngân hàng, được đo bằng tỷ lệ tài sản được nắm giữ

bởi ba ngân hàng lớn nhất trong hệ thống ngân hàng, có mối tương quan âm với tỷ lệ

thất nghiệp, ở mức ý nghĩa 5%

Nhìn chung, kết quả hồi quy cho thấy mối quan hệ giữa tập trung ngân hàng,

các đặc điểm của nền kinh tế, thể chế, thị trường lao động và tỷ lệ thất nghiệp của

mỗi quốc gia, mối quan hệ gồm có i) Quan hệ cùng chiều, ii) Quan hệ ngược chiều

75

và iii) Không có mối quan hệ. Cụ thể có mối quan hệ cùng chiều như: tín dụng ngân

hàng, quy tắc thị trường, lãi suất thực, lạm phát, mở cửa thương mại, độ tuổi dưới 14

và hơn 65, dòng FDI đi ra, tiền gửi ngân hàng. Mối quan hệ ngược chiều gồm: tập

trung ngân hàng, GDP bình quân đầu người, hoạt động thị trường chứng khoán.

Không có mối quan hệ gồm: thương lượng tập trung, thuế thu nhập, căng thẳng sắc

tộc, quy tắc thương mại quốc tế. Kết quả của hồi quy trái ngược với kết quả nghiên

cứu của Feldmann nhưng phù hợp với những nghiên cứu trước đây. Điều này có thể

là do thực tế rằng thị trường vốn đặc biệt, thị trường cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp

và đầu tư mạo hiểm - được ít nhiều phát triển ở các nước này. Nó sẽ có khả năng ảnh

hưởng ngược chiều của ngân hàng tập trung vào tình trạng thất nghiệp. Mặc dù các

kênh truyền mà thông qua đó tập trung hệ thống ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất

nghiệp vẫn cần được nghiên cứu kỹ hơn, nhưng chúng ta có thể kết luận rằng tập

trung ngân hàng ảnh hưởng tốt đến tỷ lệ thất nghiệp ở các nước trong khu vực APEC.

Như đã giải thích trong chương 4, mỗi hiệu ứng có tác động tích cực đối với tình

trạng thất nghiệp. Theo như lý thuyết liên quan, kết quả của tác giả chứng thực thuyết

cấu trúc hiệu quả. Một số nghiên cứu trên các nước công nghiệp cũng tìm thấy sự tập

trung cao hơn là tương quan với tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn (ví dụ như, Di Tella &

MacCulloch, 2005; Feldmann, 2011).

Hơn nữa, tác giả cũng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ rằng GDP bình quân đầu

người tăng có liên quan với tỷ lệ thất nghiệp thấp, các nước đang phát triển giàu hơn

có thể có công nhân tích cực hơn ở thị trường việc làm. Một kết luận khác, hệ số của

‘mở cửa’ cho thấy rằng các nước phát triển là cởi mở hơn đối với thương mại quốc

tế có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn, vì cạnh tranh việc làm trong ngành công nghiệp nhập

khẩu. Thêm nữa, luồng FDI cao hơn có liên quan với tình trạng thất nghiệp hơn, có

lẽ vì chúng làm giảm số lượng việc làm trong các công ty di động quốc tế. Cuối cùng,

quy định chặt chẽ của các dòng vốn xuyên quóc gia có mối tương quan với tỷ lệ thất

nghiệp ít, vì nó có thể tránh được những tác động gây rối có thể như di chuyển vốn

thất thường hay dừng đột ngột trên thị trường.

Như vậy kết quả này là quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách khi có

76

kế hoạch củng cố hệ thống tài chính của họ bằng cách điều chỉnh cơ cấu ngân hàng

của họ, những phát hiện từ nghiên cứu này ngụ ý rằng chính sách này có thể không

có một ảnh hưởng bất lợi về triển vọng kinh tế hay thị trường lao động của họ.

5.2 Hạn chế của đề tài

Bên cạnh các vấn đề được nghiên cứu ở trên, Luận văn đã cố gắng thực hiện

với khả năng về phạm vi và dữ liệu tối đa trong khả năng, tuy nhiên vì điều kiện

khách quan và chủ quan còn tồn tại một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, đề tài sử dụng bộ dữ liệu có kích thước mẫu là 381 quan sát của từ

21 quốc gia thành viên khối APEC trong giai đoạn từ 1996– 2014, một số các quốc

gia còn có số quan sát nhỏ khó so sánh các kết quả phân tích cho tất cả 21 quốc gia.

Đây là lượng quan sát khá ít nếu so với dữ liệu của các nghiên cứu trước đây trên thế

giới, ví dụ như trong bài nghiên cứu “Banking system concentration and

unemployment in develop countries” được tiến hành trên 42 nước đang phát triển

trong giai đoạn 1987 – 2007 với 882 quan sát. Do số quan sát còn hạn chế có thể làm

cho các kết quả ước tính từ mô hình chưa thể giải thích hết mối quan hệ giữa các biến

với nhau.

Thứ hai, đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng tập trung ngân hàng đến tỷ lệ thất

nghiệp rất hạn chế (tác giả nghiên cứu là lần đầu tiên) nên chưa có điều kiện so sánh

các kết quả thực nghiệm. Việc so sánh với kết quả thực nghiệm về vấn đề này với các

nghiên cứu thế giới thì vẫn còn nhiều hạn chế vì đặc điểm và tính chất của các quốc

gia ở các khu vực khác nhau là không giống nhau nên việc so sánh với các kết quả

này chỉ mang tính đối chiếu chứ chưa giải thích hết bản chất của vấn đề đặt ra.

Thứ ba, đề tài chỉ nghiên cứu tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến tỷ lệ thất

nghiệp chứ vẫn tìm ra được mức tập trung tối ưu mà ở đó hoạt động của ngân hàng

là hiệu quả cao nhất, ảnh hưởng tốt nhất đến thị trường lao động.

Thứ tư, một số vấn đề chính sách và tính chất tương quan của chúng khi áp

dụng đối với từng quốc gia chưa được đề cập trong bài viết này.

77

5.3 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tích cực của tập trung

ngân hàng.

5.3.1 Gợi ý một số giải pháp chung cho các quốc gia thành viên khối

APEC:

Như đã thể hiện rõ qua các phần trước, lĩnh vực ngân hàng ở các quốc gia

thành viên APEC là tương đối tập trung cao, các ngân hàng lớn đóng một vai trò quan

trọng trong toàn bộ khu vực tài chính và ảnh hưởng của nó lên nền kinh tế cũng như

thị trường lao động là không hề nhỏ. Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 làm

tăng các mối quan tâm trên các quy định tài chính ở cả cấp toàn cầu và quốc gia,

hoạch định chính sách có thể tìm thấy những kết quả có giá trị trong phạm vi mà họ

cho rằng việc điều chỉnh cơ cấu ngân hàng có thể không gây hại cho tăng trưởng kinh

tế, hiệu quả hoạt động thị trường lao động của một quốc gia. Nói cách khác, nếu các

nước đang phát triển trong kế hoạch cụ thể để củng cố hệ thống tài chính của họ bằng

cách điều chỉnh cơ cấu ngân hàng của họ, những phát hiện từ nghiên cứu này ngụ ý

rằng chính sách này có thể không có một ảnh hưởng bất lợi về triển vọng kinh tế của

họ.

Nghiên cứu sâu hơn có thể cung cấp hướng dẫn rõ ràng, chi tiết hơn cho việc

cơ cấu tài chính hiệu quả và thích hợp nhất cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

mạnh mẽ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tập trung ngân hàng có mối quan hệ ngược

chiều với tỷ lệ thất nghiệp. Kết quả này có ý nghĩa quan trọng đối với nhà làm chính

sách - đặc biệt đối với các quốc gia (nhất là những nước đang phát triển) có mức độ

tập trung ngân hàng hay tình trạng thất nghiệp cao là kết quả sau cuộc khủng hoảng

tài chính toàn cầu. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách cần xem xét lại mối quan

hệ này để đề ra chính sách phù hợp với tiêu chí của mỗi quốc gia, tăng mức độ tập

trung ngân hàng và làm cho ngành ngân hàng ít cạnh tranh hơn. Các biện pháp chính

sách thích hợp nhất phải tùy theo từng quốc gia, tùy theo mức độ, tính chất đặc thù

và nguồn gốc lịch sử của sự tập trung ngân hàng, cũng như theo cường độ và các đặc

điểm khác của sự cạnh tranh trong ngành ngân hàng quốc gia tương ứng.

78

Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm của luận văn, tác giả xin đưa ra các

gợi ý cho các quốc gia như sau:

- Các quốc gia mong muốn hoạch định chính sách có thể giảm tỷ lệ thất

nghiệp trong nước nên cân nhắc xu hướng điều chỉnh cơ cấu ngành ngân hàng vì nó

không gây ra ảnh hưởng bất lợi lên thị trường lao động. Một số ý kiến cho rằng việc

tập trung ngân hàng khiến cho các ngân hàng được mua bán hay sát nhập sẽ sa thải

nhân viên hàng loạt sau khi hoàn tất các giao dịch làm tỷ lệ thất nghiệp tăng. Tuy

nhiên có nhiều động cơ dẫn đến các giao dịch mua lại và sáp nhập (M&A). Trong

phần lớn các trường hợp, lý do điển hình để thực hiện một giao dịch M&A là nâng

cao giá trị doanh nghiệp được mua lại bằng cách làm cho doanh nghiệp đó phát triển

hơn nữa. Các nghiên cứu trước và kết quả hồi quy cũng đã chỉ ra rằng M&A thực sự

tạo thêm việc làm, và giúp cải thiện hiệu quả chung của nền kinh tế qua việc nâng

cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Vì vậy, để đẩy mạnh đầu tư nước ngoài

nói chung hay hoạt động mua lại và sát nhập các nhà làm chính sách ở các quốc gia

có thể quan tâm những vấn đề như:

 Khuyến khích sự liên kết hợp tác nhằm tránh những mặt tiêu cực của tập

trung ngân hàng thông qua hoạt động mua bán sat nhập, nâng cao năng lực cạnh tranh.

 Để nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế, các nhà quản

lý cũng cần khuyến khích đổi mới tài chính giữa các ngân hàng dựa trên tiền đề của

quản lý rủi ro hiệu quả, mà còn cho phép các ngân hàng trở nên ổn định hơn thông

qua sự khác biệt sản phẩm.

 Kích thích phát triển thể chế có thể tăng cường sự ổn định của ngân hàng

trong khu vực này.

 Việc tăng tập trung ngân hàng có liên quan đến rủi ro đạo đức và rủi ro

chuyển đổi hệ thống ngân hàng ở APEC.

- Và theo kết quả thì tập trung ngân hàng làm giảm tỷ lệ thất nghiệp,

nhưng tập trung quá mức sẽ gây lo ngại hiện tượng “quá lớn để sụp đổ”, để đối phó

với vấn đề này, như Calomiris và Herring chỉ ra, chính phủ không nên bảo lãnh các

khoản nợ trước khi chuyển đổi diễn ra và thực hiện kích hoạt chuyển đổi trước khi

79

ngân hàng phá sản, nên giảm cho vay chính sách bằng cách cho phép và khuyến khích

các ngân hàng tự phát triển một nền văn hóa tín dụng độc lập mạnh mẽ. Bên cạnh đó,

để ngăn chặn sự tập trung quá mức, quản lý cần áp dụng cách tiếp cận thận trọng để

đánh giá các hoạt động mua bán sáp nhập.

- Theo kết quả hồi quy, thì các quốc gia cũng cần lưu ý việc mở cửa

thương mại nền kinh tế vì nếu tỷ lệ này tăng lên cũng đồng thới làm cho tình hình

thất nghiệp khó khăn hơn. Mặc dù nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng được mở

rộng, người lao động và các chính phủ đại vẫn đang bày tỏ mối lo ngại ngày càng lớn

về tự do hóa thương mại. Phần lớn những thay đổi về chỗ làm dẫn tới việc mất công

ăn việc làm đều là do những tiến bộ về công nghệ, ngành công nghiệp đang phải đối

mặt với cạnh tranh mạnh mẽ từ hàng hóa nhập khẩu. Tuy nhiên các chính phủ không

nên giải quyết vấn đề bất ổn việc làm bằng cách từ bỏ các nguyên tắc cam kết mở cửa

thị trường hay bằng cách tăng cường các hình thức bảo hộ hành chính và các chính

sách khác nhằm tạo đặc quyền cho các công ty trong nước hoặc cho một số lĩnh vực

trong nền kinh tế. Chủ nghĩa bảo hộ là một cách đối phó sai lầm. Các giải pháp tốt

hơn cần được nghiên cứu đề xuất cho chính phủ nhằm hóa giải nỗi lo lắng đó cho

người lao động.

- Các chủ trương chính sách vĩ mô nhằm can thiệp ngắn hạn vào nền kinh

tế bằng cách điều chỉnh lãi suất để mong giảm thất nghiệp trước mắt, hay xa hơn là

tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh quốc gia, ... về lâu dài

tác động ra sao cần các chính sách có tầm nhìn dài hạn hơn, như ổn định kinh tế vĩ

mô hoặc chống lạm phát hay giảm phát là điều cần cân nhắc. Không nên can thiệp

từng li, từng chút trước các căn bệnh ngắn hạn của nền kinh tế nhằm đạt tiêu chí tỷ lệ

thất nghiệp bằng các mệnh lệnh hành chính mà cứ để thị trường tự điều tiết thì sẽ có

tác động tốt hơn trong dài hạn. Và nhà nước đóng vai người xây dựng và hoàn thiện

luật kinh doanh trên cơ sở các pháp luật kinh doanh quốc tế đã được xây dựng lâu

đời, hợp lý và được nhìn nhận rộng rãi, hơn là chạy theo các biến động thị trường

từng ngày, từng tháng.

80

- Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, GDP bình quân đầu người có mối

quan hệ ngược chiều với tỷ lệ thất nghiệp. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là một mục

tiêu quan trọng, tuy nhiên, theo đuổi sự tăng trưởng không đúng hướng, không quan

tâm đến yếu tố môi trường có thể sẽ dẫn đến việc không tăng trưởng, thậm chí là thụt

lùi, kinh tế bấp bênh, thất nghiệp gia tăng. Bên cạnh đó, chính sách đuổi theo thất

nghiệp cũng cần được cẩn trọng, ví dụ như: Tỉ lệ thất nghiệp ở Mỹ giảm gần 10%

nhưng khó nói chất lượng cuộc sống của người dân Mỹ đã cải thiện sau khi đưa ra

các chính sách hạ lãi suất và kích thích kinh tế (nới lỏng định lượng). Ngược lại,

Trung Quốc cũng đang đối mặt với vấn đề chất lượng cuộc sống và môi trường ô

nhiễm dù đã duy trì chính sách đồng tiền yếu trước giờ.

- Tập trung cao hơn tại khu vực ngân hàng yêu cầu nguồn nhân lực có

chất lương cao hơn phù hợp với tiến bộ công nghệ và quản lý. Nhưng thực tế sau

khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng tiêu cực đến các nền kinh tế của APEC

và một trong những nguyên nhân làm APEC phục hồi chậm là chất lượng nguồn nhân

lực chưa đáp ứng yêu cầu của chuỗi cung ứng. Tình trạng không phù hợp giữa nhu

cầu của doanh nghiệp với kỹ năng, trình độ chuyên môn của người lao động còn diễn

ra phổ biến, điển hình là ở hai nền kinh tế Trung Quốc và Việt Nam. Đối với các nước

đang phát triển, nguồn nhân lực có trình độ và sự phù hợp giữa kỹ năng đào tạo với

việc làm đúng ngành nghề thấp hơn. Vì vậy, các nhà làm chính sách có thể nên chú

ý đến những điểm chủ chốt để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng

chuỗi cung ứng như:

 Nâng cao hợp tác về pháp lý cũng như sự gắn kết hài hòa pháp lý giữa các

nền kinh tế. Xây dựng các thỏa thuận, minh bạch về khung pháp lý và thủ tục hành

chính, Phối hợp có hiệu quả giữa các cơ quan chính phủ nhằm thực thi kết nối.

 Hỗ trợ khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích đầu tư từ khu vực

tư nhân và thúc đẩy tinh thần kinh doanh của thanh niên để thúc đẩy nhu cầu lao động

có chất lượng cho kết nối. Thúc đẩy dịch chuyển lao động hiệu quả

 Đầu tư nhiều hơn vào hệ thống giáo dục.

81

- Tập trung ngân hàng là xu thế tất yếu của nền kinh tế thị trường, nó có

những tác động tích cực đến nền kinh tế, song mặt bên kia của tập trung kinh tế lớn

lại chính là nguy cơ hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh. Vì vậy, các quốc gia

với phương châm phòng thủ từ xa đã ban hành pháp luật cạnh tranh - một đạo luật

không thể thiếu của nền kinh tế thị trường để kiểm soát các vụ tập trung ngân hàng.

