BẢN CHẤT VÀ QUY LUẬT CỦA ĐỜI SỐNG TINH THẦN

Đào Duy Thanh

Trong lịch sử nhận thức của loài người, do các cách nhìn và cách tiếp

cận khác nhau mà các trường phái triết học đưa ra những quan niệm khác

nhau về khái niệm "Tinh thần". Các nhà triết học duy tâm khách quan nhìn

thấy yếu tố tinh thần từ bên ngoài con người, còn các nhà duy tâm chủ quan

lại nhìn thấy yếu tố tinh thần trong chính bản thân con người.Các nhà duy

vật, ngay từ thời cổ đại đã coi tinh thần là sự hoạt động lý luận. Chẳng hạn,

Anxtốt đã coi hình thức cao nhất của tinh thần là tư duy về tư duy.

Đến thế kỷ XVII-XVIII, các nhà triết học duy vật như Hôpxơ và Lôccơ lại

coi tinh thần là sự kết hợp của các cảm giác. Triết học cổ điển Đức lại xem xét tinh

thần từ góc độ ý thức và tự ý thức. Hêgen hiểu tinh thần như là sự thống nhất của

tự ý thức và ý thức được thực hiện trong lý tính, đồng thời là sự thống nhất hoạt

động thực tiễn và lý luận nhằm vượt qua cái tự nhiên, vượt qua bản thân mình

trong quá trình tự nhận thức.

Tư tưởng triết học duy vật biện chứng đã nhìn nhận đúng bản chất của tinh

thần : Đó là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong đầu óc con người. Mác

viết : "Ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con

người và được cải biến đi ở trong đó" (1). Tư tưởng này cũng được Lênin khẳng

định: "Đối với người duy vật, thì "cái đang tồn tại trên thực tế” là thế giới bên

ngoài mà cảm giác của chúng ta là hình ảnh của thế giới đó"(2). Các nhà triết học

duy vật biện chứng hiện đại cũng khẳng định rằng: "Tinh thần, theo nghĩa rộng

của từ là một khái niệm đồng nhất với cái quan niệm, với ý thức là hình thức hoạt

động tâm lý cao nhất; theo nghĩa hẹp của từ thì đồng nghĩa với khái niệm tư duy"

(3)

Chủ nghĩa duy vật biện chứng không quy cái tinh thần vào một tổng giản đơn

những cảm giác; nó cũng bác bỏ quan niệm coi tinh thần là một thực thề thuần tuý

độc lập với vật chất và với con người. Bởi vì, nói đến tinh thần là nói đến sự hoạt

động của ý thức con người, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong đầu óc

con người; đó không phải là một sự phản ánh thụ động, sao chép giản đơn về hiện

thực khách quan, mà là sự phản ánh tích cực năng động và sáng tạo.

Quan điểm duy vật biện chứng về tinh thần là cơ sở khoa học cho việc tìm

hiểu bản chất và quy luật của đời sống tinh thần của con người và xã hội.

Theo quan điểm mác xít, tính chất đặc trưng của đời sống tinh thần là một hệ

thống hoạt động mang tính xã hội, cho nên phạm trù "Đời sống tinh thần xã hội"

và phạm trú "ý thức xã hội" là cùng bản chất, do đời sống xã hội quy định. Đời

sống tinh thần rộng hơn ý thức xã hội. Bởi ngoài ý thức xã hội thì đời sống tinh

thần còn các yếu tố tình cảm, tâm tư, mong muốn chưa phải ý thức. Trong quan hệ

khác, ý thức xã hội và ý thức cá nhân luôn luôn tác động qua lại với nhau và có

tính mâu thuẫn bởi sự đấu tranh tư tưởng giữa các nhóm xã hội, sự trao đổi quan

điểm, tư tưởng, luận thuyết, v.v. ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và mỗi

cá nhân.

Do vậy, nghiên cứu ý thức xã hội, nghiên cứu đời sống tinh thần xã hội phải

giải quyết các vấn đề: ý thức xã hội bao hàm ý thức cá nhân như thế nào? Ý thức

xã hội có gì khác với ý thức cá nhân? Biện chứng giữa ý thức xã hội và ý thức cá

nhân được thể hiện trong đời sống tinh thần của con người và xã hội ra sao? Bản

chất, kết cấu và sự vận động của đời sống tinh thần?

Giải quyết những vấn đề trên không phải là đơn giản. Thực tế đã có nhiều

khuynh hướng khác nhau khi đề cập đến vấn đề này. Có thể nêu ra những khuynh

hướng cơ bản sau đây:

Khuynh hướng thứ nhất cho rằng đời sống tinh thần của con người và xã hội

chỉ giới hạn trong "cái tinh thần", đó là tư tưởng, là ý thức hoặc là tư duy, v.v..

Cách hiểu này chưa thật đầy đủ và chính xác. Bởi vì nó chỉ nhấn mạnh thuộc tính

chung vả phổ biến nhất của ý thức để phân biệt ý thức với vật chất, với thực tại

khách quan chứ chưa nêu được tính chất, đặc trưng của đời sống tinh thần như một

hệ thống đang hoạt động của con người mang tính lịch sử - xã hội.

Khuynh hướng thứ hai hiểu đời sống tinh thần của con người và xã hội là ý

thức xã hội, là cái đứng trên cá nhân hoặc xem ý thức cá nhân là đồng nhất với ý

thức xã hội. Quan điểm này đã đề cập đến những đặc trưng của đời sống tinh thần

trong tính hệ thống của lịch sử xã hội, nhưng lại đối lập một cách tuyệt đối ý thức

xã hội với ý thức cá nhân.

Ý thức xã hội, đời sống tinh thần là một hiện tượng do xã hội quy định không

chỉ về cơ chế phát sinh và phát triển , mà cả về tính chất tồn tại lẫn vai trò của nó

trong đời sống xã hội. Nó là một hiện tượng của xã hội, là dạng đặc thù của thực

tại . Cho nên, theo chúng tôi, ý thức xã hội , đời sống tinh thần không phải là cái

chung thuần tuý, mà được thể hiện trong một hệ thống: "Con người-hoạt động-

giao tiếp- xã hội- lịch sử-ngôn ngữ-văn hoá" (4).

Tính hệ thống của ý thức xã hội, của đời sống tinh thần thể hiện trong tiến

trình vận động và phát triển của các cá nhân kế tiếp nhau qua các chế độ chính trị -

xã hội và các thời đại khác nhau trong tiến trình phát triển của lịch sử. Tất nhiên,

không thể xem ý thức xã hội , đời sống tinh thần là một hệ thống phi nhân cách

của những tư tưởng trừu tượng, thoát khỏi con người rồi thống trị mặt tinh thần

của con người bằng tổng thể lịch sử của nó. Ý thức xã hội không phải là tổng số

những ý thức cá nhân được hiểu một cách máy móc,đơn giản. Cho nên đời sống

tinh thần của con người và xã hội cũng không thể đồng nhất với ý thức xã hội như

là cái đứng trên cá nhân, không bao hàm ý thức cá nhân...; nó phải được hiểu là

một sự thống nhất biện chứng giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân, đời sống tinh

thần của xã hội và của cá nhân cùng với tính cộng đồng của các tập đoàn xã hội và

toàn xã hội.

Vấn đề này đã được Mác và Enghen khẳng định: "Đời sống tinh thần liên hệ

biện chứng với đời sống xã hội, phản ánh những quá trình và những mâu thuẫn xã

hội , nó tương ứng với những hình thức muôn màu muôn vẻ của hoạt động xã hội

của con người" (5).

Như vậy, việc xác định bản chất, cơ cấu và sự vận động của đời sống tinh

thần như là sự phản ánh các quá trình vật chất trong tiến trình phát triển của lịch sử

không chỉ có ý nghĩa đối với việc xác định tính.hệ thống và tính đặc thù của đời

sống tinh thần mà còn thể hiện nội dung khách quan của nó.

Sự phân tích trên cho thấy, đời sống vật chất và đời sống tinh thần của xã hội

là không đồng nhất. Nội dung phạm trù không chỉ là sự phản ánh hiện thực khách

quan, mà còn thể hiện tính chất xã hội của chính quá trình phản ánh đó trong đời

sống tinh thần và được thể hiện trong sự tác động qua lại giữa chúng. Việc nghiên

cứu tính chất xã hội của đời sống tinh thần buộc chúng ta phải xác định mối quan

hệ bản chất chung nhất của đời sống tinh thần thông qua những quy luật vận động.

Việc xác định này không chỉ phải làm rõ tính khác biệt về nội dung và hình

thức của các yếu tố, các bộ phận cấu thành.tư tưởng khác nhau của đời sống tinh

thần, mà còn phải làm rõ mối quan hệ biện chứng của hoạt động tinh thần giữa các

chủ thể xã hội từ góc độ các cá nhân, các tập đoàn xã hội và toàn xã hội.

Không thể xem xét tính đặc thù của đời sống tinh thần như một hiện tượng

đặc thù của cái tinh thần cá nhân, ý thức cá nhân, mà như là một hiện tượng tinh

thần xã hội trong chỉnh thể toàn vẹn của nó. Tuy nhiên, không thể đồng nhất tính

chất xã hội của đời sống tinh thần với quy định xã hội (của đời sống tinh thần ),

với tính chất xã hội của ý thức cá nhân. Bởi vì, con người với tính cách là chủ thể

của các quá trình nhận thức cá nhân không tương ứng với con người chủ thể của

quá trình nhận thức xã hội. Thật vậy, Engen viết: “Đối với từng người riêng lẻ, tất

cả những động lực thúc đẩy những hành động của người đó đều nhất định phải đi

qua đầu óc, phải biến thành lực đẩy ý chí của anh ta. Toàn bộ nhu cầu của người

đó, đều phải chuyển thành động cơ của ý muốn của người đó để làm cho người đó

hành động thì tất cả những nhu cầu của xã hội công dân - dù giai cấp nào đang

nắm quyền lực cũng vậy - đều nhất định phải thông qua ý muốn của nhà nước để

có được giá trị phổ biến dưới hình thức những đạo luật" (6).

Sự tác động qua lại giữa tính chất, mối liên hệ xã hội và kết quả phản ánh của

hoạt động tinh thần đã làm xuất hiện đời sống tinh thẩn của con người và xã hội

trong một chỉnh thể toàn vẹn các quá trình hoạt động: giao tiếp-ngôn ngữ-văn hoá.

Chỉnh thể đó mang tính lịch sử - xã hội, mà bản chất của nó là sự phản ánh các quá

trình vật chất và hoạt động vật chất một cách tích cực, năng động và sáng tạo của

con người.

Cũng như bất kỳ một hiện tượng xã hội nào khác, đời sống tinh thần của con

người và xã hội cũng được nghiên cứu từ bên trong bản thân ý thức xã hội, do đó

nó không thể mang tính tuyệt đối. Về kết cấu, đời sống tinh thần được chia theo

"chiều dọc" thành những cấp độ và theo "chiều ngang" thành những hình thái. Ở

những nét chung nhất, đó là những cấp độ cơ bản của lĩnh vực tinh thần của đời

sống xã hội. Toàn bộ các hình thái của ý thức xã hội hoạt động trong phạm vi

những cấp độ ấy. Đó là mối quan hệ giữa ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý

luận, giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng cũng như sự tác động qua lại giữa các hình

thái ý thức xã hội như triết học, ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo

đức, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và khoa học. Tuy nhiên, xét đến cùng, kết

cấu của đời sống tinh thần hay của ý thức xã hội đều thể hiện trong mối quan hệ

với tồn tại xã hội hay đời sống vật chất của xã hội, tức là chúng đều do tồn tại xã

hội hay chức năng phản ánh của nó đối với tồn tại xã hội quyết định.

Trong các tài liệu triết học mác xít (7), quy luật của đời sống tinh thần được

phân ra làm ba loại phổ biến nhất:

Một là, các quy luật xã hội học chung của hình thái và sự phát triển ý thức xã

hội; vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội ; tính độc lập tương

đối trong sự phát triển của hệ tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung; tính kế

thừa và phát triển của đời sống tinh thần...

Hai là, những mối quan hệ mang tính quy luật bên trong của đời sống tinh

thần, chúng biểu hiện sự tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố khác nhau của ý

thức xã hội, sự hoạt động của chúng giới hạn trong ý thức xã hội.

Ba là, những mối quan hệ mang tính quy luật đặc thù và dấu hiệu của các

kiểu ý thức xã hội khác nhau trong lịch sử xã hội.

Vấn đề ở đây là phải tìm hiểu xem những qui luật về mối quan hệ biện chứng

giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, được thể hiện về hình thức, nội dung và vai trò

của nó đối với đời sống tinh thần như thế nào? Sự phân tích ở trên cho thấy, những

qui luật thể hiện nguồn gốc, động lực qui định sự phát sinh, tồn tại và phát triển

của đời sống tinh thần chính là cái quy định quy luật của đời sống tinh thần chứ

không phải quy luật của đời sống tinh thần nằm ngay trong bản thân nó, hoặc

ngược lại, phụ thuộc một cách tuyệt đối vào đời sống vật chất xã hội. Trong "Hệ

tư tưởng Đức", Mác và Engen đã nhận xét rằng: "Đạo đức, tôn giáo, siêu hình học

và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng

với chúng liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có

lịch sử, không có sự phát triển; chính con người, khi phát triền sự sản xuất vật chất

và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi cùng với hiện thực đó của mình,

cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình” (8). Như vậy, những nguyên nhân qui

định qui luật phát triển của đời sống xã hội được xác định với những nội dung cụ

thể sau:

Một là, qui luật phát triển của đời sống tinh thần về cơ bản không nằm trong

các nhân tố, yếu tố của chính lĩnh vực ấy, mà nằm trong các qui luật vật chất,

trong động lực của tồn tại xã hội hay đời sống vật chất xã hội. Điều đó có nghĩa là,

quy luật phát sinh, phát triển của đời sống tinh thần có nguồn gốc và bị qui định

bởi hoạt động vật chất, đời sống vật chất xã hội, là một mặt của quá trình lịch sử

nói chung. Như vậy, loại qui luật thứ nhất bao gồm những qui luật đời sống vật

chất của xã hội. Loại qui luật này chủ yếu xác định nguồn gốc phát sinh của đời

sống tinh thần. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu một cách đơn giản đời sống tinh

thần chỉ xuất hiện sau khi đã có đời sống vật chất, hoặc đời sống vất chất phải xuất

hiện một thời gian rồi mới có đời sống tinh thần, mà là sự xuất hiện đồng thời.

Hai là, không thể đồng nhất các qui luật của đời sống tinh thần với các qui

luật của các quá trình đời sống vật chất xã hội. Cần thấy rõ sự khác nhau giữa một

bên là các qui luật qui định sự phát sinh, phát triển đời sống tinh thần với một bên

là các qui luật của chính đời sống tinh thần xét cả về nội dung cũng như hình thức

của chúng. Loại qui luật này thể hiện sự tác động qua lại giữa đời sồng vật chất và

đời sồng tinh thần. Nhưng vấn đề phức tạp trước hết là ở chỗ, trong mối quan hệ

này không thể nói một cách đơn giản về "tính thứ nhất" , "tính thứ hai" trên bình

diện triết học nói chung, mà phải hiểu tính qui định của đời sồng vật chất xã hội

đối với đời sống tinh thần còn là sự tác động trở lại với tư cách là sự phản ánh và

hoạt động tích cực, sáng tạo của đời sống tinh thần đối với đời sống vật chất.

Ba là, các qui luật đặc thù bên trong của đời sống tinh thần, kể cả các biểu

hiện mang tình qui luật chung giữa các yếu tố, các dạng, các hình thái hay các lĩnh

vực khác nhau của ý thức xã hội hay đời sống tinh thần, cũng như các dấu hiệu có

tính qui luật thể hiện một cách cụ thể , đặc trưng cho một cộng đồng lịch sử đều là

sự biểu hiện của những quá trình đời sống vật chất trong một hình thái kinh tế xã

hội nhất định.

Dẫn chứng về đặc điểm của sự phát triển của những chuẩn mực pháp quyền

đã khẳng định tính độc lập tương đối của đời sống tinh thần xã hội. Có quan điểm

cho rằng tính độc lập tương đối là đặc trưng của các quy luật phát triển xã hội và

đồng thời cũng là những qui luật đặc thù của đời sống tinh thần. Thực ra, vấn đề

không phải hoàn toàn như vậy. Bởi vì tính độc lập tương đối, cái biểu hiện các dấu

hiệu chung nhất của đời sống tinh thần, đã đạt tới mức phát triển toàn diện, với

tính chất xã hội của đời sống tinh thần như là một chỉnh thể thống nhất đa dạng,

phong phú và toàn vẹn của nó. Đồng thời, sự khác biệt về tính chất, nội dung, vai

trò và mức độ của những đặc điểm phát triển đời sống tinh thần đối với ý thức xã

hội ở các thời đại khác nhau, trong những điều kiện lịch sử khác nhau là có ý

nghĩa to lớn.

Tóm lại, cái tinh thần không thuần tuý là "hình ảnh chủ quan của thế giới

khách quan", mà là "hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan" đã được "cải

biến" ở trong bộ óc người.

Cho nên, đời sống tinh thần không chỉ thể hiện ở thuộc tính chung và phổ

biến của nó so với “thực tại khách quan" mà phải được xem xét trong hệ thống con

người-hoạt động-giao tiếp ngôn ngữ-văn hoá mang tính lịch sử -xã hội. Kết cấu và

sự vận động của đời sống tinh thần một mặt, có nguồn gốc sâu xa và trực tiếp từ

những qui luật của sự tồn tại và phát triển của xã hội nói chung. Mặt khác, kết cấu

và đời sống tinh thần đó còn được thể hiện ở những qui luật đặc thù của bản thân

đời sống tinh thần cũng như sự tác động qua lại giữa các quy luật này trong sự vận

động, phát triển của đời sống tinh thần xã hội.

Chú thích:

(1) C. Mác, F. Engen.. Toàn tập, t 23, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.

35

(2) V. I. Lênin. Toàn tập, t. 18. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 128

(3) Từ điển triết học. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr. 577

(4) A.G.Xpirkin. Triết học xã hội, t.2. Nxb Tuyên huấn, Hà Nội, 1989. tr. 55.

(5) Trích theo Erích Han. Về tính chất của những qui luật của đời sống tinh thần

xã hội. Tạp chí “Những vấn đề Triết học", số3-1974, tr. 23-31 (tiếng Nga).

(6) C. Mác, F. Engen. Tuyển tập gồm 6 tập, t.VI. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984,

tr.412

(7) Xem: Erích Han. Về tích chất của những qui luật của đời sống tinh thần xã

hội. Tạp chí “Những vấn đề triết học", số 3-1974, tr. 23-31 (tiếng Nga).

(8) C.Mác, F.Engen. Toàn tập, t.3. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.48