intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ảnh hưởng thức ăn đến tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng về chiều dài cá gáy biển Lethrinus Nebulosus (Forsskål, 1775) giai đoạn mới nở đến 10 ngày tuổi tại Khánh Hòa

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

60
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nghiên cứu này, 3 công thức thức ăn (CT1: Cho ăn luân trùng siêu nhỏ và luân trùng nhỏ trong thời gian từ ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10; CT2: Cho ăn trứng hàu trong thời gian từ 2 đến 10 ngày tuổi, từ ngày tuổi thứ 6 cho ăn thêm luân trùng siêu nhỏ; CT3: Cho ăn kết hợp trứng hàu, luân trùng siêu nhỏ, luân trùng nhỏ trong thời gian từ ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10) được thử nghiệm nhằm tìm ra công thức thức ăn thích hợp để ương nuôi cá gáy biển giai đoạn mới nở đến 10 ngày tuổi.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ảnh hưởng thức ăn đến tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng về chiều dài cá gáy biển Lethrinus Nebulosus (Forsskål, 1775) giai đoạn mới nở đến 10 ngày tuổi tại Khánh Hòa

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br /> <br /> Số 3/2015<br /> <br /> KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC<br /> <br /> ẢNH HƯỞNG THỨC ĂN ĐẾN TỶ LỆ SỐNG VÀ TỐC ĐỘ<br /> TĂNG TRƯỞNG VỀ CHIỀU DÀI CÁ GÁY BIỂN Lethrinus nebulosus<br /> (Forsskål, 1775) GIAI ĐOẠN MỚI NỞ ĐẾN 10 NGÀY TUỔI TẠI KHÁNH HÒA<br /> EFFECT OF DIFFERENT FEED INGREDIENTS ON THE GROWTH OF LENGTH,<br /> SURVIVAL RATE OF SPANGLED EMPEROR Lethrinus nebulosus (Forsskål, 1775)<br /> FROM NEWLY HATCHED TO 10 DAY-OLDS IN KHANH HOA PROVINCE<br /> Đào Mai Quốc Việt1, Lê Thị Như Phượng2, Nguyễn Hữu Dũng3<br /> Ngày nhận bài: 03/12/2014; Ngày phản biện thông qua: 19/5/2015; Ngày duyệt đăng: 15/9/2015<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Trong nghiên cứu này, 3 công thức thức ăn (CT1: Cho ăn luân trùng siêu nhỏ và luân trùng nhỏ trong thời gian từ<br /> ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10; CT2: Cho ăn trứng hàu trong thời gian từ 2 đến 10 ngày tuổi, từ ngày tuổi thứ 6 cho<br /> ăn thêm luân trùng siêu nhỏ; CT3: Cho ăn kết hợp trứng hàu, luân trùng siêu nhỏ, luân trùng nhỏ trong thời gian từ ngày<br /> tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10) được thử nghiệm nhằm tìm ra công thức thức ăn thích hợp để ương nuôi cá gáy biển giai<br /> đoạn mới nở đến 10 ngày tuổi. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, tỷ lệ sống của cá gáy biển sau 10 ngày ương đạt cao nhất ở<br /> nghiệm thức CT2 (15,5 ± 0,62%), tiếp theo là nghiệm thức CT3 (6,4 ± 0,43%), thấp nhất ở nghiệm thức CT1 (0%) (p0,05). Từ nghiên cứu này có thể nhận thấy, công thức thức ăn<br /> thích hợp cho ương ấu trùng cá gáy biển là CT2 nhằm đảm bảo tốc độ sinh trưởng cũng như tỷ lệ sống tốt nhất.<br /> Từ khóa: cá gáy biển, ấu trùng, thức ăn, tỷ lệ sống<br /> <br /> ABSTRACT<br /> In this study, three food recipes (CT1: The larvae were fed with super small rotifers and small rotifers in the period<br /> from 2 to 10 day-olds; CT2: The larvae were fed with oyster’s eggs during the period from 2 to 10 day after hatching,<br /> adding super small rotifers at stage from 6 to 10 day-olds; CT3: The larvae were fed with oyster’s eggs, super small rotifers<br /> and small rotifers during the period from 2 to 10 day-olds) were experimented in order to identify a suitable food recipes for<br /> rearing spangled emperor from the stages of neonatal to 10 day. Results showed that survival rate of the spangled emperor<br /> gained highest at the formula of CT2 (15,5 ± 0,62%), followed by the formula of CT3 (6,4 ± 0,43%); lowest at the formula<br /> of the CT1 (0%) (p < 0.05). There was no significant difference about the criteria size, the day length growth (DLG), specific<br /> growth rate (SGR) between the formula of CT2 and CT3 (p > 0.05). From the results of this study, it can be suggested that<br /> the appropriate formula for rearing the spangled emperor was CT2 in order to optimize the growth and survival rate.<br /> Keywords: spangled emperor, growth rate, survival rate, food<br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Cá gáy biển Lethrinus nebulosus (Forsskål,<br /> 1775) phân bố từ Ấn Độ Dương đến Tây Thái Bình<br /> Dương trải dài từ Biển Đỏ, Vịnh Ba Tư và Đông Phi<br /> <br /> tới miền nam Nhật Bản và Samoa. Sống ở rạn san<br /> hô, đầm phá san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn,<br /> vùng biển đáy cát và các khu vực đá ven biển,<br /> nơi có độ sâu từ 10 đến 75m. Các cá thể cá con<br /> <br /> Đào Mai Quốc Việt: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2011 – Trường Đại học Nha Trang<br /> KS. Lê Thị Như Phượng: Doanh nghiệp tư nhân Phượng Hải<br /> 3<br /> TS. Nguyễn Hữu Dũng: Trường Đại học Nha Trang<br /> 1<br /> 2<br /> <br /> 164 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br /> <br /> Số 3/2015<br /> <br /> sống tập trung thành quần thể lớn ở vùng đáy cát<br /> <br /> Nguồn ấu trùng cá thí nghiệm: Cá gáy biển bố<br /> <br /> có mực nước nông, trong thảm cỏ biển ở bến cảng,<br /> <br /> mẹ được nuôi vỗ tại bè Công ty Thủy sản Hoằng Ký,<br /> <br /> rừng tảo hoặc mảng bọt biển; khi trưởng thành<br /> <br /> Vũng Ngán, Tp. Nha Trang, khi cá thành thục sinh<br /> <br /> thường sống đơn lẻ hoặc tập trung thành các nhóm<br /> <br /> dục tiến hành tiêm kích dục tố và cho đẻ tại bè, sau<br /> <br /> nhỏ. Ăn động vật da gai, động vật thân mềm, động<br /> <br /> đó trứng cá được đóng trong túi nilon bơm oxy và<br /> <br /> vật giáp xác, giun nhiều tơ và cá. Trong quá trình<br /> <br /> vận chuyển về Trung tâm nghiên cứu Giống và Dịch<br /> <br /> sinh trưởng có thể có sự chuyển đổi giới tính. Có thể<br /> <br /> bệnh thủy sản, Trường Đại học Nha Trang. Tại đây,<br /> <br /> sống một thời gian dài ở độ mặn 10‰ do đó có tiềm<br /> <br /> trứng cá được lắng lọc trứng hư và vớt trứng tốt nổi<br /> <br /> năng trở thành một loài nuôi trồng thủy sản ở vùng<br /> <br /> trên mặt để bố trí thí nghiệm. Mật độ ấu trùng cá thí<br /> <br /> cửa sông. Chiều dài cá thể lớn nhất từng đánh bắt<br /> <br /> nghiệm là 50 cá thể/lít.<br /> <br /> được là 87cm, bình quân 70cm, khối lượng lớn nhất<br /> từng được công bố là 8,4kg [3].<br /> Ở Việt Nam, đây là loài cá được nhiều người<br /> ưa thích, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chất<br /> lượng thịt thơm ngon, sử dụng tốt thức ăn công<br /> nghiệp, tốc độ sinh trưởng nhanh, thích hợp cho<br /> nuôi lồng bè trên biển và nuôi trong các ao đầm<br /> nước mặn lợ.<br /> Việc phát triển nuôi cá gáy biển ở các vùng<br /> ven biển sẽ khai thác được tiềm năng mặt nước,<br /> mở rộng đối tượng nuôi có giá trị kinh tế, đa dạng<br /> hoá đối tượng nuôi, tạo công ăn việc làm và tăng<br /> thu nhập cho người dân vùng ven biển. Trên cơ<br /> sở đó góp phần phát triển nghề nuôi cá biển cũng<br /> như phát triển thủy sản ngày càng ổn định và<br /> bền vững.<br /> Từ thực tế nêu trên, tại Khánh Hòa, trong 02<br /> năm 2012 và 2013, Doanh nghiệp tư nhân Phượng<br /> Hải kết hợp với Trung tâm nghiên cứu Giống và Dịch<br /> bệnh thủy sản, Trường Đại học Nha Trang thực hiện<br /> đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh “Hoàn thiện và<br /> chuyển giao quy trình sản xuất giống nhân tạo cá<br /> gáy biển (Lethrinus nebulosus Forsskål, 1775) tại<br /> Khánh Hòa”.<br /> II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> 1. Vật liệu và phương pháp bố trí thí nghiệm<br /> <br /> Thức ăn cho ấu trùng cá gáy biển: Thức ăn<br /> không những phải đảm bảo chất lượng, đầy đủ dinh<br /> dưỡng mà còn phải phù hợp với cỡ miệng ấu trùng<br /> cá. Sau khi tham khảo các công trình nghiên cứu<br /> trước đây, 03 loại thức ăn được lựa chọn để ương<br /> nuôi cá gáy biển giai đoạn còn nhỏ gồm: Luân trùng<br /> siêu nhỏ (Brachionus rotundiformis), ký hiệu ssR,<br /> được nuôi giống trong các xô nhựa thể tích 5 lít sau<br /> đó ương ra các bể 200 lít, thức ăn dùng để nuôi luân<br /> trùng siêu nhỏ là tảo Nannochloropsis oculata. Luân<br /> trùng nhỏ (Brachionus plicatilis), ký hiệu sR, được<br /> nuôi trong bể 2 m3, hàng ngày cho ăn men bánh mì<br /> và tảo. Trứng hàu, ký hiệu TH, được lấy từ tuyến<br /> sinh dục của hàu Thái bình dương Crassostrea<br /> gigas (Thunberg, 1793) [1, 2].<br /> Nghiên cứu ảnh hưởng của thành phần thức<br /> ăn lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng cá gáy<br /> biển được tiến hành ở 3 nghiệm thức tương ứng với<br /> các công thức thức ăn và cách cho ăn sau:<br /> - CT1: ssR2-10 + sR2-10 (1/2 + 1/2), cho ăn luân<br /> trùng siêu nhỏ và luân trùng nhỏ trong thời gian từ<br /> ngày tuổi thứ 2 đến ngày tuổi thứ 10.<br /> - CT2: TH2-10 + ssR6-10 (1/2 + 1/2), cho ăn trứng<br /> hàu trong thời gian từ 2 đến 10 ngày tuổi, từ ngày<br /> tuổi thứ 6 cho ăn thêm luân trùng siêu nhỏ.<br /> - CT3: TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10 (1/3 + 1/3 + 1/3),<br /> <br /> Nghiên cứu được thực hiện tại Trung tâm<br /> <br /> cho ăn kết hợp trứng hàu, luân trùng siêu nhỏ, luân<br /> <br /> nghiên cứu Giống và Dịch bệnh thủy sản, Trường<br /> <br /> trùng nhỏ trong thời gian từ ngày tuổi thứ 2 đến<br /> <br /> Đại học Nha Trang, từ tháng 8/2012 đến tháng<br /> <br /> ngày tuổi thứ 10.<br /> <br /> 4/2013 trên đối tượng là ấu trùng cá gáy biển<br /> Lethrinus nebulosus (Forsskål, 1775).<br /> <br /> Tất cả các nghiệm thức thí nghiệm được thực<br /> hiện với 3 lần lặp cùng thời điểm.<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 165<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản <br /> <br /> Số 3/2015<br /> <br /> Bảng 1. Bảng thức ăn sử dụng trong thí nghiệm<br /> Nghiệm thức<br /> <br /> ssR2-10 + sR2-10<br /> <br /> TH2-10 + ssR6-10<br /> <br /> TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10<br /> <br /> ssR2-10 (ct/ml)<br /> <br /> sR2-10 (ct/ml)<br /> <br /> TH2-10 (tr/ml)<br /> <br /> ssR6-10 (ct/ml)<br /> <br /> TH2-10 (tr/ml)<br /> <br /> ssR2-10 (ct/ml)<br /> <br /> sR2-10 (ct/ml)<br /> <br /> Ngày 0<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> Ngày 1<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> -<br /> <br /> Ngày 2<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> -<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 3<br /> <br /> 1<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4<br /> <br /> -<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 4<br /> <br /> 1<br /> <br /> 4<br /> <br /> 5<br /> <br /> -<br /> <br /> 3<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 5<br /> <br /> 1<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> -<br /> <br /> 4<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 6<br /> <br /> 1<br /> <br /> 6<br /> <br /> 6<br /> <br /> 1<br /> <br /> 5<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 7<br /> <br /> 1<br /> <br /> 7<br /> <br /> 7<br /> <br /> 1<br /> <br /> 6<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 8<br /> <br /> 1<br /> <br /> 8<br /> <br /> 8<br /> <br /> 1<br /> <br /> 7<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 9<br /> <br /> 1<br /> <br /> 9<br /> <br /> 9<br /> <br /> 1<br /> <br /> 8<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày 10<br /> <br /> 1<br /> <br /> 10<br /> <br /> 10<br /> <br /> 1<br /> <br /> 9<br /> <br /> 1<br /> <br /> 1<br /> <br /> Ngày tuổi<br /> <br /> Dụng cụ thí nghiệm: Thí nghiệm được bố trí<br /> trong bể composite 2m3. Nước được bơm vào bể<br /> qua túi lọc, thể tích nước thí nghiệm là 1m3. Mỗi bể<br /> thí nghiệm được bố trí 2 dây sục khí, chế độ sục khí<br /> nhẹ được duy trì trong suốt quá trình thí nghiệm.<br /> Chăm sóc và theo dõi thí nghiệm: Ngày tuổi thứ<br /> 5 dùng ống siphon nhỏ để siphon đáy bể cá nhằm<br /> giảm bớt chất thải do thức ăn thừa và tảo tàn gây<br /> ra. Hàng ngày bổ sung thêm tảo Nannochloropsis<br /> oculata. Đo pH, nhiệt độ, DO, độ mặn 2 lần/ngày<br /> vào lúc 7h và 13h. Theo dõi tỷ lệ sống ấu trùng cá<br /> vào ngày 5 và ngày 10 bằng cách dùng cốc thủy tinh<br /> thu mẫu tại 5 điểm tầng nước mặt và 5 điểm tầng<br /> nước giữa. Đo chiều dài ấu trùng cá ngày 1, ngày 5<br /> và ngày 10 bằng kính hiển vi.<br /> 2. Phương pháp xử lý số liệu<br /> + Đo kích thước ấu trùng cá L(mm):<br /> Chiều dài ấu trùng cá gáy biển được tính từ<br /> mép trước miệng cá đến phần chót đuôi. Đo 30 con/<br /> bể và tính chiều dài trung bình. Dụng cụ đo là kính<br /> soi nổi có thước đo trên thị kính.<br /> + Tốc độ sinh trưởng trung bình ngày:<br /> DLG (mm/ngày) = (L1 – L0)/t<br /> L0 : Chiều dài ấu trùng cá lúc bắt đầu thí nghiệm<br /> L1 : Chiều dài ấu trùng cá lúc kết thúc thí nghiệm<br /> t : Thời gian thí nghiệm<br /> + Tốc độ sinh trưởng đặc trưng:<br /> SGR (%/ngày) = (LnL1 – LnL0)x100/t<br /> L0 : Chiều dài ấu trùng cá lúc bắt đầu thí nghiệm<br /> L1 : Chiều dài ấu trùng cá lúc kết thúc thí nghiệm<br /> t : Thời gian thí nghiệm<br /> + Tỷ lệ sống:<br /> Xác định tỷ lệ sống ấu trùng cá vào ngày 5 và<br /> ngày 10.<br /> <br /> 166 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Cách tính:<br /> (TLS) (%) = N1/N0 x 100<br /> N0 : Số ấu trùng cá thí nghiệm ban đầu<br /> N1 : Số cá bột thu được thời điểm thu mẫu<br /> Các số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS.<br /> Toàn bộ số liệu được trình bày dưới dạng giá trị<br /> trung bình (TB) ± sai số chuẩn (SE).<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> 1. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu<br /> trùng cá gáy biển sau 10 ngày ương nuôi<br /> Thức ăn phù hợp cho cá con mới nở đóng vai<br /> trò quan trọng trong việc ương giống cá gáy biển.<br /> Trong 03 công thức thức ăn đưa vào thí nghiệm<br /> thì công thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 và CT3: TH2-10<br /> + ssR2-10 + sR2-10 đạt hiệu quả ương nuôi trong 10<br /> ngày đầu, đối với công thức CT1: ssR2-10 + sR2-10,<br /> sau thời gian 4 ngày ương tỷ lệ sống còn 0%. Qua<br /> theo dõi nhận thấy ấu trùng cá mới nở không ăn<br /> được luân trùng nhỏ và luân trùng siêu nhỏ, sau thời<br /> gian tiêu hết noãn hoàng cá hao hụt dần.<br /> Sau 10 ngày ương, tỷ lệ sống cao nhất ở CT2:<br /> TH2-10 + ssR6-10 (15,53 ± 0,62%), tiếp theo là CT3:<br /> TH2-10 + ssR2-10 + sR2-10 (6,37 ± 0,43%) và thấp nhất<br /> ở CT1: ssR2-10 + sR2-10 (0%), sự sai khác trên có ý<br /> nghĩa thống kê (p0,05). Đối với nghiệm thức CT1: ssR2-10 + sR2-10<br /> vì thức ăn không phù hợp nên ấu trùng cá không thể<br /> sinh trưởng đến ngày thứ 10, thông thường qua các<br /> lần thí nghiệm lặp lại quan sát thấy cá bột hao hụt<br /> dần, đến ngày thứ 4 thì chết hết.<br /> Tốc độ sinh trưởng trung bình ngày của ấu trùng<br /> cá gáy biển không có sự sai khác có ý nghĩa giữa<br /> hai nghiệm thức CT2: TH2-10 + ssR6-10 và CT3: TH2-10<br /> <br /> Số 3/2015<br /> + ssR2-10 + sR2-10 (p>0,05; hình 3). Vào ngày thứ 5, tốc<br /> độ sinh trưởng trung bình ngày tại nghiệm thức CT2<br /> là 0,33 ± 0,01 mm/ngày, còn nghiệm thức CT3 là 0,32<br /> ± 0,01 mm/ngày. Đến ngày thứ 10, tốc độ sinh trưởng<br /> trung bình ngày của nghiệm thức CT2 và CT3 lần<br /> lượt là 0,23 ± 0,001 mm/ngày và 0,23 ± 0,003 mm/<br /> ngày. Căn cứ vào hình 2 và hình 3 cho thấy, cá bột<br /> từ ngày 1 đến ngày 5 có tốc độ tăng trưởng về chiều<br /> dài nhanh hơn so với giai đoạn từ ngày 5 đến ngày<br /> 10, nguyên nhân có thể vì trong giai đoạn sau này cá<br /> bột tập trung vào việc hoàn thiện hình thái. Qua theo<br /> dõi thí nghiệm cho thấy từ ngày tuổi thứ 8 cá bắt đầu<br /> xuất hiện các gai trên đầu và ở hai bên mang, khi lớn<br /> các gai này dần dần mất đi.<br /> <br /> Hình 3. Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng trung bình ngày của ấu trùng cá gáy biển<br /> <br /> Hình 4. Ảnh hưởng của thức ăn lên tốc độ sinh trưởng đặc trưng của ấu trùng cá gáy biển<br /> <br /> 168 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2