intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài thu hoạch Triết học: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyễn Phương Nam | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:22

1.428
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài thu hoạch Triết học phân tích nhận thức lý luận về chế độ Pháp quyền trong hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đất nước hiện nay và do vậy chưa tạo lập được cơ sở khoa học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách thực tiễn với đời sống Nhà nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài thu hoạch Triết học: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

  1. MỞ ĐẦU Nhà nước pháp quyền là một mô hình, phương thức tổ  chức nhà nước và  xã hội dựa trên nền tảng dân chủ và tinh thần thượng tôn pháp luật. Đảng ta đã  nhận thức được tính tất yếu khách quan, cấp thiết việc xây dựng Nhà nước  pháp quyền XHCN Việt Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm chỉ ra: “Trăm   điều phải có thần linh pháp quyền”1. Từ  Hội nghị   đại biểu toàn quốc giữa   nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1­1994), Đảng ta đã chính thức nêu vấn đề  xây dựng  Nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân. Trải qua các hội nghị và   các kỳ  Đại hội Đảng, nhất là từ  Đại hội VIII (năm 1996) đến nay, nhận thức  của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền XHCN và việc xây dựng Nhà nước pháp  quyền XHCN ngày càng được bổ sung và có những bước phát triển quan trọng.   Tại Đại hội XII, Đảng ta có những bổ  sung, phát triển lý luận về  xây dựng và  hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó vừa làm sâu sắc thêm những   quan điểm, tư  tưởng đã được thể  hiện nhất quán trong các văn kiện trước đó  của Đảng, vừa có những phát triển mới đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn. Khởi đầu từ cách mạng tháng Tám năm 1945. Cách mạng tháng Tám thành  công, bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà do   Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đọc trước toàn dân đồng bào ngày 2/9/1945 đã khẳng   định quyết tâm của toàn dân tộc Việt Nam không chỉ trong mục tiêu độc lập dân  tộc mà còn trong mục tiêu phấn đấu vì một chế độ pháp quyền độc lập dân chủ, …. Trung thành với mục tiêu dân chủ, dân quyền, dân sinh, ngay sau khi dành  được độc lập, dân tộc Việt Nam đã bắt tay vào xây dựng một bản Hiến pháp.   Ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ giữa muôn vàn khó khăn thách thức, Hồ  Chí Minh đã đề xuất một trong những nhiệm vụ cấp bách là “phải có một hiến   pháp dân chủ”….  Trước chúng ta đã bị chế độ  quân chủ  chuyên chế  cai trị, rồi  đến chế  độ  thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến   Yêu cầu ca, báo Nhân Dân, ngày 30/1/1977 1 1
  2. pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự  do dân chủ. Chúng ta phải có  một Hiến pháp dân chủ,…”. Dưới sự  lãnh đạo trực tiếp của Hồ  Chủ  Tịch, Hiến pháp năm 1946, bản   Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử  dân tộc Viện Nam và trong lịch sử  dân tộc  Đông Nam Á đã được xây dựng và thông qua. Với Hiến pháp năm 1946 chủ  nghĩa lập hiến và quyền con người từ các giá trị tư tưởng đã trở thành các giá trị  pháp luật hiện thực trong điều kiện lịch sử  cụ  thể  của Việt Nam. Những quy   định của Hiến pháp năm 1946 là những chuẩn mực hiến định đầu tiên cho việc   xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đã hơn bảy mươi năm trôi qua, 5 bản Hiến pháp đã lần lượt thông qua  tương ứng với các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta. Vượt lên tất cả  sự  thăng trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi một bản Hiến pháp, kể  cả  Hiên  pháp 1946, Hiên pháp 1959, Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm   2013 là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và củng cố nhà nước pháp  quyền XHCN của chúng ta. Tuy nhiên quá trình xây dựng và tăng cường Nhà nước trong mấy chục năm   qua cho thấy, hàng loạt vấn đề  lý luận về tổ chức và hoạt động của Nhà nước   vẫn chưa được tổng kết làm rõ. Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt  động của Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn chưa đưa  lại các kết quả mong muốn. Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà nước và cơ  chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò của Nhà nước  ta trong cơ  chế  kinh tế  mới. Nhận thức lý luận về  chế  độ  Pháp quyền trong  hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đất   nước hiện nay và do vậy chưa tạo lập được cơ sở khoa học vững chắc cho việc   tìm kiếm các giải pháp cải cách thực tiễn với đời sống Nhà nước. Chính vì thế  sự  nghiên cứu lý luận và thực tiễn về  nhà nước pháp quyền đang là một trong  những vấn đề cấp thiết hiện nay. 2
  3. I.   TÍNH   TẤT   YẾU   CỦA   VIỆC   XÂY   DỰNG   NHÀ   NƯỚC   PHÁP  QUYỀN XàHỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1. Sự hình thành tư tưởng về nhà nước pháp quyền Tư  tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử  tư  tưởng   chính trị  ­ pháp lý, gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc Châu   Âu vì tự do, dân chủ. Tư  tưởng về  nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư  tưởng phát triển dân chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan  điểm của các nhà tư tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469­399 Tr.CN), Arixtốt   (384­322 Tr.CN), Xixêrôn (l06­43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà   tư  tưởng chính trị  và pháp lý tư  bản sau này như  John Locke (1632 ­ 1704),   Montesquieu   (1698   ­   1755),   J.J.Rút­xô   (1712   ­   1778),   I.Kant   (1724   –   1804),  Hêghen (1770 ­ 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới. Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư  tưởng vĩ đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư  tưởng về  nhà nước pháp   quyền như  Tômát Jepphecxơn (1743 ­ 1826 – tác giả  của Tuyên ngôn độc lập  Mỹ năm 1776), Tômát Pên (1737 ­ 1809), Jôn A đam (1735 ­ 1826)… Như vậy, nghiên cứu lịch sử của vấn đề  này cho thấy rằng, chính các nhà  luật học người Đức như: Môn, Van ke là những người đầu tiên đưa ra khái  niệm “nhà nước pháp quyền” từ thế kỷ XIX, trong đó tư tưởng trung tâm là đề  cao sự  thống trị  của pháp luật đối với mọi hoạt động của nhà nước cũng như  đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội. Có thể  nói rằng, các nhà tư  tưởng   tư sản đã có công đề xuất tư tưởng và lý luận về nhà nước pháp quyền, song do   nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tư tưởng của các ông vẫn còn nhiều hạn chế,   chưa làm sáng tỏ  được các vấn đề  về  bản chất, nguồn gốc của nhà nước pháp   quyền; mối liên hệ  về  mặt pháp lý giữa nhà nước và công dân; đặc điểm và  những điều kiện để thực hiện nhà nước pháp quyền… Chỉ  đến thời kỳ  C.Mác – Ph.Ăng ghen, tư  tưởng về  nhà nước pháp quyền  mới được làm sáng tỏ  đầy đủ  hơn trên cơ  sở  của thế  giới quan duy vật biện   3
  4. chứng. Trong tác phẩm “Lời nói đầu góp phần phê phán triết học pháp quyền   của Hê ghen”, Mác đã phê phán quan điểm sai lầm của Hê ghen coi nhà nước,   pháp luật đứng trên xã hội, trên cá nhân và nhà nước Phổ đứng ở đỉnh chóp hình  nón pháp luật, là tuyệt đích của ý niệm không thể  thay đổi và phát triển được  nữa. Đặc biệt, Hê ghen còn có quan điểm sai lầm, phản động cho rằng, nhà   nước sinh ra xã hội công dân…Mác đã kịch liệt lên án và khẳng định: không   phải nhà nước sinh ra xã hội công dân, mà chính xã hội công dân sinh ra nhà   nước và cần thiết phải có một nhà nước pháp quyền để  duy trì sự  ổn định của   xã hội, pháp quyền tư sản còn có tác dụng trong giai đoạn đầu của xã hội cộng   sản. Như  vậy, tư  tưởng về  nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ  lâu và ngày  càng được phát triển, hoàn thiện. Nó là một giá trị của nhân loại, là kết quả của  quá trình đấu tranh giai cấp lâu dài trong lịch sử  nhằm chống lại sự  độc đoán,  chuyên chế, chà đạp dân chủ  và quyền con người trong xã hội công dân. Nói  đến nhà nước pháp quyền là nói đến sự  ngự  trị  của pháp luật trong đời sống   chính trị, xã hội với tư  cách là ý chí của nhân dân.Tuy nhiên, do đặc điểm,  truyền thống, văn hoá, lịch sử… của các nước khác nhau nên cũng hình thành các   loại hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Vì thế, nhà nước pháp quyền không  phải là đặc tính riêng có của xã hội tư bản, mà còn là đặc tính của nhà nước xã  hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản. Đối với nước ta, do  đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và những yêu cầu đòi hỏi của   thực tiễn quá trình đổi mới, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc hiện nay, đặt ra tất  yếu phải xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh, trong sạch có đủ  năng lực quản lý, điều hành xã hội, làm tròn sứ mệnh lịch sử là xây dựng thành   công chủ  nghĩa xã hội và bảo vệ  vững chắc Tổ  quốc Việt Nam xã hội chủ  nghĩa. 2. Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa ở nước ta hiện nay 4
  5. Xây dựng Nhà nước  pháp quyền xã hội chủ  nghĩa  ở  nước  ta hiện nay   không phải là do ý muốn chủ  quan của Đảng ta, cũng không phải là sự  bắt  chước, dập khuôn từ  một mô hình nhà nước pháp quyền nào đó, mà là yêu cầu   khách quan của quá trình phát triển, đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong  tình hình mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là sự vận dụng  trung thành, sáng tạo và tiếp tục thực hiện quan điểm của chủ  nghĩa C.Mác ­  V.I.Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền. Khi đề  cập tới đặc   điểm của xã hội cộng sản trong giai đoạn thấp, Mác đã chỉ rõ sự  cần thiết phải   duy trì pháp quyền tư sản để  thực hiện sự  phân phối sản phẩm theo lao động.   Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin cũng khẳng định rằng:  “Vậy là, trong một thời gian nhất định, dưới chế độ cộng sản, không những vẫn  còn pháp quyền tư  sản mà vẫn còn cả  nhà nước kiểu tư  sản nhưng không có   giai cấp tư sản”2. Đối với nước ta hiện nay, tuy chưa có giai cấp tư sản nhưng  những cơ  sở  để  nảy sinh giai cấp này vẫn còn tồn tại, vẫn còn nền kinh tế  nhiều thành phần và vẫn đang thực hiện sự  phân phối theo lao động. Vì  vậy,   xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay là tất yếu khách quan. Ngay từ năm 1919, nhà yêu nước Nguyễn ái Quốc, trong bức thư  gửi Hội   nghị Véc xây gồm 8 điểm đã đưa ra hàng loạt yêu sách đòi quyền tự do, dân chủ  cho nhân dân Việt Nam, đồng thời đã đề  cao vai trò của hiến pháp và pháp   quyền trong quản lý xã hội. Trong yêu sách thứ  7, Người viết:   Bảy xin hiến   pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền. Rõ ràng, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh đã nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc kinh nghiệm tổ chức và xây dựng   nhà nước pháp quyền  ở phương Tây, hình thành tư tưởng và đặt nền móng cho  một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Mặt khác, xuất phát từ  thực tiễn nước ta quá độ  lên chủ  nghĩa xã hội bỏ  qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, xuất phát điểm   thấp, lại chịu ảnh hưởng nặng nề những tàn dư của chế độ phong kiến đè nặng    V.I. Lê nin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.121. 2 5
  6. lên suy nghĩ, lối sống, phong cách, tác phong làm việc của mỗi người. Điều đó,   đã và đang gây cản trở  không nhỏ  đến công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công   nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhận rõ những  ảnh  ấy, đối với sự  nghiệp  kiến thiết đất nước, Bác Hồ đã chỉ ra rằng; “Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa  là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng  một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử  dân tộc ta. Chúng  ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ, và thành kiến có gốc  rễ sâu xa hàng ngàn năm”3. Chính những nếp sống, thói quen, ý nghĩ đó đang sinh  ra tư  tưởng, tự  do, tuỳ  tiện, chủ  quan, duy ý chí, dựa dẫm,  ỷ  lại, manh mún,  trung bình chủ nghĩa, cục bộ địa phương, chỉ biết lợi ích cá nhân, trước mắt mà   quên đi lợi ích cộng đồng, lợi ích lâu dài…Vì thế, chúng ta phải xây dựng một  Nhà nước pháp quyền vững mạnh, thiết lập trật tự  kỉ  cương, khắc phục tình  trạng tự  do, vô chính phủ, “phép vua thua lệ  làng”, hoàn thiện hệ  thống pháp  luật, qui phạm hoá các quan hệ xã hội, đưa các quan hệ xã hội vận động theo sự  điều chỉnh của pháp luật. Đồng thời từng bước khắc phục những tác động tiêu  cực của sản xuất nhỏ  và tàn tích phong kiến gắn liền với quá trình cải tạo xã   hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đây là việc làm khó khăn, phức tạp, lâu dài, cần  phải kiên trì và vận dụng tổng hợp nhiều giải pháp, trong đó xây dựng một Nhà   nước pháp quyền vững mạnh, với một hệ  thống luật pháp đồng bộ, chặt chẽ,   khoa học sẽ là điều kiện tiên quyết để khắc phục tình trạng trên. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn xuất phát  từ  những yêu cầu khách quan cấp thiết cả  về  đối nội và đối ngoại trong tình  hình mới. Về đối nội, đó là yêu cầu trực tiếp của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh  công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện mục tiêu  dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Yêu cầu này đòi hỏi  chúng ta phải xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của   dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ  Chí Minh, một nền dân chủ  và pháp chế,   trong đó toàn bộ  quyền lực nhà nước thuộc về  nhân dân, thông qua Nhà nước   Trích lại Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 18, Nxb CTQH, H 2002, tr. 575. 3 6
  7. mà nhân dân thực hiện quyền làm chủ  của mình trên các lĩnh vực cơ  bản của   đời sống xã hội. Trong Đại hội IX, cải cách hành chính, xây dựng bộ  máy Nhà   nước trong sạch, vững mạnh được Đảng ta xác định là “trọng tâm” của đổi mới   tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị­một trong ba   “lĩnh vực then chốt” cần tập trung sức đột phá trong giai đoạn hiện nay. Về  đối ngoại, đó là yêu cầu của việc mở  rộng đối ngoại đa phương, đa  dạng vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; yêu cầu của việc  chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực nhằm đẩy mạnh phát triển kinh   tế­ xã hội, thực hiện thành công, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.   Báo cáo Chính trị Đại hội IX, đặt việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt   động của Nhà nước trong mối quan hệ  chặt chẽ, gắn bó hữu cơ  với việc phát   huy dân chủ và tăng cường pháp chế. Điều đó, dựa trên cơ sở lý luận khoa học  của chủ  nghĩa C.Mác ­ V.I.Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  mối quan hệ, sự  thống   nhất   giữa   các   tổ   chức,   thiết   chế   quan   trọng   bậc   nhất   của   kiến   trúc   thượng tầng là nhà nước, nền dân chủ  và pháp chế. Thực tiễn đổi mới  ở  Việt   Nam cũng cho thấy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng Nhà   nước, nền dân chủ và pháp chế có vai trò cực kỳ quan trọng trong toàn bộ chiến   lược xây dựng, phát triển đất nước, trong suốt thời kỳ quá độ  lên chủ  nghĩa xã  hội cũng như trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.  Nhận thức đúng đắn vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp  quyền, nền dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã bước đầu đề ra 5   quan điểm cơ  bản có tính nguyên tắc trong Nghị  quyết Trung  ương 8 khoá VII  và được khẳng định lại trong Nghị quyết Đại hội VIII. Nghị quyết Trung  ương   3 khoá VIII tiếp tục cụ  thể  hoá các nguyên tắc đó thành 5 chủ  trương và các  nhiệm vụ  kèm theo. Trong Báo cáo Chính trị  Đại hội IX, X tiếp tục quán triệt   các nguyên tắc, chủ  trương trên đây, đồng thời bổ  sung, phát triển, cụ  thể  hoá  thêm một bước những quan điểm cơ  bản và đề  ra những biện pháp thực hiện   đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng  cường pháp chế trong giai đoạn hiện nay. 7
  8. Báo cáo chính trị  Đại hội XII của Đảng nêu vấn đề: “Xây dựng và hoàn   thiện Nhà nước pháp quyền XHCN”4. “Xây dựng” và “hoàn thiện” Nhà nước  pháp quyền đều là những nhiệm vụ  quan trọng, được tiến hành đồng thời, bổ  khuyết cho nhau, xây dựng cũng chính là hoàn thiện, vừa xây dựng vừa hoàn  thiện; ngược lại, trong hoàn thiện có xây dựng. Tuy nhiên, khi đặt vấn đề “Hoàn  thiện Nhà nước pháp quyền XHCN”, Đảng ta đã xác định đi vào chiều sâu của  nhiệm vụ này. Quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN sẽ là quá trình  không ngừng nâng cao nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị  phổ  biến của Nhà nước pháp quyền nói chung và đúc kết kinh nghiệm thực tiễn lãnh  đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói riêng. Như  vậy, với đặc điểm của nước ta hiện nay, do yêu cầu quản lý xã hội,  đổi mới, xây dựng đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ  nghĩa, đang đặt ra vấn đề  xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam vững   mạnh là một tất yếu, là phù hợp với qui luật phát triển xã hội và là sự đáp ứng   đòi hỏi của thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. 3. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nói đến nhà nước pháp quyền là nói đến sự  thống trị  của pháp luật trong   đời sống xã hội thông qua hình thức nhà nước. Xét về  hình thức pháp lý, nhà  nước pháp quyền là sự  chi phối, ràng buộc, điều chỉnh của pháp luật đối với   nhà nước và mọi thành viên trong xã hội. Xét về  nội dung, đó là việc bảo đảm   một cách khách quan, toàn diện, quyền và nghĩa vụ cho mọi công dân trong quá   trình làm chủ  xã hội và làm chủ  bản thân mình. Tuy nhiên, do sự  qui định của   chế  độ  chính trị, của giai cấp cầm quyền và những yếu tố  dân tộc, văn hoá,   truyền thống khác, nên bản chất và đặc điểm của mỗi nhà nước pháp quyền ở  từng quốc gia, dân tộc cũng khác nhau. Qua quá trình đổi mới và phát triển nhận  thức lý luận của Đảng ta về  nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa, có thể  thấy:  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.36 4 8
  9. Một là, Đảng đã chỉ  rõ tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà  nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt Nam và coi đó là yêu cầu, nhiệm vụ  của Đảng và Nhà nước. Hai là, nhận diện được hình hài của nhà nước pháp quyền: là phương thức   tổ  chức dân chủ  quyền lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ  sở  cho việc  thực hiện quyền lực cũng như  thực hiện các quyền và nghĩa vụ  của mọi chủ  thể trong xã hội. Ba là, nhất quán chỉ  rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả  quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Bốn là, nhận rõ đặc trưng cơ  bản của nhà nước pháp quyền là tính pháp  chế, khẳng định vai trò, vị  trí của pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội,  tính tối cao của Hiến pháp trong đời sống xã hội. Năm là, xác định được cơ  chế  vận hành của các cơ  quan quyền lực nhà   nước: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ  quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sáu là, thấy rõ yêu cầu mở rộng dân chủ đồng thời với việc tăng cường kỷ  luật, kỷ  cương, giáo dục đạo đức trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội  chủ nghĩa. Bảy là, khẳng định nguyên tắc bảo đảm sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản  Việt Nam đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã  hội chủ  nghĩa Việt Nam. Điều đó không chỉ  mang tính nguyên tắc được khẳng   định từ  lý luận C.Mác – V.I.Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh, mà còn là kết luận   chắc chắn được rút ra từ thực tiễn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến   nay. Tăng cường sự  lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội   chủ  nghĩa Việt Nam là nhằm bảo đảm cho nhà nước mang bản chất của giai   cấp công nhân, thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Sự  lãnh đạo của Đảng tạo điều kiện phối hợp và phát huy sức mạnh tổng hợp của   9
  10. hệ  thống chính trị, giúp nhà nước hoàn thành mọi nhiệm vụ  của mình và giữ  vững tính chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam có những đặc điểm cơ bản  sau: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do   dân, vì dân, được xây dựng dựa trên nền tảng của khối liên minh giai cấp công   nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, do Đảng cộng sản Việt nam lãnh  đạo. Trong Nhà nước đó, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước  là thống nhất, có sự  phân công và phối hợp giữa các cơ  quan nhà nước trong   việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng  việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao đạo đức xã hội chủ  nghĩa cho mọi công  dân. Đây là những đặc điểm cơ  bản qui định sự  khác biệt về  chất giữa Nhà  nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản.   Bản chất của Nhà nước pháp quyền  ở  nước ta là nhà nước của nhân dân, do   nhân dân và vì nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triẻn  theo định hướng xã hội chủ nghĩa; là Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên  cơ  sở  tăng cường, mở  rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai   cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng  cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Về mặt hình thức, chúng ta cũng dùng khái niệm   nhà nước pháp quyền, cũng đề cao vai trò của pháp luật, cũng đề cập tới quyền  lập pháp, hành pháp và tư  pháp. Nhưng về  tính chất giai cấp thì Nhà nước ta  mang bản chất giai cấp công nhân và chính vì mang bản chất giai cấp công nhân  nên Nhà nước ta còn mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, thực sự là nhà  nước của dân, do dân và vì dân. Chúng ta cũng tổ chức ra các cơ quan lập pháp,   hành pháp và tư pháp, song không phải theo cơ  chế  “tam quyền phân lập” như  10
  11. mô hình của các nhà nước tư sản, mà các cơ quan quyền lực của Nhà nước Việt   Nam là thống nhất, nhưng có sự  phân cấp về  nhiệm vụ, chức năng và quyền  hạn, song suy cho cùng tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhà nước  Việt Nam tuy đề cao đề cao vai trò của pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật   nhưng không tuyệt đối hoá nó, theo kiểu “nhà nước pháp trị” như cách hiểu của  một số người và sự xuyên tạc của kẻ thù. Nhà nước một mặt đề cao vai trò của   pháp luật; mặt khác, thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho mọi công dân  hiểu rõ bản chất của Nhà nước pháp quyền Việt Nam và sự  cần thiết phải   quản lý xã hội bằng pháp luật để trên cơ sở đó nâng cao trình độ  giác ngộ pháp   luật, ý thức gương mẫu chấp hành luật pháp, vai trò trách nhiệm trong thực hiện  quyền và nghĩa vụ công dân của mình trước Nhà nước và xã hội. Hơn nữa, Nhà  nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng cũng không  phải là kiểu “nhà nước đảng trị”. Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước  thông qua cương lĩnh, đường lối, chủ trương; thông qua công tác cán bộ và hoạt  động kiểm tra việc thực hiện đường lối đó. Đảng có chức năng lãnh đạo chứ  không bao biện, làm thay chức năng quản lý, điều hành xã hội của Nhà nước.   Mục đích lãnh đạo của Đảng với Nhà nước không ngoài việc giữ  vững bản  chất giai cấp công nhân và tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước, nâng cao   hiệu quả, hiệu lực quản lý của Nhà nước, làm cho pháp luật không phải là công   cụ để áp bức, chà đạp quyền làm chủ của nhân dân, mà là làm cho pháp luật của  Nhà nước trở  thành nhu cầu, là công cụ  để  bảo đảm quyền làm chủ  của nhân  dân đối với Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, chỉ ra bản chất của Nhà nước pháp quyền  xã hội chủ  nghĩa Việt Nam giúp chúng ta nhận thức sâu sắc sự  khác nhau căn  bản giữa Nhà nước pháp quyền Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư  sản,   đồng thời là cơ  sở  để  nghiên cứu quá trình hình thành, chỉ  ra thực trạng và đề  xuất những giải pháp cơ  bản nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam   vững mạnh đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng trong tình hình mới. 11
  12. II. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ  GIẢI PHÁP CƠ  BẢN XÂY DỰNG  NHÀ   NƯỚC   PHÁP   QUYỀN   XÃ   HỘI   CHỦ   NGHĨA   VIỆT   NAM   THEO  NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII 1. Quá trình hình thành và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa Việt Nam Chủ  tịch Hồ  Chí Minh là người đầu tiên đặt nền móng về  tư  tưởng cho   việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền  ở  Việt nam và Người đã biến tư  tưởng đó thành hiện thực thông qua việc lãnh đạo thành công cách mạng Tháng  Tám năm 1945, lập nên Nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà ­ Nhà nước công  nông đầu tiên  ở  khu vực Đông Nam châu Á. Đó là một Nhà nước thể  hiện rõ   bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của một chế độ xã hội mới ­ xã hội xã hội chủ  nghĩa. Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, quản lý xã hội bằng pháp luật,   bảo đảm quyền làm chủ  thực sự  của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực của  đời sống xã hội; là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Nhà nước công nông ấy đã phải đương  đầu với bao khó khăn, thử  thách rất nghiêm trọng là vừa chống thù trong, giặc   ngoài, vừa kiến thiết đất nước. Nhận thức rõ giá trị  to lớn của thành quả  cách   mạng và vai trò của bộ  máy chính quyền trong công cuộc kháng chiến, kiến  quốc, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh và Đảng ta đã bắt tay ngay vào xây dựng và kiện   toàn Nhà nước non trẻ  trên nền tảng pháp lý. Đó là việc tổ  chức thành công   cuộc tổng tuyển cử vào ngày 6 tháng 1 năm 1946, bầu ra Quốc hội đầu tiên của   nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà. Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội khoá I   họp kỳ  đầu tiên, chính thức trao quyền cho Chủ  tịch Hồ  Chí Minh thành lập  chính phủ, thành lập Uỷ  ban dự  thảo Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ  cộng hoà. Đây là bước đi đầu tiên để xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt  Nam trên thực tế. Với thắng lợi này, chúng ta đã thông báo và khẳng định với  toàn thế giới rằng, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là một Nhà nước dân chủ,  theo chính thể  cộng hoà, là Nhà nước do nhân dân bầu cử  lập nên, quản lý xã   12
  13. hội bằng hiến pháp và pháp luật. Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta  đã là một Nhà nước pháp quyền, mang bản chất giai cấp công nhân và tính nhân  dân, tính dân tộc sâu sắc, là công cụ  tiến hành kháng chiến, kiến quốc, giải   phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ  nghĩa. Vì thế,  Nhà nước pháp quyền Việt nam đã mang tính xã hội chủ nghĩa rõ ràng và không  ngừng được xây dựng, củng cố, hoàn thiện cho đến ngày nay đã thực sự  thể  hiện rõ bản chất  ưu việt, dân chủ, nhân đạo của nó. Trải qua 4 bản hiến pháp  (năm 1946, 1959, 1980, 1992) và việc ban bố, sửa đổi, bổ sung các bộ luật, đạo  luật, các văn bản qui phạm pháp luật cùng với sự  mở  rộng của nhiều ngành   luật… đã tạo ra một hành lang pháp lý đồng bộ  và chặt chẽ  bảo đảm cho Nhà   nước ta hoạt động có hiệu quả, quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật.  Đến  Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội  chủ nghĩa ở nước ta đã được bổ sung, phát triển và định hình khá rõ nét. Đây là  định hướng quan trọng để  đánh giá những mặt làm được, chưa làm được, đồng  thời đề ra giải pháp để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã   hội chủ nghĩa Việt Nam trong thực tiễn. Trong sự  nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc hiện nay, vấn đề  xây dựng Nhà nước pháp quyền được đề cập toàn diện và rõ ràng hơn trong các   văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, X. Đặc biệt là trong các nghị  quyết Trung   ương đã bàn sâu về  vấn đề  này như: Nghị  quyết Trung  ương 8 khoá VII về  “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt   Nam trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính”; Nghị quyết Trung ương 3  khoá VIII về  “Phát huy quyền làm chủ  của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà   nước cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh ”… Báo cáo  chính trị Đại hội XII đã dành riêng một ý trong phần phương hướng, nhiệm vụ  để khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN   do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”5. Tuy  đây là sự tiếp tục quan điểm nhất quán của Đảng ta, song việc nhấn mạnh này    Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175 5 13
  14. trong văn kiện Đại hội đã cho thấy rõ quyết tâm chính trị của toàn Đảng. Đảng   ta chỉ rõ: “Trong tổ  chức và hoạt động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ,   tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự chuyển biến tích cực, đạt  kết quả  cao hơn. Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ  cả  lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ  thống   chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn v ới đổi mới kinh tế, văn  hóa­xã hội”6. Có thể nói rằng, từ khi ra đời đến nay, Nhà nước pháp quyền Việt  Nam không ngừng được hoàn thiện, xứng đáng là trụ cột của hệ thống chính trị,   là phương tiện để thực hiện và bảo đảm quyền làm chủ  thực sự  của nhân dân  lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 2. Thực trạng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa  Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay Từ khi đổi mới đến nay, trong lĩnh vực cải cách tổ chức và hoạt động của  Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế, chúng ta đã thu được nhiều  thành tựu quan trọng cả về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Về nhận   thức lý luận, Đảng ta đã từng bước phát triển hệ  thống quan điểm, nguyên tắc   cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì  dân, thể  hiện qua các văn kiện, nghị  quyết chuyên đề. Trong thực tiễn, Hiến  pháp 1992 và nhiều Bộ luật, Luật, Pháp lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ  pháp lý để Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an  ninh, quốc phòng. Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên   lĩnh vực xây dựng Nhà nước và pháp luật, làm cơ  sở  cho đổi mới hệ  thống  chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước. Tổ chức bộ máy,  chức năng, nhiệm vụ  của Nhà nước, trước hết là của cơ  quan hành chính nhà  nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ  cơ  chế  kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế nhiều thành   phần, vận hành theo cơ  chế  thị  trường có sự  quản lý của Nhà nước theo định  hướng xã hội chủ  nghĩa. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với   6  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175 14
  15. Nhà nước đã có bước đổi mới. Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy   trên nhiều lĩnh vực. Dân chủ  về  kinh tế  ngày càng được mở  rộng. Dân chủ  về  chính trị  có bước tiến quan trọng. Đánh giá về  điều đó, Báo cáo Chính trị  Đại  hội IX đã khái quát những thành tựu quan trọng sau đây: Nhà nước tiếp tục được  xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Nhà nước có  cố  gắng trong việc điều hành, quản lý. Quyền làm chủ  của nhân dân trên các   lĩnh vực được phát huy; một số chính sách và qui chế  bảo đảm quyền làm chủ  của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực hiện. Những thành tựu trên đây, đã góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm  thay đổi bộ  mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố  vững chắc  độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của nước   ta trên trường quốc tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm. Từ  trước đại  hội X, các nghị quyết chuyên đề  của Đảng về  lĩnh vực này đã nhiều lần chỉ  rõ   những yếu kém, khuyết điểm: Bộ máy Nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững   mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được   ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa nghiêm, kỷ cương xã hội bị buông  lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta. Quản lý  Nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi thời kỳ mới; chưa phát huy đầy đủ  mặt  tích cực và hạn chế tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và   tài sản Nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử  dụng lãng phí và thất thoát   nghiêm trọng. Tổ  chức bộ  máy Nhà nước còn nặng nề. Sự  phân công và phối  hợp giữa các cơ  quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành   pháp, tư pháp còn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ. Mối quan hệ  phân cấp Trung  ương ­ địa phương còn nhiều mặt chưa cụ  thể  làm cho tình  trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ  chậm được khắc phục. Sự  lãnh đạo của Đảng chưa đáp  ứng yêu cầu đổi mới tổ  chức và hoạt động của  Nhà nước, còn có tình trạng buông lỏng và bao biện, chồng chéo nên chưa phát  huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy Nhà nước.   15
  16. Đại hội XII chỉ ra những hạn chế: “Tổ chức bộ máy và cơ  chế  hoạt động của   các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa như  Quốc hôi, Chủ  tịch nước, Chính phủ, hệ  thống tư  pháp còn những điểm chưa  thật sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc phục được sự chồng chéo, vướng   mắc về  chức năng, nhiệm vụ  giữa các thiết chế, làm  ảnh hưởng tới sự  thống  nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của nhà nước”7. Có nhiều nguyên nhân gây nên những yếu kém của hệ thống chính trị, của  bộ  máy Nhà nước. Trước hết, về  khách quan, việc xây dựng Nhà nước pháp  quyền xã hội chủ  nghĩa trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế  là nhiệm vụ  mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc vừa làm, vừa tìm tòi, rút   kinh nghiệm. Về  chủ  quan, Đảng chưa làm tốt việc lãnh đạo cụ  thể  hoá nghị  quyết của Đảng về xây dựng Nhà nước để có chủ trương kịp thời xử lý những   vấn đề nảy sinh trong thực tiễn đổi mới, đặc biệt là những vấn đề nổi lên ngày  càng bức xúc như  tình trạng quan liêu, lãng phí, tham nhũng, thiếu trách nhiệm  trong bộ máy Nhà nước; thiếu những biện pháp tổ chức thực hiện đường lối…  Chúng ta chưa kịp thời tổng kết thực tiễn và còn thiếu cơ sở khoa học khi quyết   định một số chủ trương về sắp xếp, điều chỉnh tổ chức bộ  máy ở  Trung ương   và địa phương nên khi thực hiện có vướng mắc, hiệu quả và tác dụng còn hạn   chế. Các cơ  quan Nhà nước chưa phát huy đầy đủ  trách nhiệm trong việc quán  triệt và tổ  chức thực hiện các nghị  quyết của Đảng. Các đoàn thể  quần chúng   chưa phát huy được quyền làm chủ  trong việc tham gia xây dựng chính quyền,   giám sát hoạt động của cán bộ, công chức Nhà nước và thực hiện đầy đủ nghĩa  vụ công dân, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nhìn nhận thẳng thắn, đánh giá đúng   những ưu điểm và nghiêm khắc chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong xây dựng và   hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN  ở  nước ta trong thời gian qua, đồng  thời xác định những nguyên nhân cốt lõi nhất của hạn chế, khuyết điểm. Theo  đó, những tồn tại, hạn chế trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền    Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr173 7 16
  17. ở  nước ta trong thời gian qua được Đảng ta chỉ  ra bao gồm cả  những vấn đề  thuộc về thể chế, cơ chế, chính sách; cả về tổ chức và hoạt động; cả về yếu tố  con người. Về  nguyên nhân của những hạn chế, Báo cáo chính trị  Đại hội XII  của Đảng không trình bày dàn trải mà chỉ tập trung vào hai nguyên nhân cơ bản   nhất: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề  mới đối với nước ta.   Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều hành của   Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ  chế  lãnh đạo của  Đảng đối với Nhà nước  ở  các cấp còn nhiều điểm chưa được chế  định rõ và  phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật   và pháp chế XHCN chưa nghiêm”8. Nếu nguyên nhân thứ nhất là khách quan, thì  nguyên nhân thứ  hai là chủ  quan, trong đó tập trung trọng tâm vào vai trò của   Đảng. Cách nhìn nhận, đánh giá như vậy cho thấy, Đảng ta đã sẵn sàng cho một  sự “chuyển mình” cả về nhận thức và hành động trong thời gian tới, nhằm tháo  gỡ, minh bạch, chính xác hóa mối quan hệ Đảng ­ Nhà nước. Đây cũng chính là  then chốt cho sự hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Thực trạng trên đây, đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng một Nhà nước   pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam trong sạch, vững mạnh đủ  sức quản lý,  điều hành đất nước bằng pháp luật. Muốn vậy, cần phải có một hệ  thống giải   pháp toàn diện, đồng bộ với sự kiên trì, kiên quyết và triệt để trong thực hiện. 3.  Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa  theo Nghị quyết Đại hội XII Vị  trí, tầm quan trọng của nhiệm vụ  xây dựng và hoàn thiện Nhà nước   pháp quyền XHCN được Đại hội XII của Đảng khẳng định sâu sắc hơn. So với   Báo cáo chính trị Đại hội XI, Báo cáo chính trị Đại hội XII đã dành riêng một ý   trong phần phương hướng, nhiệm vụ  để  khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện và   xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ  trọng  tâm của đổi mới hệ  thống chính trị”9. Tuy đây là sự  tiếp tục quan điểm nhất   Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr174 8  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175 9 17
  18. quán của Đảng ta, song việc nhấn mạnh này trong văn kiện Đại hội đã cho thấy  rõ quyết tâm chính trị  của toàn Đảng. Đảng ta chỉ  rõ: “Trong tổ  chức và hoạt  động của Nhà nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ  các nguyên tắc pháp  quyền và phải tạo ra sự  chuyển biến tích cực, đạt kết quả  cao hơn. Xây dựng  Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ  cả  lập pháp, hành pháp, tư  pháp  và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn,   hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa­xã hội”. Mối quan hệ giữa   đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là một trong tám mối quan hệ lớn cần nắm   vững và tập trung giải quyết đã được Đảng ta xác định. Trong đổi mới chính trị  thì nhiệm vụ  xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng  lãnh đạo là nhiệm vụ  trọng tâm, có vai trò chi phối, quyết định đến các nhiệm  vụ khác và đến việc giải quyết mối quan hệ lớn này. Văn kiện Đại hội XII của Đảng nêu rõ hơn những nhiệm vụ, giải pháp   nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời   gian tới. Đây là những điểm mới nổi bật so với các văn kiện trước đây của  Đảng, bao gồm: “Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức   của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các đòi hỏi của  Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định  hướng XHCN và hội nhập quốc tế”10. Đây là giải pháp giữ  vai trò quyết định  đến chất lượng, hiệu quả  của nhiệm vụ  hoàn thiện Nhà nước pháp quyền  ở  nước ta hiện nay. Hiến pháp năm 2013, với vai trò “đạo luật gốc”, đã khẳng  định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì   nhân dân, dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà  nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ  trí thức; đồng thời bổ  sung thêm một nguyên tắc mới về  kiểm soát quyền lực   nhà nước. Các nguyên tắc này là cơ  sở  hiến định để  các cơ  quan nhà nước về  lập pháp, hành pháp và tư  pháp phát huy đầy đủ  vai trò, trách nhiệm và thực  hiện có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được nhân dân giao  10  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr175 18
  19. cho mỗi quyền; hạn chế và ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước,   phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Dựa trên các nguyên tắc đó, bộ  máy Nhà nước trong Hiến pháp sửa đổi đã có những điều chỉnh để  làm rõ hơn,  minh bạch hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, bảo đảm sự  phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành  pháp và tư pháp có hiệu lực, hiệu quả. Báo cáo chính trị Đại hội XII chỉ rõ: “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật   gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả  của Nhà   nước pháp quyền XHCN. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản   lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà  nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng   đạo đức xã hội”. Xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật  theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp năm 2013 là nhiệm cụ  cấp   bách, cần nhanh chóng triển khai thực hiện. Đây cũng chính là biện pháp nhằm  khắc   phục   khâu   yếu   nhất,   thiếu   nhất   trong   hoạt   động   của   Nhà   nước   pháp   quyền XHCN ở nước ta hiện nay. Bên cạnh đó, nhiệm vụ, giải pháp mới của Đảng chỉ  ra cũng xác định cần  phải quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng  đạo đức xã hội. Quan điểm này thể  hiện rõ tính nhân văn trong xây dựng và   hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Để bảo đảm tính bền vững  của pháp luật, kỷ  cương xã hội, đồng thời vẫn bảo đảm tính nhân văn, nhân  đạo, thì con người không chỉ cần được điều chỉnh, kiểm soát hành vi bằng luật,   mà còn bằng cả  lương tâm và trách nhiệm. Đây cũng chính là giải pháp nhằm   khắc phục tình trạng xuống cấp đạo đức đang trở thành một vấn nạn khá nhức   nhối ở nước ta hiện nay. “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất  là cơ chế  kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong  việc thực hiện  các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực  nhà nước là thống  nhất;   xác   định   rõ   thẩm   quyền   trách   nhiệm   quản   lý   nhà   nước   của   mỗi   cấp  19
  20. chínhquyền địa phương theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” 11. Nhiệm vụ,  giải pháp này cũng nhằm hiện thực hóa một trong những nguyên tắc quan trọng  nhất trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền  ở  nước ta đã được  hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề  khó khăn và phức tạp. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt để  phòng,  chống sự  tha hóa và lạm dụng quyền lực nhà nước, mặt khác là làm sao để  không phải vì kiểm soát quyền lực nhà nước mà làm mất đi tính năng động,   mềm dẻo cần phải có trong thực hiện chức năng của Nhà nước. Đây cũng chính   là cơ sở để chúng ta tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong  bộ  máy nhà nước  ở  nước ta hiện nay bằng việc hoàn thiện các thể  chế  về  tổ  chức bộ máy nhà nước. “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp  huyện. Mở rộng đối tượng thi tuyển chức danh cán bộ quản lý. Hoàn thiện tiêu  chí đánh giá và cơ  chế  kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi công vụ; xác  định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính”12. Đây  là giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ  trực tiếp của nhân dân, thông qua  đó vừa hoàn thiện các hình thức dân chủ, vừa bảo đảm cho nhân dân thực sự  được thực hiện quyền làm chủ của mình đối với Nhà nước và xã hội. KẾT LUẬN Thực tiễn lịch sử thế giới đã chỉ rõ, vấn đề chính quyền nhà nước là cốt tử  của mọi cuộc cách mạng. Giành được chính quyền đã khó, giữ  chính quyền   càng khó hơn nhiều. Vì vậy, khi đã có chính quyền đòi hỏi đảng cầm quyền   phải không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh bảo đảm cho chính quyền có  đủ  năng lực thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ  và sứ  mệnh lịch sử  của   nó trong cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới. Đối với Nhà nước cộng hoà  xã hội chủ  nghĩa Việt Nam ­ một thành quả  vĩ đại được khai sinh từ  thắng lợi    Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.180 11  Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2016, tr.181 12 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2