Báo cáo đề tài:" Một số biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại seaprodex Đà Nẵng"
lượt xem 44
download
Ngày nay, trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nhân loại, hoạt động kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. Từ khi gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với 148 thành viên, và vị thế thị trường ngang nhau với tất cả những quốc gia đó...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo đề tài:" Một số biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại seaprodex Đà Nẵng"
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nhân loại, hoạt động kinh tế quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ và chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta. Từ khi gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do tiếp cận thị trường quốc tế rộng lớn với 148 thành viên, và vị thế thị trường ngang nhau với tất cả các quốc gia đó. Với tư cách là chất xúc tác cho s ự phát tri ển của thương mại quốc tế, công tác thanh toán quốc tế cũng không ngừng được mở rộng và phát triển. Song, khi thương mại quốc tế càng phát triển thì mối quan hệ giữa người mua và người bán càng trở nên đa dạng và phức tạp. Việc thực hiện đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt đã đạt được nhiều kết quả khả quan.Tuy nhiên đây là nghiệp vụ đa dạng, phức tạp, nhất là trong thời đại kinh tế thông tin và kinh tế tri thức đang dần chiếm ưu thế nên nó còn có nhiều tồn tại cần phải sửa đổi, bổ sung kịp thời nhằm mang l ại hiệu quả ngày càng cao hơn. Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản Miền Trung (Seaprodex Đà Nẵng) là công ty cổ phần hóa, là đơn vị xuất khẩu chủ yếu các sản phẩm thuỷ sản ở dạng đông lạnh. Thị trường của công ty khá đa dạng với thị trường chính là Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU. Trong giai đoạn nền kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự phát triển của các khoa học công nghệ và sự hội nhập của nền kinh tế thế giới, công ty cần phải có những bước đi mới để tận dụng cơ hội kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, nâng cao uy tín trên trường quốc tế. Trong quá trình học tập và nghiên cứu trên thực tế tại Seaprodex Đà Nẵng, nhận thức được tầm quan trọng của việc thanh toán quốc tế, em đã chọn đề tài : “Một số biện pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ tại Seaprodex Đà Nẵng ”. Nội dung chuyên đề gồm có 3 phần : Phần I : Lý luận chung về rủi ro trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 1
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp Phần II : Tình hình hoạt động kinh doanh và thực trạng rủi ro trong thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại Seaprodex. Phần III : Phương hướng và giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán tín dụng chứng từ tại Seaprodex. Đây là đề tài tập trung nghiên cứu về rủi ro trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, các vấn đề chung nhất về tín dụng chứng từ và những giải pháp để thực hiện tốt quy trình nghiệp vụ khi thanh toán theo phương thức này. Với phạm vi của một khóa luận, đề tài tập trung nghiên cứu và trình bày cơ sở lý luận theo thông lệ quốc tế liên quan đến tín dụng chứng từ, bản quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP 600). Và thực tiễn về thanh toán tại Seaprodex trong những năm gần đây (2007 – 2009). Trong đề tài này chủ yếu sử dụng các phương pháp sau : Phương pháp thống kê – tổng hợp, Phương pháp so sánh, Phương pháp phân tích… cùng với việc tham khảo các sách, tài liệu có liên quan. Với kiến thức còn hạn chế và chưa có kinh nghiệm thực tiễn trong nghiệp vụ nên chuyên đề không tránh khỏi những sai sót nhất định. Rất mong nhận được những ý kiến, đánh giá của thầy cô giáo và các cô, chú trong ban Xuất khẩu (Seaprodex Đà Nẵng) để chuyên đề được hoàn thành tốt hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy Trần Văn Nghiệp, cùng với sự giúp đỡ tận tình của các cô, chú trong Ban Xuất khẩu. Đà Nẵng, ngày tháng năm 2010 Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Bé SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 2
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ I. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 1.1. Khái niệm về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Phương thức Tín dụng chứng từ (TDCT) là phương thức thanh toán, trong đó theo yêu cầu của khách hàng, một ngân hàng sẽ phát hành một bức thư (gọi là thư tín dụng- letter of credit) cam kết trả một số tiền nhất định cho người thụ hưởng hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi s ố tiền đó nếu người này xuất trình cho ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những điều kiện và điều khoản quy định trong thư tín dụng. Từ khái niệm trên cho thấy, phương thức tín dụng chứng từ có thể được áp dụng trong nội thương và ngoại thương. Trong ngoại thương, theo yêu cầu của nhà nhập khẩu, ngân hàng phát hành một thư tín dụng cho nhà xuất khẩu hưởng. Nội dung chủ yếu của thư tín dụng là sự cam kết của ngân hàng phát hành L/C sẽ trả tiền cho nhà xuất khẩu khi nhà xuất khẩu tuân thủ những điều kiện quy định trong L/C và chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng để thanh toán. Thuật ngữ “tín dụng- credit” ở đây được dùng theo nghĩa rộng, nghĩa là “tín nhiệm”, chứ không phải để chỉ “một khoản cho vay” theo nghĩa thông thường. Điều này được thể hiện rõ trong trường hợp khi người nhập khẩu ký quỹ 100% giá trị của L/C, thì thực chất ngân hàng không cấp bất cứ một khoản tín dụng nào, mà chỉ cho người nhập khẩu “vay” sự tín nhiệm của mình. Ngay cả trong trường hợp nhà nhập khẩu không hề ký quỹ, thì một khoản tín dụng thực sự chỉ có thể xảy ra khi ngân hàng phát hành L/C tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu và ghi nợ nhà nhập khẩu. Như vậy, thuật ngữ “tín dụng” trong phương thức TDCT chỉ thể hiện khoản “tín dụng trừu tượng” bằng lời hứa trả tiền của ngân hàng thay cho lời hứa trả tiền của nhà nhập khẩu, vì ngân hàng có tín nhiệm hơn nhà nhập khẩu. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 3
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp Như vậy, trong phương thức TDCT, ngân hàng không chỉ là người trung gian thu hộ, chi hộ, mà còn là người đại diện cho nhà nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, bảo đảm cho nhà xuất khẩu nhận được khoản tiền tương ứng với hàng hoá mà họ đã cung ứng. Đồng thời, ngân hàng còn là người đảm bảo cho nhà nhập khẩu nhận được số lượng và chất lượng hàng hoá phù hợp với bộ chứng từ và số tiền mình bỏ ra. Rõ ràng là, nhà nhập khẩu có cơ sở để tin chắc rằng, ngân hàng sẽ không trả tiền trước khi nhà xuất khẩu giao hàng, bởi vì điều này đòi hỏi nhà xuất khẩu phải xuất trình bộ chừng từ gửi hàng.Trong khi đó, nhà xuất khẩu tin chắc rằng sẽ nhận được tiền hàng xuất khẩu nếu anh ta trao cho ngân hàng phát hành L/C bộ chứng từ đầy đủ và phù hợp theo như qui định trong L/C. 1.2. Quy trình nghiệp vụ (7) Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo (6) (Issuing bank) (Advising bank) (2) (1) (9) (10) (8) (5) (3) Người hưởng lợi Người yêu cầu (Beneficiary) (Applicant) (4) Sơ đồ 1.1 : Quy trình mở L/C (1) Người yêu cầu (đối với L/C thông thường là nhà nhập khẩu) làm "yêu cầu phát hành thư tín dụng" (Application for documentary credit) và làm các thủ tục cần thiết khác để yêu cầu ngân hàng mở L/C cho người hưởng lợi (thông thường là người xuất khẩu). (2) Ngân hàng sau khi kiểm tra đơn và các điều kiện mở L/C của nhà nhập khẩu, nếu đồng ý sẽ căn cứ vào đơn để phát hành L/C và chuyển đ ến người hưởng lợi thông qua ngân hàng thông báo (thường là ngân hàng ở nước người hưởng lợi và có quan hệ đại lý với ngân hàng phát hành). (3) Ngân hàng thông báo, sau khi làm các công việc cần thiết (kiểm tra, dịch thuật...) sẽ chuyển toàn bộ nội dung của L/C đến người hưởng lợi (Trên tất cả SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 4
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp các trang của L/C đều phải có đóng dấu tên của ngân hàng thông báo và chữ ký của thanh toán viên). (4) Người hưởng lợi sau khi kiểm tra nội dung L/C, nếu cần thiết có thể đề nghị đối tác tiến hành thủ tục tu chỉnh L/C, cho đến khi chấp nhận toàn bộ nội dung của L/C thì mới thực hiện L/C (giao hàng hoặc thực hiện một nghĩa vụ nào đó theo L/C) (5) Sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ theo L/C (chẳng hạn sau khi hoàn thành việc giao hàng), người hưởng lợi sẽ lập bộ chứng từ thanh toán theo yêu cầu của L/C và xuất trình lên ngân hàng chỉ định thường là ngân hàng đã thông báo L/C) (6) Ngân hàng chỉ định chuyển bộ chứng từ cho ngân hàng phát hành L/C (trường hợp này L/C không được thanh toán, chấp nhận hoặc chiết khấu tại ngân hàng chỉ định). (7) Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ thanh toán được xuất trình, nếu chấp nhận sự phù hợp của chứng từ thì sẽ tiến hành thanh toán cho người xuất trình (trường hợp trả ngay) hoặc cam kết trả chậm, hoặc chấp nhận hối phiếu và trả tiền khi đáo hạn. Nếu chứng từ không phù hợp có thể từ chối không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết theo L/C. (8) Ngân hàng thông báo chuyển tiền hoặc hối phiếu được chấp nhận hoặc thông báo về tình trạng chứng từ cho người hưởng lợi. (9) Ngân hàng phát hành yêu cầu người đề nghị mở L/C thanh toán hoặc nhận nợ để được nhận bộ chứng từ gốc. (10) Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu đồng ý sẽ thực hiện đề nghị của ngân hàng phát hành để được nhận bộ chứng từ gốc. Quy trình trên chỉ có tính tổng quát, tùy thuộc vào nội dung của L/C, tình trạng bộ chứng từ được xuất trình, hành động của các ngân hàng mà quy trình thực tế có thể thay đổi. 1.3. Thư tín dụng (Letter of Credit - L/C) - Công cụ quan trọng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 5
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp Thư tín dụng là một văn bản do ngân hàng mở thiết lập theo yêu cầu của người nhập khẩu (người xin mở L/C), trong đó cam kết của ngân hàng phát hành và những điều kiện cụ thể đặt ra cho người hưởng lợi thực hiện. L/C do ngân hàng mở chuyển cho ngân hàng thông báo bằng thư, điện hay Swift. Tùy vào hình thức chuyển mà hình thức của L/C có thể khác nhau, còn nội dung về cơ bản là giống nhau vì nó được lập trên cơ sở của "Đơn yêu cầu mở L/C" do người nhập khẩu lập. Nội dung cơ bản của L/C như sau: Phần đầu của L/C thường bao gồm các nội dung như: Số tham chiếu (khi phát hành L/C bộ phận phát hành sẽ đăng ký mã số tham chiếu); Số trang của L/C và tổng số trang của L/C; Thời gian phát hành. Vào phần sau của L/C sẽ có các nội dung chủ yếu sau : (1) Số hiệu của L/C: Do ngân hàng phát hành thiết lập. Tạo thuận tiện trong việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh toán và ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ thanh toán như ghi vào hóa đơn, hối phiếu ... (2) Địa điểm mở L/C : là nơi ngân hàng mở tạo lập và chuyển giao L/C (3) Ngày mở L/C : là căn cứ để xác định + Ngày bắt đầu phát sinh cam kết của ngân hàng mở với người xuất khẩu + Ngày bắt đầu tính thời gian hiệu lực của L/C + Ngày ngân hàng mở chính thức chấp nhận đơn xin mở L/C c ủa người nhập khẩu và đó là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra người nhập khẩu thực hiện việc mở L/C có đúng hạn đã quy định trrong hợp đồng hay không. (4) Loại L/C : mỗi loại L/C đều có tính chất, nội dung khác nhau,quyền lợi nghĩa vụ của các bên liên quan cũng khác nhau nên cần xác nhận loại thư tín dụng cần mở. (5) Tên và địa chỉ các bên liên quan đến L/C gồm : người yêu cầu mở L/C, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền, ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi L/C. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 6
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp (6) Đồng tiền và giá trị thanh toán của L/C : Số tiền của L/C vừa ghi bằng số, vừa ghi bằng chữ và thống nhất với nhau họăc có thể chỉ cần số tiền bằng số. Tên của đơn vị tiền tệ phải rõ ràng. Cách ghi số tiền tốt nhất là ghi một số giới hạn mà người xuất khẩu có thể đạt được. Những từ “khoảng chừng, độ khoảng hoặc những từ ngữ tương tự được dùng để chỉ biên độ số tiền của L/C cho phép xê dịch hơn kém không quá 10% của tổng số tiền đó. (7) Thời hạn hiệu lực(Expiry date) : là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với L/C. (8) Thời hạn trả tiền của L/C (Latest payment date) : là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau. Điều này có thể nhận dạng ở hối phiếu của người xuất khẩu ký phát. Thời hạn về giao hàng cũng được ghi trong L/C và do hợp đồng mua bán quy định như đã phân tích ở trên, thời hạn giao hàng có thể có quan hệ chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của L/C. (9) Thời hạn giao hàng (shipment date) : là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao hàng cho bên mua kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực. (10) Những nội dung về hàng hoá (Description of goods) : tên hàng, số lượng, trọng lượng (có cả sai lệch cho phép) , giá cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu..cũng được ghi vào thư tín dụng. (11) Những nội dung về vận tải (Shipment term) : giao nhận hàng hoá như điều kiện có sở giao hàng, nơi gửi, giao hàng từng phần..nơi giao hàng cũng được ghi vào thư tín dụng. (12) Những chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình (Documents for payment): là nội dung then chốt của thư tín dụng, bởi vì bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là môt bằng chứng của người xuất khẩu chứng mình rằng mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng những quy định của thư tín dụng. (13) Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C: là nội dung cuối cùng của thư tín dụng và nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 7
