Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
109(09): 33 - 39<br />
<br />
ÁP DỤNG MÔ HÌNH “NGHIÊN CỨU BÀI HỌC” TRONG CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG<br />
NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO GIÁO VIÊN TẬP SỰ Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG<br />
Nguyễn Mậu Đức1*, Đào Việt Hùng2, Vũ Thị Thu Lê2<br />
1<br />
<br />
2<br />
<br />
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên<br />
Trường Đại học Nông lâm - ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Những năm tháng mới vào nghề của giáo viên tập sự (GVTS) luôn có những ý nghĩa rất quan<br />
trọng trong quá trình phát triển năng lực nghề nghiệp của mỗi giáo viên (GV). Đây là giai đoạn<br />
giáo viên bắt đầu tiếp xúc với thực tiễn giáo dục phổ thông vốn rất phong phú, phức hợp và sinh<br />
động rất nhiều so với những gì gọi là lý thuyết, khuôn mẫu, chuẩn mực chung mà họ được đào tạo<br />
ở trường Cao đẳng, Đại học. Đây cũng là giai đoạn hình thành và phát triển mạnh mẽ về xúc cảm<br />
nghề nghiệp, động cơ phấn đấu, đặc biệt là hoạt động rèn luyện về nghiệp vụ chuyên môn để phát<br />
triển năng lực nghề nghiệp nhằm giúp họ tự khẳng định mình trước học sinh (HS), đồng nghiệp và<br />
các cấp lãnh đạo. Việc áp dụng mô hình Nghiên cứu bài học (NCBH) cho GVTS ở các trường phổ<br />
thông một cách thường xuyên như một biện pháp quan trọng để nâng cao nghiệp vụ sư phạm<br />
(NVSP), đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên.<br />
Từ khóa: Nghiệp vụ sư phạm, giáo viên tập sự, nghiên cứu bài học, giáo viên, bồi dưỡng.<br />
<br />
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG<br />
NVSP CHO GIÁO VIÊN TẬP SỰ Ở<br />
TRƯỜNG PHỔ THÔNG*<br />
Đối với GVTS, với tay nghề non nớt của<br />
những năm đầu chập chững bước vào nghề,<br />
họ gặp nhiều khó khăn và rất cần được sự<br />
giúp đỡ, hướng dẫn và hỗ trợ chuyên môn<br />
nghiệp vụ từ các tổ chức và cá nhân, nhất là<br />
cấp lãnh đạo trực tiếp và đồng nghiệp; Theo<br />
kết quả một số cuộc khảo sát, điều tra gần đây<br />
cho thấy: có 99,7% GVTS của 17 trường<br />
PTTH thuộc 8 tỉnh phía bắc (Hà Giang, Cao<br />
Bằng, Lạng Sơn, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Nam<br />
Định, Thái Bình, Thái Nguyên) và có 100%<br />
GVTS có trình độ Đại học hiện công tác tại<br />
một số trường phổ thông và PTTH thuộc 7<br />
tỉnh thành được khảo sát (Vĩnh Phúc, Hải<br />
Dương, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Định, Hòa<br />
Bình, Đà Nẵng) có nhu cầu được bồi dưỡng<br />
về chuyên môn nghiệp vụ trong thời gian tập<br />
sự.[3, tr 45]; [4, tr 81- 87].<br />
Đứng về góc độ quản lý, với tính chất quan<br />
trọng đặc biệt của những năm mới vào nghề,<br />
các cấp QLGD và GV có thâm niên công tác<br />
cần có trách nhiệm trong việc quan tâm, giáo<br />
dục và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên trẻ để góp<br />
*<br />
<br />
Tel: 0983834724; Email: mauducsptn@gmail.com<br />
<br />
phần nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.<br />
100% CBQL trường học và Tổ trưởng chuyên<br />
môn trong 2 cuộc khảo sát, điều tra nói trên<br />
cho rằng đây là việc làm cần thiết và có nhiều<br />
ý nghĩa.[3, tr45]; [4, tr 87]<br />
Hiện nay trên thế giới, ở một số nước như<br />
Đức, Pháp, Anh, bang California - Hoa Kỳ,<br />
Nhật Bản, Philippin, Trung Quốc... đã có<br />
chương trình đào tạo giáo viên tập sự. Mục<br />
đích các chương trình này nhằm tạo động lực<br />
về vật chất, tinh thần và cơ hội thăng tiến cho<br />
đội ngũ GV trẻ giúp họ phát triển năng lực<br />
nghề nghiệp từ đó có ý chí và tình cảm để gắn<br />
bó lâu dài với nghề dạy học ở cấp học này.<br />
Ở Việt Nam, GVTS ở trường phổ thông<br />
thường chỉ được tổ chuyên môn của trường<br />
hướng dẫn, chưa có nhiều sự quan tâm đúng<br />
mức và cũng chưa có chương trình đào tạo<br />
hay bồi dưỡng dành riêng cho đối tượng này<br />
để phát triển năng lực nghề nghiệp. Việc tổ<br />
chức hướng dẫn tập sự hiện nay đang thực<br />
hiện là: Hiệu trưởng có trách nhiệm chính<br />
nhưng thường là được giao về tổ chuyên môn.<br />
Tổ trưởng chuyên môn có kế hoạch giúp đỡ,<br />
hướng dẫn cho GVTS trong quá trình tập sự.<br />
Đến hết thời hạn tập sự, tổ chuyên môn nhận<br />
xét, đánh giá chủ yếu về hai mặt: trình độ<br />
chuyên môn nghiệp vụ và tư cách, đạo đức<br />
33<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
tác phong và đề nghị công nhận hết thời gian<br />
tập sự và tuyển vào biên chế chính thức.<br />
Tuy GVTS có được sự hướng dẫn, giúp đỡ<br />
của hiệu trưởng, tổ chuyên môn và đồng<br />
nghiệp nhưng chưa theo một cơ chế chặt chẽ<br />
và quy củ. Vì vậy hiệu quả của sự hướng dẫn,<br />
giúp đỡ, quản lý và giám sát còn hạn chế.<br />
Tình trạng này dẫn đến hiện tượng quá trình<br />
tập sự như “đến hẹn lại lên”, hiếm có GVTS<br />
nào chẳng hoàn thành nhiệm vụ tập sự. Điều<br />
này giải thích tại sao nhiều GV được công<br />
nhận hết tập sự và tuyển vào biên chế chính<br />
thức những vẫn còn lúng túng trong công tác<br />
dạy học và giáo dục HS.<br />
Bài viết này đề xuất một cách tiếp cận về phát<br />
triển năng lực nghề nghiệp cho GVTS ở<br />
trường phổ thông thông qua việc vận dụng<br />
mô hình nghiên cứu bài học.<br />
SƠ LƯỢC MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ LÝ<br />
LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH<br />
NGHIÊN CỨU BÀI HỌC<br />
“Nghiên cứu bài học” là một quá trình cải tiến<br />
hoạt động dạy và học nhằm nâng cao năng<br />
lực nghề nghiệp cho giáo viên, trong đó các<br />
giáo viên thường xuyên kiểm tra việc thực<br />
hành giảng dạy với mục đích cải tiến và làm<br />
cho việc giảng dạy ngày càng có hiệu quả. Một<br />
nhóm giáo viên cộng tác với nhau tiến hành<br />
nghiên cứu trên một số lượng nhỏ các bài học.<br />
Ban đầu nhóm sẽ thảo luận về các mục tiêu, rồi<br />
lập kế hoạch một bài học cụ thể, tiến hành<br />
giảng dạy và quan sát tại một lớp học thực tế,<br />
sau đó sửa đổi và báo cáo kết quả.<br />
Các bước của quá trình nghiên cứu bài học<br />
NCBH để đánh giá hoặc cung cấp cho giáo<br />
viên những thông tin phản hồi về thực tiễn<br />
dạy học. Giáo viên thực hiện NCBH thì thu<br />
thập được những nhận xét, kết quả cho việc<br />
sử dụng các phương pháp của mình đến sự tư<br />
duy của HS. Có nhiều cách phân chia các giai<br />
đoạn của quá trình NCBH.<br />
Stigler và Hiebert (1999) chia quá trình NCBH<br />
thành 7 bước cụ thể:<br />
+ Lập kế hoạch nghiên cứu bài học.<br />
+ Dạy học và quan sát các bài học nghiên cứu.<br />
<br />
109(09): 33 - 39<br />
<br />
+ Đánh giá, nhận xét các bài học đã được dạy.<br />
+ Chỉnh sửa các bài học dựa trên sự góp ý, bổ<br />
sung sau những gì thu thập được sau khi tiến<br />
hành bài học nghiên cứu lần 1.<br />
+ Tiến hành dạy các bài học đã được chỉnh sửa.<br />
+ Tiếp tục đánh giá, nhận xét kết quả lần 2.<br />
+ Đưa vào ứng dụng rộng rãi trong quá trình<br />
dạy học.<br />
Lewis (2002) chia quá trình nghiên cứu bài<br />
học thành 4 bước:<br />
+ Tập trung vào bài học nghiên cứu.<br />
+ Đặt kế hoạch cho bài học nghiên cứu.<br />
+ Dạy và thảo luận về bài học nghiên cứu.<br />
+ Suy ngẫm và tiếp tục dạy hay đặt kế hoạch<br />
tiếp theo.<br />
Đặc điểm cơ bản của nghiên cứu bài học<br />
- Mục tiêu của NCBH là nghiên cứu, đổi mới<br />
các phương pháp dạy cho phù hợp với từng<br />
đối tượng HS nhằm đem lại lợi ích cao nhất<br />
cho HS. Giúp phát triển năng lực chuyên môn<br />
và phẩm chất nghề nghiệp cho GV, thông qua<br />
những hiểu biết về việc học của HS mà cải<br />
tiến chất lượng dạy học.<br />
- NCBH được thực hiện với sự hợp tác của các<br />
nhóm GV trong trường hay những chuyên gia<br />
bên ngoài (có thể có sự hỗ trợ từ các chuyên<br />
gia giáo dục từ bên ngoài). Trong quá trình<br />
NCBH, nhóm nghiên cứu cùng nhau thiết kế<br />
kế hoạch bài học, tổ chức giờ dạy và trao đổi<br />
về những điều quan sát được trong giờ học,<br />
đưa ra nhận xét, cùng nhau rút kinh nghiệm và<br />
điều chỉnh kế hoạch bài học, nội dung và<br />
phương pháp dạy học... để bài học được tiến<br />
hành tốt hơn. Quá trình các GV cùng lên kế<br />
hoạch là một hình thức bồi dưỡng, góp phần<br />
năng cao năng lực nghề nghiệp bản thân.<br />
- NCBH tổ chức nghiên cứu cải tiến thực tiễn<br />
dạy học (về phương pháp và kĩ thuật dạy học<br />
bài học cụ thể nào đó) một cách khoa học.<br />
Việc lựa chọn chủ đề nghiên cứu, xây dựng kế<br />
hoạch, thực hiện trước và sau bài học và tiếp<br />
tục chỉnh sửa đổi mới. Như vậy, mỗi bài học<br />
nghiên cứu để cải tiến được nhóm GV cần đặt<br />
kế hoạch, xem xét, phân tích, đánh giá và điều<br />
<br />
34<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
chỉnh qua mỗi lần dạy ở một lớp. Qua từng<br />
hoạt động làm việc cùng nhau mỗi GV đã học<br />
được cách để cải tiến thực tiễn của lớp mình<br />
và trở nên chuyên nghiệp, lành nghề hơn.<br />
Điều này rất quan trọng đối với một GV mới<br />
ra trường.<br />
Tóm lại, nghiên cứu bài học có một số đặc<br />
điểm sau:<br />
1) Sự hợp tác của các GV;<br />
2) Mục tiêu thực tiễn - cải tiến bài học cụ thể;<br />
3) Cơ sở lí luận để định hướng cho cải tiến<br />
dạy học, thực tiễn gắn với lí luận;<br />
4) Quá trình thu thập, xử lý dữ liệu (quan sát,<br />
phỏng vấn HS ...).<br />
5) Thảo luận trên tinh thần hợp tác, rút kinh<br />
nghiệm chung giữa các GV.<br />
Qua đó, NCBH sẽ tác động đến cả 3 thành<br />
phần: năng lực nghề nghiệp của GV, thực tiễn<br />
dạy học và học tập của HS.<br />
Trong thực tiễn giáo dục Việt Nam, mô hình<br />
NCBH được vận dụng từ năm 2000 nhưng<br />
còn ít và rải rác. Đến nay, đã có nhiều công<br />
trình nghiên cứu và chương trình ứng dụng<br />
NCBH trong công tác bồi dưỡng GV. Tuy<br />
nhiên việc vận dụng NCBH trong công tác<br />
bồi dưỡng NVSP dành riêng cho đối tượng<br />
GVTS thì chưa được đề cập đến.<br />
Hiện nay, GVTS ở trường phổ thông thường<br />
được phân công về tổ chuyên môn của một<br />
khối lớp và được tổ trưởng chuyên môn<br />
hướng dẫn thực hiện công tác tập sự. Do<br />
chưa được quan tâm đúng mức và chưa có<br />
những quy định rõ ràng về chương trình,<br />
nội dung và phương pháp bồi dưỡng NVSP<br />
cũng như những tài liệu hướng dẫn dành<br />
riêng cho GVTS nên trong thực tiễn công<br />
tác này chưa thực hiện tốt. Nhiều GV mặc<br />
dù đã được công nhận hết tập sự vẫn còn<br />
lúng túng trong thực hiện chức năng, nhiệm<br />
vụ của người GV, chưa đáp ứng được<br />
Chuẩn nghề nghiệp GVTH.<br />
Với những ưu điểm về phát triển năng lực<br />
nghề nghiệp cho GV thông qua vận dụng mô<br />
hình NCBH, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu<br />
ứng dụng mô hình này để phát huy những ưu<br />
<br />
109(09): 33 - 39<br />
<br />
điểm của nó trong những nhiệm vụ giáo dục<br />
phù hợp, nhất là công tác bồi dưỡng NVSP<br />
cho GVTS.<br />
Vận dụng mô hình NCBH trong công tác bồi<br />
dưỡng NVSP cho GVTS ở trường phổ thông<br />
“Các nhóm nghiên cứu một bài học với ý định<br />
đem lại cho HS mục tiêu vào cuộc sống”<br />
(Lewis, 2000). GVTS cần phải dự đoán xem<br />
ở phần này HS sẽ có những suy nghĩ gì, phản<br />
ứng ra sao khi GVTS đặt những câu hỏi, HS<br />
có thể đáp ứng được mục tiêu của bài học hay<br />
không. Do vậy GVTS cần đặt mình vào vị trí<br />
của HS để có thể thấy được những khó khăn,<br />
vướng mắc mà HS mắc phải trong tiết học, từ<br />
đó có thể tìm ra phương pháp để việc dạy học<br />
hiệu quả. Nhóm GV hoặc tổ chuyên môn<br />
được phân công hướng dẫn GVTS tổ chức<br />
tiến hành NCBH dưới hình thức hoạt động<br />
nhóm theo quy trình sau:<br />
Bước 1: - Xác định mục tiêu kiến thức và kỹ<br />
năng bài học cần nghiên cứu. (Cần dựa vào<br />
tài liệu về Chuẩn kiến thức và kỹ năng các<br />
môn học ở phổ thông để xác định).<br />
- Dự kiến những khó khăn của HS lớp mình<br />
phụ trách khi được yêu cầu nhận thức các nội<br />
dung kiến thức và kỹ năng đó.<br />
Bước 2: Phân tích bài học để thiết kế kế<br />
hoạch dạy học:<br />
Các câu hỏi thảo luận trong nội dung này là:<br />
- Đặt câu hỏi xem đây là loại bài học gì?<br />
(Hình thành kiến thức mới hay ôn tập, luyện<br />
tập, thực hành,...).<br />
- Cách giới thiệu bài học này như thế nào?<br />
(Vào bài học trực tiếp hay gián tiếp? làm thế<br />
nào để vào bài học tự nhiên nhất).<br />
- Có sử dụng tình huống có vấn đề để giới<br />
thiệu bài học này không? (Tình huống như thế<br />
nào? Dự kiến cách giải quyết vấn đề ra<br />
sao?...).<br />
- Việc sử dụng các công cụ và các phương<br />
tiện dạy học thế nào cho đạt hiệu quả.<br />
- Nội dung bài học chia ra những đơn vị kiến<br />
thức nào?<br />
- Dự kiến tổ chức những hoạt động dạy học<br />
nào tương ứng? GV sẽ sử dụng những PPDH<br />
35<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
nào từ đó câu hỏi đặt ra để thúc đẩy khả năng<br />
tư duy sáng tạo của học sinh sẽ ra sao (phát<br />
triển dựa trên những kiến thức mà HS đã biết<br />
có thể suy luận được, những kiến thức nào HS<br />
chưa biết)?<br />
→ từ đó dẫn tới câu hỏi về:<br />
- Hình thức tổ chức lớp học nào là phù hợp?<br />
Cần chú ý những kỹ thuật dạy học nào được<br />
vận dụng ở đây?<br />
- Lời nói, hành động, thao tác cụ thể của GV<br />
là gì?<br />
- GV trình bày bảng những nội dung nào?<br />
- Dự kiến tích hợp nội dung giáo dục liên quan<br />
lúc nào là phù hợp. Điều đó tác động đến việc<br />
học của HS ra sao? HS học như thế nào? Dự<br />
kiến cách suy nghĩ, lời nói, hành động, thao tác<br />
của HS khi học? Sản phẩm học tập của HS<br />
trong bài học này là gì?... Dự kiến những thuận<br />
lợi, khó khăn của HS khi tham gia các hoạt<br />
động học tập? Dự kiến các tình huống xảy ra<br />
và các xử lý nếu có… Kết thúc bài học như thế<br />
nào? Đánh giá kết quả học tập của HS qua tiết<br />
học bằng cách nào? (có chuẩn bị phiếu kiểm<br />
tra không? hay đánh giá trên sản phẩm học tập<br />
hay hỏi đáp một vài HS đại diện).<br />
Ngoài ra, GV còn thảo luận về một số vấn đề<br />
khác như: làm thế nào để khắc phục được sự<br />
chênh lệch về trình độ của các HS trong lớp<br />
để đảm bảo tất cả các HS sau mỗi bài học đều<br />
đạt được tầm hiểu biết ở mức độ tương đương<br />
nhau; làm thế nào để thúc đẩy quá trình hình<br />
thành các kĩ năng khác nhau ở HS; làm thế<br />
nào để duy trì và nuôi dưỡng các kĩ năng đã<br />
có của HS và mối liên hệ của nội dung đó với<br />
các nội dung khác của môn học hay với các<br />
môn học khác. Sau khi kết thúc cuộc họp này,<br />
một hoặc hai GV trong nhóm sẽ nhận nhiệm<br />
vụ phát triển đề cương đầu tiên của giáo án<br />
bài học nghiên cứu. Các thành viên khác có<br />
nhiệm vụ nêu kế hoạch chi tiết cho việc quan<br />
sát và thảo luận sau khi tiến hành bài học<br />
nghiên cứu.<br />
Lưu ý: Trong quá trình thảo luận cần đưa ra<br />
nhiều cách dạy học khác nhau để thảo luận<br />
và lựa chọn. GVTS đọc thêm tài liệu<br />
[2],[5],[6], để có thêm kiến thức và kỹ năng<br />
tham gia NCBH.<br />
<br />
109(09): 33 - 39<br />
<br />
Bước 3: Tổ chức dạy học bài học đã nghiên<br />
cứu và thảo luận cách thực hiện.<br />
- GVTS sẽ được phân công giảng dạy theo<br />
“kịch bản” dạy học đã được nghiên cứu và<br />
thống nhất trong nhóm. Các GV trong tổ<br />
chuyên môn tham gia dự giờ để đánh giá giờ<br />
dạy của GVTS đồng thời quan sát, thu thập<br />
thông tin phản hồi về hoạt động học và kết quả<br />
học tập của HS. (Sự duy trì hứng thú trong học<br />
tập của HS như thế nào? Nhận thức nội dung<br />
bài học của HS thể hiện ở mức độ nào? (biết,<br />
hiểu, vận dụng, đánh giá, sáng tạo); sản phẩm<br />
học tập của HS về bài học là gì?...<br />
Sau khi kết thúc tiết học, những người tham<br />
gia sẽ cùng thảo luận về bài học đã được<br />
thực hiện.<br />
Trước tiên, người vừa dạy nói về những khó<br />
khăn trong bài, sau đó những người dự giờ sẽ<br />
trao đổi về những gì mà họ quan sát: đó là nội<br />
dung bài học và hoạt động học tập của HS. Vì<br />
vậy trọng tâm của cuộc thảo luận là bài học<br />
và HS, chứ không phải là GV. Các câu hỏi có<br />
xu hướng tập trung vào các vấn đề nảy sinh<br />
trong suốt bài học như HS trả lời có rõ ràng<br />
không? Nội dung nào HS dễ nhầm lẫn? Nội<br />
dung GV đưa ra đã phù hợp với trình độ HS<br />
chưa? Các câu hỏi đưa ra đã kích thích được<br />
khả năng tư duy của HS hay chưa?...<br />
Cả nhóm sẽ tiến hành thảo luận về các nội<br />
dung:<br />
- Bài học: Qua thực tế giảng dạy, bài học đã<br />
giúp HS đạt được mục tiêu học tập chưa,<br />
tác động của bài học đến HS, các phương<br />
pháp và phương tiện dạy học đã sử dụng<br />
hợp lí chưa...<br />
- Quá trình nhận thức của HS: Thông qua<br />
phản ứng, thái độ, cách giải quyết vấn đề của<br />
HS những người quan sát đưa ra ý kiến, bằng<br />
chứng về những gì mà họ “nhìn thấy” được<br />
về cách học, cách suy nghĩ, cách giải quyết<br />
vấn đề của HS.<br />
Mỗi thành viên trong nhóm cần thẳng thắn<br />
nhìn nhận ưu và nhược điểm để chia sẻ, bổ<br />
sung, góp ý cho nhau để hoàn thiện bài học<br />
tốt hơn. Trọng tâm cuộc thảo luận là bài học<br />
và HS chứ không phải để đánh giá, phê phán<br />
phẩm chất, năng lực của GV.<br />
<br />
36<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Mậu Đức và Đtg<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Bước 4: Sửa đổi bài học, dạy lại và chia sẻ<br />
kết quả<br />
Mỗi GV trong nhóm suy ngẫm về bài học<br />
được thực hiện và kết quả thảo luận để vận<br />
dụng phù hợp vào giờ dạy cho đối tượng HS<br />
lớp mình phụ trách. Nếu sau khi vận dụng, có<br />
những phát sinh mới, tiếp tục trao đổi ở các<br />
cuộc họp chuyên môn lần sau. Tại lần họp<br />
sau, các GV có thể cùng nhau chỉnh sửa lại kế<br />
hoạch. Các kinh nghiệm của từng thành viên<br />
được chia sẻ để cải thiện bài học nghiên cứu<br />
tốt hơn. Sau đó, nhóm sẽ hoàn tất các kế<br />
hoạch cho bài học nghiên cứu sẽ thực hiện,<br />
bao gồm các hoạt động dạy và học, cách sử<br />
dụng các phương tiện dạy học cũng như cách<br />
trình bày bảng, các phương tiện truyền thống<br />
giúp ích cho việc hệ thống hóa các kiến thức<br />
cho HS, các câu hỏi dùng kiểm tra, đánh giá.<br />
Trong tiết học thì các GV quan sát tới HS là<br />
trọng tâm chứ không phải GV và hướng đến<br />
tất cả các HS trong lớp kể cả các HS cá biệt.<br />
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA VIỆC ÁP DỤNG<br />
MÔ HÌNH NCBH TRONG CÔNG TÁC BỒI<br />
DƯỠNG NVSP CHO GVTS Ở TRƯỜNG<br />
PHỔ THÔNG<br />
Trước hết GVTS thường khá rụt rè, ngoài ra<br />
số lượng thường hạn chế trong một trường,<br />
vẫn còn tự ti do môi trường làm việc mới, do<br />
vậy khi áp dụng NCBH trong việc bồi dưỡng<br />
nghiệp vụ cho GVTS sẽ tạo điều kiện giúp<br />
cho họ được làm việc trong môi trường hợp<br />
tác với các GV đã có kinh nghiệm đứng lớp<br />
hoặc các GV ở từng cụm trường có thể phối<br />
hợp thành nhóm để cùng tiến hành NCBH.<br />
Điều này giúp tất cả các GV trong nhóm nói<br />
chung và GVTS nói riêng không chỉ thực hiện<br />
được nhiệm vụ NCBH mà còn mở rộng, thiết<br />
lập các mối quan hệ, học tập được nhiều kinh<br />
nghiệm từ đồng nghiệp từ đó rèn luyện các<br />
“kỹ năng mềm” và phát triển năng lực xã hội<br />
cho bản thân. Hợp tác thu hẹp khoảng cách<br />
giữa thành viên trong nhóm, họ có thể trao<br />
đổi 1 cách tự do, góp phần tạo ra bầu không<br />
khí hợp tác, lắng nghe lẫn nhau, đoàn kết<br />
trong nhà trường. Sau khi tiến hành NCBH<br />
các GV sẽ viết báo cáo chia sẻ những kinh<br />
nghiệm họ thu được qua quá trình NCBH, đề<br />
<br />
109(09): 33 - 39<br />
<br />
xuất một kế hoạch chi tiết khác để các nhóm<br />
GV khác có thể tham khảo, dựa vào đó để áp<br />
dụng vào thực tế lớp học của mình hoặc thành<br />
lập nhóm nghiên cứu mới dựa trên kinh<br />
nghiệm của người đi trước. Điều này rất có ý<br />
nghĩa đối với các GVTS khi chưa có nhiều<br />
kinh nghiệm trong việc dạy học .<br />
Về kiến thức chuyên môn, GVTS có nhưng<br />
yếu về năng lực thực hành nghề nghiệp do<br />
mới đứng trên bục giảng. Mô hình NCBH sẽ<br />
đặt GV vào trong những tình huống thực tiễn<br />
với những bài học cụ thể. Bằng cách này,<br />
buộc GV phải tư duy tích cực, khơi dậy khả<br />
năng tìm tòi và sáng tạo, biết đánh giá và tự<br />
đánh giá, đưa ra ý kiến bản thân dựa vào<br />
những lập luận có cơ sở; tất cả các ý tưởng đó<br />
cần phải được tôn trọng, biết tự đánh giá năng<br />
lực bản thân, thừa nhận mặt tích cực cũng như<br />
mặt tiêu cực. GV sẽ phải tìm hiểu xem HS sẽ<br />
nghĩ gì, làm những gì, HS tư duy ra sao để có<br />
phương pháp dạy học phù hợp. Do vậy, “bài<br />
học thuộc về một nhóm chứ không phải của<br />
riêng người dạy”. Có thể xảy ra tình huống,<br />
trong một bài học nghiên cứu, có thể có nhiều<br />
cách dạy khác nhau để tìm hiểu về bài học đó,<br />
do vậy khi cùng nhau nghiên cứu, các GV sẽ<br />
đánh giá, suy luận để lựa chọn ra những<br />
phương pháp để giảng dạy hiệu quả. Qua đó,<br />
có thể thấy quá trình này giúp GVTS có thể<br />
phát triển năng lực nghề nghiệp cho chính bản<br />
thân mình. Đối với các lớp học mà chỉ có 1<br />
GV giảng dạy, GV có thể không phát hiện ra<br />
được khuyết điểm của mình, họ thường sẽ tự<br />
hài lòng với phương pháp giảng dạy của<br />
mình, dẫn đến việc dạy bài học đó sẽ diễn ra<br />
theo một cách trong nhiều năm, lúc đó họ sẽ<br />
thấy nhàm chán, đơn điệu nhưng thông qua<br />
quá trình NCBH thì họ sẽ được quan sát<br />
người đó dạy, cùng một nội dung đó nhưng<br />
lại được sử dụng một phương pháp khác, cách<br />
dạy khác do vậy vốn kinh nghiệm sẽ trở nên<br />
phong phú hơn. Khi cả tập thể cùng đóng góp,<br />
từng cá nhân đề xuất ý tưởng, cách triển khai<br />
của mình, họ sẽ dần nhìn ra điểm yếu trong<br />
phương pháp, kĩ năng của mình, thông qua đó<br />
năng lực chuyên môn của họ được nâng cao<br />
và họ sẽ khám phá ra nhiểu điều mới mẻ<br />
trong công việc.<br />
37<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />