
Bán đảo Ả rập
Napoleon có công đánh thức dân tộc Ả Rập không?
Một số học giả Pháp như Henri Jego trong L’Empire arabe troième grand?
(Au fil d’Ariane – 1963), Jacques C.Risler trong L’Islam moderne (Payot -
1963) cho rằng Napoleon đã có công đánh thức dân tộc Ả Rập trong khi họ
đương thiêm thiếp ngủ ở đầu thế kỷ XIX.
Jacques C.Risler đưa ra chứng cứ Bonaparte chỉ ở Ai Cập một thời gian
ngắn mà đã tổ chức được ở đó một nền hành chính tỉnh, một cơ quan tài
chính và nhiều hội đồng dân cử để dân Ai Cập quen với lề lối đại diện. Ông
ta lại lo đến vấn đề giáo dục, khuyến khích dân bản xứ mở nhà in, sáng lập
một nhật báo, tờ Le Courrier d’ Egypte, một tạp chí, tờ La Décade
Egyptienne. Về phương diện kinh tế, ông cho nghiên cứu kế hoạch dẫn thủy
nhập điền “để cho không một giọt nước nào của sông Nil chảy phí ra biển”.
Hơn nữa, sau chiến dịch Kim tự tháp mấy tuần, ông ta còn thành lập viện
khoa học và nghệ thuật. viện hoạt động đều đều trong ba năm, nhờ các bác
học Pháp: Monge, Bertholler, Fournier, Geoffroy Saint hilaire, Desgenettes.
Và cũng theo Risler, khi Bonaparte rút quân về rồi, Méhémet Ali được vua
Thổ cử làm thống đốc Ai Cập (hồi đó Ai Cập tuy là thuộc địa của Thổ
nhưng được tương đối tự trị) tiếp tục công việc của Pháp, canh tân quốc gia
theo kiểu châu Âu, dùng các giáo sư và kỹ sư Pháp, thoát li lần lần ảnh
hưởng của Thổ mà gây tinh thần quốc gia, dân tộc tại Ai Cập, tinh thần mà
khối Hồi giáo chưa hề biết.
Dù viết về Ả Rập hay về Trung Hoa, Việt Nam, nhiều học giả Âu Tây đã có
luận điểm như vậy: chính người phương Tây đem cái tinh thần quốc gia, dân
tộc dạy cho người phương Đông, nghĩa là trước khi người phương Tây tới
khai hoá người phương Đông như họ nói, thì người phương Đông không biết
ái quốc, không có tinh thần dân tộc, có lẽ chỉ có vài cái tinh thần trung quân
hoặc tinh thần tôn giáo thôi. Có vẻ như họ muốn bảo: “Mình khai hóa cho họ
để họ chống lại mình, quân vong ân bội nghĩa”. Riêng về Việt Nam, tôi đã
bác luận điểm đó trong bài “Cụ Phan và lòng dân” trong tập Kỷ niệm 100
năm năm sinh Phan Bội Châu (nhà Trình bày - 1967). Về Ả Rập, tôi xin
nhắc các học giả đó rằng Abdul Wahab sinh trước Napoleon ít gì cũng một
thế kỷ, nổi lên chống Thổ từ giữa thế kỷ XVIII, như vậy thì tinh thần quốc
gia, dân tộc của ông ta được người Âu truyền cho? Không thể bảo ông ta

chống Thổ vì tinh thần trung quân vì lúc đó Ả Rập đâu còn vua, hoặc vì tinh
thần tôn giáo vì Thổ cũng theo Hồi giáo.
Sở dĩ các nhà học giả Âu tây đó có luận điệu trên là vì họ chỉ nhìn thấy cái
bề ngoài. Hễ người phương Tây đặt chân tới miền nào ở phương Đông là
luôn luôn tìm cách thôn tính; hiểu dã tâm đó của họ, người phương Đông
luôn luôn phản ứng lại mạnh mẽ, do đó tinh thần quốc gia, dân tộc cố hữu –
tôi nhắc lại: cố hữu – bùng lên, mạnh hơn bao giờ hết; và người phương Tây
thấy mình tới một tí lâu rồi nó bùng lên, cái tinh thần đó cho dân phương
Đông. Họ ngây thơ như một em bé thổi vào một cục than đương âm ỉ có lớp
tro ở ngoài, thấy nó đỏ rực lên, vỗ tay reo rằng mình đã tạo lửa.
Rishler dẫn chứng ở trên rằng Napoleon muốn khai hóa dân tộc Ai Cập.
Chúng ta không chối cãi điều đó. Nhưng chính Napoleon cũng đã nói: “Ở
Châu Âu không còn gì để làm nữa cả, muốn dựng sự nghiệp lớn thì phải qua
phương Đông”. Sự nghiệp đó sự nghiệp gì ? Là chặn con đường của Anh
qua Ấn độ, nghĩa là chiếm cả Ai Cập và Tây Á. Khi bị đày ở đảo Thánh
Hélène, ông ta còn tâm sự với Las Cases: “Đáng lý ra tôi phải cùng với Nga
chia đôi đế quốc Thổ. Tôi đã mấy lần bàn với Alexander (tức hoàng đế
Nga). Nhưng Constantinople đã luôn luôn cứu nước Thổ. Kinh đô đó làm
cho mọi người lúng túng... Nga muốn chiếm nó. Tôi không thể để cho họ
chiếm nó được. Chiếc chìa khoá quý giá. Một mình nó cũng bằng cả một đế
quốc rồi. Nước nào chiếm được nó thì có thể làm chủ thế giới”. Sự thực,
trong hiệp ước Tilsitt ký với Nga, Napoleon đã nhường cho Nga vài thuộc
địa của Thổ ở châu Âu, nhờ vậy mà Nga mới lui binh, không đánh Napoleon
nữa.
Vậy Napoleon, hay đúng hơn, châu Âu đã đánh thức Ả Rập để diệt Thổ mà
mình khỏi tốn nhiều sức; và khi diệt Thổ rồi thì Châu Âu sẽ chia nhau đế
quốc của Thổ, trong đó có Ả Rập; Ả Rập mà nghe họ thì chỉ là mắc mưu họ
rút cổ ra khỏi tròng của Thổ để chui vào cái tròng của châu Âu. Cái tròng
của Thổ tuy nặng nhưng còn lỏng lẻo, cái tròng của châu Âu mới là đáng sợ.
Trong lịch sử nhân loại, thực dân Âu ở thế kỷ trước (Anh, Pháp, Hà Lan,
Đức…) thâm hiểm hơn thực dân Trung Hoa, La Mã, Ả Rập, Thổ thời xưa
nhiều lắm.
Chính vì hiểu vậy, hoặc cảm thấy vậy trong tiềm thức, nên các dân tộc Hồi
giáo sau này hăng hái duy tân (Thổ trước hết rồi tới Iran, Ai Cập) có khi lại
theo Nga nữa để chống lại thực dân Âu. Về điểm đó, lịch sử của Tây Á,
cũng y như lịch sử của Đông Á (Nhật, Trung Hoa, Việt Nam…)

Vậy chúng ta nên sửa lại nhan đề một chương trong lịch sử Pháp: Napoleon
không đánh thức tinh thần quốc gia của dân tộc Ả Rập, ông ta chỉ mở đầu
một giai đoạn lịch sử thực dân Âu, giai đoạn mà các cường quốc Âu: Nga,
Pháp. Anh, Đức lúc thì vào hùa với nhau, lúc thì xô bẩy nhau chung quanh
con bệnh Thổ, mới đầu không muốn cho nó chết vì còn gườm nhau, và khi
đã quyết tậm hạ nó rồi thì tranh giành nhau chia xẻ đế quốc của nó, tức các
quốc gia Hồi giáo ở Tây và Trung Á.
Con bệnh Thổ
Từ thế kỷ XVIII, Thổ đã thành một con bệnh, y như Trung Hoa ở thế kỷ
XIX. Họ suy lẫn, thua ở Vienne (Áo), mất Budapest (Hung), lần lượt phải
nhường cho Đức xứ Hung và xứ Transylvanie, cho Nga hải cảng Azov, cho
Ba lan tây bộ Ukraine và Hồi giáo mà Thổ tiếp nhận của Ả Rập bắt đầu bị
đạo Ki Tô lấn áp; ảnh hưởng của họ ở Âu châu gần như mất hẳn. Qua thế kỷ
XIX tình hình còn trầm trọng hơn. Đất đai mênh mông, địa thế lại rất quan
trọng: nằm ngay ngã ba, chỗ tiếp xúc của Âu, Á, Phi; nhưng nó càng mênh
mông, càng quan trọng, thì lại càng bị các quốc gia châu Âu dòm ngó. Mà
trong nước thì loạn lạc, vua chúa yếu hèn, triều đình không có kỷ cương,
quần thần chiếm mỗi người mỗi nơi, quan lại tham nhũng, quân lính chuyên
môn ăn cướp.
Thừa cơ đó, Hy Lạp vốn là thuộc địa của Thổ, tuyên bố độc lập, Pháp viện
cớ là sứ thần của mình bị nhục (bị vua Algeri cầm quạt đánh) đổ bộ chiếm
Algeri (1830-1837), Thổ chỉ chống cự lại một cách rất yếu ớt, và Nga Hoàng
Nicolas I tặng cho Thổ cái tên là “con bệnh của châu Âu”. Một bức hí họa
đương thời vẽ vua Thổ thiêm thiếp trên giường bệnh, thần chết Nga hiện lên
muốn bắt Thổ đi, bên cạnh là 2 bác sỹ Anh và Pháp đương bàn phương cứu
chữa.
Chẳng phải Anh, Pháp thương gì Thổ; chỉ vì miếng mồi lớn quá, không để
cho Nga nuốt trọn. Coi bản đồ, ta hiểu được tại sao Nga chỉ lăm le chiếm
Thổ. Hồi đó chưa có phi cơ, biến có địa vị quan trọng hơn bây giờ nhiều.
Nước nào dù mênh mông tới mấy mà không giáp biển thì cũng không phải là
hạng đại cường. Cho nên Nga kiếm đường thông ra biển. Nhưng Bắc Băng
Dương suốt năm đầy băng và tuyết hoàn toàn vô dụng. Trên biển Baltique,
có hạm đội của Đức, Nauy, Thụy điển, Đan mạch, Phần lan, Nga khó lan ra
được; dẫu có được tới Bắc Hải cũng đụng đầu với hải quân Anh mạnh nhất
thế giới. Vậy Nga bị vây hãm, chỉ còn hai đường thoát ra ngoài: một là tiến

qua đông, chiếm trọn Tây bá lợi á, vươn tới Thái Bình Dương, đường đó xa
quá mà lại chạm trán với Nhật, dù có thắng Nhật thì cũng chỉ có ảnh hưởng
ở Đông Á, chứ vẫn bị lép vế ở châu Âu; hai là do Hải Bắc thông qua Địa
Trung Hải, đường này rất tiện, nhưng cửa ngõ Constantinople do Thổ gác,
nên Nga chỉ tìm cách diệt Thổ.
Anh không chịu vậy, vì nếu Nga chiếm Constantinople thì hạm đội Nga tung
hoành trên Địa trung hải mà con đường của Anh qua Ấn sẽ lâm nguy. Pháp
ngay từ hồi Napoleon cũng không muốn cho Nga nắm “chìa khóa” của thế
giới đó vì Pháp đương muốn chiếm Bắc Phi, Tây Á, cản đường Anh qua Ấn
độ. Vì thế Anh, Pháp chống Nga mà bênh Thổ, thà để Constantinople cho
Thổ, vì Thổ yếu không làm hại mình được chứ không chịu để cho Nga. Rốt
cuộc, sau chiến tranh Crimée (1854-1856), Nga thua, Thổ giữ được
Constantinople nhưng đã kiệt sức, và Anh, Pháp mừng rằng chính sách “để
cho Thổ suy mà đừng bắt Thổ chết” đã thực hành đúng.
Thổ cứ lịm dần, tình cảnh còn tệ hơn Trung Hoa nữa. Ngân khố rỗng không.
Thổ phải vay mượn của Anh, Pháp, Đức, Áo. Riêng của Pháp, đã vay một tỷ
rưỡi quan. Vay thì phải có gì bảo đảm, và Thổ đem những nguồn lợi và thuế
khóa trong nước ra bảo đảm, y như Trung Hoa. Thế là Pháp buộc Thổ phải
nhường cho mình quan quản thuốc lá, rồi bến tài, các kho chứa hàng ở
Constantinople, Smyrne, Salonique; bấy nhiên cũng chưa đủ, Thổ phải
nhường thêm các cảng ở Héraclée, ở Selenitza và nhiều đường xe lửa nữa.
Như vậy Thổ mất một phần lợi tức, không đủ chi tiêu, lại phải vay mượn
thêm, vay thêm hoài, cho tới lúc mà thuế má chỉ đủ để trả lãi cho các nước
châu Âu.
Tình cảnh y như một số công chức của ta, vừa lãnh lương ra là phải nộp hết
cho chủ nợ đã chực sẵn ở cửa sổ. Tôi không hiểu các công chức đó xoay xở
cách nào để sống, chứ vua Thổ thì có cách rất hay là thôi không trả lương
cho quan lại; và quan lại Thổ không có lương thì đập vào đầu dân đen, bắt
dân đen nuôi, nghĩa là họ ăn hối lộ. Như vậy dân đen phải nộp hai lần thuế,
thuế cho triều đình, rồi thuế cho quan lại. Và đế quốc Thổ mênh mông như
vậy chỉ sống để đúng sáu tháng một kỳ trả đều đều cho các chủ nợ Anh,
Pháp, Đức... “Các cường quốc đại văn minh theo đạo Kito đó như bầy kên
kên đói khát, bu chung quanh một con bệnh bất tỉnh và kiên nhẫn đợi. Họ sợ
lẫn nhau, ghen tị dò xét nhau và sẵn sàng để xâu xé nhau. Không một nước
nào dám ra tay trước. Và nhờ vậy mà đế quốc Thổ tiếp tục thoi thóp”.
Trong khi chờ đợi, họ đâu có ở không. Muốn cho địa vị của mình thêm

vững, họ dùng chính sách cổ điển, truyền thống của họ là bệnh vực thiểu số
Ki Tô giáo, y như ở Việt Nam và Trung Hoa. Riêng Anh lại còn lên mặt
nghĩa hiệp, bênh vực dân Kurde (dân tộc thiểu số ở miền rừng núi, vốn ghét
Thổ) và dân Ả Rập, ngoài miệng nói là vì tự do nhân đạo mà sự thực chỉ là
để bảo vệ con đường qua Ấn Độ của họ. Đức cũng xin Thổ cho cất đường xe
lửa qua Bagdad, làm cho Anh, Pháp đâm hoảng, vội vàng liên kết với Nga.
Đúng như Norbert de Bischoff đã nói: Không phải các cường quốc châu Âu
đánh thức tinh thần quốc gia của Kurde, của Ả Rập, họ nuôi tinh thần đó, xúi
các dân tộc Kurde, Ả Rập đòi độc lập để hạ Thổ rồi họ chia phần với nhau,
cũng như thời nào ở nước mình, thực dân xúi các đồng bào Thượng chống
chính quyền miền Nam Việt Nam vậy.
Pháp đào kênh Suez - Anh, Pháp ngoạm dần đế quốc Thổ
Napoleon đã muốn đặt chân lên Ai Cập và đã gây được chút ảnh hưởng ở
đó. Tới đời cháu ông ta, Napoleon III, Pháp tiến thêm được một bước nữa.
Từ thời thượng cổ, vua Ai Cập đã đào một con kênh nối liền con sông Nil
với Hồng Hài (thế kỷ thứ VII TCN). Kênh đó mấy lần bị cát lấp, phải đào
lại, tới thế kỷ thứ VIII SCN thì bị lấp luôn. Bonaparte trong chiến dịch Ai
Cập muốn đào một con kênh khác, nhưng phải đợi đến năm 1859 công việc
mới bắt đầu, và mười năm sau nữa, công việc mới hoàn thành.
Khánh thành năm 1869 (triều Napoleon III) do Hoàng hậu Eugénie chủ toạ,
kênh Suez mới đầu là công trình riêng của Pháp và Ai Cập, người Anh
không dự gì tới cả. Kênh thuộc địa phận Ai Cập; một người Pháp tên là
Ferdinand de Lesseps, được sự thỏa thuận của Thổ thôi (hồi đó còn là thuộc
địa của Thổ) và Ai Cập, lập đồ án rồi chỉ huy công việc đào kênh. Kênh dài
168 cây số, nối liền Port Said với Suez, làm cho con đường từ London tới
Ấn độ ngắn đi được 44%, từ Marseille tới Ấn độ ngắn trên 50%.
Mới đầu Anh tìm mọi cách phá công việc của Lesseps vì ngại rằng kênh đào
xong, ảnh hưởng của Pháp ở Ai Cập sẽ lớn, chặn con đường giao thông của
mình qua Ấn độ. Một mặt Anh xúi Ai Cập không cho phép đào, mặt khác
Anh ngầm ép Thổ không chấp nhận sự nhường đất của Ai Cập cho Pháp.
Nhưng rồi Lesseps cũng thắng được mọi khó khăn, đề nghị với Anh hùn cổ
phần; Anh không chịu, tin chắc rằng thiếu vốn, thiếu nhân công, Lesseps sẽ
phải bỏ dở công việc.

