intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài tiểu luận: Khủng hoảng nợ Argentina 2001-2002

Chia sẻ: Ly Tam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:49

255
lượt xem
48
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Argentina trước khủng hoảng, diễn biến cuộc khủng hoảng, nguyên nhân của cuộc khủng hoảng, hậu quả của cuộc khủng hoảng, tác động của IMF đối với Argentina, các biện pháp khôi phục nền kinh tế,... là những nội dung chính trong bài tiểu luận "Khủng hoảng nợ Argentina 2001-2002". Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài tiểu luận: Khủng hoảng nợ Argentina 2001-2002

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP HỒ CHÍ MINH TÀI CHÍNH QUỐC TẾ Khủng hoảng nợ  Argentina (2001­2002)
  2. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Argentina đất nước của những lễ  hội nổi tiếng, carnival và điệu nhảy Tango đầy  quyến rũ, một vùng đất với phong cảnh mê hoặc từ  các đồng bằng bụi bặm Patagonia đến  đỉnh Andes phủ  tuyết trắng. Đất nước  ấy đã từng là thiên đường của người dân nơi đây khi  Argentina   phát   triển   một   cách   ngoạn   mục   trong   suốt   những   năm   của   thập   niên   1990.   Argentina được cho là một điển hình của sự thần kì mới với những thành tựu đã đạt được. Nhưng cũng giống như Đông Á, sau đổi mới Argentina đã đạt được những thành công   nhất định nhờ vào những thành công từ việc ổn định giá trị đồng nội tệ  cùng với tốc độ  tăng  trưởng ngoạn mục. Lần này đến lượt Argentina chọn đi trên vết xe đổ của các nước Đông Á,   họ đã ngủ quên trên chiến thắng, lại trở thành nạn nhân từ chính sự thành công của mình. Tháng 12/2001 hệ  thống ngân hàng Argentina sụp đổ, nhấn chìm một trong những   trung tâm kinh tế năng động và thành công nhất tại khu vực Nam Mỹ. Gần như chỉ sau một   đêm, đất nước này rơi vào cảnh đói nghèo. Tình cảnh sau đó hết sức hỗn độn. Chỉ trong vòng  1 tuần, có tới 5 vị  Tổng thống lên và xuống chức. Người dân, công nhân, viên chức xuống  đường biểu tình. Chính quyền Argentina cho rằng thủ phạm là các chính sách mà Quỹ Tiền tệ  Quốc tế và Ngân hàng Thế giới áp dụng tại đây từ những năm 1990.  Vậy nguyên nhân thực sự của sự sụp đổ này do đâu? Đó là một vấn đề  lớn mà nhiều  nhà nghiên cứu kinh tế đã tốn không ít giấy mực. Đây cũng là đề  tài mà nhóm chúng em đưa 
  3. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) ra để thảo luận, từ điển hình của Argentina mà rút ra những bài học cho Việt Nam trong giai   đoạn hiện nay, khi Việt Nam cũng được xem là một thần kì mới. Page 3
  4. Trước khi đi vào tìm hiểu cuộc khủng hoảng kinh tế  Argentina, chúng ta cần phải   nắm được một vài khái niệm căn bản sau: Khủng hoảng tài chính là gì? Khủng hoảng tài chính là sự thất bại của một hay một số nhân tố của nền kinh tế  trong việc đáp ứng đầy đủ nghĩa vụ, bổn phận tài chính của mình. Dấu hiệu của khủng hoảng tài chính: Các NHTM không hoàn trả được các khoản tiền gửi của người gửi tiền. Các khách hàng vay vốn , gồm cả khách hàng được xếp loại A cũng không thể hoàn  trả đầy đủ các khoản vay cho ngân hàng. Chính phủ từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Khủng hoảng nợ là một dạng khủng hoảng tài chính xuất hiện hai yếu tố 1 và 2. Một trong những nước xuất hiện khủng hoảng nợ điển hình không ai khác chính  là  Argentina. I.  ARGENTINA TRƯỚC KHỦNG HOẢNG:  Trong thập niên 1990, Argentina đã thực hiện các chương trình tái cấu trúc nền kinh tế  bao gồm: Năm 1991 lập một hệ  thống tiền tệ  (currency board) với nhiệm vụ  gắn chặt tỷ giá  đồng peso với đồng dollar theo tỷ  giá 1 đổi 1, và chỉ  phát hành vừa đủ  tiền peso cho  việc trao đổi trên thị trường. Đây là giải pháp nhằm khống chế lạm phát, nhưng đồng  thời nó cũng hạn chế  khả  năng của ngân hàng trung  ương trong việc hỗ  trợ  bù đắp   thâm hụt ngân sách nhà nước và giúp đỡ  các ngân hàng thương mại tăng cường tính   thanh khoản.
  5. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) Xây dựng hệ  thống tiền tệ  kép (bi­monetary) đảm bảo vai trò ngang nhau giữa đồng  peso với ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Người dân Argentina có quyền trả  bằng bất   kỳ đồng tiền nào trong các giao dịch của mình.  Tự  do hóa hoàn toàn hệ  thống ngân hàng, bao gồm việc tư  nhân hóa gần như  tất cả  các ngân hàng nhà nước ở địa phương và bán một ít các tổ chức tài chính trung bình và  lớn cho nước ngoài. Tự  do hóa hoàn toàn việc luân chuyển tư bản ­ cả tài chính lẫn đầu tư  trực tiếp ­ mà   không có bất kỳ hạn chế nào. Tư  nhân hóa các công ty nhà nước từ  công ty hàng không đến công ty điện và Bưu  điện, trong khi nước này chưa hề có một hệ thống luật lệ mạnh và đầy đủ. Loại bỏ  gần như  tất cả  các hàng rào phi thuế  quan, và cắt giảm thuế  từ  trung bình   45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Từ chương trình tư hữu hóa hàng loạt xí nghiệp quốc doanh, tư hữu hóa ào ạt, nhất là  việc bán chúng cho các ông chủ  nước ngoài, bước đầu đã đem lại một lượng dự  trữ  ngoại tệ khá lớn cho quốc gia này. Nguồn thu từ chương trình tư hữu hóa cùng với việc vay nợ nước ngoài đã giúp Chính  phủ Argentina ổn định giá trị của đồng nội tệ. Tất cả điều này đã làm nền tảng cho các tăng   trưởng ngoạn mục sau đó. Thêm vào đó, những thành tựu kinh tế  và sự  ổn định trong giá trị  đồng nội tệ  đã dẫn tới một hệ  quả  đương nhiên, đó là dòng vốn quốc tế  chảy  ồ   ạt vào   Argentina. Những yếu tố  đó khiến Argentina được ngợi khen như  là một điển hình của sự  thần kỳ mới và là một trong những “học trò xuất sắc” được IMF thừa nhận. Những biện pháp này có tác dụng tức thời. 3 năm sau đó nền kinh tế  phát triển tốt  trong khi lạm phát giảm. Nhưng cùng với cái gọi là thần kỳ  đó là  ảo tưởng ngủ  quên trên   chiến thắng. Page 5
  6. II.  DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG:  Chính từ  sự  tăng trưởng ngoạn mục như  đã nêu trên mà chính phủ  Argentina đã tận   dụng uy tín đang lên của quốc gia để  liên tục vay nợ nước ngoài. Cứ  như  thế các khoản nợ  nước ngoài âm thầm tăng lên dần, bắt đầu là ngưỡng an toàn từ tỉ lệ nợ dưới 50% GDP (35%   trong năm 1995 cho đến gần 65% năm 2001). Các khoản nợ nước ngoài này dẫn đến hậu quả  tai hại là làm chính phủ mất đi sức đề kháng trước những rủi ro trong thâm hụt ngân sách, với  suy nghĩ dù gì đi chăng nữa, chính phủ cũng dư sức bù đắp thâm hụt ngân sách bằng nguồn dự  trữ  ngoại tệ  dồi dào và cả... vay nợ  nữa. Thất nghiệp leo đến mức kỷ  lục. Bộ  trưởng Tài  chính, Bộ  trưởng Kinh tế  nối nhau từ  chức. Tổng thống ban bố  tình trạng khẩn cấp rồi từ  chức. Từ  những năm 1999, Argentina đã bắt đầu gặp phải những mất cân đối trong  chi tiêu ngân sách. Do đã tư  hữu hóa ào  ạt các xí nghiệp quốc doanh trong thời gian  trước đó, chính phủ  giờ  đây đã không còn nguồn thu nào khác ngoài thuế  để  bù đắp   thâm hụt, đó là chưa kể vấn đề còn bị trầm trọng thêm bởi chính phủ liên tục phải trả  nợ  cho các hóa đơn vay nợ  nước ngoài trước đây.  Tháng 12 năm 1999,  Tổng thống  Fernando De La Rua đắc cử, ông phải đối mặt với một đất nước mà tỷ lệ thất nghiệp  đang  tăng  cao, và các hiệu  ứng không mong muốn của tỷ  giá hối đoái cố  định  đang  biểu thị  một cách mạnh mẽ. Năm 1999 GDP của Argentina đã giảm 4% và cả  nước   bắt đầu bước vào một cuộc suy thoái. Tỷ  lệ  chi ngân sách/GDP tăng từ  27% năm 1997 lên 30% vào năm 2000.  Các  điểm yếu trong nền kinh tế lộ ra dẫn đến cuộc tháo chạy ồ  ạt của nhà đầu tư  nước   ngoài. Argentina bắt buộc phải cầu viện IMF và tổ  chức này ­ với những chính sách  kỳ quặc ­ đã làm tình hình trở nên cực kỳ tồi tệ.
  7. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002)  Nguồn: IMF *  Ước tính; + Dự báo Trung tuần tháng 9 năm 2000, sau sáu tháng trì hoãn, Thượng viện đã thông qua Dự  luật kinh tế  khẩn cấp. Dự  luật này cho phép Chính phủ  của Tổng thống DE LA RUA điều  chuyển hoặc sa thải các nhân viên hợp dồng và hoãn trả  các khoản nợ. Quốc hội phê chuẩn   Đạo luật này cùng với ­ Luật cải cách lao động (thông qua tháng từ năm 2000) và Luật chống  thất thu thuế  (thông qua ngày 6 tháng Chín năm 2000) là một phần trong chương trình phục  hồi kinh tế  cả  gói của Chính phủ  nhằm đạt tỷ  lệ  tăng GDP 3% trong năm 2000, giảm thâm   hụt ngân sách từ' 7,1 tỷ USD xuống còn 4,7 tỷ USD trong năm 2000. Đối với các nhà tài trợ quốc tế, khi đang còn trong giai đoạn mặn nồng thì điều   gì cũng là tốt đẹp, thậm chí ngợi khen hết lời, nhưng khi những bất  ổn xảy ra thì sự  hủy hoại sẽ đến rất nhanh. Bằng chứng là ngay sau khi Quốc hội Argentina họp khẩn   cấp để triển khai cái gọi là “giảm thâm hụt ngân sách xuống bằng không” (zero deficit   plan) vào ngày 11­7­2001, các nhà tài trợ  quốc tế  đã phản ánh rất hài hước về  kế  hoạch này. Moody"s và S&P đã hạ thấp điểm xếp hạng tín nhiệm quốc gia Argentina   ngay sau khi quốc hội thông qua kế  hoạch hoang tưởng này, các chỉ  số  niềm tin liên   tục sút giảm như một tín hiệu phản ứng trước vụ việc nước đến chân mới nhảy của  quốc hội nước này. Thêm vào đó, IMF lại ngưng không hỗ trợ tín dụng cho Argentina,   khủng hoảng kinh tế toàn diện là điều tất yếu phải xảy đến sau đó. Cuối năm 2001 dự  trữ  ngoại tệ  của ngân hàng trung  ương chỉ  còn đúng 2 tỷ. Tổng   thống  Fernando  de la Rua quyết định người dân chỉ  được rút tối đa 1000 USD/tháng, chính  sách này được duy trì cho đến đầu năm 2002. Và cũng trong thời điểm cuối năm 2001, IMF  ngừng cấp các khoản cho vay mới với lý do Argentina không đáp  ứng được các đòi hỏi tài  chính. Argentina tuyên bố phá sản ngay sau đó. Page 7
  8. Trong bối cảnh đó, cướp bóc và bạo loạn nổ ra khắp nơi, nhiều người Argentina trở  nên điên loạn và đổ xô xuống đường ở các thành phố , đặc biệt là Buenos Aires. Họ tham gia  vào một hình thức phản kháng đã trở thành phổ biến được biết đến như cacerolazo (đập nồi   và chảo). Các cuộc biểu tình đã xảy ra đặc biệt là trong giai đoạn 2001­2002. Lúc đầu, các   cacerolazos được đơn giản chỉ ồn ào cuộc biểu tình, nhưng ngay sau họ bao gồm phá hủy tài   sản, thường xuyên xảy ra tại các ngân hàng, các công ty tư  nhân nước ngoài, đặc biệt là các   công ty lớn của Mỹ và châu Âu. Tổng thống Fernando de la Rua tuyên bố tình trạng khẩn cấp (bất hợp pháp vì nó cần   xác nhận của Quốc hội), nhưng điều này chỉ làm tình hình càng tồi tệ hơn, và là nguyên nhân   dẫn đến cuộc biểu tình bạo lực vào ngày 20 và 21/12/2001 tại Plaza de Mayo.  Cuộc biểu tình  đã kết thúc với một vài người chết, và sự sụp đổ của chính phủ. De la Rua cuối cùng đã chạy   trốn khỏi Rosada Casa trong một chiếc trực thăng vào ngày 21/12/2001. Năm 2002, tình hình lạm phát và thất nghiệp tăng cao khiến cho nền kinh tế  càng   khủng hoảng nghiêm trọng. Tỷ  lệ  1:1 đã tăng vọt lên gần 4 pesos mỗi USD. Nhiều doanh   nghiệp đóng cửa hoặc phá sản, chất lượng cuộc sống mức trung bình của Argentina đã giảm  sút.
  9. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) Tóm tắt diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ Argentina: 10/12/1999: Fernando de la Rua nhậm chức tổng thống, hứa hẹn sẽ làm kinh tế  trở lại phồn thịnh sau 10 năm dưới thời Carlos Menem. Tháng 9/ 2000, sau sáu tháng trì hoãn, Thượng viện đã thông qua Dự luật kinh tế  khẩn cấp. 16/3/2001: Bộ  trưởng Kinh tế  Lopez Murphy đưa ra chương trình kinh tế  thắt lưng   buộc bụng 4,45 tỷ USD trong 2 năm, giảm mạnh chi phí cho giáo dục. 19/3/2001: Lopez Murphy từ chức sau khi 9 quan chức chính phủ bỏ chức vụ để phản   đối chính sách của ông. 20/3/2001: Domingo Cavallo, nguyên bộ  trưởng kinh tế  dưới thời Menem, được mời  vào chính phủ với những quyền lực đặc biệt để tái cơ cấu nền kinh tế. Page 9
  10. 3/6/2001: Argentina loan báo đã giải quyết xong 29,5 tỷ USD nợ, hoãn trả 7,8 tỷ lãi tới  năm 2002. 3/7/2001: Thị trường cổ phiếu sụt giảm tới mức thấp nhất trong 28 tháng sau khi có tin   đồn ông De La Rua sẽ từ chức. 11 ­ 26/7/2001: 3 tổ chức đánh giá hấp lực đầu tư  quốc tế  đưa Argentina xuống vị  trí   thấp hơn, khiến uy tín của nước này giảm mạnh. 30/7/2001: Dự thảo kế hoạch thắt lưng buộc bụng của chính phủ được thông qua, bao   gồm những biện pháp đảm bảo cho ngân sách không tiếp tục thâm hụt, giảm 13%  lương cho nhân viên chính phủ và trợ cấp hưu trí. 21/8/2001: Quỹ Tiền tệ Quốc tế đề  xuất cấp thêm 8 tỷ USD, bổ sung vào khoản vay   dự phòng 14 tỷ của Argentina. 1/11/2001: Ông Cavallo thông báo các biện pháp kinh tế mới. 30/11/2001: Người Argentina đổ  xô tới ngân hàng: 1,3 tỷ  USD được rút khỏi các tài  khoản cá nhân. 1/12/2001: Ông Cavallo quyết định hạn chế số tiền mà công chúng được rút ra, nhằm  cứu nguy cho hệ  thống ngân hàng. Tháng 12/2001, Chính Phủ  ra hạn mức rút tiền là   1000 USD/tháng. Thay các khoản tiền gửi bằng trái phiếu chính phủ thời hạn 10 năm  Nhiều ngân hàng và doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. 5/12/2001:   IMF   thông   báo   sẽ   không   giải   ngân   khoản   viện   trợ   1,3   tỷ   USD   cho   Argentina. 6/12/2001: Ông Cavallo chỉ  thị  chuyển quỹ lương hưu một phần thành trái phiếu kho  bạc và phần kia dùng để hỗ trợ các doanh nghiệp trả nợ. 13/12/2001: Thất nghiệp leo đến mức 18,3%, cao nhất kể từ giữa năm 1998.
  11. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) 14/12/2001: Bộ trưởng Tài chính Daniel Marx từ chức nhưng đồng ý làm cố vấn  trong các cuộc đàm phán tái cơ cấu nợ.  17/12/2001: Chính phủ đưa ra chương trình ngân sách 2002 bao gồm khoản cắt  giảm chi tiêu gần 20%. 18/12/2001: IMF nói Argentina có thể hoãn trả khoản nợ 940 triệu USD (theo  hạn phải hoàn vào 1/2002).  19/12/2001: Argentina ban bố tình trạng khẩn cấp để đối phó với các cuộc biểu  tình phản đối chính sách kinh tế của ông Cavallo. Hạ viện bãi bỏ các quyền đặc  biệt ông Cavallo được hưởng trước đó. 20/12/2001: Tổng thống De La Rua và Bộ trưởng Kinh tế Cavallo từ chức vì  biểu tình đã biến thành bạo loạn khiến ít nhất 20 người thiệt mạng.  Tháng 1/2002: Thả nổi tiền, Peso mất giá 29%, USD/peso = 1,4. Tháng 3/2002: Tài sản ngân hàng được chuyển đổi sang đồng Peso, các ngân  hàng lỗ khoảng 10­20 tỷ USD. USD/peso=3,75, các ngân hàng bắt đầu thiếu  tiền mặt. Tháng 4/2002: Các ngân hàng được yêu cầu đóng cửa vô thời hạn. Page 11
  12. III.  NGUYÊN NHÂN CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG:  1.  Các cú sốc từ bên ngoài:  Năm 1999 khi nước Brazil láng giềng phá giá đồng real, các nhà đầu tư và thương nhân   nước ngoài nhận ra mình có thể  dùng đồng USD mua được nhiều hàng hóa hơn  ở  Brazil và một số nước khác trong vùng so với  ở Argentina. Vì thế  đầu tư  nước ngoài   vào Argentina và ngành xuất khẩu của nước này (chủ yếu là hàng nông phẩm) đã sụt   giảm thê thảm. Cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu Á 97­98 mà tiêu biểu là các đợt tấn công đầu cơ vào  đồng baht xảy ra vào tháng 7 năm 1997đã làm chính phủ  Thái Lan phải bảo vệ đồng  tiền của mình bằng cách sử dụng dự trữ ngoại tệ. Khi dự trữ ngoại tệ gần cạn kiệt,  Thái Lan buộc phải thả nổi tỷ giá. Khủng hoảng nhanh chóng lan ra các nước Đông Á  khác. Đồng nội t ệ của Hàn Quốc, Indonesia, Malaysia vả  Philippines đều chịu s ức  ép. Sự phá giá đồng nội tệ ở  các nước này cùng với lãi suất gia tăng đã làm nhiều  doanh nghiệp trước đây vay nợ bằng ngoại tệ không còn khả năng chi trả. Khó khăn  của doanh nghiệp nhanh chóng trở thành khó khăn của các tổ chức tài chính và khủng  hoảng  xảy ra. Đô la lên giá áp lực Peso lên giá theo làm ảnh hưởng xuất khẩu. Mêhico phá giá đồng Peso năm 94. 2.  Hệ thống “Chuẩn tiền tệ” (currency board):  Cơ chế vận hành của “Chuẩn tiền tệ”. Nói một cách ngắn gọn, chế độ  tỷ giá “chuẩn   tiền tệ” quy định: cấm không cho phép ngân hàng trung ương phát hành các khoản nợ ­ tiền có   quyền lực cao (high­power money) ­ nếu như không được bảo đảm hỗ trợ 100% bằng lượng  dự trữ ngoại tệ tương đương. Nói cách khác, hệ thống này chỉ cho phép ngân hàng trung ương   phát hành thêm một lượng tiền tương ứng với lượng ngoại tệ vừa mới bổ sung. Do đó, giá trị  đồng tiền luôn được bảo đảm và đồng thời cũng giúp kiềm chế  lạm phát. Tuy nhiên, hệ  thống “chuẩn tiền tệ” (currency board) khác với hệ  thống “tỷ  giá cố  định” (fixed exchange  
  13. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) rate system). Bởi vì, “tỷ giá cố định” mặc dù cũng duy trì giá trị đồng tiền như “chuẩn tiền tệ”   nhưng lại không có độ  tin cậy cao, nói là “tỷ  giá cố  định” nhưng thật ra đồng tiền cũng có  khả năng bị phá giá. Còn “chuẩn tiền tệ” thì không như vậy, nó luôn giữ  đúng tỷ giá trao đổi   đã được ấn định trước đó. Do đó, “chuẩn tiền tệ” luôn đạt được sự  tin tưởng cao từ các nhà  đầu tư. Nhược điểm: Đầu tiên là việc chính phủ không thể  tự  chủ  trong chính sách tiền tệ. Đơn giản là vì  lãi suất của đồng nội tệ  phải đúng bằng lãi suất của đồng ngoại tệ, nếu không hoạt động  arbitrage sẽ xảy ra. Do đó, chính phủ không thể giảm lãi suất để kích thích đầu tư  hoặc tăng   lãi suất để kiềm hãm lạm phát. Thứ hai, chuẩn tiền tệ có khuynh hướng khuyến khích các nhà đầu tư trong nước kinh  doanh quốc tế vay nợ bằng ngoại tệ mà không hề có bất cứ biện pháp phòng ngừa rủi ro nào   cả, dẫn đến vay nợ quá mức. Chính vì vậy mà khi khủng hoảng xảy ra, các nhà đầu tư này sẽ  là những người chịu thiệt hại lớn nhất. Thứ ba, Ngân Hàng Trung Ương không thể thực hiện chức năng là người cho vay cuối   cùng (nguyên nhân là do hệ  thống currency board quy định không cho phép ngân hàng phát   hành tiền nếu không có lượng ngoại tệ  tương  ứng bổ xung). Do đó, khi khủng hoảng niềm   tin xảy ra, ngân hàng trung  ương không thể  cung cấp cho các ngân hàng thương mại những  khoản vay ngắn hạn được, làm cho các ngân hàng thương mại này không thể  chi trả  các  khoản nợ sắp đáo hạn cho khách hàng. Cuối cùng, tất yếu là hệ thống ngân hàng sẽ sụp đổ. Thứ  tư, do không thể  in thêm tiền và dự  trữ  ngoại tệ  ngày càng ít đi nên ngân sách   chính phủ sẽ bị thâm hụt nghiêm trọng. Chính vì vậy, chính phủ Argentina phải bù đắp thăm  hụt ngân sách bằng các khoản vay nợ  từ  nước ngoài. Điều này làm cho tình trạng nợ  nước  ngoài của Argentina ngày càng gia tăng. Thứ năm, chính sách “chuẩn tiền tệ” làm cho hàng hoá xuất khẩu ngày càng mắc lên  (do đồng đôla tăng giá) và hàng nhập khẩu ngày càng rẻ  đi. Do đó, hàng trăm doanh nghiệp   Page 13
  14. trong nước không thể  cạnh tranh nổi với các doanh nghiệp nước ngoài, buộc phải dẫn đến  phá sản. Thứ sáu, việc đôla hoá nền kinh tế đã tạo ra một hệ thống “tiền tệ kép” (bimonetary   system), cho phép người dân tự do quy đổi từ Peso sang đôla một cách dễ dàng. Điều này đã   làm cho một lượng lớn ngoại tệ “chảy” ra nước ngoài (nguyên nhân là từ  những chuyến du   lich, nghỉ  mát, mua hàng hóa nhập khẩu với giá rẻ  từ  nước ngoài), dẫn đến dự  trữ  ngoại tệ  trong nước bị giảm sút. Tuy nhiên nếu ta vội kết luận ngay rằng “chuẩn tiền tệ” là nguyên nhân chính dẫn  đến khủng hoảng  ở Argentina là sai lầm. Bởi vì, nếu chính sách “chuẩn tiền tệ” là đỉnh của  kim tự tháp thì kinh tế và chính trị là đáy của cái tháp đó. Do đó, nếu đáy của cái tháp đó (kinh  tế và chính trị) bất ổn thì sẽ dẫn đến phần đỉnh tháp (chính sách “chuẩn tiền tệ”) không phát   huy được tác dụng. 3.  Bất ổn về hệ thống chính trị :   Đây là nhân tố  chính đưa Argentina lún sâu vào khủng hoảng. Ta phải nói đến  tổng thống De la Rua. Trước khi trở  thành tổng thống, De la Rua từng giữ  chức thị  trưởng, ông đã đẩy lùi nạn tham nhũng, làm cho ngân sách thành phố từ  thâm hụt trờ  nên dư dã. Khi vận động tranh cử, ông đã từng hứa rằng sẽ “lấy tiền từ túi của những   kẻ tham nhũng để phân phát cho nhân dân”. Tuy nhiên, chính nhờ thành tích đó, sau khi  trở  thành tổng thống, ông đã gặp phải nhiều sự  chống đối ngầm từ  phía các đồng   minh,   điển   hình   là   chủ   tịch   Thượng   viện   Carlos   Alvarez   và   chủ   tịch   phong   trào  Frepaso, người đồng minh quan trọng nhất đột ngột từ chức vì bất đồng, để lại De la  Rua một mình lèo lái con thuyền Argentina đầy sóng gió. Chính vì điều này, ông đã   đưa ra một quyết định cực kỳ  sai lầm: đề  cử  cựu bộ  trưởng kinh tế  Domigo Cavallo   đầy tai tiếng và bê bối trở lại chính trường để giúp ông xử lý khủng hoảng. Tuy nhiên,  việc mời Cavallo chẳng giúp ích được gì cho ông. Cuối cùng thì De la Rua cũng phải   từ chức. Theo sau ông là Ramon Peurta và Adolfo Rodriguez, cả hai chỉ giữ chức tổng 
  15. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) thống chưa tới 1 tuần. Chỉ  tới khi Eduardo Dulhalde lên làm tổng thống thì kinh tế  Argentina mới có dấu hiệu khởi sắc. 4.  Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô sai lầm:  Sai lầm đầu tiên của chính phủ Argentina là việc tự  do hóa hoàn toàn hệ thống ngân   hàng, bao gồm việc tư  nhân hóa hoàn toàn gần như  tất cả  các ngân hàng nhà nước  ở  địa  phương và bán một ít tổ chức tài chính trung bình và lớn cho nước ngoài.   Thứ  hai, đó là việc tự  do cho luân chuyển tư  bản ­ cả  trực tiếp và gián tiếp ­ mà   không có bất kỳ hạn chế nào, dẫn đến việc ngoại tệ bị “bay hơi” sau này. Thứ  ba, tư  nhân hóa các công ty nhà nước. Và do phần lớn các công ty tư  nhân hóa  thuộc lĩnh vực dịch vụ nhu yếu như cung cấp điện, nước... nên các công ty này đẩy giá cả các  mặt hàng dịch vụ của mình cao hơn. Cuộc khủng hoảng của Argentina trở nên trầm trọng khi  nhu cầu tiêu dùng trong nước suy giảm, nhiều doanh nghiệp phá sản và ngày càng có thêm   nhiều người bị  sa thải. Trong khi Argentina không hề  có luật lệ  mạnh và đầy đủ, dẫn đến  nguồn thu ngân sách của chính phủ  không có gì ngoài thuế, không thể  tự  chủ  trong thu­chi  ngân sách. Thứ tư, loại bỏ gần như hoàn toàn hàng rào thuế quan và cắt giảm thuế từ trung bình   45% đầu thập niên 90 xuống còn 11% năm 2000. Thứ  năm, vì mục đích tranh cử  mà tổng thống Carlos Menem sẵn sàng bỏ  qua các   nguyên tắc thị trường, lắp đầy sự  thâm hụt trong ngân sách chính phủ  bằng các khoảng vay   nợ từ nước ngoài trong suốt thời kỳ cầm quyền. Măc dù chính sách này làm cuộc sống người   dân được tăng lên rõ rệt nhưng Argentina lại trở thành con nợ  khổng lồ: 132 tỷ USD. Nó đã  góp phần đưa Argentina đi vào khủng hoảng. Tóm lại, các yếu tố  trên đã kết hợp lại khi người dân bắt đầu nghi ngờ  rằng đồng   peso sẽ bị mất giá nên đổ xô đến các ngân hàng yêu cầu chuyển số tiền của mình sang đồng  USD theo tỷ giá 1:1 đúng theo chính sách của ông D.Cavallo. Trước tình hình này, ông Cavallo   phải đưa ra giới hạn số  tiền rút ra trong một tháng là 1.000 USD nhằm tránh tình trạng các   Page 15
  16. ngân hàng bị kiệt quệ. Song giải pháp này chỉ càng làm người dân cảm thấy bất ổn và trở nên   giận dữ hơn, dẫn đến tình trạng nhiều người kéo nhau đập phá các cửa hiệu và nổ ra những   cuộc biểu tình đòi chính phủ từ chức. 5.  Thâm hụt ngân sách quá lớn:   Sự thâm hụt ngân sách quá lớn tạo ra tình trạng lo sợ rằng chính phủ sẽ mất khả năng  trả nợ. Chính phủ gặp khó khăn trong việc khuyến khích mọi người mua trái phiếu của mình   và không thể tài trợ bằng các khoản cho vay nước ngoài; để  xử lý vấn đề  khó khăn về  ngân   sách, chính phủ buộc các ngân hàng phải mua một lượng lớn trái phiếu. Khi các nhà đầu tư mất niềm tin vào khả  năng của chính phủ trong việc hoàn trả  các  khoản nợ, thì giá của chúng giảm xuống, tạo nên một lỗ hổng lớn trong bảng tổng kết tài sản  của ngân hàng thương mại. Sự suy yếu như vậy trong bảng tổng kết tài sản làm ngân hàng có   ít nguồn lực để cho vay và tình hình thiếu vốn cho vay góp phần tạo ra sự thu hẹp trong hoạt   động kinh tế. Lợi dụng uy tín quốc gia vay nợ nước ngoài để bù đắp ngân sách và ổn định đồng nội   tệ, khi không có đủ ngoại tệ để chi trả thì tất yếu sẽ dẫn đền vỡ nợ.  Gắn liền với việc chính  phủ  của Tổng thống Carlos Menem trong nhiệm kỳ thứ hai của mình đã vay nợ  "thẳng tay"  
  17. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) khiến tổng số  nợ  hiện nay lên đến 132 tỷ  USD, tương đương 1/7 toàn số  nợ  của các nước  đang phát triển. Mỗi khi bị  lâm vào khủng hoảng, Argentina lại cần được vay nợ  nên phải   chấp nhận lãi suất cao (hiện Argentina phải trả lãi 15% cho khoản nợ của mình). Việc chính   phủ mắc nợ nhiều đã làm lãi suất trong nước gia tăng. Nhiều công ty trong nước đã phải đóng  cửa vì tín dụng cho sản xuất, kinh doanh trở nên quá khả năng thanh toán. Các nhà phân tích cho rằng giới lãnh đạo trên thế  giới có thể  rút ra nhiều bài   học từ  công tác điều hành thiếu sót của Chính phủ  Argentina: chi nhiều hơn thu, bỏ  qua một cách thô bạo những quy tắc của kinh tế thị trường, không chú trọng đạt được  sự nhất trí giữa các đảng phái chính trị  và nhắm mắt trước nạn tham nhũng. Xã luận   của tờ  Thương mại (Peru) cho rằng có một "quy tắc vàng" trong kinh tế  mà không   phải nhờ đến IMF hoặc phải là một nhà kinh tế nổi tiếng mới biết được: chỉ thu được  2 đồng thì không nên chi 3 nếu không muốn làm sụp đổ nền kinh tế nước mình. Tóm lại bản chất của cuộc khủng hoảng của Argentina là:  Tăng trưởng kinh tế suy giảm làm các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại về khả năng trả  nợ  của chính phủ  Argentina:  Việc bán trái phiếu cho các nhà đầu tư  nước ngoài trở  nên khó khăn, đồng thời hàng loạt các khoản nợ đền kỳ đáo hạn. Đây chính là khủng   hoảng nợ chính phủ. Chính phủ tìm nguồn tài trợ khác: Buộc các ngân hàng và quỹ lương hữu nội địa mua  trái phiếu chính phủ. Đàm phán để  vay của IMF.   Những sự kiện này làm người dân  đổ   đi   rút   tiền   từ   ngân   hàng   (15   tỷ   USD   được   rút   ra   khỏi   ngân   hàng   từ   T7   đến  T11/2001.Từ T12/2001, trần 1000 USD/tháng tiền gửi có thể rút ra được áp dụng) dẫn   đến khủng hoảng ngân hàng. Tòa án phủ quyết lệnh đóng băng tài khoản của chính phủ   . Tiền tiếp tục được rút ra  buộc ngân hàng trung  ương phải in tiền để  tạo tính thanh khoản cho các ngân hàng  thương mại. Cơ  chế  hội đồng tiền tệ  được hủy bỏ  và đồng peso được phá giá dẫn   đến khủng hoảng tiền tệ. Page 17
  18. IV.  HẬU QUẢ CỦA CUỘC KHỦNG HOẢNG :  Nhiều công ty tư nhân đã bị  ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng: tiêu biểu  Aerolineas   Argentinas ­ một trong những công ty bị   ảnh hưởng nhất Argentina, phải ngừng tất cả  các   chuyến bay quốc tế  cho các ngày khác nhau trong năm 2002. Các hãng hàng không đến gần  phá sản, nhưng đã sống sót. Nông nghiệp cũng bị   ảnh hưởng: Các sản phẩm Argentina bị  từ  chối tại một số  thị  trường quốc tế, vì lo sợ  rằng chúng có thể  hư  hỏng. Mĩ hạn chế  thực phẩm và thuốc của   Argentina. Sản xuất các kênh truyền hình đã buộc phải sản xuất thực tế nhiều hơn bất kỳ loại   hình khác, bởi vì các chúng rẻ hơn so với các chương trình khác. Hầu như tất cả các chương  trình giáo dục ­ truyền hình liên quan đã bị hủy bỏ. Cuộc khủng hoảng có tác động lớn đối với các nước láng giềng,  ảnh hưởng đến   thương mại hàng hoá và dịch vụ, nguồn vốn từ các nguồn lực nước ngoài và kiều hối từ  lao   động di cư, hệ thống ngân hàng và lợi nhuận của các công ty nước ngoài có vốn đầu tư  tại  Argentina và khu vực, cũng như  ảnh hưởng đến tăng biến động trên thị  trường ngoại hối và  các chính sách kinh tế. Nhập khẩu Argentina bị "thả nổi", tính vào khoảng hai phần ba trong bốn tháng  đầu năm 2002, chịu  ảnh hưởng bởi sự mất giá mạnh và điểm yếu trong nước. Điều  này ảnh hưởng đến các nước Mercosur và Chile, với  Uruguay  ảnh hưởng nhiều nhất.  Trong bốn tháng đầu năm 2002, xuất khẩu hàng hoá của mình cho Argentina đã giảm   70% so với cùng kỳ năm 2001, năm đánh dấu một sự suy giảm đáng kể. Hơn nữa, các  vấn đề phát sinh với các khoản thanh toán xuất khẩu, khi Argentina nhập khẩu, quỹ đã   bị chặn và họ mất tất cả các tiếp cận tín dụng. Du lịch từ Argentina cũng đã giảm một  nửa. Tại Brazil, dù thực tế là nền kinh tế lớn hơn ba lần so với Argentina và mặc dù  đa dạng hóa thị  trường, nhưng sự  suy giảm mạnh trong xuất khẩu vào Argentina do  
  19. Khủng hoảng nợ Argentina (2001­2002) doanh số bán hàng hóa ở nước ngoài giảm gần 6%. Năm 2001, Argentina đã mua 8,6%  kim ngạch xuất khẩu của Brazil, gần một phần tư sản phẩm sản xuất của nó, làm cho   Brazil khó khăn để chuyển hướng sang các thị trường khác trong ngắn hạn. Hơn nữa,   xuất khẩu của Brazil phải đối mặt với khó khăn trong việc có được thanh toán tiền  bán hàng. Du lịch cũng bị ảnh hưởng. Tại  Paraguay, xuất khẩu sang Argentina  đã giảm khoảng hai phần ba trong   những tháng đầu năm 2002. Tại Chile, khu vực thực sự của nền kinh tế thương mại song phương hàng hóa,   du lịch và lợi nhuận của các công ty Chile với các công ty con  ở  Argentina bị   ảnh  hưởng. Mặc dù xuất khẩu vào Argentina chỉ  chiếm 3,2% của tổng số của Chile vào  năm 2001. Thật khó để tính toán tác động của cuộc khủng hoảng của Argentina trong lĩnh  vực tài chính, vì những biến động trên toàn hệ thống đã ảnh hưởng những thị  trường   mới nổi từ  năm 1997. Tuy nhiên, sự  suy giảm dòng vốn đầu tư  từ  các thị  trường tài  chính quốc tế  là đáng kể, làm cho tín dụng tại Brazil và Uruguay đắt hơn, mặc dù   Chile đã không bị ảnh hưởng. Khả  năng thanh toán của các hệ  thống tài chính cũng bị   ảnh hưởng. Các ngân  hàng lớn nước ngoài ­ Mỹ, Tây Ban Nha và các nước khác ở châu Âu ­ với các công ty   con  ở  Argentina đã “bị  thương” rất nặng bởi cuộc khủng hoảng. Một số  ngân hàng   Brazil gặp khó khăn, nhưng thiệt hại của họ không lớn lắm. Ngược lại, ba ngân hàng   Uruguay lại ảnh hưởng lớn từ Argentina. Trong những tháng đầu năm 2002, những sự  kiện này đã châm ngòi cho việc rút tiền gửi ngoại tệ nhiều nhất thực hiện trong năm   2001, kết quả  là tạo ra một sự  suy giảm đáng kể  trong dự  trữ  quốc tế  của Uruguay .  Tương tự  như  vậy, không có khả  năng xử  lý tiền gửi ngân hàng  ở  Argentina tạo ra   việc đóng cửa tạm thời của một ngân hàng Uruguay. Cuối cùng, đề cập đến tác động của cuộc khủng hoảng về tài sản dựa trên các  công ty xuyên quốc gia, mà có thể  ảnh hưởng đến đầu tư  trực tiếp nước ngoài trong  Page 19
  20. khu   vực.   Trong   toàn   khu   vực,   quốc   gia   bị   ảnh   hưởng   nhiều   nhất   vì   đầu   tư   vào   Argentina là Chile, với giá trị  đầu tư  khoảng 3.2 tỉ  $.Giá trị  của cổ  phiếu giảm 12%  trong những tuần sau phá giá tại Argentina. Thu nhập giảm từ  208 triệu USD trong   năm 2000 xuống 114 triệu USD vào năm 2001, và dự kiến là số không vào năm 2002.   Argentina nhanh chóng mất đi niềm tin của nhà đầu tư và các “chuyến bay của   tiền” từ nước này tăng lên. Người dân lo sợ cho sự an toàn của số tiền đã gửi và không   biết chất lượng danh mục cho vay của ngân hàng, người gửi tiền đổ xô đến ngân hàng  rút tiền, dẫn đến tình trạng hoảng loạn ngân hàng bắt đầu từ  ngày 11/10/2001. Tình  hình này, cộng với nhận thức chính phủ  sẽ  tuyên bố  vỡ  nợ  , dẫn đến tới cuộc tấn  công đầu cơ vào đồng  peso của Argentina và đồng tiền này đã sụp đổ­ giảm tới trên   70% giá trị. Nó làm cho các doanh nghiệp có mức nợ  cao bằng đồng tiền nước ngoài  hoàn toàn mất khả năng trả nợ. Tình hình này càng làm tăng vấn đề lựa chọn tiêu cực  và rủi ro đạo đức. Kết quả, người cho vay trong nước và nước ngoài ít sẵn sàng cho   vay hơn nữa làm sụt đổ  hoạt động kinh tế  và tốc độ  tăng GDP thực tế  đã giảm. Sự  suy giảm trong dòng tiền mặt và bảng tổng kết tài sản của các doanh nghiệp và các hộ  gia đình làm cho tình trạng khủng hoảng ngân hàng ngày càng tồi tệ hơn làm cho vấn   đề lựa chọn tiêu cực và rủi ro đạo đức trên thị trường tài chính xấu đi do ngân hàng ít  có khả năng đóng vai trò truyền thống của mình là trung gian tài chính. Hầu hết các chuyên gia đều đồng ý rằng, khủng hoảng đem lại hậu quả  rất  xấu đối với Argentina, nhưng tác động ra thế giới bên ngoài thì không đáng kể, chỉ có  Tây Ban Nha và Nam Phi, nơi có nhiều công ty có quan hệ làm ăn lớn với Argentina,  chịu tác động một phần của cuộc khủng hoảng kinh tế. Cổ phiếu của các ngân hàng  Tây Ban Nha ­ một chủ nợ lớn của Argentina ­ sụt giá mạnh nhất, khiến chỉ số chứng  khoán của nước này giảm 1,1% trong phiên giao dịch hôm qua. Đồng rand của Nam Phi   cũng giảm xuống mức lịch sử  so với USD, bảng Anh và euro. Trong khi đó, các nhà   đầu tư  trên thế  giới vẫn tỏ  ra lạc quan trước những cuộc bạo động  ở  Argentina do  ảnh hưởng của nó với các thị trường lớn là rất khiêm tốn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2