YOMEDIA
ADSENSE
Bàn về vấn đề đảo ngược án lệ và hiệu lực hồi tố của án lệ đảo ngược trong pháp luật Cộng hoà Pháp
35
lượt xem 1
download
lượt xem 1
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết phân tích hiện tượng đảo ngược án lệ trong pháp luật Pháp - các thẩm phán thay đổi quan điểm về những vụ việc tương tự nhưng xảy ra trong những giai đoạn khác nhau. Cùng với đó, dựa trên nguyên tắc về sự ổn định của pháp luật, tác giả cũng nghiên cứu về quan điểm của các học giả về áp dụng hiệu lực hồi tố của án lệ đảo ngược trong giải quyết các vụ việc dân sự ở Pháp.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bàn về vấn đề đảo ngược án lệ và hiệu lực hồi tố của án lệ đảo ngược trong pháp luật Cộng hoà Pháp
- BÀN VỀ VẤN ĐỀ ĐẢO NGƯỢC ÁN LỆ VÀ HIỆU LỰC HỒI TỐ CỦA ÁN LỆ ĐẢO NGƯỢC TRONG PHÁP LUẬT CỘNG HOÀ PHÁP Lê Thị Ngọc Yến Tóm tắt Bài viết phân tích hiện tượng đảo ngược án lệ trong pháp luật Pháp - các thẩm phán thay đổi quan điểm về những vụ việc tương tự nhưng xảy ra trong những giai đoạn khác nhau. Cùng với đó, dựa trên nguyên tắc về sự ổn định của pháp luật, tác giả cũng nghiên cứu về quan điểm của các học giả về áp dụng hiệu lực hồi tố của án lệ đảo ngược trong giải quyết các vụ việc dân sự ở Pháp. Từ khóa: đảo ngược án lệ, hiệu lực hồi tố, sự ổn định của pháp luật. 1. MỞ ĐẦU Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, Điều 4 (được tạo ra bởi Luật 1803-03-05 ban hành ngày 15 tháng 3 năm 1803): “Thẩm phán, người từ chối xét xử vì lý do luật không quy định, quy định không rõ ràng, hoặc quy định không đủ để giải quyết vụ việc, có thể bị truy tố như là phạm tội chối bỏ công lý.” Có thể nói, thẩm phán không thể từ chối áp dụng luật. Ngay cả khi văn bản có vẻ không phù hợp, không công bằng, họ cũng có nghĩa vụ phải áp dụng nó. Vai trò của thẩm phán là áp dụng luật. Cho nên, thẩm phán phải có trách nhiệm đưa ra quyết định trong mọi trường hợp. Điều 4 của Bộ luật dân sự Pháp tạo ra một nguyên tắc cho các thẩm phán khi sử dụng pháp luật để giải quyết, đó là “nguyên tắc diễn giải”. Nguyên tắc này cho phép thẩm phán diễn giải pháp luật khi các quy định pháp luật có sự mơ hồ hoặc mâu thuẫn, việc diễn giải nhằm để lộ ra ý nghĩa thực sự của luật để có thể áp dụng trong thực tế. Vì vậy, thẩm phán không chỉ áp dụng pháp luật một cách cứng nhắc, mà có thể diễn giải pháp luật để áp dụng cho một vụ việc cụ thể. Tuy nhiên, việc diễn giải đó chỉ được áp dụng trong giới hạn của vụ việc đang được giải quyết, chứ thẩm phán không thể tạo ra những quy tắc tổng quát hay những nội dung mang tính điều luật được sử dụng như luật. Nhằm hạn chế việc các thẩm phán đưa ra những phán quyết mang tính luật định, điều 5 của Bộ luật dân sự Pháp (được tạo ra bởi Luật 1803-03-05 ban hành ngày 15 tháng 3 năm 1803) quy định: “Thẩm phán bị cấm đưa ra các quy định tổng quát và mang tính điều luật trong các phán quyết mà họ ban hành.”. Các quy định tại điều 4 và điều 5 của Bộ luật dân sự Pháp dẫn đến một hệ quả tất yếu là việc sử dụng án lệ trong các phán quyết của Tòa án Pháp. Một mặt, những diễn giải của thẩm phán không được phép sử dụng như luật bởi Tòa án khác. Mặt khác, khi một vấn đề mà pháp luật không quy định hoặc quy định không rõ ràng, không đầy đủ, các thẩm phán thường xuyên vận dụng nguyên tắc diễn giải để giải quyết vụ việc. Vì vậy, nhằm đảm bảo tính nhất quán trong việc diễn giải pháp luật, các thẩm phán vẫn thường xuyên sử dụng những lập luận hợp lý của vụ việc trước để giải quyết những vụ việc sau Thạc sĩ, Giảng viên Khoa Luật, Trường ĐH Kinh tế - Luật 368
- đó có sự kiện vật chất tương tự. Thực tế, thẩm phán Pháp không trích dẫn án lệ như trích dẫn điều luật, mà sử dụng lại lập luận của án lệ đó để diễn giải điều luật cần được áp dụng trong một sự kiện tương tự. Tuy nhiên, với sự phát triển của xã hội, thì một lập luận đã được xác lập trước đây có thể không còn phù hợp trong giai đoạn hiện tại. Kết quả là, thẩm phán sẽ phải thay đổi quan điểm của mình khi tiếp cận một vụ việc tương tự trong án lệ trước đó, nhưng xảy ra trong một khung cảnh khác và sẽ cần một các nhìn nhận khác. Với “nguyên tắc diễn giải”, các thẩm phán Pháp không bị ràng buộc một cách cứng nhắc bởi án lệ, mà họ có thể linh động thay đổi cách giải thích luật phù hợp cho từng thời kỳ. Vì vậy, hiện tượng đảo ngược án lệ xảy ra. Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích về vấn đề đảo ngược án lệ trong pháp luật Cộng hòa Pháp, cùng với việc áp dụng hiệu lực hồi tố của các án lệ đảo ngược, trong mối tương quan với nguyên tắc “sự ổn định của pháp luật”, vào việc giải quyết các vụ việc dân sự của các tòa án Pháp. 2. NỘI DUNG 2.1. Đảo ngược án lệ Đảo ngược án lệ là trường hợp thẩm phán thay đổi quan điểm của họ trong những vụ việc có sự kiện pháp lý giống nhau nhưng xảy ra trong những khoảng thời gian khác nhau. Sự đảo ngược của án lệ còn có thể được định nghĩa là “sự bỏ rơi của chính tòa án về một giải pháp mà họ đã từng thừa nhận, chấp nhận một giải pháp trái với điều mà họ từng làm, đảo ngược xu hướng trong cách đánh giá 607”. Vì vậy, khi tòa án thực hiện một sự đảo ngược của án lệ, tòa án đã thay đổi cách giải thích của mình về pháp luật và nội dung thiết yếu của vấn đề đó. Theo các học giả Pháp, sự đảo ngược án lệ có thể xảy ra dưới ba dạng608: Thứ nhất, khi các thẩm phán thấy rằng quy tắc mà án lệ đã xác lập trong quá khứ không còn phù hợp nữa ở hiện tại và nó nên được sửa đổi. Thứ hai, án lệ có thể bị “ép buộc” phải đảo ngược sau khi có quyết định của Hội đồng Tổng hợp Tòa Phá án để giải quyết một sự khác biệt trong việc giải thích pháp luật bởi các tòa chuyên môn khác nhau của Tòa Phá án. Tòa chuyên môn có giải pháp không được thừa nhận thì phải tuân theo giải pháp được thông qua bởi Hội đồng Tổng hợp. Thứ ba, sự đảo ngược án lệ có thể xảy ra khi một phán quyết được đưa ra với sự thiếu thận trọng trong nghiên cứu các tiền lệ, hay nói khác đi là “do nhầm lẫn”; hiện tượng này thường xảy ra do tình trạng quá tải công việc của nhân sự ở tòa án, đặc biệt là các với các vụ việc “ít quan trọng”. Kết quả là, khi nhận ra sự nhầm lẫn của mình, các 607 G. Cornu (2008), Vocabulaire juridique, Association H. Capitant, PUF, 8ème éd. 2008, V° Jurisprudence (revirement de). 608 M. Saluden (1983), Le phénomène de la jurisprudence : étude sociologique, Luận án Tiến sĩ Luật học, Paris II, 1983. Xem thêm: Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên) (2018), Án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự, NXB. ĐHQG TPHCM, trang 128-149. 369
- thẩm phán có thể sửa chữa nó trong một vụ việc khác có sự kiện tương tự, và án lệ đó được đảo ngược. Ngày nay, loại “nhầm lẫn” này hầu như không còn xuất hiện do công việc được hỗ bởi dịch vụ lưu trữ tài liệu của Tòa Phá án và nguyên tắc làm việc liên kết609. Nhìn chung, việc đảo ngược án lệ vẫn luôn được xem là căn nguyên của sự không ổn định của pháp luật. So với độ vững chắc của các án lệ trong hệ thống thông luật, ở Pháp tồn tại một lượng lớn án lệ đảo ngược của các tòa án cấp tối cao. Dù rằng việc phát triển của án lệ là hiển nhiên, mặc dù vậy, sự ổn định của pháp luật nói chung và án lệ nói riêng là một nguyên tắc cơ bản và phải được đưa ra khi cần thiết. Tòa Phá án đã nhiều lần lặp lại trong các phán quyết của mình rằng: “sự ổn định của pháp luật không thể bị hi sinh cho một quyền lợi đã được thừa nhận, sự phát triển của án lệ là thuộc thẩm quyền của thẩm phán trong việc áp dụng pháp luật.”610. Tòa án Nhân quyền châu Âu cũng đã từng khẳng định rằng: “không bị chính thức bắt buộc phải tuân theo bất kỳ phán quyết nào trước đây của mình, Tòa án cho rằng vì lợi ích liên quan đến sự ổn định của pháp luật, khả năng dự đoán và sự bình đẳng trước pháp luật, Tòa án không đi chệch các tiền lệ mà không có lý do hợp lệ611.”. Tuy nhiên, vì ít cứng nhắc hơn so với các quốc gia theo thông luật, các thẩm phán Pháp vẫn có thể thay đổi quan điểm của mình trong một sự kiện pháp lý nhất định, bởi vì “một sự đảo ngược án lệ có thể được biện minh nếu nó nhằm để đảm bảo rằng việc diễn giải Công ước phù hợp với sự tiến hóa của xã hội và vẫn phù hợp với các điều kiện hiện tại612”. Các cơ quan tài phán của Pháp có xu hướng ủng hộ quan điểm này, nên các thẩm phán Pháp thường sử dụng lập luận này của Tòa án Nhân quyền châu Âu trong các phán quyết của mình khi phải sửa đổi một quy tắc đã được xác lập bởi một án lệ trước đó. Vì lẽ đó, các cơ quan xét xử của Pháp cũng ít bị ràng buộc vào các phán quyết trước của họ hơn so với các thẩm phán Anh - Mỹ. Mặt khác, người Pháp lại quan trọng sự mạch lạc, gắn kết trong hệ thống án lệ và hệ thống pháp luật nói chung613, nên họ không ngại sửa đổi một án lệ đã tồn tại để đảm bảo sự mạch lạc và gắn kết đó. Hơn nữa, nghĩa vụ nêu ý chí hay lý do pháp lý của phán quyết vốn là một nguyên tắc luật định, thể hiện ở điều 455 của Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp, cho nên mỗi phán quyết được đưa ra còn phải dựa trên những lập luận chặt chẽ phù hợp với mỗi gian đoạn xã hội, bên cạnh việc tôn trọng những quy tắc đã được xác lập. Ngoài ra, các thẩm phán Pháp cũng có xu hướng cân nhắc các xu hướng xét xử ở các nước láng giềng và các tòa án châu Âu. Ví dụ, việc các tòa án cấp tối cao Pháp đưa ra các quan điểm để giải thích 609 Maïwenn Tascher (2011), “Les revirements de jurisprudence de la Cour de cassation”, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật, Trường đại học Franche-Comté – Besançon, tháng 12/2011. 610 Phán quyết của Phòng Dân sự số 1, Tòa phá án, ngày 21/3/2000, liên quan tới vụ việc số 98-11982 (1re Civ., 21 mars 2000, pourvoi no 98-11982). 611 Phán quyết sô 24882/94, ngày 18 tháng 01 năm 2001, đoạn 81 của Tòa án Nhân quyền châu Âu, vụ việc Beard vs. nước Anh. 612 Phán quyết sô 10843/84 , ngày 29 tháng 9 năm 1990, đoạn 35 của Tòa án Nhân quyền châu Âu, vụ việc Cossey vs. nước Anh. 613 Pascale Deumier (2014), “L’état réel de la jurisprudence dans les systèmes de droit civil L’exemple de la France”, Revue de l’ERSUMA :: Droit des affaires - Pratique Professionnelle, N° Spécial IDEF - Mars 2014, Etat réel du droit civil et du common law. URL: http://revue.ersuma.org/no-special-idef-mars-2014/etat-reel-du-droit- civil-et-du/article/l-etat-reel-de-la-jurisprudence. 370
- luật quốc gia theo hướng phù hợp với luật pháp châu Âu là được lấy cảm hứng từ các tiền lệ của Đức và Ý614. 2.2. Hiệu lực hồi tố của án lệ đảo ngược Vấn đề hồi tố thường chỉ được đặt ra cho luật viết. Theo điều 2 của Bộ luật dân sự, một quy định có tính nguyên tắc đã tồn tại từ năm 1803 nêu rằng: Luật chỉ được quy định cho tương lai; luật không được có hiệu lực hồi tố. Tuy nhiên, không một quy định nào của Hiến pháp cấm áp dụng hiệu lực hồi tố trong lĩnh vực dân sự, nên các nhà lập pháp vẫn có thể ban hành những văn bản luật có giá trị hồi tố trong trường hợp cần thiết, và việc ban hành quy định hồi tố này phải chịu sự kiểm soát chặc chẽ của Hội đồng Hiến pháp. Với những quy tắc được hình thành bởi án lệ, thẩm phán cũng có thể thay đổi quan điểm của họ trong những vụ việc có sự kiện pháp lý giống nhau nhưng xảy ra trong những khoảng thời gian khác nhau. Vấn đề là việc thay đổi quan điểm này có hay không ảnh hưởng tới những sự kiện pháp lý đã xảy ra trước khi án lệ đảo ngược được ban hành. Hay nói cách khác, án lệ đảo ngược có hay không hiệu lực hồi tố. Phần lớn các học giả cho rằng, án lệ không nên có hiệu lực hồi tố, vì ngoài sự can thiệp của nhà lập pháp, thẩm phán chỉ có vai trò giới hạn trong việc diễn giải pháp luật, chứ không thể quyết định khi nào các diễn giải của mình có thể được sử dụng, vì các quyết định của họ có giá trị pháp lý khác với luật viết. Các học giả cũng cho rằng, việc áp dụng hiệu lực hồi tố cho án lệ có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định của pháp luật615 và làm suy giảm những lợi ích hợp pháp đã được xác lập616. Một phán quyết ngày 21 tháng 3 năm 2018 của Tòa Phá án cũng thừa nhận hiệu lực trong tương lai của án lệ trong việc xác định tòa án có thẩm quyền, theo đó: “Trong trường hợp này, áp dụng quy tắc phát sinh từ một án lệ đảo ngược, mà việc áp dụng đó sẽ dẫn đến việc không thể chấp nhận kháng cáo được đệ trình trước Tòa phúc thẩm Paris, sẽ dẫn đến việc bên liên quan bị tước quyền được tiếp cận tư pháp một cách công bằng theo nghĩa của Điều 6 (1), Công ước về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản, vì đương sự không thể biết hoặc thấy trước, vào ngày đương sự thực hiện quyền kháng cáo, một quy tắc án lệ mới hạn chế quyền lực pháp lý của Tòa phúc thẩm Paris.”617. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình phát triển của hệ thống pháp luật, không ít các án lệ đảo ngược đã có hiệu lực hồi tố. Giải thích việc áp dụng hiệu lực hồi tố cho án lệ đảo ngược, các học giả Pháp cho rằng: “án lệ diễn giải một luật viết đã tồn tại, vì vậy có thể áp dụng cho các mối quan hệ pháp lý được thiết lập trước cả khi án lệ được hình thành”618. Tính chất hồi tố này có ảnh hưởng ít nhiều đến tính ổn định của pháp luật. Tòa 614 Pascale Deumier (2014), tài liệu đã dẫn. 615 Nicolas Molfessis (2005), “Les Revirements de jurisprudence”, LexisNexis, 2005. 616 Cécile Chainais, phần nghiên cứu “Thời gian”, Báo cáo thường niên năm 2014 của Tòa Phá án (Rapport annuel de la Cour de Cassation en 2014, Etudes “Le temps”). 617 Phán quyết của Phòng Thương mại, Tòa Phá án, ngày 21/3/2018, liên quan tới vụ việc số 16-28412,. (Com., 21 mars 2018, pourvoi no. 16-28412) 618 Jean-Guy Huglo (2001), “La Cour de cassation et le principe de la sécurité juridique”, Cahiers du Conseil constitutionnel n° 11, Dossier : Le principe de sécurité juridique, tháng 12/2001. 371
- Phá án nhận thức được việc này và đưa ra hai phương thức xác định hiệu lực của án lệ 619 cũng như hạn chế ảnh hưởng của các án lệ đảo ngược lên các quan hệ pháp luật: - Đầu tiên là thông báo việc đảo ngược án lệ có thể xảy ra trong tương lai ở những trường hợp tương tự, thường được đề cập trong Báo cáo thường niên của Tòa Phá án, để cảnh báo các nhà điều hành kinh tế hoặc cơ quan hành chính về khả năng phát triển của các giải pháp pháp lý trong tương lai liên quan tới vụ việc. Ví dụ, trong một vụ việc liên quan đến cạnh tranh trong thương mại, Tòa Phá án đề xuất trong Báo cáo thường niên năm 1992 việc sửa đổi Điều 25 của Pháp lệnh ngày 01 tháng 12 năm 1986 về tự do giá cả và cạnh tranh, điều luật quy định việc xóa bỏ sự hiện diện của báo cáo viên của Hội đồng cạnh tranh trong việc họp ra biểu quyết của hội đồng này, vì sự hiện diện này là trái với ý nghĩa của Điều 6 (1) của Công ước châu Âu về Bảo vệ Nhân quyền (Báo cáo thường niên năm 1992); cũng với quan điểm này, năm 1998, Tòa án đã bác bỏ những lập luận dựa trên sự vi phạm Công ước này (Tòa Thương mại, ngày 27 tháng 1 năm 1998). Tuy nhiên, trước sự im lặng của các nhà lập pháp trong một thời gian dài kể từ khi đề xuất được đưa ra, Tòa này đã phải tuyên bố sự hiện diện của các báo cáo viên của Hội đồng Cạnh tranh là trái với quy định của Điều 6 (1) của Công ước (Tòa Thương mại, ngày 5 tháng 10 năm 1999). - Cách thứ hai để phòng ngừa những phiền hà khi áp dụng hiệu lực hồi tố trong các án lệ bị đảo ngược đối với sự ổn định của pháp luật, các thẩm phán thường tìm cách hạn chế hiệu lực về thời gian của án lệ mới. Ví dụ, trong việc đảo ngược án lệ của Tòa Thương mại về các quy định liên quan đến lãi suất cho số tiền nợ của một tài khoản thanh toán, Tòa Thương mại yêu cầu từ một phán quyết năm 1988 (trước đó là phán quyết của Tòa Thương mại ngày 15 tháng 7 năm 1986) rằng tỉ lệ lãi suất phải được cố định bằng văn bản nếu không sẽ bị vô hiệu, nhưng tạo hiệu lực cho án lệ này kể từ ngày nghị định ngày 4 tháng 9 năm 1985 có hiệu lực thi hành (nghị định này nhằm xác định phương pháp tính tỷ lệ lãi suất hiệu quả tổng thể). Ủng hộ cho hiệu lực hồi tố trong trường hợp này, một số tác giả cho rằng nghị định trên là không cần thiết vì yêu cầu lập lãi suất bằng văn bản đã được quy định trong đạo luật 28 tháng 12 năm 1966 và điều 1907 của Bộ luật Dân sự620. Như vậy, án lệ đảo ngược chỉ có hiệu lực hồi tố trong giới hạn có hiệu lực của nghị định năm 1985, chứ không có hiệu lực trước đó. Ngoài ra, các nhà làm luật cũng cân nhắc tới các hệ quả về tài chính, đặc biệt trong các phán quyết liên quan đến thuế, mà ở đó, hiệu lực hồi tố của một án lệ đảo ngược có thể bị hạn chế 621. Theo đó, hạn chế hiệu lực hồi tố của án lệ đảo ngược là cần thiết trong các trường hợp các phán quyết có hiệu lực vượt xa hiệu lực của nguyên tắc không xét xử hai lần, nhằm đảm bảo những quy tắc đã được xác lập trong xã hội. Phán quyết này phù hợp với một quan điểm của các học giả 619 Jean-Guy Huglo (2001), tài liệu đã dẫn. Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên) (2018), Án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự, NXB. ĐHQG TPHCM, trang 128-149. 620 Bình luận của Ch. Gavalda et J. Stoufflet về Phán quyết của Phòng Dân sự số 1 ngày 9/2/1988 và phán quyết của Phòng Thương mại ngày 12/4/1988, tạp chí JCP, éd. G, 1988, II, 21026. (Ch. Gavalda et J. Stoufflet, note sous Civ. 1re, 9 févr. 1988 et Com., 12 avr. 1988, JCP, éd. G, 1988, II, 21026.). 621 Jean-Guy Huglo (2001), tài liệu đã dẫn. 372
- cho rằng Tòa Phá án có thể tự quyết định việc có áp dụng hay không hiệu lực hồi tố cho các phán quyết của mình622. 3. Kết luận Có thể nói, việc đảo ngược án lệ thường xuyên xảy ra nhưng việc áp dụng hiệu lực hồi tố những phán quyết này vẫn còn được tiếp cận một cách rất thận trọng. Vì lẽ công bằng, các vụ việc có sự kiện pháp lý tương tự nhau nên được phán xét như nhau. Tuy nhiên, bối cảnh xã hội luôn thay đổi dẫn đến quan điểm về một vấn đề cũng sẽ thay đổi. Một hành vi được xem là hợp pháp ở hiện tại nhưng lại bị xem là bất hợp pháp trong quá khứ, vậy có nên chăng chúng ta xem xét lại những vụ việc trong quá khứ để đem lại sự công bằng cho các đương sự? Vì sự ổn định của luật pháp, việc không áp dụng hiệu lực hồi tố cho án lệ cũng được ủng hộ. Tuy nhiên, vì lẽ công bằng, các học giả Pháp vẫn không phủ nhận hoàn toàn việc áp dụng hiệu lực hồi tố cho các án lệ đảo ngược. Các thẩm phán Pháp vẫn luôn rất thận trọng với các án lệ đảo ngược này. Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của việc sử dụng án lệ trong xét xử, việc tòa án có thể thay đổi quan điểm với những vụ việc có sự kiện pháp lý tương tự nhưng xảy ra trong các giai đoạn khác nhau là không tránh khỏi. Có hay không áp dụng hiệu lực hồi tố cho các án lệ đảo ngược cũng có thể sẽ tạo ra những tranh luận cho các học giả ở Việt Nam. Câu hỏi vẫn còn nằm ở tương lai, nhưng cần có sự chuẩn bị nhất định để đối mặt với những vấn đề có thể xảy ra. Vì lẽ công bằng hay vì sự ổn định của pháp luật, đó là một câu hỏi vẫn cần được giải đáp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn bản pháp luật: 1. Bộ luật dân sự Pháp. 2. Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp. Sách: 1. Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên) (2018), Án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự, NXB. ĐHQG TPHCM, trang 128-149. Các bản án: 1. Phán quyết số 10843/84 , ngày 29 tháng 9 năm 1990, đoạn 35 của Tòa án Nhân quyền châu Âu, vụ việc Cossey vs. nước Anh. 2. Phán quyết số 24882/94, ngày 18 tháng 01 năm 2001, đoạn 81 của Tòa án Nhân quyền châu Âu, vụ việc Beard vs. nước Anh. 622 Hauser Jean (2005), “Le juge et la loi”, tạp chí Pouvoirs, 2005/3 (số 114), trang 139-153. DOI : 10.3917/pouv.114.0139. URL : https://www.cairn.info/revue-pouvoirs-2005-3-page-139.htm; Guy Canivet (2004), “Les revirements de jurisprudence ne vaudront-ils que pour l’avenir ?”, Kỷ yếu JCPG, 2004, I, 189. Colloque sur le rapport du groupe de travail sur les revirements de jurisprudence… aperçu rapide, JCPG, 2005, act. 43. Xem thêm: Nguyễn Thị Hồng Nhung (Chủ biên) (2018), Án lệ trong giải quyết vụ việc dân sự, NXB. ĐHQG TPHCM, trang 128-149. 373
- 3. Phán quyết của Phòng Dân sự số 1, Tòa phá án, ngày 21/3/2000, liên quan tới vụ việc số 98-11982 (1re Civ., 21 mars 2000, pourvoi no 98-11982). 4. Phán quyết của Phòng Thương mại, Tòa Phá án, ngày 21/3/2018, liên quan tới vụ việc số 16-28412,. (Com., 21 mars 2018, pourvoi no. 16-28412) Các bài báo: 5. Cécile Chainais, phần nghiên cứu “Thời gian”, Báo cáo thường niên năm 2014 của Tòa Phá án (Rapport annuel de la Cour de Cassation en 2014, Etudes “Le temps”). 6. G. Cornu (2008), Vocabulaire juridique, Association H. Capitant, PUF, 8ème éd. 2008, V° Jurisprudence (revirement de). 7. Pascale Deumier (2014), “L’état réel de la jurisprudence dans les systèmes de droit civil L’exemple de la France”, Revue de l’ERSUMA :: Droit des affaires - Pratique Professionnelle, N° Spécial IDEF - Mars 2014, Etat réel du droit civil et du common law. URL: http://revue.ersuma.org/no-special-idef-mars-2014/etat-reel-du-droit-civil-et- du/article/l-etat-reel-de-la-jurisprudence. 8. Ch. Gavalda et J. Stoufflet, Bình luận về Phán quyết của Phòng Dân sự số 1 ngày 9/2/1988 và phán quyết của Phòng Thương mại ngày 12/4/1988, tạp chí JCP, éd. G, 1988, II, 21026. (Ch. Gavalda et J. Stoufflet, note sous Civ. 1re, 9 févr. 1988 et Com., 12 avr. 1988, JCP, éd. G, 1988, II, 21026.). 9. Jean-Guy Huglo (2001), “La Cour de cassation et le principe de la sécurité juridique”, Cahiers du Conseil constitutionnel n° 11, Dossier : Le principe de sécurité juridique, tháng 12/2001. 10. Hauser Jean (2005), “Le juge et la loi”, tạp chí Pouvoirs, 2005/3 (số 114), trang 139- 153. DOI : 10.3917/pouv.114.0139. URL : https://www.cairn.info/revue-pouvoirs-2005- 3-page-139.htm; Guy Canivet (2004), “Les revirements de jurisprudence ne vaudront-ils que pour l’avenir ?”, Kỷ yếu JCPG, 2004, I, 189. Colloque sur le rapport du groupe de travail sur les revirements de jurisprudence… aperçu rapide, JCPG, 2005, act. 43. 11. Nicolas Molfessis (2005), “Les Revirements de jurisprudence”, LexisNexis, 2005. 12. M. Saluden (1983), Le phénomène de la jurisprudence : étude sociologique, Luận án Tiến sĩ Luật học, Paris II, 1983. 13. Maïwenn Tascher (2011), “Les revirements de jurisprudence de la Cour de cassation”, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật, Trường đại học Franche-Comté – Besançon, tháng 12/2011. Các websites: 1. Website Tòa án nhân quyền Châu Âu: https://echr.coe.int/Pages/home.aspx?p=home&c=fre. 2. Website Tòa Phá án Cộng hòa Pháp: https://www.courdecassation.fr/. 374
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn