intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài 1: Để tin kinh tế không khó hiểu

Chia sẻ: Nguyễn Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

105
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khi viết bài về bất cứ một ngành nào, nhà báo cũng gặp phải những trở ngại về kiến thức chuyên môn hay thuật ngữ. Nhưng độc giả có lẽ còn khó khăn gấp bội khi gặp phải trong bài viết những cụm từ mà họ lần đầu biết tới. Có cách nào để giải quyết những khó khăn đó hay không?

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài 1: Để tin kinh tế không khó hiểu

  1. Bài 1: Để tin kinh tế không khó hiểu Khi viết bài về bất cứ một ngành nào, nhà báo cũng gặp phải những trở ngại về kiến thức chuyên môn hay thuật ngữ. Nhưng độc giả có lẽ còn khó khăn gấp bội khi gặp phải trong bài viết những cụm từ mà họ lần đầu biết tới. Có cách nào để giải quyết những khó khăn đó hay không? Cẩn trọng với các thuật ngữ kinh tế Có một thực tế là nhiều phóng viên thường hay sử dụng những biệt ngữ phức tạp của các nhà kinh tế, nhân viên ngân hàng và quan chức chính quyền, thay cho ngôn ngữ đơn giản mà mọi người dùng trong giao tiếp hàng ngày. Các nhà kinh tế sử dụng biệt ngữ bởi họ hiểu ý nhau. Nhưng đối với một độc giả bình thường, biệt ngữ vừa khó hiểu lại vừa nhàm chán. Những ngôn ngữ như vậy rất hay xuất hiện trên báo vì nhắc lại lời của các quan chức, các nhà kinh tế hoặc thông cáo báo chí dễ hơn là chuyển sang ngôn ngữ thông thường. Một lý do khác là đôi khi các phóng viên thích khoe với độc giả và cứ nghĩ rằng biệt ngữ là một dấu hiệu chứng tỏ họ học rộng, biết nhiều và thông minh. Song, nhiều khi bản thân các nhà báo cũng chẳng hiểu rõ những biệt ngữ đó và thấy rằng cách an toàn nhất là cứ “bệ” nguyên xi chứ không nên có bất kỳ thay đổi
  2. nào. Mặc dù rất khó dịch biệt ngữ kinh tế sang ngôn ngữ thông thường nhưng các phóng viên nên cố gắng tối đa để làm điều đó. Mục tiêu là dùng ngôn ngữ đơn giản cho tài liệu phức tạp. Lý tưởng nhất là sử dụng những từ bình thường thay cho những từ “đao to búa lớn”, ít chữ bao giờ cũng hay hơn nhiều lời. Đơn giản hóa quá mức và bóp méo là điều hết sức nguy hiểm khi dịch biệt ngữ kinh tế sang ngôn ngữ thông thường. Nhưng nói chung vẫn có thể làm được bằng cách dừng lại và suy nghĩ một chút xem biệt ngữ đó thực sự mang nghĩa gì. Nếu có thể, hay đề nghị diễn giả tóm tắt những điều họ vừa nói bằng ngôn ngữ thông dụng hàng ngày, tức là buộc chính diễn giả dịch thay mình. Giới quan chức hay sử dụng biệt ngữ vì nói điều gì đó một cách đơn giản thì bị coi là quá thẳng, không ý tứ. Ngoài ra, nên tránh lạm dụng chữ viết tắt khó hiểu khi đề cập đến các tổ chức hay các chương trình. Khi không thể bỏ các biệt ngữ kinh tế thì tốt nhất là hãy định nghĩa và giải thích nó. Một số thuật ngữ kinh tế mang ý nghĩa chuyên ngành đặc biệt tới mức né tránh chỉ càng gây khó hiểu chứ không làm cho nó sáng sủa hơn. Nhưng định nghĩa súc tích và khách quan không phải là chuyện đơn giản. Đó là lý do tại sao các phóng viên hoặc tờ báo của họ nên lập trước một danh mục các định nghĩa - mà người Mỹ gọi là danh mục “ngôn ngữ công thức” - sau đó có thể dễ dàng sử dụng trong bài báo khi đề cập đến thuật ngữ. Lập một danh sách như vậy không thể ngày một ngày hai mà phải được bổ sung dần dần. Xử lý các con số Trong các tin kinh tế thường có rất nhiều con số. Các con số quan trọng mang lại sức mạnh và sự chính xác cho một bài báo, nhưng phóng viên nên bỏ những con số không thật sự có ý nghĩa đối với bài báo. Nguyên liệu cho bài báo kinh tế thường là những con số thống kê nhưng hầu hết độc giả thấy những con số này
  3. “khô không khốc” và khó hấp thu nổi. Một bài báo với đầy những con số sẽ hết sức buồn tẻ và khó hiểu. Đoạn dưới đây thuộc bài Hàng tiêu dùng đội giá theo thuế trên báo VnExpress là một ví dụ về việc sử dụng nhiều con số gây rắc rối: “Đây được coi là đợt tăng giá kép, nghĩa là giá được tăng tới 2 lần do thuế VAT, đối với linh kiện phụ tùng xe quay về ngưỡng cũ 10% so với mức 5% từ 1/1/2010. Bên cạnh đó, phí trước bạ cũng điều chỉnh lên gấp đôi, tức 10% -12%, thay vì mức 5% - 6% như trước 31/12/2009. Trong đó, Toyota tăng bình quân 20 - 61 triệu đồng một xe. Hãng Ford cũng niêm yết giá bán mới cao hơn trước 4,7% - 6,1%...” Nhồi nhét quá nhiều con số ngay phần đầu của bài báo thì chẳng khác nào làm nhụt chí hầu hết độc giả, khiến họ chẳng còn hứng thú đọc tiếp. Nhưng tại sao nhiều phóng viên thường chất đầy bài báo của họ bằng những con số thống kê? Một lý do là họ muốn chứng tỏ với độc giả rằng họ đã phải vất vả thế nào để thu thập được những số liệu đó. Và họ muốn đưa tất cả các con số vào bài viết. Cần sử dụng các số liệu một cách có lựa chọn, nếu không chúng sẽ l àm cho độc giả “ong đầu”. Độc giả bình thường không cần tất cả các con số đó, còn các chuyên gia thì lại biết cả rồi. Có một bài báo nói về việc sản lượng nông nghiệp của một quốc gia bị giảm ra sao trong khi chính phủ cố gắng giảm l ượng lương thực nhập khẩu. Đoạn giữa bài báo như sau: “Sản lượng ngô là 694.000 tấn trong năm 1983, 1,05 triệu tấn vào năm 1984, 1,01 triệu tấn vào năm 1985 và 1,3 triệu tấn vào năm 1986. Trong năm 1987, con số này giảm xuống còn 1,2 triệu tấn, tức giảm 10% so với sản lượng của năm trước. Đối với kê cũng vậy. Sản lượng năm 1983 là 2,7 triệu tấn, năm 1984 là 3,3 triệu tấn, năm 1985 là 3,6 triệu tấn, năm 1986 là 4,1 triệu tấn và năm 1987 là 3,9 triệu tấn, giảm 5%...” Và cứ thế với 3 loại nữa là lúa miến, củ mài và lúa. Tuy danh mục với đầy đủ các con số thống kê này hỗ trợ cho quan điểm của phóng viên, nhưng nó làm cho bài
  4. báo bị sa lầy. Vì một bài báo không phải là một chuyên luận học thuật, hầu hết các độc giả chỉ cần một ví dụ để minh họa ý kiến của người viết,chẳng hạn, “sản lượng ngô đã giảm 10% xuống còn 1,2 triệu tấn trong năm 1987”. Nếu phóng viên và biên tập viên cho rằng độc giả cần biết tất cả các số liệu thì có thể dùng bảng biểu, đồ thị để trình bày, như thế sẽ dễ hiểu hơn nhiều. Sử dụng các con số đôi khi có thể làm tròn hoặc đưa ra con số xấp xỉ. Rõ ràng, sự chính xác là cần thiết trong nhiều lĩnh vực tin kinh tế; chẳng hạn với giá cổ phiếu và giá tiêu dùng, những biến động rất nhỏ cũng có ý nghĩa quan trọng. Nhưng trong nhiều trường hợp, phóng viên có thể nói “khoảng một nửa” hơn là “49%,” hoặc “gần gấp ba lần” thay cho “tăng 295%”, “gần 90%” hơn là “87,8%”… Các nhà kinh tế cần biết con số chính xác, còn độc giả nói chung không cần. Nhưng cũng không vì thế mà phóng viên cho phép mình cẩu thả với các con số. Cần luôn luôn kiểm tra thật kỹ các con số. Điều này đặc biệt quan trọng trong đưa tin kinh tế, bởi một con số đăng sai có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường tài chính. Sự chính xác là mục tiêu của tất cả các phóng viên kinh tế. Khi sử dụng một con số trong bài viết, hãy đặt nó vào ngữ cảnh và so sánh với một điều gì đó. Một con số đứng độc lập không có ý nghĩa nhiều lắm; ý nghĩa thực sự của nó chỉ đến từ giá trị so sánh. Đây là một thói quen tốt đối với tất cả phóng viên. Hầu hết các con số thống kê đều có thể được so sánh với các con số thống kê tương đương trong một khoảng thời gian khác, ví như năm trước hay quý tiếp theo, cũng có thể so sánh với các con số thống kê tương đương từ một nơi khác, như của nước láng giềng hoặc một công ty cạnh tranh. Nếu con số chỉ là một phần trong một tổng thể -là lợi nhuận của một bộ phận trong một công ty - thì giá trị so sánh của nó có thể là tỷ lệ phần trăm của cả tổng thể. Ví dụ: “Chính phủ đ ã chi 905,8 triệu USD, chỉ thiếu 94,2 triệu USD là đạt 1 tỷ USD, để trả quy mô lương công cộng phình thêm hồi tháng 4”. Tất cả độc giả có thể đều nghĩ rằng 905,8 triệu USD là số tiền rất lớn. Nhưng giá trị thực sự của nó là như thế nào?
  5. Lẽ ra nhà báo nên đặt câu hỏi: Khoản 905,8 triệu USD này so với mức chính phủ trả lương công chức năm ngoái như thế nào? So với tổng số tiền mà các chính quyền địa phương trả cho công chức ra sao? Và có lẽ quan trọng là khoản 905,8 triệu USD đó chiếm bao nhiêu phần trăm tổng ngân sách quốc gia? Bằng việc trả lời những câu hỏi này -và các câu hỏi khác - khoản tiền đó mới có ý nghĩa nào đó. Rõ ràng chúng ta không có nhiều diện tích mặt báo cho một bài viết đưa ra nhiều so sánh và không phải lúc nào cũng có những dữ liệu so sánh. Nhưng khi thu nhận được - bằng cách thức đơn giản là hỏi ngay nguồn tin - thì những thông tin bổ sung đó mang lại nhiều ý nghĩa. Nhiều khi so sánh các con số vẫn chưa đủ. Phóng viên cần làm nhiều hơn việc đưa ra các con số, giải thích về tầm quan trọng của nó và nói rõ nó có ý nghĩa gì. Không phải lúc nào điều này cũng rõ ràng. Phóng viên cần nhìn lại tất cả các con số và tự hỏi: Thực sự là các con số này nói lên điều gì? Bằng cách đặt câu hỏi - và trả lời - phóng viên đã đi xa hơn việc chỉ đơn thuần thông tin về các con số và biến chúng thành một câu chuyện có ý nghĩa. Và ý nghĩa đó, chứ không phải các con số, là điều cần nêu lên cho độc giả ở các đoạn văn. (Tổng hợp từ Nhà báo Kinh tế và EJC.NET) Lê Vũ Minh Lớp Báo mạng điện tử K26 Học viện Báo chí và Tuyên truyền
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2