intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm ma túy

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

35
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và những khó khăn bất cập đồng thời kiểm soát việc áp dụng các biện pháp pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong vụ án ma túy theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về các tội phạm ma túy

  1. ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI PHẠM MA TÚY Nguyễn Trọng Nghĩa, Huỳnh Quốc Nhật, Nguyễn Thị Huệ Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ TP. Hồ Chí Minh GVHD: ThS. Nguyễn Thị Dung TÓM TẮT Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Trong thời gian qua, việc áp dụng quy định này đã góp phần đấu tranh hiệu quả các loại tội phạm nguy hiểm, đặc biệt là tội phạm về ma túy. Tuy nhiên, với tính chất là những quy định mới không tránh khỏi những khó khăn và bất cập trong việc áp dụng. Bài viết phân tích về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt và những khó khăn bất cập đồng thời kiểm soát việc áp dụng các biện pháp pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong vụ án ma túy theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện. Từ khóa: biện pháp điều tra, điều tra tố tụng đặc biệt, tố tụng hình sự, vụ án hình sự, tội phạm ma túy. 1 KHÁI QUÁT CHUNG 1.1 Khái niệm Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt ( PĐTTTĐ ) là hệ thống các biện pháp được Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định do các chủ thể có thẩm quyền điều tra tiến hành theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định dựa trên những căn cứ nhất định nhằm phát hiện, thu thập, kiểm tra, đánh giá tài liệu, chứng cứ xác định sự thật khách quan của vụ án một cách đầy đủ, toàn diện, làm cơ sở cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự (VAHS). 1.2 Đặc điểm Cũng giống các biện pháp tố tụng khác, PĐTTTĐ đều mang những đặc điểm chung của các biện pháp tố tụng như: phải là các biện pháp chỉ được quy định trong BLTTHS; chủ thể tiến hành, áp dụng là các cơ quan tiến hành có thẩm quyền luật định thông qua những người tiến hành tố tụng cụ thể; trình tự, thủ tục tiến hành, áp dụng phải tuân theo các quy định của BLTTHS... Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung đó, mỗi biện pháp khác nhau đều có những đặc điểm riêng đặc trưng cho mình, mà căn cứ vào đó có thể phân biệt được với các biện pháp khác. Trong đó, PĐTTTĐ mang những đặc điểm riêng biệt sau: 1961
  2. Thứ nhất, là hoạt động điều tra được tiến hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, những tài liệu thu thập được có giá trị trong việc làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Nó khác với hoạt động nghiệp vụ trinh sát của lực lượng công an nhân dân, những tài liệu thu thập qua hoạt động nghiệp vụ trinh sát không có giá trị pháp lý để làm rõ những vấn đề cần chứng minh trong vụ án hình sự. Để có thể sử dụng tài liệu thu thập qua hoạt động nghiệp vụ trinh sát phải chuyển hóa từ biện pháp thu thập bí mật sang biện pháp công khai. Thứ hai, là hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt dựa vào việc sử dụng các phương tiện của khoa học kỹ thuật, như ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật và thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Đối tượng bị áp dụng các biện pháp tố tụng đặc biệt không thể biết được mình đang bị theo dõi, đang bị như ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật và thu thập dữ liệu điện tử một cách bí mật. Thứ ba, các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt được tiến hành đối với những tội phạm nhất định trong vụ án hình sự và chỉ được áp dụng, tiến hành khi đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Đó là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thứ tư, do phải sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật chuyên dùng nên thẩm quyền áp dụng các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được giao cho một số người, một số cơ quan tiến hành tố tụng. Không phải tất cả mọi các cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng điều có thẩm quyền tiến hành. Thứ năm, lực lượng trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra tố tụng đặc biệt là các lực lượng chuyên trách, đặc thù trong Công an bhân dân, Quân đội bhân dân. Đây được hiểu là các lực lượng nghiệp vụ của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng được đào tạo chuyên sâu, được trang bị phương tiện kỹ thuật hiện đại để tiến hành các hoạt động ghi âm, ghi hình, nghe điện thoại bí mật, thu thập dữ liệu điện tử bí mật. 1.3 Quy định về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt Điều 223 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được tiến hành trên cơ sở ứng dụng thành tựu khoa học, kỹ thuật về lĩnh vực âm thanh, hình ảnh, điện tử viễn thông, trình độ của chuyên viên công nghệ thông tin… bí mật thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến đối tượng bị áp dụng nhằm phục vụ công tác điều tra, khám phá tội phạm. Sau khi khởi tố vụ án, trong quá trình điều tra, người có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt bao gồm: ghi âm, ghi hình bí mật; Nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Những biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt cho phép ghi nhận hình ảnh với độ phân giải tốt, âm thanh chất lượng và những thông tin, tài liệu khác, đồng thời đảm bảo yếu tố bí mật với đối tượng áp dụng và những người không liên quan. 1962
  3. 2 SỰ CẦN THIẾT VỀ VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT TRONG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN MA TÚY Trước hết, có thể khẳng định rằng tội phạm về ma túy ở nước ta trong thời gian qua nói chung là không giảm, mà có chiều hướng tăng năm sau nhiều hơn năm trước về số vụ, số người thực hiện hành vi phạm tội. Nguồn ma túy trong nước có rất ít, chủ yếu từ nước ngoài mang vào Việt Nam, đặc biệt là vùng Tam giác vàng Lào – Myanma – Tây Bắc Việt Nam. Ma túy sản xuất ở trong nước như trồng cây có chứa chất ma túy bao gồm cây thuốc phiện được trồng nhiều ở vùng biên giới Tây Bắc, Đông Bắc Bộ và miền núi ở các tỉnh Bắc Miền Trung từ Thanh Hóa đến Quảng Trị. Cây Cần Sa được trồng ở các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam. Số người sản xuất ma túy theo công thức tiên tiến không nhiều. Ma túy từ nước ngoài mang vào nước ta chủ yếu là Heroin và ma túy tổng hợp. Trên thực tế, do tính chất, đặc điểm hoạt động của tội phạm về ma túy nên hoạt động điều tra diễn ra rất đa dạng, phức tạp trong những tình huống cụ thể khác nhau. Quá trình điều tra các vụ án về ma túy, cơ quan điều tra có thể kết hợp điều tra công khai với điều tra trinh sát. Một số trường hợp vụ án được mở ra từ hoạt động điều tra trinh sát, những trường hợp này chính là tình huống được tạo ra từ yêu cầu chuyển hóa các tài liệu trinh sát thành chứng cứ pháp lý thông qua việc thực hiện các chiến thuật điều tra. Các vụ án ma túy do các lực lượng Hải quan, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển hoặc các cơ quan khác của lực lượng Cảnh sát trong Công an Nhân dân điều tra ban đầu sau đó chuyển cho Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy tiếp tục điều tra cũng phải chuyển hình thức điều tra cho phù hợp. Tổ chức hoạt động điều tra đặc biệt các vụ án về ma túy đòi hỏi phải sử dụng tổng hợp, đồng bộ nhiều biện pháp, phương tiện nghiệp vụ, thu thập tài liệu chuyển hóa thành chứng cứ nhằm làm rõ sự thật về vụ án Tổ chức tiến hành các hoạt động điều tra đối với các vụ án ma túy thực chất là hoạt động nhận thức của chủ thể điều tra vụ án ma túy đã xảy ra. Khi chủ thể đã có nhận thức đầy đủ cũng có nghĩa là vụ án ma túy đó đã được khám phá, chứng minh, kết luận theo yêu cầu của pháp luật. Quá trình nhận thức đó luôn diễn ra hết sức khẩn trương trong không gian, thời gian và các điều kiện pháp lý chặt chẽ của hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra vụ án ma túy chịu những tác động khách quan của quy luật về nhận thức và chịu sự chi phối, ràng buộc của quy luật phản ánh và chứng minh, quy luật hình thành thông tin, dấu vết… cùng nhiều quy định pháp lý khác của hoạt động điều tra. Do tính chất đặc biệt nguy hiểm của tội phạm về ma túy, để làm rõ bản chất, sự thật khách quan của vụ án về ma túy, ngoài việc sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, phối hợp nhiều lực lượng, phương tiện nghiệp vụ và công cụ hỗ trợ của ngành Công an như: tuần tra kiểm soát giao thông, quản lý hộ khẩu, sưu tra, giữ gìn trật tự công cộng… Khi điều tra vụ án, cơ quan điều tra phải phối hợp với lực lượng trinh sát để khai thác sử dụng các tài liệu trinh sát hoặc đặt ra những nội dung, yêu cầu cần điều tra, xác minh bằng các biện pháp trinh sát. Sự phối hợp này được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình điều tra và trở thành yêu cầu khách quan, đặc tính vốn có trong hoạt động điều tra đối với các vụ án ma túy. Do hoạt động của các loại tội phạm nguy hiểm hoạt động bí mật, gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, mà các biện pháp điều tra để làm rõ tội phạm này cũng phải được tiến hành bí mật mới có thể đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm. Mặt khác, 1963
  4. do đặc thù điều tra mà các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được tiến hành một cách độc lập bởi cơ quan nghiệp vụ của lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân dưới sự phối hợp nhuần nhuyễn của các phương tiện khoa học kỹ thuật. Tài liệu do các biện pháp tố tụng đặc biệt thu được có tính chính xác và khách quan cao thể hiện được rõ bản chất, tâm tư, tình cảm, nội tâm của đối tượng bị tiến hành áp dụng. Thực tiễn điều tra, chứng minh được tội phạm thấy rằng các nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng ố, tội rửa tiền; tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là một việc hết sức khó khăn. Đây là một thách thức đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi vì, trong điều tra tội phạm có một nguyên tắc là phải xử lý đúng người đúng tội và đúng pháp luật; phải có căn cứ chứng minh, chứng cứ tài liệu chứng minh một cách chắc chắn, chứ không phải sự suy diễn hay nhận định. Do đó những tài liệu chứng cứ thu được từ các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là những chứng cứ có giá trị chứng minh hành vi phạm tội của các đối tượng có liên quan, có ý nghĩa quan trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự. Thực tế điều tra tội phạm đã chỉ ra, việc điều tra, khám phá vụ án hình sự có thể từ những chi tiết rất nhỏ do tài liệu biện pháp thu được có thể mở đường cho các biện pháp điều tra tố tụng khác tiến hành điều tra thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khi đã được áp dụng sẽ được tiến hành liên tục 24/24 giờ đảm bảo không sót lọt bất cứ hoạt động nào của đối tượng để từ đó có thể nhận biết được mọi hành động, âm mưu, thủ đoạn của đối tượng đã, đang và sắp tiến hành. Vì là giám sát liên tục nên sẽ phát hiện những tài liệu, chứng cứ quan trọng để có thể kịp thời ngăn chặn mọi hành động của đối tượng nhất là những đối tượng tội phạm manh động, liều lĩnh như khủng bố, gián điệp… nếu không kịp thời phát hiện những âm mưu, hành động tiếp theo của chúng để kịp thời ngăn chặn thì chắc chắn sẽ xảy ra hậu quả khôn lường. Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt luôn được áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất để kiểm tra, giám sát, thu thập thông tin của đối tượng bị tiến hành biện pháp. Vì vậy nó mang lại sự chính xác cao và là biện pháp bí mật nên nó hoàn toàn khách quan khi có thể thu được những tài liệu thể hiện được rõ bản chất của đối tượng nên cũng có thể được áp dụng để kiểm tra hành động của người bị áp dụng biện pháp. Cơ sở thực hiện các biện pháp đều sử dụng phương tiện chuyên dụng nên hoàn toàn có thể so sánh được các nguồn thông tin thu thập được có trùng khớp với nhau không; để có thể đưa ra kết luận một cách chính xác nhất về di biến động của đối tượng. Tiến hành các biện pháp tố tụng đặc biệt được Cơ quan điều tra thực hiện và chỉ thực hiện khi có yêu cầu của cấp có thẩm quyền phê duyệt. Chỉ lực lượng chuyên trách mới được tiến hành các biện pháp tố tụng đặc biệt. Cán bộ thực hiện biện pháp đặc biệt chỉ biết về đối tượng mình tiến hành và không được cho người không liên quan biết về những việc mình đã và đang tiến hành bảo mật thông tin. Đảm bảo yếu tố an toàn, bí mật biện pháp và con người luôn được đặt lên hàng đầu. Thực hiện được yếu tố an toàn, bí mật sẽ giúp ban chuyên án bí mật được tài liệu đấu tranh, tiến tới đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm. Việc thực hiện biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt tạo cơ sở pháp lý thực thi những cam kết về luật hóa biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia trong đó có công ước về đấu tranh chống tội phạm tham nhũng, ma túy, 1964
  5. chống tội phạm có tổ chức; mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh tội phạm trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm tố tụng hình sự của các nước. 3 QUY TRÌNH ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐIỀU TRA TỐ TỤNG ĐẶC BIỆT Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, chương XIV, từ điều 223 đến 228 quy định về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Theo đó, các biện pháp gồm các hoạt động: ghi âm bí mật; ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Các hoạt động này chỉ được thực hiện trong phạm vi giới hạn là trong giai đoạn điều tra vụ án, tức chỉ được thực hiện sau khi có quyết định khởi tố vụ án và phải kết thúc trước khi có kết luận điều tra. Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt chỉ được áp dụng đối với các tội phạm: tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Về thẩm quyền áp dụng, Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu trở lên tự mình hoặc theo yêu cầu của Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra quân sự cấp khu vực thụ lý, điều tra thì Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp huyện, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự khu vực đề nghị Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Thủ trưởng Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định áp dụng. Trước, trong và sau khi áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền và người thi hành quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải giữ bí mật về việc áp dụng này. Về thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được thực hiện không quá 2 tháng kể từ ngày Viện trưởng Viện Kiểm sát phê chuẩn. Trường hợp phức tạp có thể gua hạn nhưng không quá thời hạn điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Như vậy, có nghĩa là thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể ngang bằng với thời hạn điều tra theo quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nếu xét thấy cần gia hạn thì thủ trưởng cơ quan điều tra đã ra quyết định áp dụng phải có văn bản đề nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát đã phê chuẩn, xem xét, quyết định việc gia hạn. Trong quá trình áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Viện trưởng Viện Kiểm sát đã phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt phải hủy bỏ quyết định đó khi thuộc một trong các trường hợp: có đề nghị bằng văn bản của Thủ trưởng Cơ quan điều tra có thẩm quyền; có vi phạm trong quá trình áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Không cần thiết tiếp tục áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Cần lưu ý, điều luật quy định rằng khi thuộc một trong ba trường hợp trên, Viện trưởng Viện Kiểm sát phải ra quyết định hủy bỏ, nghĩa là đây là nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện. Và một vấn đề cần phải làm rõ là trường hợp có vi phạm trong quá trình áp dụng còn khá mơ hồ, cần được quy định cụ thể hơn trong các văn bản phối hợp liên ngành dưới luật để phù hợp và uyển chuyển với tình hình thực tế. 1965
  6. 4 NHỮNG KHÓ KHĂN, BẤT CẬP Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là những biện pháp điều tra mới được đưa vào Bộ luật Tố tụng hình sự, mặc dù các biện pháp này đã được các đơn vị nghiệp vụ trinh sát ngành công an sử dụng trong đấu tranh phòng chống tội phạm nhiều năm nhưng vẫn không tránh khỏi việc gặp những khó khăn, bất cập trong việc áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặt biệt như sau: Thứ nhất, phương tiện đấu tranh phòng, chống ma túy còn hạn chế ảnh hưởng đến kết quả đấu tranh như: thiếu máy soi, chiếu tại cửa khẩu, sân bay máy móc giám định ma túy. Thứ hai, trình độ, năng lực của các điều tra viên, kiểm sát viên còn hạn chế nên rất ngại đề xuất việc áp dụng các biện pháp bí mật do trước khi trở thành điều tra viên, kiểm sát viên, họ chưa được trang bị những kiến thức cần thiết về các biện pháp này trong điều tra tội phạm Thứ ba, hiện nay nhà làm luật Việt Nam mới chỉ bước đầu thừa nhận những biện pháp cơ bản, thiết yếu bao gồm: ghi âm, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử. Ngoài ra, còn có các biện pháp phổ biến chưa được thừa nhận là: vận chuyển có kiểm soát; giám sát giao dịch tài chính, đưa người thâm nhập tổ chức và tiếp cận cá nhân phạm tội để thu thập chứng cứ, đặc biệt là hoạt động bí mật (undercover operations) và hoạt động nghiệp vụ (sting operations) – sử dụng các hoạt động bí mật Thứ tư, hệ thống các quy phạm pháp luật còn thiếu đồng bộ, thiếu chặt chẽ, các văn bản hướng dẫn dưới luật chưa đầy đủ, kịp thời. Một số văn bản hướng dẫn thực hiện BLHS còn nhiều bất cập, không phù hợp với thực tiễn diễn biến tình hình tội phạm. BLHS quy định nhiều tội danh trong cùng một điều luật với chế tài, khung hình phạt chung cho tất cả các hành vi phạm tội là chưa hợp lý, gây khó khăn cho việc định tội danh và quyết định hình phạt chính xác, công bằng vì tính chất, mức độ, nguy hiểm của mỗi hành vi không giống nhau. Thứ năm, những hạn chế liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặt biệt còn khá bó hẹp, chưa phù hợp với tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm. Thứ sáu, biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt đòi hỏi phải chặt chẽ và tiến hành cấp bách, tuy nhiên trong Bộ luật lại chưa quy định trong khoảng thời gian bao lâu thì quyết định áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt của thủ trưởng Cơ quan Điều tra cấp tỉnh, thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp quân khu trở lên được Viện trưởng Viện Kiểm sát cùng cấp phê chuẩn để thi hành. Thứ bảy, tính chất pháp lý của các tài liệu, thông tin được sử dụng làm chứng cứ chưa được xác định rõ. Thứ tám, hoạt động điều tra tố tụng ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự. 5 KIỂM SOÁT VIỆC ÁP DỤNG Với tính chất là những quy định mới, lần đầu tiên được quy định ở Việt Nam trong một văn bản tố tụng, thêm vào đó, đây là những biện pháp điều tra có tính chất nhạy cảm, khi thực hiện sẽ có thể có những tác động lớn tới các quyền cơ bản của con người, của công dân 1966
  7. nên việc giám sát chặt chẽ trong quá trình áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là nội dung quan trọng nhằm bảo đảm các quyền con người, quyền công dân không bị xâm phạm trong tố tụng hình sự. Vì vậy, hoạt động kiểm soát của Viện Kiểm sát ngay trong quá trình tiến hành tố tụng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Theo quy định tại Điều 60 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố ban hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/04/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) tối cao, trong hoạt động kiểm sát việc áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, Kiểm sát viên (KSV) cần thực hiện các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, kiểm sát chặt chẽ nguyên tắc, căn cứ, điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, việc sử dụng thông tin, tài liệu thu thập được bằng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thứ hai, trường hợp CQĐT đề nghị phê chuẩn áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì KSV yêu cầu CQĐT cung cấp đầy đủ hồ sơ, tài liệu gửi kèm văn bản đề nghị VKS phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Sau khi nghiên cứu, KSV báo cáo, đề xuất Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo VKS xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Thứ ba, trường hợp có căn cứ và xét thấy cần thiết mà CQĐT không ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt thì KSV báo cáo, đề xuất Lãnh đạo đơn vị, Lãnh đạo VKS ra văn bản yêu cầu CQĐT ra quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; nếu CQĐT không thực hiện thì Lãnh đạo VKS thực hiện quyền kiến nghị theo quy định của pháp luật. Trường hợp vụ án do CQĐT cấp huyện, CQĐT quân sự khu vực thụ lý, điều tra mà có căn cứ cần phải áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nhưng Thủ trưởng CQĐT không đề nghị Thủ trưởng CQĐT cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp dụng thì Viện trưởng VKSND cấp huyện, Viện trưởng VKS quân sự khu vực ra văn bản yêu cầu CQĐT đang thụ lý, điều tra đề nghị CQĐT cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định áp dụng; nếu cơ quan này không thực hiện thì báo cáo, đề xuất Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp yêu cầu CQĐT cấp tỉnh, CQĐT quân sự cấp quân khu xem xét, quyết định. Do đây là biện pháp cần đảm bảo tuyệt đối bí mật khi triển khai, do đó, trên thực tế, hoạt động kiểm sát chủ yếu được thực hiện thông qua kiểm tra hồ sơ, việc kiểm tra hồ sơ này có thể giúp cho KSV biết rõ được quá trình thực hiện thủ tục, biện pháp áp dụng, qua đó, thu thập các vi phạm từ việc nghiên cứu hồ sơ để có cơ sở chắc chắn chứng minh vi phạm là có thật. Đối với việc thu thập, bảo quản các chứng cứ thu được từ áp dụng các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, VKS phải kiểm sát hoạt động nghiệp vụ, đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc nghiệp vụ điều tra, việc bảo quản chứng cứ phải đảm bảo chất lượng theo quy định của pháp luật. Với các chứng cứ đặc thù tồn tại ở dạng âm thanh, hình ảnh, dữ liệu điện tử nên việc thu thập và bảo quản cũng phải tuân thủ theo các quy trình hết sức đặc biệt. Trước tiên, các phương tiện ghi âm, ghi hình bí mật, nghe điện thoại bí mật phải đảm bảo chất lượng và có độ ổn định cao. Đối với âm thanh thu được, phải đủ các điều kiện về âm lượng, giảm thiểu 1967
  8. tối đa độ nhiễu, ồn, phải có căn cứ để khi giám định xác định được vận tốc, cường độ, trường độ, nhịp cộng hưởng, âm sắc... Đối với hình ảnh, VKS phải kịp thời nhắc nhở CQĐT đảm bảo chất lượng hình ảnh, kích thước, độ rõ nét, góc quay... và đặc biệt, phải đảm bảo về thời lượng của đoạn ghi âm, ghi hình để thuận lợi trong việc so sánh với các mẫu so sánh khi tiến hành giám định. Đối với việc thu thập bí mật dữ liệu điện tử, cần đảm bảo kiểm sát để khẳng định dữ liệu là có thật, tồn tại khách quan, có nguồn gốc rõ ràng, không bị làm cho sai lệch, biến dạng, đã được tìm thấy và đang lưu trên máy tính, điện thoại di động, máy tính bảng, USB, ổ cứng di động, đĩa quang, email, website, điện toán đám mây, account (tài khoản), nickname (bí danh) của đối tượng, server (máy chủ) của nhà cung cấp dịch vụ internet... Kiểm sát chặt chẽ để máy tính, máy điện thoại, email, USB, đĩa CD/DVD, dữ liệu thu từ máy chủ, chặn thu trên đường truyền... phải được ghi vào biên bản, niêm phong theo đúng quy định, không bị tác động làm thay đổi dữ liệu kể từ khi thu giữ hợp pháp và không thể can thiệp để thay đổi. Quá trình phục hồi dữ liệu điện tử phải đảm bảo việc phục hồi, tìm kiếm chỉ được thực hiện trên bản sao; kết quả phục hồi, tìm kiếm phải chuyển sang dạng có thể đọc, nghe hoặc nhìn được. Dữ liệu điện tử khi được thu thập, phục hồi và phân tích phải có ý nghĩa trong việc xác định có hay không có hành vi phạm tội; thời gian, địa điểm xảy ra vụ việc; phương thức, thủ đoạn gây án; công cụ, phương tiện gây án; số lượng, trình độ của đối tượng tham gia gây án, là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng kế hoạch điều tra tội phạm, xác định chứng cứ... Vì vậy, phục hồi, tìm kiếm dữ liệu là hoạt động rất quan trọng cần phải được thực hiện và kiểm sát một cách chặt chẽ. 6 GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ Thứ nhất, Nâng cao trình độ chuyên môn của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Theo Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đánh giá: “Đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu; trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử”. Chính vì vậy, trong thời gian qua, các cơ quan tư pháp đã đặt biệt quan tâm công tác đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ tư pháp cả về chuyên môn, nghiệp vụ, cả về giáo dục bồi dưỡng phẩm chất và đạo đức nghề nghiệp để từ đó đề ra chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp theo phương hướng quan trọng mà chiến lược cải cách tư pháp đặt ra là: xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp, nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với một số chức danh. Trong công tác kiện toàn tổ chức cần chú trọng tới cả “chất” và “lượng”, đồng thời chú trọng tới việc ứng dụng khoa học - kỹ thuật phục vụ phát hiện, khám phá tội phạm, đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các loại tội phạm trong tình hình mới. Điều tra viên, Kiểm sát viên phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về điều tra; nâng cao chất lượng công tác điều tra, thu thập đầy đủ cả chứng cứ xác định có tội và 1968
  9. chứng cứ xác định vô tội. Theo đó trong thời gian tới, các cấp, các ngành có liên quan cần tăng đường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tư pháp nói chung, đội ngũ Điều tra viên; Kiểm sát viên nói riêng có có bản lĩnh chính trị vững vàng; trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, làm chủ được khoa học công nghệ, giỏi về ngoại ngữ tin học để có thể giải quyết được các vụ án hình sự có liên quan. Đối với tiến hành các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt Bộ Công an, Bộ Quốc phòng cần tăng cường mở các hội nghị tập huấn chuyên sâu Bộ luật TTHS năm 2015, trong đó có các chuyên đề chuyên sâu về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Đối tượng tập huấn chuyên sâu bao gồm lãnh đạo Cơ quan điều tra các cấp, điều tra viên, cán bộ điều tra, cán bộ thuộc các cơ quan chuyên trách thi hành quyết định áp dụng các bbiện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Quá trình tập huấn cần chú trọng vào các vấn đề như các loại biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, trường hợp áp dụng, thẩm quyền, trách nhiệm áp dụng, thời hạn áp dụng, sử dụng kết quả của các biện pháp này… Đồng thời cũng cần phân tích, làm rõ những nhận thức thống nhất nêu trên về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, nêu rõ những thuận lợi, khó khăn khi áp dụng để các cán bộ điều tra được tập huấn chủ động, sáng tạo trong tổ chức thực hiện. Thứ hai, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan Điều tra trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân với lực lượng chuyên trách của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng. Tội phạm và đấu tranh phòng, chống tội phạm là vấn đề quan tâm của tất cả các quốc gia, dân tộc, ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế, xã hội. Vì vậy, trên mặt trận này không chỉ nhấn mạnh đến vai trò riêng có của lực lượng nào, mà còn phải có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau. Triển khai thực hiện các quyết định áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt là do các lực lượng chuyên trách của Bộ Công an; Bộ Quốc phòng thực hiện. Các lực lượng chuyên trách này đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của người đứng đầu Bộ Công an; Bộ Quốc phòng và lãnh đạo công an cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Lực lượng chuyên trách thuộc Bộ Công an; Bộ Quốc phòng ở đâu được xác định là các lực lượng chuyên môn nghiệp vụ trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng. Trong nội bộ các ngành Công an, Quân đội nhân dân thì Cơ quan Điều tra và lực lượng chuyên trách chịu sự lãnh đạo trực tiếp của người đứng đầu, do đó mối quan hệ sẽ thuận lợi khi triển khai thực hiện áp dụng quyết định về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; Tuy nhiên, nếu không có mối quan hệ phối hợp, quy định, quy chế cụ thể để huy động lực lượng chuyên trách của nhau thì quá trình thực hiện sẽ kéo dài thời gian, và rất khó khăn trong việc sử dụng lực lượng của nhau. Do đó phải thiết lập được cơ chế, mối quan hệ công tác, khi Cơ quan điều tra thuộc Bộ Công an phối hợp với lực lượng chuyên trách của Bộ Quốc phòng; và Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân với lực lượng chuyên trách của Bộ Công an trong việc triển khai các quyết định về áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. 1969
  10. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ luật Tố tụng hình sự số: 101/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. [2] Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17/04/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố. [3] Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. [4] Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2018). Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. [5] https://kiemsat.vn/ban-ve-hoat-dong-kiem-sat-viec-ap-dung-cac-bien-phap-dieu-tra-to- tung-dac-biet-57130.html [6] https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/Cac-quy-dinh-phap-luat-ve-bien-phap-dieu-tra- to-tung-dac-biet-13139/ 1970
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2