Bài văn mẫu: Phân tích Chinh phụ ngâm
lượt xem 55
download
Bài văn mẫu: Phân tích Chinh phụ ngâm giới thiệu tới các bạn về tác phẩm Chinh phụ ngâm. Mời các bạn tham khảo tài liệu để hiểu rõ hơn về nguồn gốc, xuất xứ, tác giả, ý nghĩa của từng câu thơ trong tác phẩm này. Với lời văn sâu sắc, mạch văn trôi chảy đây sẽ là tài liệu hữu ích cho các bạn khi tham khảo bài làm văn mẫu.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bài văn mẫu: Phân tích Chinh phụ ngâm
- Chinh ph ụ ngâm đ ư ợ c vi ế t b ằng ch ữ Hán, do tác gi ả Đ ặn g Tr ần Côn sáng tác vào kho ảng n ử a đầu th ế k ỉ XVIII. Đ â y là th ời kì vô cùng r ố i ren c ủa xã h ội phong ki ế n. Chi ến tranh x ảy ra liên miên, h ết Lê-M ạ c đánh nhau đ ến Tr ịnh-Nguy ễ n phân tranh, đ ất nước chia làm hai n ử a. Ngai vàng c ủ a nhà Lê m ụ c ru ỗng. Nông dân b ấ t bình n ổ i dậ y kh ởi ngh ĩa ở kh ắp n ơi. Nhân dân s ống trong c ả nh lo ạ n li n ồ i da n ấ u th ịt, cha m ẹ xa con, v ợ xa ch ồng. V ăn h ọc th ờ i kì này t ập trung ph ản ánh b ả n ch ấ t tàn b ạo, ph ản độn g c ủa giai c ấp th ống tr ị và n ỗ i đau kh ổ c ủ a nh ữ ng n ạn nhân trong ch ế đ ộ th ố i nát ấy . Tác ph ẩm Chinh ph ụ ngâm c ủ a Đặn g Tr ần Côn ra đ ời đ ã nh ậ n đư ợ c sựđ ồn g c ả m rộ ng rãi của t ầng l ớp Nho s ĩ. Nhi ề u b ản d ịch xu ấ t hi ện, trong đ ó bả n d ịch sang ch ữ Nôm c ủ a bà Đ o àn Th ị Đểi m được coi là hoàn h ả o h ơn c ả , th ể hi ệ n thành công l ẫ n tr ị n ộ i dung và ngh ệ thu ật c ủa nguyên tác. N ội dung Chinh ph ụ ngâm ph ản ánh thái độ oán ghét chi ến tranh phong ki ế n phi ngh ĩa, đặc bi ệt là đề cao quy ền s ống cùng khao khát tình yêu và h ạnh phúc l ứ a đôi c ủ a con ng ười . Đ ó là đề i u ít đ ư ợ c nh ắ c đ ến trong th ơ v ă n tr ư ớc đ ây. Ng ười chinh ph ụ v ốn dòng dõi trâm anh. Nàng ti ễ n ch ồng ra tr ận v ới mong mu ố n ng ười ch ồng s ẽ l ập đư ợ c công danh và tr ở v ề cùng v ới vinh hoa, phú quý. Nh ư ng ngay sau bu ổi ti ễn đ ưa , nàng s ống trong tình c ả nh l ẻ loi, ngày đ êm xót xa lo l ắ ng cho ch ồ ng. Th ấm thìa n ỗi cô đơn , nàng nh ận ra tu ổ i xuân c ủ a mình đang qua đ i và c ảnh l ứ a đôi đoàn t ụ h ạnh phúc ngày càng xa v ời. Ng ười chinh ph ụ r ơ i vào tâm tr ạ ng cô đơn đến cùng c ự c. Khúc ngâm th ể hi ện r ất rõ tâm tr ạ ng cô đ ơn ấy . Đo ạn trích tình c ảnh l ẻ loi c ủ a ng ười chinh ph ụ (t ừ câu 193 đến câu 228) miêu t ả nh ững cung b ậc và s ắc thái khác nhau c ủ a n ỗi cô đơn , bu ồ n kh ộ ở ng ư ời chinh ph ụ đang khao khát được s ống trong tình yêu và h ạ nh phúc l ứa đ ôi. Đ o ạn trích có th ể chia làm ba đo ạn nh ỏ : – Đ o ạn 1 : T ừ D ạo hiên v ắng th ầ m gieo t ừ ng b ư ớc … đ ến Dây uyên kinh đ ứt , phím loan ng ại chùng: N ỗi cô đơn c ủ a ng ư ời chinh ph ụ trong c ả nh l ẻ loi; c ảm giác v ề th ờ i gian ch ờ đợi ; c ố tìm cách gi ải khuây nh ư ng không đượ c. – Đ o ạn 2: T ừ Lòng này gùi gió đông có ti ện… đ ốn Sâu t ư ờn g kêu v ắng chuông chùa n ện kh ơi: N ỗi nh ớ th ư ơn g ng ư ời ch ồ ng ở ph ư ơn g xa; c ả nh v ậ t khi ế n lòng nàng thêm s ầu th ảm. – Đ o ạn 3: T ừ Vài ti ếng d ế nguy ệt soi tr ư ớc ốc … đ ến Tr ư ớc hoa d ư ới nguy ệ t trong lòng xi ết đau!. C ảnh v ậ t xung quanh khi ến lòng ng ười chinh ph ụ r ạo r ự c ni ề m khát khao h ạnh phúc.
- Sau bu ổi ti ễ n đư a , ng ười chinh ph ụ tr ở v ề , t ưở n g t ượ n g ra c ảnh chi ế n tr ườ n g đầ y hi ểm nguy, ch ết chóc mà xót xa, lo l ắng cho ch ồ ng. M ộ t lầ n nữ a nàng t ự h ỏi vì sao đ ôi l ứ a uyên ươ n g l ại ph ải chia lìa? Vì sao mình l ại rơi vào tình c ảnh l ẻ loi? B ấ y nhiêu câu h ỏi đều không có câu tr ả l ời. Tâm tr ạ ng b ă n kho ă n, day d ứt ấy được tác gi ả th ể hi ệ n sinh độn g b ằng ngh ệ thu ậ t miêu t ả tâm lí tinh t ế . Có th ể nói, s ầ u và nh ớ là c ả m xúc ch ủ đạo trong đo ạn th ơ này. Trong m ườ i sáu câu th ơ đầ u , tác gi ả t ập trung miêu t ả hành độ n g và tâm tr ạng c ủ a ng ườ i chinh ph ụ : D ạo hiên v ắng th ầm gieo t ừ ng b ướ c Ng ồi rèm th ưa r ủ thác đòi phen. Ngoài rèm th ướ c ch ẳng mách tin, Trong rèm d ườ n g đã có đèn bi ết ch ă ng ? Đ è n có bi ết d ườn g b ằ ng ch ẳ ng bi ế t? Lòng thi ếp riêng bi thi ết mà thôi. Bu ồn r ầu nói ch ẳng nên l ời, Hoa đèn kia v ới bóng ng ườ i khá th ương! Nàng l ặng l ẽ D ạo hiên v ắng th ầm gieo t ừ ng b ướ c trong n ỗ i cô đơ n đ a ng tràn ng ậ p tâm h ồn. Nh ịp th ơ ch ậm g ợi c ảm giác nh ư th ờ i gian ng ư ng đọ n g. Gi ữ a không gian t ịch m ịch, ti ếng b ướ c chân nh ư gieo vào lòng ng ườ i âm thanh l ẻ loi, cô độc . N ỗi nh ớ nhung s ầu mu ộn và kh ắc kho ải mong ch ờ khi ế n b ước chân ng ười chinh ph ụ tr ở nên n ặng tr ĩu. Nàng b ồn ch ồn đứ n g ng ồi không yên, h ế t buông rèm xu ống r ồ i l ại cu ốn rèm lên, s ốt ru ột mong m ột ti ế ng chim th ước báo tin vui mà ch ẳ ng th ấ y. Nàng khát khao có ng ườ i đồ n g c ảm và chia s ẻ tâm tình. Không gian im ắn g, ch ỉ có ng ọn đèn đố i di ện v ới nàng. Lúc đầu , nàng t ưở n g nh ư ng ọn đèn bi ết tâm s ự c ủ a mình, nh ưng r ồi l ại ngh ĩ: Đ è n có bi ết d ườ ng bằ ng ch ẳng bi ế t, b ở i nó là v ậ t vô tri vô giác. Nhìn ng ọn đèn chong su ốt n ă m canh, d ầu đã c ạ n, b ấc đ ã tàn, nàng ch ợ t liên t ưở n g đến tình c ảnh c ủ a mình và trong lòng r ư ng r ư ng n ỗ i th ươ n g thân t ủ i ph ậ n: Hoa đ èn kia v ới bóng ng ười khá th ươ n g! Hình ản h ng ườ i chinh ph ụ th ầm gieo t ừ ng b ướ c ngoài hiên v ắ ng và su ố t năm canh ng ồ i m ột mình bên ng ọn đèn chong, không bi ết san s ẻ n ỗi ni ềm tâm s ự cùng ai đã miêu t ả được tâm tr ạng cô đơn t ộ t độ c ủ a ng ười chinh ph ụ .
- Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn deo đẳng, ám ảnh nàng. Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi: Gà eo óc gáy sương năm trống, Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên. Khắc giờ đằng đẵng như niên, Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa. Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào! Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh: Hương gượng đốt hồn đà mê mải, Gương gượng soi lệ lại châu chan. Sắt cầm gượng gảy ngón đàn, Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn
- nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy. Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió: Lòng này gửi gió đông có tiện ? Nghìn vàng xin gửi đến non Yên. Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, con thơ: Non Yên dù chẳng tới miền, Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời trung đại: Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu, Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao,
- đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác: Cảnh buồn người thiết tha lòng, Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả. Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn: Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô. Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chí mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng. Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm: Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên. Lá màn lay ngọn gió xuyên, Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm. Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm, Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông. Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng, Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau! Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người chinh phụ cũng chí vò võ một mình một bóng mà thôi!
- Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa dôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo. Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên… Đặc biệt, tác giả đã sử dụng thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát, giống như những đợt sóng dạt dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (bài 4)
7 p | 916 | 116
-
Phân tích bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ -Bài 2
23 p | 1145 | 76
-
Bài văn mẫu lớp 10: Phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (bài số 3)
7 p | 1033 | 72
-
Phân tích Nỗi Buồn của người chinh phục trong bài "Chinh Phụ Ngâm Khúc"
6 p | 485 | 70
-
Phân tích tâm trạng người chinh phụ trong đoạn ''Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngâm "
7 p | 761 | 46
-
Phân tích Diễn biến tâm trạng của người chinh phụ trong tác phẩm "Chinh phụ ngâm"
7 p | 573 | 18
-
Phân tích tác phẩm "Chinh Phụ Ngâm"
10 p | 327 | 15
-
Giáo án bài 7: Sau phút chia ly (trích Chinh phụ ngâm khúc) - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
8 p | 330 | 10
-
Giáo án bài 7: Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
8 p | 247 | 6
-
Giáo án bài 6: Đặc điểm của văn bản biểu cảm - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
8 p | 158 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn