intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tập lớn Văn học: Theo anh (chị), vì sao hầu hết các câu đố thú vị đều sử dụng phép “lạ hóa”? Hãy phân tích một số câu đố để làm rõ vai trò của phép “lạ hóa” mà chúng sử dụng.

Chia sẻ: Đăng Trần | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:8

56
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tập lớn Văn học "Theo anh (chị), vì sao hầu hết các câu đố thú vị đều sử dụng phép “lạ hóa”? Hãy phân tích một số câu đố để làm rõ vai trò của phép “lạ hóa” mà chúng sử dụng" có nội dung trình bày về khái niệm của phép “lạ hóa”; câu đố và đặc trưng của câu đố; câu đố thú vị thường sử dụng phép “lạ hóa”;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tập lớn Văn học: Theo anh (chị), vì sao hầu hết các câu đố thú vị đều sử dụng phép “lạ hóa”? Hãy phân tích một số câu đố để làm rõ vai trò của phép “lạ hóa” mà chúng sử dụng.

  1. BÀI TẬP LỚN VĂN HỌC  Theo anh (chị), vì sao hầu hết các câu đố  thú vị  đều sử  dụng phép “lạ  hoá” ?  Hãy phân tích một số  câu đố  để  làm rõ vai trò của phép “lạ  hoá” mà chúng sử  dụng.   1.“Lạ hoá” là gì ? “Lạ  hoá” là toàn bộ  những thủ  pháp trong nghệ  thuật (nghịch dị, nghịch lí …)   được dùng để  đạt đến một kết quả  nghệ  thuật. Theo đó, hiện tượng miêu tả  hiện ra không phải như ta đã quen biết, hiển nhiên như một cái gì mới mà chưa  quen, khác lạ. 2. Câu đố và đặc trưng của câu đố   *  Khái niệm câu đố:      Câu đố là một thể loại văn học dân gian có chức năng chủ  yếu là phản ánh  sự   vật,   hiện   tượng   bằng   phương   pháp   giấu   tên   và   nghệ   thuật   chuyển   hoá  (chuyển vật nọ thành vật kia), được người dân dùng trong sinh hoạt tập thể để  thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết của mọi người và mua vui, giải trí.     *  Câu đố có những đặc trưng sau:   ­ Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm ra đặc trưng và chức năng của từng đồ vật   cá biệt và phản ánh nó thông qua sự  so sánh, hình tượng hoá. Hình tượng đó là  một quá trình chuyển hoá giữa tư duy logic và tư duy hình tượng.  Ví dụ: Về việc “sàng gạo”. Người đố quan sát cái sàng thấy có “hàng trăm cái   lỗ”, sau đó là những “hạt gạo được sàng” tạo lên sự liên tưởng có tính ẩn dụ là:  “Vô số trẻ con, đua nhau chạy tròn, chen nhau chui xuống”. Chính sự quan sát sự  vật, hiện tượng khác nhau mà câu đố có những đặc điểm khác nhau.  ­ Có những câu đố nói về nguồn gốc sự vật. Ví dụ: Thân em xưa ở bụi tre, mùa đông xếp lại màu hè nở ra . (Cái quạt)
  2. ­ Phổ  biến hơn, câu đố  nói lên đặc điểm như  (hình dáng, kích thước, màu sắc,  mùi vị, hoạt động…) của sự vật. Ví dụ: (1)   Sừng sững mà đứng giữa nhà                   Hễ ai động đến thì òa khóc lên.                                            (Cái cối xay thóc) ­ Về bản chất, câu đố là một bài toán có lời giải đúng. ­ Các sự  vật, hiện tượng được miêu tả  trong câu đố  thường là những gì quen  thuộc, gần gũi trong cuộc sống hang ngày. Nhờ  câu đố, chúng được tái hiện   trong tư duy, nhận thức của con người. * Câu đố sử dụng nghệ thuật:  ­ Câu đố thường ngắn gọn nhưng bảo đảm sự cân đối, nhịp nhàng.   Ví dụ:    Mẹ gai góc, con trọc đầu.                                    (Quả bưởi)  ­ Câu đố thường dùng biện pháp ẩn dụ, nhân cách hoá những vật vô tri, vô giác.   Ví dụ:       Tự nhiên cắt cổ đem chôn              Bữa sau sống lại đẻ con từng bầy.                                               (Dây khoai lang)  ­ Một số câu đố miêu tả trực tiếp (vị trí, trạng thái đang hoạt động của sự vật).    Ví dụ:    Con gì cánh mỏng đuôi dài                Lúc bay, lúc đậu cánh thời đều dương                                          (Con chuồn chuồn) ­ Một số  câu đố  xây dựng trên cơ  sở  đặc điểm ngôn ngữ  dân tộc như: nói lái,  dùng từ đồng âm, từ trái nghĩa.
  3. Ví dụ:   Khi đi cưa ngọn, khi về cũng cưa ngọn. (Con ngựa)              Đục rồi lại cất rồi đục. (Cục đất) ­ Về  hình thức thể  hiện: Câu đố  sáng tạo ra một hình tượng thế  giới  ẩn dụ  bằng việc sử  dụng phép “lạ  hoá”. Với mục đích đánh lạc hướng tư  duy của   người giải đố. Câu đố  dẫn người ta đi thật xa đối tượng bằng những ẩn dụ  kì   ảo. Do đó, câu đố càng trừu tượng bao nhiêu thì càng hấp dẫn bấy nhiêu.  3. Câu đố thú vị thường sử dụng phép “lạ hoá” vì :   *  Trong câu đố thường sử các hình ảnh trong hai mối quan hệ: ­ Xét trong mối quan hệ với vật đố, tức là cách biểu thị vật đố ra sao, hình ảnh   ở  lời đố  thường được sử  dụng theo lối “lạ  hoá” (gọi là tính lạ  hoá của hình   ảnh). ­ Xét trong quan hệ với người sử dụng, một số hình ảnh được lặp đi lặp lại ở  nhiều lời đố khác nhau đã phần nào cho thấy sự nhìn nhận về các vấn đề khác  nhau, phản ánh quan niệm của hình ảnh khác nhau.   *  Miêu trả cách sử dụng hình ảnh trong câu đố như sau:  +  Ở mức độ chung, trên tổng thể văn bản lời đố, tính lạ hóa được thể hiện  theo hai hướng: miêu tả  một vật đố  bằng nhiều dạng vẻ  không giống nhau và  sự miêu tả khác thường một vật đó tạo nên một thứ kì dị. Ví dụ: (1)  Tám sào chống cạn                  Hai nạng chống xiên                  Con mắt láo liên;                  Cái đầu không có !”           (2)  Tám thằng dân vần cục đá tảng,                  Hai ông xã xách nạng chạy theo”
  4. ­> Hai câu đố  trên là hình  ảnh liên quan đến việc chèo chống và sự  nhộn nhịp  của đám người khiêng vật nặng, đều cùng đố về con cua và con ghẹ. Những thứ  khác biệt nhau được dùng để  đố  về  cùng một vật, khi tập hợp lại, cho ta thấy   chúng luôn mới lạ. ­ Tất nhiên, không phải bất kì sự  vật, hiện tượng nào khi trở thành vật đố  đều   có nhiều lời đố. Do vậy, “lạ hoá” cần được xem xét từ  cấu tạo của lời đố. Ở  đó, không khó tìm thấy sự miêu tả khác thường, chúng tạo nên hình ảnh kì dị so   với thế giới hiện thực.  Ví dụ:    Cái đầu một tấc,                Cái đuôi một thước;                Đi một bước, nhảy một cái.                                       (Cái cuốc) ­ Trong câu đố, hình ảnh ẩn dụ còn được tìm thấy bởi những sự kết hợp không  bình thường về  ngữ  pháp, thường gặp là sự  đánh lẫn đối tượng ở  vai chủ  thể  của một hành động.  Ví dụ:     Đi thì nằm, nằm thì đứng.                                        (Bàn chân) +  Ở mức cụ thể, chi tiết: Tính lạ hoá của hình ảnh thường thông qua các kiểu  dạng như sau: ­ Sử  dụng hình thức tung hoả  mù: Bao gồm những  âm thanh, hình  ảnh gây   nhiễu. Những âm thanh, hình ảnh này có thể được bố trí ở đầu hay cuối lời đố,   và có thể độc chiếm một, hai dòng.   Ví dụ:      Thiên bao lao, địa lao lao,                  Giếng không đào làm sao có nước,                  Cá không ở được, là tại làm sao ?                                                  (Quả dừa)
  5. ­ Kiểu phóng đại: Là cách làm cho sự vật được miêu tả không chỉ được phóng to   mà còn bị làm cho biến dạng, méo mó đi.   Ví dụ:   (1)  Giữa cầu, hai đầu giếng.                                            (Gánh nước)                (2)  Lên trời xuống đất,                      Chớp giật, sấm ran,                     Sét đánh có ngần                    So chi chẳng kém.                       (Pháo thăng thiên) ­ Kiểu tráo hình  ảnh, muốn nói bằng hình  ảnh cùng trường nghĩa (thường là  trường nghĩa rộng), cùng hình dạng (cùng có dáng vẻ, hình vóc giống nhau hoặc   là một hình ảnh so sánh.   Ví dụ:  (1) Nhà đen đóng đố đen sì                 Trên thì sấm động, dười thì đèn chong.                                        (Nồi cơm đang sôi)            (2)     Có cây mà chẳng có cành,                  Có hai ông cụ dập dềnh hai bên.                                             (Cây ngô) ­ Kiểu tên riêng được (tên người, tên đất) được dùng theo cách cùng âm, cùng   nghĩa.  Ví dụ:  Gia Cát đánh nhau với Đông Ngô,             Đông Ngô thua, Đông Ngô bỏ chạy,            Gia Cát dồn quân đánh lại trận sau.
  6.                                                (Rang ngô) ­ Kiểu dùng lời Hán Việt: Dùng lời Hán Việt thay dùng lời thuần Việt để miêu   tả vật đố, trong bối cảnh hầu hết người sử dụng câu đố  chỉ  biết bập bõm một   chút từ Hán Việt. Ví dụ:    Thân trường xích thốn,    ­>     Mình dài một tấc              Y phục thậm đa,               ­>     Quần áo quá nhiều;              Sinh vô ngôn ngữ,            ­>     Sống chẳng biết nói             Tử động sơn hà.                ­>     Chết la vang trời.                                                                            (Cái pháo)  * Tác dụng của câu đố:    ­ Tạo ra đặc trưng phản ánh sự  vật của câu đố, phục vụ  cho mục đích đố  ­  giải.    ­ Phép “lạ  hoá” khiến cho câu đố  đạt hai yêu cầu: Vừa miêu tả  sinh động,   chính xác đối tượng; vừa đánh lạc hướng người giải đố. Hệ quả của nó làm cho  câu đố trở nên đa nghĩa, hấp dẫn.  ­ Câu đố  là trò chơi trí tuệ  vừa có tác dụng phát huy trí tưởng tượng, vừa rèn  luyện tư duy logic, vừa giúp trẻ khả năng phát hiện ra thế giới xung quanh. 4. Phân tích một số câu đố để làm rõ vai trò của phép “lạ hoá” mà chúng sử  dụng Ví dụ 1     Một đàn cò trắng phau phau                    Ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm.                                           (Đố là cái gì ?)  Câu đố  trên đã sử  dụng hình ảnh ẩn dụ, so sánh trên mối quan hệ  tương quan   về hình ảnh: “bát cơm có màu trắng”. Dựa vào số  lượng “một gia đình ăn cơm   phải có nhiều bát”, dựa vào chức năng “bát để  dùng trong bữa ăn cơm”. Khi ăn 
  7. xong những chiếc bát được rửa sạch sẽ rồi úp gọn vào chạn hoặc giá đựng bát  để cho róc nước, khô bát. Từ đó, người sáng tạo câu đố quan sát hình ảnh sự vật  đố thông qua phép so sánh, liên tưởng giống như đàn cò trắng và ngược lại. Yếu  tố  “lạ  hoá”  ở  đây là “những chiếc bát ăn cơm được ví von trắng như  đàn cò”.  Hình ảnh nhân hoá “ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm” nhằm mục đích khơi dậy trí   tò mò, khả năng phát hiện trên cơ sở “tuy lạ” nhưng mà “rất quen” cho các em.  Đó là những chiếc bát được sử  dụng trong bữa ăn hàng ngày của mỗi gia đình.  Một trong những đồ vật rất gần gũi với cuộc sống sinh hoạt của người dân. Ví dụ (2)       Tên em chẳng thiếu, chẳng thừa                 Chín vàng ngon ngọt rất vừa lòng anh.                                          (Đố là quả gì ?)     Hình  ảnh vật đố  là một loại quả  hiện lên trước mắt mọi người với các đặc   điểm: về  tên gọi (chẳng thiếu, chẳng thừa), về màu sắc (khi chín có màu vàng  bắt mắt), về mức độ của quả (ngon ngọt). Cái “lạ hoá” của câu đố  này đòi hỏi   người giải đố phải suy nghĩ, liên tưởng vật đố, suy đoán vật được đố thông qua  tư duy logic. Người giải đố cần có sự suy diễn từ đặc điểm “tên gọi”, đến “màu  sắc” đến “độ  ngọt” của loại quả  đó. Dựa vào các đặc điểm của loại quả  trên,   học sinh có thể đoán được đó là “quả đu đủ”. Ví dụ (3):  Vừa bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng.                                       (Đố là con gì ?)    Câu đố trên có hai vế. Vế thứ nhất, tác giả sử dụng hình ảnh so sánh về kích   thước của con vật “vừa bằng hạt đỗ”. Một hình ảnh rất xa lạ  với các em. Vế  thứ  hai dùng hình  ảnh phóng đại “ăn giỗ  cả  làng”. Hai vế  đối có cấu trúc cân   xứng về  từ  ngữ, kết cấu ngữ  pháp. Từ  đó muốn suy diễn được vật đố  được   giấu đi bằng biện pháp ẩn dụ và giải đố được đó là con gì thì học sinh cần phải   tư duy logic trên trường liên tưởng rộng theo đặc điểm: về kích thước (rất nhỏ  bé), về đối tượng quen thuộc gần gũi với các em, có thói quen (con vật hay đậu   trên mâm cơm), nhất là mâm cơm có nhiều thịt, cá. Con vật này thường sinh   sống ở  nhiều nơi (trong các gia đình, các nơi khác…). Từ  những liên tưởng thú 
  8. vị  dựa trên các đặc điểm trên, học sinh có thể  giải được câu đố, đó là “con  ruồi”.          
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2