Giải quyết tình trạng thất nghiệp không phải “một sớm, một chiều”, không chỉ

bằng một chính sách hay một biện pháp mà phải là một hệ thống các chính sách đồng

bộ, phải luôn coi trọng trong suốt quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Kết quả hồi

quy cho thấy tăng tập trung ngân hàng có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp nhưng không cổ

xúy việc tăng tập trung quá mức nhằm mục tiêu giảm thất nghiệp. Bởi lẽ, tăng tập

trung ngân hàng đến mức nào đó sẽ gây hại đến hệ thống tài chính (ví dụ điển hình là

suy thoái kinh tế Mỹ 2008) và thất nghiệp luôn tồn tại trong nền kinh tế thị trường và

tăng (giảm) theo chu kỳ phát triển của nền kinh tế thị trường. Theo nhà kinh tế học

William Beverigde, thất nghiệp không phải là căn bệnh, nhưng nó là triệu chứng của

một hoặc một vài căn bệnh của nền kinh tế.

5.3.2 Gợi ý một số giải pháp nâng cao hiệu quả tập trung ngân hàng đối

với Việt Nam:

 Đối với ngân hàng nhà nước và các cơ quan chức năng

Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang thực hiện cuộc cải cách lớn trong chuyển

dịch cơ cấu và tiến bộ để tạo ra một hệ thống an toàn và nâng cao hiệu quả của các

ngân hàng thương mại. Giảm thất nghiệp, tăng hiệu quả hoạt động của thị trường lao

động trong nước cũng là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết của các nhà hoạch

định chính sách và các giám sát viên phải đối mặt với việc toàn cầu hóa không thể

tránh khỏi trong thị trường dịch vụ ngân hàng, tài chính và thị trường lao động. Rõ

ràng, hiểu được tình trạng hiện tại của tính chất tác động của tập trung ngành ngân

hàng Việt Nam là nhiệm vụ đầu tiên để có thể đưa ra một số gợi ý cho chính phủ Việt

Nam và Ngân hàng nhà nước trong quyết định chính sách để thực hiện thành công.

Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần tiếp tục nỗ lực áp dụng các giải pháp tái cơ cấu,

82

thúc đẩy cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam phù hợp với từng ngân

hàng, với lộ trình thực hiện cụ thể và giám sát chặt chẽ quá trình tái cơ cấu của các

ngân hàng thương mại.

Theo World Bank, một trong các trở ngại của môi trường đầu tư Việt Nam là

thủ tục quan liêu. Trong Báo cáo "Môi trường Kinh doanh 2008" của Ngân hàng Thế

giới và Tập đoàn Tài chính Quốc tế, Việt Nam đứng thứ 91 trong số 178 nền kinh tế

về mức độ thuận lợi kinh doanh, trong khi Trung Quốc đứng thứ 83 và Thái Lan thứ

15. Vì vậy, Ngân hàng nhà nước và chính phủ cần hoàn thiện hơn nữa khung chính

sách, pháp lý tạo môi trường thuận lợi hỗ trợ tối đa cho các nhà đầu tư, phù hợp với

các cam kết quốc tế, đồng thời các quy định, thủ tục tiến hành tập trung phải minh

bạch, rõ ràng và công bằng hơn. Việc mua bán và sát nhập cần được ban hành những

hướng dẫn thi hành luật cụ thể hơn với những quy định rõ ràng về thời hạn hiệu lực

tối thiểu của luật.

Đối với Chính Phủ: cần tạo ra hành lang pháp lý cho việc xử lý các tài sản

bảo đảm của các khoản nợ xấu ngân hàng. Việc chồng chéo trong các luật đối với

việc xử lý các tài sản bảo đảm là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho

quá trình xử lý nợ xấu của các ngân hàng bị chậm. Ngoài ra, các thủ tục, trình tự xử

lý đối với tài sản bảo đảm tại Việt Nam lại rất khó khăn và tốn thời gian nên cũng

làm cho một bộ phận không nhỏ các khách hàng nợ ngân hàng chây ì trong việc trả

nợ.

Đối với NHNN:

Ngân hàng nhà nước chú trọng nhận định các ngân hàng nhỏ không thực sự

hiệu quả trên thị trường, những ngân hàng hoạt động yếu, kém trong thời gian qua,

kiên quyết xử lý triệt để. Ngân hàng nhà nước cần tích cực chỉ đạo các tổ chức tín

dụng tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn hoạt động ngân hàng, từng bước

kiểm soát, kiểm tra, xử lý thận trọng, chỉ đạo chặt chẽ về kết quả hoạt động những

ngân hàng này. Tùy thuộc vào sự khắc phục, cũng như điều kiện khắc phục những

tồn tại, yếu kém của các ngân hàng và tiến trình xử lý các ngân hàng yếu kém cần

83

theo chủ trương của Đề án tái cơ cấu ngành. Quyết tâm đạt mục tiêu tái cơ cấu hệ

thống ngân hàng, đảm bảo được tính thanh khoản hệ thống, tạo ổn định ngành, ổn

định kinh tế vĩ mô.

Có hướng dẫn cụ thể về việc xử lý các khoản nợ xấu đối với NHTM. Trước

hết, NHNN cần ban hành các hướng dẫn cụ thể về việc ủy quyền của VAMC cho các

NHTM trong việc xử lý nợ xấu. Đồng thời, việc ban hành các hướng dẫn cụ thể về

xử lý các khoản nợ xấu (tỷ lệ chiết khấu, thời gian xử lý) cũng sẽ giúp các ngân hàng

chủ động hơn trong việc loại bỏ các khoản nợ xấu ra khỏi báo cáo tài chính.

Xây dựng chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Theo kinh nghiệm về

xử lý nợ xấu thành công của Hàn Quốc và sự thất bại của Nhật Bản, các nhà đầu tư

nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với quá trình xử lý nợ xấu. Vì vậy, việc xây

dựng các chính sách thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có việc điều chỉnh

sửa đổi Luật Đất đai và Luật Kinh doanh bất động sản, là rất cần thiết đối với Việt

Nam trong thời điểm hiện nay.

Phát triển thị trường trái phiếu và tạo hành lang pháp lý cho chứng khoán hóa

các khoản nợ xấu. Xây dựng một thị trường vốn sâu rộng với nhiều công cụ khác

nhau, đặc biệt là việc thiết lập thị trường trái phiếu giúp tạo ra một kênh huy động

vốn thay thế cho ngân hàng. Một số chính sách thúc đẩy thị trường trái phiếu như:

Đơn giản hóa quy trình phát hành trái phiếu với các quy định về phân loại trái phiếu

theo các mức độ rủi ro phù hợp với nhà đầu tư, bảo hiểm cho thị trường trái phiếu.

Cần chuẩn hóa lại mẫu hợp đồng mua bán, sáp nhập các TCTD. Ngoài những

nội dung chính được nêu trong Luật Doanh nghiệp và Thông tư 04/2010/TT-NHNN,

hợp đồng mẫu mua lại và sáp nhập các tổ chức tín dụng cần được nghiên cứu và xây

dựng và quy định các lĩnh vực đặc thù như: (i) điều kiện mua lại và sáp nhập, (ii)

quyền và nghĩa vụ các bên, (iii) việc phối hợp giải quyết các khoản nợ tồn đọng của

tổ chức tín dụng bị mua lại/sáp nhập, (iv) các điều khoản khác như giải quyết tranh

chấp và phương án lao động.

Ngân hàng nhà nước cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách những

84

trường hợp tập trung gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và những trường

hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế, cho thị trường lao động.

Các giao dịch M&A đang diễn ra khá sôi động và số lượng cũng như tổng giá

trị giao dịch ngày càng gia tăng nhưng số lượng các giao dịch thuộc đối tượng kiểm

soát theo Luật Cạnh tranh là không lớn. Tuy nhiên, đó là những thương vụ có khả

năng tác động tới cạnh tranh trên thị trường sau tập trung ngân hàng có vị trí thống

lĩnh trên thị trường. Việc kiểm soát các giao dịch M&A lớn nhằm giám sát hoạt động

cạnh tranh của ngân hàng sau tập trung để hạn chế khả năng lạm dụng vị trí thống

lĩnh của các ngân hàng này, tránh độc quyền làm giảm phúc lợi xã hội và gây hại cho

thị trường lao động, duy trì cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Ngân hàng có vị trí

thống lĩnh sẽ tác động đối với tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng tiếp cận thị

trường của doanh nghiệp mới. Với xu hướng gia tăng của hoạt động M&A trong thời

gian tới, trong đó sẽ có các thương vụ lớn, thuộc đối tượng kiểm soát tập trung kinh

tế, Ngân hàng nhà nước cần tăng cường giám sát, kiểm soát tập trung trên thị trường.

(Việc giám sát sẽ được thực hiện dựa trên cơ sở dữ liệu về ngân hàng có vị trí thống

lĩnh trên thị trường (được đánh giá theo các chỉ số CR3, HHI)). Tăng cường hợp tác

với cơ quan cạnh tranh các nước trên thế giới để kiểm soát hoạt động tập trung ngân

hàng xuyên biên giới, trong khuôn khổ chương cạnh tranh của các Hiệp định thương

mại tự do (FTAs) đã, đang và sẽ ký kết trong tương lai mà Việt Nam là một bên tham

gia như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP, Hiệp định thương mại tự do

EVFTA, Hiệp định đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP, Khu mậu dịch tự do

ASEAN VKFTA. Việc kiểm soát tập trung ngân hàng ở Việt Nam là nhiệm vụ mới

mẻ nên thực sự khó khăn đối với các cơ quan thực thi luật (chẩng hạn Luật cạnh

tranh), đặc biệt trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Khoa học pháp lý cũng chưa

nghiên cứu kỹ về tập trung ngân hàng, do vậy việc học hỏi kinh nghiệm của các nước

đi trước để trang bị đầy đủ các kiến thức kinh tế, pháp lý để kiểm soát hữu hiệu hiện

tượng tập trung ngân hàng là việc bắt buộc phải thực hiện đối với các nhà lập pháp,

của ngân hàng trung ương cũng như các quản lý ngân hàng thương mại.

85

Mặc dù các ngân hàng đều phải trả giá sau mỗi thương vụ mua bán và sát nhập,

nhưng rõ ràng có thể thấy các ngân hàng nói chung “được nhiều hơn là mất”, Sau gần

4 năm thực hiện tái cơ cấu theo Đề án 254, đến thời điểm này, hệ thống ngân hàng đã

gặt hái được những thành quả đáng khích lệ. Tuy nhiên việc tái cơ cấu có thể đối diện

với 2 trở ngại lớn là:

 Sự thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao theo yêu cầu.

 Nguồn nhân lực giá rẻ không còn được xem là lợi thế cạnh tranh của Việt

Nam. Chất lượng nguồn nhân lực thấp trở thành một rào cản lớn. Số người lao động

qua đào tạo đang chiếm một tỷ lệ thấp, chất lượng cũng chưa đáp ứng được những

công việc đòi hỏi kiến thức và kỹ năng. Đào tạo đại học và nghề chưa theo sát với

nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp. Vì vậy, vấn đề nhân lực là một trở ngại lớn

đối với nhiều doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam. Nguy cơ gia tăng

áp lực thất nghiệp cho những lao động trình độ tay nghề và kinh nghiệm thấp và đội

ngũ lao động giản đơn chưa qua đào tạo, từ đó làm tăng áp lực cả cho Nhà nước, cũng

như các doanh nghiệp và xã hội…

Trở ngại này càng tăng trong bối cảnh thất nghiệp ngày càng đè nặng lên hầu hết các

nước. Vì vậy, tái cấu trúc phải gắn chặt chẽ với năng suất và chất lượng, việc đào tạo

là việc hết sức cấp thiết và quan trọng, nếu tái cấu trúc không gắn với hệ thống đào

tạo nguồn lực thì tái cấu trúc cũng chỉ là nhất thời, không có kết quả lâu dài. Điều này

đòi hỏi Chính phủ và Bộ giáo dục đào tạo cần có ngay một chiến lược và lộ trình hợp

lý. Bên cạnh đó, lộ trình tái cơ cấu của ngân hàng thương mại Việt Nam cần rút tỉa

những kinh nghiệm, giảm thiểu các tác động tiêu cực và khai thác tối đa các lợi thế

của, nội hàm và lộ trình cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và

bối cảnh tình hình đất nước sao cho phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát triển.

 Đối với các ngân hàng thương mại

Năm 2012, Thủ tướng Chính phủ ký phê duyệt Đề án 254 "Cơ cấu lại hệ thống

các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011 2015" với mục đích tái cấu trúc Ngành Ngân

hàng, tinh giảm số lượng ngân hàng để lành mạnh hệ thống. Theo đó đến năm 2017

86

hệ thống ngân hàng chỉ còn khoảng 15-17 ngân hàng, giảm một nửa so với hiện tại.

Đầu năm 2015, Chính phủ tiếp tục có Nghị quyết số 01/NQCP về những nhiệm vụ,

giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội

2015. Trong đó Chính phủ yêu cầu NHNN và các cơ quan, bộ, ngành tạo điều kiện

thúc đẩy nhanh các phương án mua lại, sáp nhập các tổ chức tín dụng dựa trên cơ sở

tự nguyện và đúng pháp luật. Mục tiêu giảm số lượng ngân hàng trong toàn hệ thống

đòi hỏi các ngân hàng tự bản thân phải có sự nỗ lực rất lớn trong hoạt động mới có

thể nâng cao được năng lực cạnh tranh và tồn tại trên thị trường. Do đó, trong thời

gian tới, hoạt động của ngành ngân hàng cũng đòi hỏi phải có sự thay đổi về mọi mặt,

cả quản trị lẫn công tác quản lý rủi ro. Điều này cũng cần tăng cường khả năng kiểm

soát của Cục quản lý cạnh tranh - Cơ quan có chức năng kiểm soát tập trung theo

hướng cơ quan quản lý cạnh tranh nhằm hạn chế mặt tiêu cực của tập trung ngân

hàng, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh đối với các ngân

hàng. Bồi dưỡng, nâng cao kiến thức kinh tế và pháp lý, chính sách và pháp luật cạnh

tranh cho nhân sự của các cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ chức có liên quan.

Ngành ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều chỗ cần sự cải tiến như chúng ta

vẫn thấy là năng lực cạnh tranh, khuôn khổ pháp lý, bộ máy hành chính, hoạt động

không hiệu quả so với các nước trong khu vực. Các nhà quản lý cần tiếp tục đẩy mạnh

tự do hóa tài chính và thị trường dịch vụ ngân hàng để nâng cao thị trường cạnh tranh

giữa các ngân hàng thương mại. Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng đòi hỏi mức độ

cam kết cao hơn cả về phạm vi và mức độ, vì vậy, cần chủ động nâng cao nội lực

nhằm thích ứng tốt với những đỏi hỏi và yêu cầu mới.

Với xu hướng gia tăng của hoạt động M&A trong thời gian tới, trong đó sẽ có

các thương vụ lớn, thuộc đối tượng kiểm soát tập trung kinh tế, cùng với việc tăng

cường giám sát, kiểm soát tập trung trên thị trường, các ngân hàng thương mại cần

lưu ý một số điểm sau đây: ngân hàng/đại diện được ủy quyền của ngân hàng nên

tham vấn với Cục Quản lý cạnh tranh để nắm được quy định/quy trình của Luật Cạnh

tranh khi thực hiện vụ việc M&A có khả năng nằm trong ngưỡng phải thông báo/bị

cấm.

87

Quản trị rủi ro hậu sáp nhập, đây là một trong những yếu tố quyết định thương

vụ M&A có thành công được hay không. Các ngân hàng hậu sáp nhập gặp áp lực cần

phải quản lý được tốt hơn hệ thống quản lý rủi ro của mình, đặc biệt là rủi ro tín dụng

và rủi ro thanh khoản, các khoản nợ xấu cần phải được xử lý trước khi tiến hành sáp

nhập, nếu không thì ngân hàng hậu sáp nhập vẫn chỉ là một ngân hàng không khỏe

mạnh. Bên cạnh đó, quản trị về mặt nhân sự, hoạt động, công nghệ và thương hiệu

cũng là những nội dung quan trọng cần phải được đầu tư và thực hiện một cách cẩn

trọng.

5.4 Hướng nghiên cứu tiếp theo

Từ những giới hạn nêu trên tác giả xin đề xuất hướng nghiên cứu tiếp theo như

sau:

- Hướng nghiên cứu tiếp theo trước tiên là nên giải quyết những hạn chế

đã nêu trên của đề tài đã được trình bày ở phần trên.

- Các kết quả hồi quy bổ sung của mô hình cung cấp một số bằng chứng

trên các kênh thông qua đó tập trung hệ thống ngân hàng có thể làm giảm tỷ lệ thất

nghiệp. Vì kết quả của mô hình tuy đáng tin cậy và phù hợp với những nghiên cứu

trước đó nhưng không cùng kết quả với hai nghiên cứu của Feldmann trên các nước

công nghiệp và các nước phát triển riêng biệt. Vì vậy, trong tương lai cần nghiên cứu

thêm cả thực nghiệm và lý thuyết ở lĩnh vực tập trung ngân hàng ảnh hưởng đến thị

trường lao động ở các khu vực khác nữa để xác định rõ kết quả mối quan hệ giữa

chúng.

- Quan trọng nhất, như đã nói ở phần trước, các kênh truyền dẫn từ tập

trung hệ thống ngân hàng đến tỷ lệ thất nghiệp cần phải được phân tích kỹ lưỡng hơn.

Hơn nữa, nên tiếp tục xem xét một nghiên cứu tương tự xuyên quốc gia trong tương

lai, sử dụng những đo lường thay thế tập trung và mẫu quốc gia lớn hơn.

- Nghiên cứu trường hợp của từng quốc gia, theo dõi sát diễn biến của

tập trung ngân hàng, hoạt động của thị trường lao động và sự liên kết giữa hai yếu tố

cũng cần thiết được tiến hành vì mỗi quốc gia có mỗi đặc tính riêng nên tác động của

88

tập trung ngân hàng có mức độ ảnh hưởng cũng là khác nhau. Nghiên cứu sâu hơn có

thể cung cấp hướng dẫn hơn cho các nhà làm chính sách cơ cấu tài chính hiệu quả và

thích hợp nhất cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ.

89

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Dữ liệu bảng

Mô hình hồi quy bằng cách sử dụng dữ liệu bảng có những lợi thế sau đây:

- Bằng cách kiểm soát tính không đồng nhất, dữ liệu bảng giảm thiểu độ chệch

trong các kết quả.

- Phần dư của dữ liệu theo bảng liên quan chặt chẽ với nhau, dữ liệu bảng cung

cấp thêm thông tin về những tác động, giảm sự đa cộng tuyến giữa các biến số, tăng

mức độ chính xác của mô hình.

- Dữ liệu bảng có thể giải thích tính động của sự thay đổi của các biến trong

mô hình một cách tốt hơn so với dữ liệu chuỗi thời gian. Nghiên cứu với dữ liệu bảng

giúp gia tăng khả năng quan sát về sự khác biệt trong dữ liệu chéo và qua khoảng thời

gian cho một đơn vị quan sát (ngân hàng thương mại), điều này làm cho ước lượng

hiệu quả hơn (Judge và các cộng sự, 1980).

- Với mục đích tối ưu hóa về mặt thống kê các dữ liệu có sẵn, cách tiếp cận

bằng dữ liệu bảng có thể ước tính cho cả dữ liệu chéo và chuỗi thời gian.

𝒀𝒊𝒕 = 𝜶 + 𝜷𝑿𝒊𝒕 + 𝒖𝒊𝒕

i = 1, 2 , ...N (dữ liệu chéo) và t = 1, 2, ...T (dữ liệu chuỗi thời gian)

𝒖𝒊𝒕 = 𝝁𝒊 + 𝒗𝒊

Trong đó: α là vecto vô hướng, β là ma trận (k x 1), Xit là ngân hàng thứ i với

biến giải thích K, μi là tác động đặc trưng không thể quan sát được, νi biểu thị phần

dư.

Mô hình hồi quy theo dữ liệu bảng được chia thành mô hình FE (Fixed effects –

tác động cố định) và mô hình RE (Random effects – tác động ngẫu nhiên). Trong mô hình

FE, νi được giả định là tham số cố định được ước lượng và phần dư ngẫu nhiên với νi (độc

lập và phân phối tương tự nhau) cho mọi i và t. Mô hình FE có thể là một chỉ dẫn kỹ thuật

phù hợp nếu so sánh chéo những thay đổi giữa các doanh nghiệp, mô hình giả định hệ số

90

là như nhau cho tất cả các doanh nghiệp, nhưng hệ số chặn là khác nhau. Một đặc tính

quan trọng của mô hình FE là nó sử dụng sự thay đổi của các biến trong mỗi đơn vị quan

sát, bỏ qua sự thay đổi của trung bình ngành.

Theo kết quả, mô hình FE lãng phí một số thông tin về trung bình của từng

đơn vị quan sát, do đó mô hình này không hoàn toàn hiệu quả. Mô hình RE là sự cải

tiến từ mô hình FE. Mô hình RE giải quyết các thông tin còn thiếu trong mô hình FE

bằng cách giả định phân phối của μi. Đặc điểm kỹ thuật của RE xử lý μi như là một

rối loạn ngẫu nhiên với mỗi đơn vị quan sát thứ i hoặc cả nhóm ngành. Mô hình RE

có thể được viết như sau:

𝒚𝒊𝒕 = 𝜷𝑿𝒊𝒕 + 𝜼𝒊𝒕

Trong đó, phần sai số ŋit bao gồm hai thành phần thống kê độc lập, một phần

kết hợp với dữ liệu chéo, phần còn lại vit là với dữ liệu chuỗi.

Phụ lục 2: Danh sách các quốc gia được dùng làm mẫu nghiên cứu

APEC được thành lập vào tháng 11 năm 1989 với 12 thành viên sáng lập: Úc, Nhật

Bản, Malaysia, Hàn Quốc, Thái

Lan, Philippines, Singapore, Brunei, Indonesia, New Zealand, Canada và Hoa Kỳ.

Hiện nay, APEC gồm 21 thành viên, ngoài 12 thành viên sáng lập, các thành viên

khác bao gồm: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hồng Kông, Đài

Loan, Mexico,Papua New Guinea, Chile, Peru, Nga và Việt Nam.

Phụ lục 3: Định nghĩa một số biến thêm

- Biến Tiền gửi ngân hàng (Bde): Định nghĩa: Nhu cầu, kì hạn gửi và tiền

gửi tiết kiệm trong ngân hàng tiền gửi. Trong hai hồi quy bổ sung của tác giả, tác giả

đo kích thước của ngành ngân hàng chứ không phải là các hoạt động của nó. Khi ngân

hàng cho vay nhiều hơn khả năng so với kích thước khu vực ngân hàng là vấn đề đối

tình trạng thất nghiệp và khi có một mức độ tương quan đáng kể giữa hai biến, tác

giả thích sử dụng biến ‘tín dụng ngân hàng’ hơn biến ‘tiền gửi ngân hàng’. Mục đích

của 2 biến kiểm soát là để đảm bảo rằng biến 'tập trung ngân hàng’ không đại diện

91

cho các hoạt động hay kích thước cho ngân hàng, hoặc cho sự phát triển khu vực tài

chính nói chung. Ví dụ, các nước có ngành công nghiệp ngân hàng lớn hơn, so với

quy mô của nền kinh tế, có thể có một tỷ lệ tập trung ngân hàng thấp hơn. Nguồn:

Beck và cộng sự (2012)

- Biến Tỷ lệ lãi biên (NIM): Định nghĩa: Tỷ lệ giá trị kế toán của doanh

thu lãi thuần của ngân hàng trong tổng thu nhập. Nguồn: Beck và cộng sự (2012)

- Biến Chi phí quản lý ngân hàng (BOC): Định nghĩa: Tỷ lệ giá trị kế

toán của chi phí quản lý của một ngân hàng trong tổng tài sản của nó. Nguồn: Beck

và cộng sự (2012)

- Biến Quy tắc thương mại quốc tế (ReIT): Định nghĩa: Chỉ số ‘Tự do

thương mại quốc tế’ của EFW, có giá trị từ 0 (hạn chế tối thiểu) và 1 (hạn chế nhất),

bao gồm các khía cạnh sau: thuế đối với thương mại quốc tế, các quy định rào cản

thương mại, kích thước thực tế so với kích thước dự kiến của các ngành thương mại,

tỷ giá chợ đen, và kiểm soát thị trường vốn quốc tế. Tác giả kiểm soát tác động của

quy định pháp luật trên cả thương mại quốc tế và di chuyển vốn quốc tế. Quy định

thương mại quốc tế ít hạn chế hơn có ảnh hưởng đối lập với mở cửa thương mại. Một

mặt, nó làm tăng hiệu quả của phân công lao động giữa các nước, giảm thất

nghiệp. Mặt khác, có thể gây mất việc làm do cạnh tranh nhập khẩu gia tăng. Hạn chế

giao dịch tài chính qua biên giới ít hơn cải thiện việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực

và thu hút dòng vốn FDI, giảm thất nghiêp. Tuy nhiên, nó cũng có thể dẫn đến biến

động luân chuyển vốn như dòng chảy đầu cơ vào ra dừng đột ngột, thất nghiệp gia

tăng. Nguồn: Gwartney và Lawson (2009).

92

Phụ lục 4: Kết quả hồi quy mô hình

- Kiểm tra đa cộng tuyến với tiêu chuẩn hệ số phóng đại hiệp phương sai VIF

→ Các hệ số phóng đại hiệp phương sai VIF đều nhỏ (<10) cho thấy không tồn tại đa

cộng tuyến nghiêm trọng trong mô hình hồi quy.

93

Kết quả hồi quy mô hình gốc 2SLS: -

 Kết quả hồi quy mô hình OLS tổng thể:

Kết quả hồi quy OLS cho thấy tập trung ngân hàng có tác động lên tỷ lệ thất

nghiệp. Cụ thể, hệ số tương quan của biến sở hữu nhà nước có dấu âm (- 0,0067) và

có ý nghĩa 1%. Điểm cần lưu ý, đó là hệ số R2 của mô hình ở mức vừa phải, 34,52%.

Điều này có nghĩa, nhìn chung, mô hình này giải thích được tương đối kết quả về tỷ

lệ thất nghiệp của quốc gia. Bên cạnh đó, kiểm định F với giá trị p dưới 0,05 cũng

cho thấy mô hình sử dụng là phù hợp. Tuy nhiên, độ vững và tính hiệu quả của các

hệ số trong phân tích dữ liệu bảng dựa trên phương pháp hồi quy bình phương nhỏ

nhất tổng thể có thể bị nghi ngờ vì mô hình OLS tổng thể không cần quan tâm đến

các yếu tố không thể thu thập được hoặc ảnh hưởng riêng lẻ, đặc thù từng quốc gia,

trong khi vấn đề ảnh hưởng riêng lẻ là một trong những hiện tượng xảy ra thường

xuyên ở những nghiên cứu thực nghiệm (Baltagi, 2005). Do đó, để xử lý vấn đề về

các yếu tố không quan sát được (unobserved heterogeneity), mô hình ảnh hưởng cố

định được sử dụng

94

 Kết quả hồi quy mô hình FEM:

Mặc dù mô hình hồi quy cố định với điều chỉnh sai số được sử dụng để xử lý

vấn đề về các biến không đồng nhất phương sai thay đổi, Wintoki và cộng sự (2012)

cho rằng những sai lệch liên quan đến vấn đề nội sinh vẫn tồn tại trong kiểm định mối

quan hệ giữa tập trung ngân hàng và tỷ lệ thất nghiệp. Khi tập trung ngân hàng là yếu

tố nội sinh, kết quả của một số nghiên cứu trước đây sử dụng OLS tổng thể, mô hình

ảnh hưởng ngẫu nhiên (RE) hoặc cố định (FE) để ước tính sẽ bị sai lệch, đặc biệt là

với những dữ liệu bảng ngắn (Cameron Colin, 2007). Để giải quyết vấn đề này, các

nghiên cứu trước đây đã sử dụng ước lượng biến công cụ (ước lượng IV). Tuy nhiên,

vấn đề phát sinh khi sử dụng ước lượng biến biến công cụ là thường khó kiếm được

biến công cụ phù hợp bởi vì nếu chọn những biến công cụ yếu, ước lượng IV có thể

bị chệch (Mileve, 2007). Nói cách khác, sử dụng ước lượng IV mà không chọn được

biến công cụ phù hợp thì các vấn đề của ước lượng OLS cũng sẽ không được cải

thiện. Từ đó, mô hình dữ liệu bảng động sử dụng biến công cụ thông qua 2 phương

pháp được sử dụng là: phương pháp bình phương bé nhất 2 giai đoạn 2SLS và phương

pháp moment tổng quát 2 giai đoan GMM.

95

 Kết quả mô hình hồ quy 2SLS:

Thêm biến Stock market activity:

Thêm biến Regulation of international trade:

96

Thêm biến FDI inflows, FDI outflows:

Thêm biến Ethnictensions:

97

Thêm biến Aged 0-14, aged 65+:

Thêm biến Bank deposits, bỏ biến Bank credit:

98

Thêm biến bankdeposits:

Thêm biến Net interest margin:

99

Thêm biến Bank overheadcost:

 Mô hình có ý nghĩa phát triển GMM cũng dùng biến công cụ được đề

xuất sử dụng theo như nghiên cứu của Arellano và Bond (1991).

Thêm biến Stockmarket activity:

100

101

Thêm biến Regulation of international trade:

Thêm biến FDI inflows, FDI outflows:

102

103

Thêm biến Ethnics tension:

104

Thêm biến Aged 0-14, age 65+

105

Thêm biến Bank deposits, bỏ biến Bank credit

106

Thêm biến Net interest margin:

107

Thêm biến Bank overheadcosts:

108

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tham khảo tiếng Việt

1. Báo cáo tập trung kinh tế Việt Nam năm 2014, 2015. Bộ Công Thương, Cục

Quản Lý Cạnh Tranh, Hà Nội.

2. Dương Kha, 2012. Tập bài giảng Mô hình tài chính. Đại học kinh tế thành phố

Hồ Chí Minh

3. Damodar N. Gujarati, 2004. Kinh tế lượng cơ sở. Chương trình giảng dạy kinh

tế Fullbright. Dịch từ tiếng Anh. Người dịch Băng Tâm, 2005.

4. Kyenes. Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ. NXB Giáo dục,

1994.

5. Nguyễn Đình Thọ, 2011. Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh

– Thiết kế và thực hiện. Nhà xuất bản lao động xã hội

6. Nguyễn Bá Ngọc và cộng sự, 2014. Báo cáo APEC: nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu chuỗi cung ứng. Bộ Lao Động Thương

Binh và Xã Hội, Viện Khoa Học Lao Động và Xã Hội.

7. Nguyễn Minh Tuấn và Trần Nguyễn Minh Ái, 2015. Kinh tế học vĩ mô.

Nhà xuất bản Kinh Tế TP Hồ Chí Minh.

8. Nguyễn Quang Hiển: “Thị trường lao động thực trạnh và giải pháp, Nhà xuất

bản thống kê 2001.

9. Trần Thị Thu Hường - Nguyễn Bích Ngọc “M&A ngân hàng tại Việt Nam:

Thực trạng, động cơ và thách thức trong thời gian tới” (TC Thị trường - Tài chính -

Tiền tệ số 9.5.2014)

Tài liệu tham khảo tiếng Anh

10. Aboagye, A. Q. Q., Akoena, S. K., Antwi-Asare, T. O., & Gockel, A. F., 2008.

Explaining interest rate spreads in Ghana. African Development Review, 20(3),

378–399.

11. Akerlof, G. A., Dickens, W. T., & Perry, G. L, 1996. The macroeconomics of

low inflation. Brookings Papers on Economic Activity, 1, 1-59

109

12. Akerlof, G. A., Dickens, W. T., & Perry, G. L., 2000. Near-rational wage and

price setting and the long-run Phillips curve. Brookings Papers on Economic

Activity, 1 , 1–44

13. Allen, F. and Gale, D., 2000. Comparing Financial Systems, Cambridge and

London: MIT Press.

14. Allen, F. and Gale, D., 2003. Competition and Financial Stability. Journal of

Money, Credit, and Banking, 36, pp. 433-480.

15. Athanasoglou, P.P., Brissimis, S.N. and Delis, M.D., 2005. Bank-Specific,

Industry-Specific and Macroeconomic Determinants of Bank Profitability. Bank of

Greece Working Paper, No. 25.

16. Banking Supervision Report 2010, 2011. The Central Bank Of The Russian

Federation.

17. Barth, J.R., Caprio, G. Jr and Levine, R., 2004. Bank regulation and

supervision: what works best? Journal of Financial Intermediation, Vol. 13 No. 2,

pp. 205‐248.

18. Bassanini, A., & Duval, R., 2006. The determinants of unemployment across

OECD countries: Reassessing the role of policies and institutions. OECD Economic

Studies, 42, 7–86.

19. Besanko, D. and Thakor, A.V., 1993. Relationship Banking, Deposit

Insurance and Bank Portfolio, in: Mayer, C. and Vives, X. (eds.): Capital Markets

and Financial Intermediation, Cambridge, UK: Cambridge University Press, 292-

318.

20. Beck, T., Demirguc-Kunt, A. and Levine, R., 2003 .Bank Concentration and

Crises. NBER Working Paper No. 9921.

21. Beck, T., Demirgüc¸ -Kunt, A., & Levine, R., 2006. Bank concentration,

competition, and crises: First results. Journal of Banking and Finance, 30(5), 1581–

1603.

22. Beck, T., Demirgüc¸ -Kunt, A., Levine, R., Cihak, M., & Feyen, E. H. B.,

2012. Financial structure dataset (updated September 2012).

110

23. Black, S. E., & Strahan, P. E., 2002. Entrepreneurship and bank credit

availability. Journal of Finance, 57(6), 2807–2833.

24. Blanchard, O., & Giavazzi, F., 2003. Macroeconomic effects of regulation and

deregulation in goods and labor markets. Quarterly Journal of Economics, 118(3),

879–907.

25. Blomström, M., Fors, G., & Lipsey, R. E., 1997. Foreign direct investment

and employment: Home country experience in the United States and Sweden.

Economic Journal, 107(445), 1787–1797.

26. Berger, A. et al, 1995. The Transformation of the U.S. Banking Industry: What

a Long, Strange Trip it’s Been. Brookings Papers on Economic Activity, 2.

27. Bill Mitchell, 2013. A case for public banking. Economics.

28. Boot, A.W. and Greenbaum, S., 1993. Bank Regulation, Reputation, and

Rents: Theory and Policy Implications, in: Mayer, C. and Vives, X. (eds.): Capital

Markets and Financial Intermediation, Cambridge, UK: Cambridge University Press,

292-318.

29. Boyd, J.H. and Runkle, D.E., 1993. Size and Performance of Banking Firms:

Testing the Predictions of Theory. Journal of Monetary Economics, 31, pp. 47-67

30. Boyd, J.H., and De Nicolo, G., 2005. The Theory of Bank Risk-Taking and

Competition Revisited. Journal of Finance, forthcoming.

31. Boyd, J. H., De Nicolò, G., & Jalal, A. M., 2006. Bank risk-taking and

competition revisited: New theory and new evidence, IMF Working Paper 06/297.

Washington, DC: IMF

32. Camen Reinhart, Mohsin S.Khan, 1995. Capital flows in the APEC region,

International Monetary Fund.

33. Cañonero, G., 1997. Bank Concentration and the Supply of Credit in

Argentina. IMF Working Paper, WP/97/40, April.

34. Chong, B.S., 1991. Effects of Interstate Banking on Commercial Banks’ Risk

and Profitability. Review of Economics and Statistics, 73, pp. 78-84.

35. Claessens, S., & Laeven, L., 2005. Financial dependence, banking sector

111

competition, and economic growth. Journal of the European Economic Association,

3(1), 179–207.

36. Cohen, J. S., 1967. Financing industrialization in Italy, 1984-1914: The

partial tranformation of a Late-Coner. Journal of Economic History, 27(3), 363-82.

37. Corvoisier, S., & Gropp, R., 2002. Bank concentration and retail interest

rates. Journal of Banking and Finance, 26(11), 2155–2189.

38. de Castro Almeida, D. B., & Jayme, F. G., Jr., 2008. Bank consolidation and

credit concentration in Brazil (1995–2004). CEPAL Review, 95, 155–171.

39. De Jonghe, O., & Vennet, R. V., 2008. Competition versus efficiency: What

drives franchise values in European banking? Journal of Banking and Finance, 32(9),

1820–1835.

40. Demsetz, H., 1973. Industry structure, market rivalry, and public policy.

Journal ofLaw and Economics, 16(1), 1–9.

41. Demirgüc¸ -Kunt, A., Laeven, L., & Levine, R., 2004. Regulations, market

structure, institutions, and the cost of financial intermediation. Journal ofMoney,

Credit, and Banking, 36(3 (Pt. 2)), 593–622.

42. Dewatripont, M., and E. Maskin, 1995. Credit and efficiency in centralized

economics. Review of Economic Studies, 62(4), 541-55

43. Dillip K. Das-Gupta, 2005. Asian economy and finance: a post – crisis

perspective. Innovations in Financail Markets and Institutions

44. Ernst & Young, 2013. Banking in emerging markets Seizing opportunities,

overcoming challenge, Country reports.

45. Evrensel, A. Y., 2008. Banking crisis and financial structure: A survival-time

analysis. International Review of Economics and Finance, 17(4), 589–602.

46. Felbermayr, G., Prat, J., & Schmerer, H.-J., 2011. Trade and unemployment:

What do the data say? European Economic Review, 55(6), 741–758.

47. Feldmann, H., 2006. Credit market regulation and labor market performance

around the world. Kyklos, 59(4), 497–525.

112

48. Feldmann, H., 2009. The unemployment effects of labor regulation around the

world. Journal of Comparative Economics, 37(1),76–90.

49. Feldmann, H., 2010. Economic freedom and unemployment. In J. D.

Gwartney, J. C. Hall, & R. A. Lawson (Eds.), Economic freedom of the world: 2010

annual report (pp. 187–201). Vancouver (BC): Fraser Institute.

50. Feldmann, H., 2011. Central bank independence, wage bargaining and labor

market performance: New evidence. Southern Economic Journal, 77(3), 692–725.

51. Feldmann, H., 2012b. Real interest rate and labor market performance in

developing countries. Economics Letters, 117(1), 200–203.

52. Feldmann, H., 2012c. Ethnic fractionalization and unemployment. Economics

Letters, 117(1), 192–195.

53. Feldmann, H., 2012d. Product market regulation and labor market

performance around the world. Labour, 26(3), 369–391.

54. Feldmann, H., 2013. Banking system concentration and labor market

performance in industrial countries. Contemporary Economic Policy, 31(4), 719–

732.

55. Fernández, A. I., González, F., & Suárez, N., 2010. How institutions and

regulation shape the influence ofbank concentration on economic growth:

International evidence. International Review ofLaw and Economics, 30(1), 28–36.

56. Fitoussi, J.-P., Jestaz, D., Phelps, E. S., & Zoega, G., 2000. Roots of the recent

recoveries: Labor reforms or private sector forces? Brookings Papers on Economic

Activity, 1, 237–311

57. Gerschenkron, A. Economic Backwardness in Historical Perspective: A Book

of Essays. Cambridge, MA: Belknap Press of Harvard University Press, 1962.

58. González, V. M., & González, F., 2008. Influence of bank concentration and

institutions on capital structure: New international evidence. Journal ofCorporate

Finance, 14(4), 363–375.

113

59. Groshen, E. L., & Schweitzer, M. E., 1999. Identifying inflation’s grease and

sand effects in the labor market. In M. Feldstein (Ed.), The costs and benefits ofprice

stability (pp. 273–308). Chicago (IL): University of Chicago Press.

60. Grossman, G. M., & Rossi-Hansberg, E., 2008. Trading tasks: A simple theory

of off shoring. American Economic Review, 98(5), 1978–1997.

61. Gujarati, D., 2004. Basic Econometrics, United States Military Academy,

West Point, PP 636-652.

62. Guzman, M. G., 2000. Bank structure, capital accumulation and growth: A

simple macroeconomic model. Economic Theory, 16(2), 421–455.

63. Gwartney, J. D., & Lawson, R. A., 2009. Economic freedom of the world:

2009 annual report. Vancouver (BC): Fraser Institute.

64. Hanley, A., Ennew, C., & Binks, M., 2006. The price of UK commercial credit

lines: A research note. Journal of Business Finance and Accounting, 33(5–6), 932–

938

65. Hellmann, Thomas F., Kevin C. Murdock, and Joseph E. Stiglitz, 2000.

Liberalization, Moral Hazard in Banking, and Prudential Regulation: Are Capital

Requirements Enough?. American Economic Review, 90(1): 147-165

66. Heckman, J. J., & Pagés, C. (Eds.). 2004. Law and employment: Lessons from

Latin America and the Caribbean. Chicago (IL): University of Chicago Press.

67. Holden, K. and El-Bannany, M., 2006. Investment in Information Technology

Systems and Other Determinants of Bank Profitability in the UK.

68. Horst Feldmann, 2015. Banking system concentration and unemployment in

developing countries, Journal of Economic and Business, 77(2015) 60-78.

69. Horst Feldmann, 2013. Banking system concentration and labor market

performance in industry countries, Contemporary Economic Policy, 31 (4), pp.719-

732.

70. Jackson, J. E., & Thomas, A. R., 1995. Bank structure and new business

creation: Lessons from an earlier time. Regional Science and Urban Economics,

25(3), 323–353.

114

71. Jeon, Y., & Miller, S. M., 2005. Bank performance: Market power or efficient

structure? Department of Economics Working Paper 2005–23. Storrs (Conn.):

University of Connecticut.

72. Ines Orozco, 2014. An Analysis of the Banking System Structure in Chile,

Colombia and Peru in Light of the Creation of the Integrated Latin American Market

– MILA Market, The Leonard N. Stern School of Business Glucksman Institute for

Research in Securities Markets.

73. Kang H. Park, 2012. Concentration and Competition in Commercial Banking:

How does China differ from South Korea? Department of Economics and Finance

Southeast Missouri State University Cape Girardeau, MO 63701

74. Kousted, J., Rand, J., Tarp, F., Nguyen, D.T., Nguyen, V.H., Ta,

M.T. and Luu, D.K., 2005. From Mono Bank to Commercial Bank: Financial Sector

Reforms in Vietnam, Institute of Southeast Asian

75. Koutsomanoli-Filippaki, A., Margaritis, D., & Staikouras, C. (2009).

Efficiency and productivity growth in the banking industry of central and eastern

Europe. Journal ofBanking and Finance, 33(3), 557–567.

76. Kim, M., Kristiansen, E. G., & Vale, B., 2012. Life-cycle patterns of interest-

rate mark-ups in small-firm finance. Scandinavian Journal ofEconomics, 114(2),

629–657.

77. Koutsomanoli-Filippaki, A., Margaritis, D., & Staikouras, C., 2009. Efficiency

and productivity growth in the banking industry of central and eastern Europe.

Journal ofBanking and Finance, 33(3), 557–567.

78. Laeven, L., & Valencia, F., 2008. Systemic banking crises: A new database,

Working Paper 08/224. Washington, DC: IMF.

79. Laeven, L., & Valencia, F., 2010. Resolution ofbanking crises: The good, the

bad, and the ugly, Working Paper 10/146. Washington,DC: IMF.

80. Le Trung Hai, 2014. Market concentration and competition in Vietnamese

banking Sector, State Bank of Vietnam - Banking Academy of Vietnam, pp.57406.

81. Lipsey, R. E., Sjöholm, F., & Sun, J., 2010. Foreign ownership and

115

employment growth in Indonesian manufacturing, NBER Working Paper 15936.

Cambridge (Mass.): NBER.

82. Marfels, C., 1971, Absolute and relative measures of concentration

reconsidered, Kyklos, vol. 24, no. 4, 753-766

83. Martinez Peria, M. S., & Mody, A., 2004. How foreign participation and

market concentration impact bank spreads: Evidence from Latin America, Policy

Research Working Paper 3210. Washington, DC: World Bank.

84. Matutes, Carmen and Vives, Xavier, 2000. Imperfect Competition, Risk

Taking and Regulation in Banking, European Economic Review 44, 184-216.

85. Maurice Doll, 2010. Bank concentration, competition and financial stability,

Master thesis International Economics and Finance, Tilburg University.

86. Mayer, C., 1988. New Issues in Corporate Finance. European Economic

Review, 32(5), 1167–83.

87. Mayer, C., 1990. Financial Systems, Corporate Finance, and Economic

Development, in Asymmetric Information, Corporate Finance, and Investment,

edited by R. G. Hubbard. Chicago: University of Chicago Press, 307–32.

88. McHugh, J. (2002). Wage centralization, union bargaining, and

macroeconomic performance, Working Paper 02/143. Washington, DC

89. Nickell, S., Nunziata, L., & Ochel, W., 2005. Unemployment in the OECD

since the 1960s. What do we know? Economic Journal, 115(500), 1–27.

90. OECD, 2008. Competition and regulation in retail banking. Paris: OECD.

91. Ostry, J. D., Prati, A., & Spilimbergo, A., 2009. Structural reforms and

economic performance in advanced and developing countries, Occasional Paper 268.

Washington, DC: IMF.

92. Pagano, M., 1993. Financial market and growrh: An overview. European

Economic Review, 37(2-3), 613-22.

93. Peek, J. and Rosengren, E., 1996. Small Business Credit Availability: How

Important is Size of the Lender? In Universal Banking: Financial System, Design

Reconsidered, edited by Saunders and Walter, Irwin Publishing.

116

94. Peltzman, S., 1977. The gains and losses from industrial concentration.

Journal ofLaw and Economics, 20(2), 229–263.

95. Petersen, M. A., & Rajan, R. G., 1995. The effect of credit market competition

on lending relationships. Quarterly Journal of Economics, 110(2), 407–443.

96. Rujun Wang, B.Ec, 2014. The relationship between banking concentration

and economic growth, A Thesis, The Graduate School of Arts and Sciences of

Georgetown University.

97. Ratti, R. A., Lee, S., & Seol, Y., 2008. Bank concentration and financial

constraints on firm-level investment in Europe. Journal of Banking and Finance,

32(12), 2684–2694

98. Ross Levine, 2000. Bank concentration: Chile and international

comparisions, Economic Papers.

99. Rose, P., 1999 Commercial Bank Management. Boston: McGraw-Hill.

100. Saeed, A., & Esposito, F. (2012). Bank concentration and financial

constraints on firm investment in UK. Studies in Economics and Finance, 29(1), 11–

25.

101. Shazida Jan Mohd Khan, 2014. Concentration in Southest Asia banking.

American Journal of Economics. 4(3): 150-158

102. Sufian, F., 2011. Profitability of the Korean banking sector: Panel evidence

on bank-specific and macroeconomic determinants.Journal of Economics and

Management, 7(1), 43–72.

103. Sathye, M. ,2002 The Impact of Foreign Banks on Market Concentration: The

Case of India. Applied Econometrics and International Development (AEEADE),

Vol. 2-1, pp. 7-20.

104. Thao Ngoc Nguyen, Chris Stewart, 2013. Concentration and efficiency in the

Vietnamese banking system between 1999 and 2009: A structural model

approach, Journal of Financial Regulation and Compliance, Vol. 21 Iss: 3, pp.268 –

283.

117

105. Thorsten Beck, Asli Demirgüç-Kunt and Ross Levine, 2005. Bank

Concentration, Competition, and Crises: First results.

106. Thorsten Beck, Asli Demirguc-Kunt and Ross Levine, 2003. Bank

concentration and csrises, World Bank Policy Research Working, pp.3041

107. Tovar, J., Jaramillo, C., & Hernández, C. E. (2011). Risk, concentration and

market power in the banking industry: Evidence from the Colombian system (1997–

2006). Banks and Bank Systems, 6(1), 49–61.

108. Tregenna, F., 2009. The fat years: The structure and profitability of the US

banking sector in the pre-crisis period. Cambridge Journal ofEconomics, 33(4), 609–

632.

109. Xiaoqing (Maggie) Fu1 , Yongjia (Rebecca) Lin2 and Philip Molyneux

(2010). Bank Competition and Financial Stability in Asia Pacific. Journal of Banking

& Finance, volume 38, p 64-77

110. Uhomoibhi Toni Aburime, 2006. Concentration implications of the banks

consolidation exercise in Nigeria.

111. Wyplosz, C., 2001. Do we know how low should inflation be? In A. García

Herrero, V. Gaspar, L. Hoogduin, J. Morgan, & B. Winkler (Eds.), Why price

stability? (pp. 15–33). Frankfurt am Main: ECB.

112. Wooldridge, J. M. (2002). Econometric analysis of cross section and panel

data. The MIT press, PP 142-179

 Trang web của Ngân hàng thế giới : lấy dữ liệu các biến: Biến dòng vốn FDI

Website tham khảo

vào và ra, Biến GDP bình quân đầu người, Biến tỷ lệ thuế thu nhập biên, Biến

tỷ lệ lạm phát, Biến GDP, Biến mở cửa, Biến nhân khẩu học, Biến Quy tắc thị

trường sản phẩm, Biến Lãi suất thực tế, Biến tăng trưởng kinh tế.

http://data.worldbank.org/

 Trang web của Tổ chức Lao động Quốc tế: lấy dữ liệu các biến: Biến Tỷ lệ

thất nghiệp.

118

 Trang web của Quỹ tiền tệ quốc tế: lấy dữ liệu biến: Biến Khủng hoảng ngân

www.ilo.org

hàng hệ thống.

www.imf.org