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp (14) Những điều kiện đăc biệt khác:như phí ngân hàng được tính cho bên nào, điều kiện đặc biệt hướng dẫn đối với ngân hàng chiết khấu, dẫn chiếu số UCP áp dụng… (15) Chữ ký của ngân hàng mở L/C : L/C thực chất là một khế ước dân sự, do vậy người ký nó cũng phải là người có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp lý để tham gia và thực hiện quan hệ dân luật. L/C mở bằng thư phải được ký bằng chữ ký đã được lưu ký tại ngân hàng đại lý. L/C mở bằng điện phải có sự đồng ý của ngân hàng và căn cứ vào mã khóa (textkey) của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng vì tuy được hình thành trên cơ s ở hợp đồng ngoại thương nhưng sau khi được thiết lập, nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Một khi L/C đã được mở và được các bên chấp nhận thì cho dù nội dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không cũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ và của các bên có liên quan. Có nghĩa là khi thanh toán ngân hàng chỉ căn cứ vào bộ chứng từ, khi nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ phù hợp về mặt hình thức với những điều khoản quy định trong L/C thì ngân hàng phát hành L/C phải trả tiền vô điều kiện cho nhà xuất khẩu. Như vậy, việc thanh toán L/C không hề căn cứ vào tình hình thực tế của hàng hoá, ngân hàng cũng không có nghĩa vụ xem xét việc giao hàng hoá thực tế có khớp đúng với chứng từ hay không mà chỉ căn cứ vào chứng từ do người bán xuất trình, nếu thấy các chứng từ đó bề mặt phù hợp với các điều kiện của L/C thì trả tiền cho người bán. Chính những tính chất quan trọng của L/C khiến cho phương thức thanh toán tín dụng chứng từ mau chóng trở thành phương thức thanh toán hữu hiệu đ ặc biệt trong ngoại thương. 1.4. Một số loại L/C trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ 1.4.1. Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable L/C):Là một L/C mà ngân hàng phát hành có thể sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi L/C. Như vậy, nếu không có sự nhất trí của người xuất khẩu, của ngân hàng xác nhận (nếu có) thì ngân SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 8
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp hàng mở không được phép thực hiện theo yêu cầu của bên nhập khẩu thay đổi L/C. Do đó quyền lợi của người bán được đảm bảo hơn. Tín dụng không thể huỷ ngang tuy ít linh hoạt nhưng khá an toàn và có thể cân bằng được quyền lợi của các bên tham gia nên nó được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế ngày nay. Tuy nhiên, rủi ro cũng vẫn có thể xảy ra khi ngân hàng mở L/C mất khả năng thanh toán, người xuất khẩu sẽ không thu được tiền và trong khi người nhập khẩu đã thanh toán. Loại này ít được sử dụng, bởi vì nó là lời hứa trả tiền chứ không phải là sự cam kết. 1.4. 2. Thư tín dụng không thể huỷ ngang (irrevocable L/C): là loại L/C sau khi mở ra và người xuất khẩu thừa nhận thì ngân hàng mở L/C không được sửa đổi, bổ sung.. trong thời hạn hiệu lực của nó. Loại này đ ảm bảo quyền lợi cho bên xuất khẩu và hiện nay đang được sử dụng phổ biến. 1.4. 3. Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (confirmed irrevocable letter of credit): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được một ngân hàng xác nhận đảm bảo trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C. Nguyên nhân phát sinh loại L/C này là vì người hưởng lợi không tin tưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng mở L/C. Tuy đây là loại L/C tạo cho người bán một sự đảm bảo hai lần trong việc sẽ được thanh toán tiền hàng - vậy là rất an toàn - nhưng nó lại thường không nhận được sự hưởng ứng nhiều của ngân hàng mở L/C do nó gián tiếp làm giảm uy tín của họ. Đôi khi việc tho ả thuận lựa chọn ngân hàng xác nhận cũng gây chậm chễ, khó khăn với các bên liên quan: bên bán chậm thu được tiền để nhanh chóng tiếp tục đầu tư tái sản xuất; bên mua chậm nhận được hàng vì bên bán không giao hàng khi L/C chưa được xác nhận, dẫn đến mất cơ hội kinh doanh; ngân hàng mở L/C cũng có thể bị mất uy tín trên thị trường khi các khách hàng khác nắm được thông tin này và cũng không còn tin tưởng vào khả năng thanh toán của họ nữa... 1.4.4. Thư tín dụng không thể hủy ngang, miễn truy đòi (irrevocable without recourse letter of credit): là loại L/C mà sau khi người xuất khẩu đã được trả tiền thì ngân hàng không còn quyền đòi lại tiền dù trong bất ký trường hợp nào.. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 9
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp 1.4.5. Thư tín dụng tuần hoàn (revolving letter of credit):là loại L/C không thể huỷ bỏ sau khi sử dụng xong hoặc đã hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy cho đến khi nào hoàn tất hợp đ ồng. Loại này được áp dụng trong trường hợp hai bên xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ thường xuyên và đối tượng thanh toán không thay đổi. 1.4.6. Thư tín dụng giáp lưng (Back-to-Back Letter of Credit): Là loại thư tín dụng không thể hủy bỏ được, mỏe ra căn cứ vào một L/C khác làm bảo đảm theo L/C này tổ chức xuất khẩu căn cứ vào thư tín dụng của người nhập khẩu mở, yêu cầu ngân hàng mở một thư tín dụng cho tổ chức xuất khẩu khác hưởng. thư tín dụng giáp lưng được sử dụng trong một số trường hợp: + L/C gốc không cho phép chuyển nhượng + Khi các chứng từ cần có theo L/C gốc không trùng hợp với các chứng từ của L/C thứ hai. + Khi người trung gian muốn bí mật một số thông tin. 1.4.7. Thư tín dụng đối ứng (reciprocal L/C):Là loại L/C không thể hủy bỏ trong đó quy định nó chỉ có hiệu lực khi L/C khác đối ứng với nó đ ược mở ra. Điều đó có nghĩa là tổ chức xuất khẩu khi nhận được L/C do tổ chức nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương ứng thì nó mới có giá trị. L/C này được sử dụng trong giao dịch hàng đổi hàng và gia công hàng xuất khẩu. Cả hai bên đều là người mua , người bán của nhau 1.4.8. Thư tín dụng ứng trước (packing L/C):Là loại L/C mà trong đó quy định một khoản tiền ứng trước cho người xuất khẩu vào một thời điểm xác định trước khi bộ chứng từ hàng hóa được xuất trình. Đối với khoản ứng trước này, người ta quy định trong một điều khoản đặc biệt, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bên liên quan trong L/C. 1.4.9. Thư tín dụng dự phòng (Standby letter of Credit SBLC) +L/C dự phòng là một tín dụng chứng từ hay là dàn xếp tương tự, thể hiện nghĩa vụ của ngân hàng phát hành tới người thụ hưởng trong việc: +Thanh toán lại khoản tiền mà người yêu cầu mở L/C dự phòng đã vay hoặc được ứng trước. +Thanh toán khoản nợ của người mở L/C dự phòng. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 10
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp +Bồi thường những thiệt hại do người mở L/C dự phòng không thực hiện nghĩa vụ của mình. 1.4.10. L/C có thể chuyển nhượng (Transferable Letter of Credit) +Người thụ hưởng trong L/C chuyển nhượng có quyền yêu cầu ngân hàng của mình chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ tín dụng cho người thụ hưởng khác. + Các chứng từ trong L/C chuyển nhượng nên được yêu cầu để có thể được sử dụng theo như L/C gốc. +Người thụ hưởng trung gian có quyền thay thế hóa đơn của L/C chuyển nhượng bằng hóa đơn của mình. 1.5. UCP - Văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh phương thức TDCT Khi thanh toán bằng phương thức TDCT, các bên xuất nhập khẩu phải thoả thuận với nhau về việc sử dụng UCP (The Uniform Customs and Practice for Documentary credit). UCP là bản quy tắc và cách thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ do Phòng thương mại quốc tế (ICC) tại Pari công bố lần đầu tiên vào năm 1933. Từ đó đến nay UCP đã qua 5 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1951, 1962, 1974, 1983, 1994. UCP đã được hơn 175 nước áp dụng trong đó có Việt Nam. Khác với luật quốc gia hay công ước quốc tế, UCP không tự động áp dụng để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT mà mang tính chất pháp lý tuỳ ý. Các bên tham gia có quyền lựa chọn có hay không dùng UCP để điều chỉnh hoạt động thanh toán TDCT. Nhưng một khi các bên đã đồng ý áp dụng UCP thì các điều khoản áp dụng của UCP sẽ ràng buộc nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia. Một điểm cần lưu ý là UCP ban hành sau không phủ nhận các nội dung của UCP trước đó. Do đó các bên có thể thoả thuận lựa chọn một UCP nào đó, nhưng điều quy định bắt buộc là phải dẫn chiếu nó trong L/C. Chỉ UCP bản gốc bằng tiếng Anh mới có giá trị pháp lý giải quyết các tranh chấp, các bản dịch khác chỉ có giá trị tham khảo. Hiện nay, Sau 03 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006, Uỷ ban Ngân hàng của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã thông qua Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ mới (UCP 600) thay thế cho Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ cũ (UCP 500). UCP SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 11
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp 600 này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. UCP 600 đ ược coi là hoàn chỉnh nhất và ngày càng được nhiều ngân hàng của các nước thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong thanh toán quốc tế. UCP 600 thực sự được coi là cẩm nang cho nghiệp vụ tín dụng chứng từ. II. RỦI RO TRONG THANH TOÁN THEO PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ 2.1. Khái quát chung về rủi ro trong thanh toán quốc tế 2.1.1. Khái niệm Khi đề cập đến rủi ro, mọi người hay quan đó là những điều không tốt lành, tổn thất hay thậm chí thiệt hại về vật chất vô hình hay hữu hình xảy ra ngoài dự kiến do những nguyên nhân chủ quan hay khách quan. Ta có thể định nghĩa rủi ro như sau: Trong cuộc sống hàng ngày, trong hoạt động kinh tế của con người thường có những tai họa, tai nạn, sự cố bất ngờ, ngẫu nhiên xảy ra gây thiệt hại về người và tài sản. Những tai nạn, tai họa, sự cố xảy ra một cách bất ngờ ngẫu nhiên như vậy được gọi là rủi ro. Để đối phó với các loại rủi ro không lường trước được đó, con người đã cố gắng tìm kiếm mọi phương cách để phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Từ biện pháp không thực hiện những việc làm quá mạo hiểm, chú ý đến những quy tắc về an toàn lao động, các chuẩn mực trong kinh tế... thậm chí l ập ra những quỹ dự phòng để dự trữ một khoản tiền nào đó nhằm bù đắp những rủi ro có thể gặp phải. Tất cả những hành động đó nhằm một mục đích duy nhất là cố gắng hạn chế đến mức tối đa và phòng tránh các loại rủi ro để mọi quá trình sản xuất, kinh doanh được diễn ra tốt đẹp. Trong thanh toán quốc tế cũng vậy, tuy là hoạt động mang đến cho hoạt động thương mại nhiều lợi ích, nhưng có thể nói lợi ích đó đồng hành với r ủi ro. Người ta định nghĩa rủi ro trong thanh toán quốc tế là : Rủi ro trong thanh toán quốc tế là những hiện tượng khách quan có liên quan và làm ảnh hưởng đến quá trình thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế. Nó do các nguyên nhân phát sinh từ quan hệ giữa các bên tham gia quan hệ thanh toán quốc tế (nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu, ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và các SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 12
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp tác nhân trung gian...) hoặc do các nhân tố khách quan khác gây nên. Con người có thể nhận biết được các hiện tượng khách quan đó, song không thể lượng hóa các hiện tượng đó xảy ra vào lúc nào? ở đâu? và mức độ thiệt hại thực sự đến thanh toán quốc tế. 2.1.2. Phân loại 2.1.2.1. Rủi ro kỹ thuật Là những rủi ro do những sai sót mang tính chất kỹ thuật trong quy trình thanh toán L/C, thường do các bên tham gia thực hiện sai một khâu trong quy trình nghiệp vụ thanh toán. a. Rủi ro đối với người xuất khẩu Như ta đã biết, trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng phát hành đứng ra cam kết thanh toán cho người xuất khẩu khi họ xuất trình bộ chứng từ phù hợp với L/C trong khi đó để đảm bảo việc giao hàng theo quy định của hợp đồng thương mại, L/C thường đòi hỏi nhiều điều khoản rất chi tiết và khắt khe. Chỉ với một sai khác dù rất nhỏ cũng có thể bị ngân hàng mở và người mua từ chối thanh toán với lý do có sự sai biệt hoặc không phù hợp với L/C. Việc duy nhất mà người xuất khẩu có thể làm để tránh được rủi ro trên là nhanh chóng, khẩn trương lập bộ chứng từ phù hợp với L/C. Một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với L/C phải đáp ứng được các yêu cầu sau : Các chứng từ phải được lập ra đúng yêu cầu về số lượng, số loại, nội - dung như đã quy định trong L/C. Nội dung của các chứng từ không được mâu thuẫn với nhau. - Bộ chứng từ phải được xuất trình tại địa điểm trả tiền quy định trong - L/C trong thời hạn hiệu lực của L/C. Nhưng trong thực tế có rất nhiều sai sót xảy ra trong quá trình lập chứng từ mà thường gặp nhất là: Sai lỗi chính tả, sai tên, địa chỉ... - Chứng từ không hoàn chỉnh về mặt số lượng như số loại chứng từ, số - bản của mỗi loại. Các sai sót trên bề mặt chứng từ như: - + Số tiền trên chứng từ vượt quá giá trị L/C. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 13
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp + Các chứng từ không ghi số L/C. + Hối phiếu ghi nhầm người bị ký phát. + Chứng từ không đánh dấu bản gốc. + Các chứng từ không khớp nhau hoặc không khớp với L/C về số l ượng, trọng lương hàng hoá... + Các chứng từ không tuân theo quy định của L/C về cảng bốc dỡ, về hãng vận tải, phương thức vận chuyển... Tất cả những sai sót trên đều có thể là nguyên nhân gây nên rủi ro trong thanh toán, gây thiệt hại cho nhà xuất khẩu. Khi nộp chứng từ cho ngân hàng chiết khấu, nếu ngân hàng phát hiện ra các sai sót mà có thể sửa chữa được thì việc sửa chữa sẽ làm chậm quá trình thanh toán. Nếu sai sót không thể sửa chữa thì bộ chứng từ không được chiết khấu hoặc chấp nhận mà phải đợi ý kiến của ngân hàng mở và người mua để giải quyết. Như vậy, quá trình thanh toán sẽ bị kéo dài làm cho người bán không thể thu hồi vốn nhanh được. Hơn nữa, người mua và ngân hàng mở có thể dựa vào những sai biệt rất nhỏ của chứng từ để từ chối thanh toán trong khi đó hàng hoá đã được gửi đi. Nhà xuất khẩu sẽ chịu thiệt hại khi phải bán giảm giá hàng hoá hoặc tìm khách hàng khác để tiêu thụ và cùng với nó là một các chi phí như phí đền bù, cước lưu kho và các phí tổn phát sinh khác. Một rủi ro kỹ thuật nữa là việc người bán phạm phải các sai lầm khi tiến hành giao hàng như việc vi phạm thời hạn thanh toán thư tín dụng, giao hàng muộn, xuất trình chứng từ muộn... Nếu việc xuất trình chứng từ thể hiện sự vi phạm một trong các thời hạn nói trên cũng sẽ bị từ chối thanh toán. b. Rủi ro đối với người nhập khẩu Rủi ro lớn nhất đối với người nhập khẩu là việc nhận hành hoá không đúng với hợp đồng mua bán. Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là do bị lợi dụng tính đ ộc lập giữa L/C và hợp đồng thương mại. Việc thanh toán giữa ngân hàng hai bên mua bán chỉ thực hiện trên cơ sở bộ chứng từ đã giao hàng xuất trình phù hợp với quy định của L/C tức là ngân hàng chỉ chịu trách nhiệm về sự khớp đúng trên bề mặt giữa bộ chứng từ thanh toán với L/C chứ không chịu trách nhiệm về tính chân thực của chứng từ và tình hình thực tế giao hàng. Do vậy, người SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 14
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp mua sẽ phải chịu rủi ro khi tiền hàng đã trả theo bộ chứng từ xuất trình cho ngân hàng đều phù hợp cả về số lượng, chất lượng... nhưng thực tế thì hàng hoá nhận được lại không đúng với mong muốn, không giống như trong hợp đồng thương mại mà trước đó hai bên đã thoả thuận. c. Rủi ro đối với ngân hàng Trong nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ, ngân hàng đóng vai trò quan trọng không thể thiếu. Vì vậy, cũng giống như khách hàng của mình, với vị trí khác nhau, ngân hàng cũng có thể gặp những rủi ro khác nhau. Cũng như rủi ro trong nghiệp vụ tín dụng, rủi ro trong nghiệp vụ thanh toán L/C không hẳn là những mất mát, thiệt hại xảy ra cho các ngân hàng do không thu hồi được vốn đã thanh toán cho nước ngoài, nhiều khi còn là việc không thu hồi vốn đúng hạn, hoặc làm phát sinh các khoản chi phí vô ích khác. Ngân hàng mở L/C Ngân hàng mở L/C là người cam kết trả tiền cho người xuất khẩu. Vì vậy, nguy cơ rủi ro đối với ngân hàng mở là rất lớn. Rủi ro trong nghiệp vụ mở: - Việc đầu tiên của các ngân hàng thương mại khi mở L/C nhập khẩu là phải kiểm tra tính pháp lý của doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp mới giao dịch lần đầu), hợp đồng thương mại, đơn xin mở L/C, nguồn vốn thanh toán bao gồm vốn vay hay vốn tự có và các chứng từ có liên quan khác. Rủi ro ở công đoạn này thường xảy ra ở phía doanh nghiệp thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng ngoại thương như giá cả, phương thức thanh toán, phương thức vận tải, điều khoản trọng tài... Vì vậy, để giảm thiểu rủi ro, các cán bộ tác nghiệp của ngân hàng hết sức lưu ý nghiên cứu kỹ các điều khoản trong hợp đ ồng ngoại thương và đơn xin mở L/C để tư vấn cho doanh nghiệp lấy lại lợi thế nếu thấy cần thiết. Thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp mà lợi thế thuộc về khách hàng nước ngoài và ngân hàng đã tư vấn dàn xếp ổn thoả theo đúng luật của nước phát hành và quốc tế. Một rủi ro nữa mà ngân hàng có thể gặp phải khi mở L/C là dùng sai hoặc sót trong từng chữ, dấu chấm, dấu phẩy... so với đơn xin mở L/C của doanh nghiệp. Tất nhiên phí tu chỉnh cho những sai sót đó ngân hàng phải chịu. Vì vậy, SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 15
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp để khắc phục rủi ro này, cần phải tiến hành kiểm tra lại kỹ càng sau khi đã mở L/C trên máy. Một điều cũng cần quan tâm là ngân hàng mở tuyệt đối không được tự thêm bớt nội dung vào L/C so với đơn xin mở, ngoại trừ sự thêm bớt đó làm tăng thêm lợi thế cho khách hàng của mình và phù hợp với hợp đồng ngoại thương, và các văn bản pháp luật điều chỉnh đã được dẫn chiếu trong L/C như UCP 600 và Incoterms 2000. Rủi ro khi kiểm tra bộ chứng từ đến và khi thanh toán. - Có thể nói đây là nghiệp vụ "vạch lá tìm sâu" của ngân hàng mở nhằm phát hiện những sai sót, những điểm không phù hợp của bộ chứng từ so với nội dung và bề mặt của L/C đã mở. Rủi ro cho ngân hàng sẽ xảy ra khôn lường nếu ngân hàng không kiểm tra kỹ bộ chứng từ mà vẫn thực hiện thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Bởi lẽ từ trước đến nay đã có những bộ chứng từ giả, đặc biệt là B/L giả nhằm mục đích lừa đảo hoặc rửa tiền, cũng có trường hợp ghi "theo lệnh" (to order...) không đúng tên người nhận, làm cho việc nhận hàng bị chậm trễ, tăng chi phí lưu kho bãi, gây thiệt hại không chỉ cho khách hàng mà cả cho ngân hàng mở nếu lô hàng đó ngân hàng cho vay thanh toán. Nhằm hạn chế phần nào các trường hợp trên, các doanh nghiệp cũng như các ngân hàng thương mại khi mở L/C nhập khẩu nên quy định thêm điều khoản: Gửi lên tàu ngay sau khi giao hàng một bản sao bộ chứng từ cho người mở L/C, nhằm mục đích để cho người mở kiểm tra trước, nếu có sai sót thì kịp thời tu chỉnh s ửa đổi, đồng thời có tác dụng tăng thêm độ tin cậy rằng hàng đã được bốc xếp lên tàu. Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng cũng có thể vấp phải một số rủi ro kỹ thuật như không tuân thủ UCP, ví dụ: chuyển giao bộ chứng từ không phù hợp cho người mở đi nhận hàng, hoặc làm mất không trả lại chứng từ cho phía xuất trình nguyên vẹn như khi nó nhận được, hoặc không giao chứng từ đó cho bên thứ ba do phía xuất trình chỉ định. Chúng ta đều biết rằng bằng việc đồng ý mở L/C, ngân hàng mở cam kết thay mặt người mua thanh toán cho người xuất khẩu nếu anh ta thực hiện đúng như quy định của L/C. Chính vì tính thay mặt cho người mua đã làm xuất hiện khả năng xảy ra rủi ro đối với ngân hàng mở. Đó là rủi ro không đòi đ ược tiền SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 16
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp từ phía nhà nhập khẩu do người nhập khẩu mất khả năng thanh toán hoặc bị phá sản. Đây chính là rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở. Nguyên nhân có thể là do ngân hàng không tiến hành thẩm định khi doanh nghiệp lần đầu tiên đến quan hệ mở L/C thậm chí ngân hàng có tiến hành thẩm định nhưng không phải lúc nào kết quả thẩm định cũng chính xác do thông tin không đầy đủ, không tin cậy hoặc do lúc ngân hàng thẩm định thì tình hình tài chính của khách hàng rất tốt nhưng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhà nhập khẩu bị thua lỗ liên tục mà ngân hàng không hay biết, chẳng hạn như hàng nhập khẩu về bán không thu được tiền, nợ đọng thuế nhập khẩu kéo dài bị hải quan cưỡng chế không cho nhận hàng. Ngân hàng thông báo Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng thông báo khi ngân hàng này quy ết đ ịnh thông báo phải một L/C giả hoặc một tu chỉnh L/C không có hiệu lực trong khi chính ngân hàng chưa xác định được tình trạng mã khoá (hay mẫu chữ ký uỷ quyền đối với trường hợp phát hành L/C bằng thư) hoặc khi ngân hàng thông báo quyết định của mình cho ngân hàng mở biết một cách chậm trễ. Theo quy định của UCP 600, khi trên thư tín dụng chuyển bằng điện có ghi "các chi tiết đầy đủ gửi sau" hay những từ có nội dung tương tự hoặc ghi rằng thư xác nhận sẽ là văn bản có hiệu lực của thư tín dụng... thì điện chuyển sẽ không được xem như là văn bản có hiệu lực. Vì vậy, nếu ngân hàng thông báo về thư tín dụng cho khách hàng thì phải ghi rõ trên thông báo: "thông báo sơ bộ chưa có hiệu lực thi hành". Khi ngân hàng thông báo không làm đúng điều đó để khách hàng hiểu lầm rằng đó là L/C có hiệu lực và thực hiện giao hàng thì mọi rủi ro ngân hàng sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Ngân hàng xác nhận (nếu có) Rủi ro xảy ra đối với ngân hàng xác nhận là do không nắm chắc năng lực tài chính của ngân hàng mở lại vội đi xác nhận theo yêu cầu của họ đ ể rồi cuối cùng phải nhận lãnh trách nhiệm thanh toán thay cho ngân hàng mở trong trường hợp ngân hàng mở thiếu thiện chí hoặc mất khả năng thanh toán thậm chí bị phá sản. Ngân hàng chiết khấu (nếu có) SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 17
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp Đối với ngân hàng chiết khấu rủi ro xảy ra phần nhiều tuỳ thuộc vào thiện chí của ngân hàng mở và nhà nhập khẩu. Ngân hàng chiết khấu sẽ không thu hồi được tiền hoặc thu chậm là do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán, thậm chí từ chối thanh toán thông qua việc "bới bèo ra bọ" trong việc kiểm tra chứng từ của ngân hàng mở. Lý do để người nhập khẩu trì hoãn chủ yếu là do gặp khó khăn trong thanh toán hoặc cũng có thể do bên mua không tin tưởng bên bán vì hay giao hàng trễ, giao hàng kém chất lượng. Mục đích của người mua là muốn hàng thật sự về cảng, nhìn thấy hàng rồi mới trả tiền. Để trì hoãn thanh toán, họ sẽ yêu cầu ngân hàng mở thông báo những sai biệt của chứng từ trong vòng 5 ngày làm việc để dành quyền được từ chối thanh toán sau này. Đối với ngân hàng chiết khấu, thời gian trì hoãn thanh toán càng dài, ngân hàng bị chiếm dụng vốn càng lâu. Rủi ro đạo đức 2.1.2.2. Mặc dù trong phương thức tín dụng chứng từ, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên tham gia được quy định rõ ràng, song không phải lúc nào nguyên tắc đó cũng được tôn trọng. Rủi ro đạo đức là những rủi ro khi một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên còn lại. Về phía người xuất khẩu, họ có thể lợi dụng về tính độc lập giữa bộ chứng từ thanh toán và tình hình giao hàng thực tế để lập ra những bộ chứng từ giả mạo phù hợp với L/C nhằm đòi tiền hàng. Về phía người nhập khẩu, họ có thể không hoặc kéo dài thời gian đi nhận chứng từ và trả tiền khi không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng do cơ hội kinh doanh đã mất hay do các mối hàng khác hoặc tình hình trên thị trường hàng hoá có những biến động bất lợi. Đặc biệt khi vay ngân hàng để mở L/C, họ có thể sử dụng số tiền bán hàng vào mục đích khác, kinh doanh quay vòng thay vì thanh toán cho ngân hàng ngay như là một hình thức chiếm dụng vốn của ngân hàng. Đặc biệt các ngân hàng mở cũng có thể vi phạm cam kết của mình như đứng về phía người nhập khẩu từ chối hoặc trì hoãn thanh toán cho người xuất khẩu. Đó là chưa kể tới không ít trường hợp cán bộ ngân hàng và khách hàng thông đồng với nhau cố tình vi phạm quy trình thanh toán của ngân hàng nhằm chiếm dụng vốn của ngân hàng và bạn hàng. SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 18
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp Tất cả những rủi ro do những vi phạm nêu trên đều được coi là rủi ro đạo đức. Ngày nay, khi quan hệ thương mại và thanh toán quốc tế được mở rộng thì rủi ro đạo đức trở thành mối quan tâm lớn không chỉ của các ngân hàng mà cả doanh nghiệp nhằm bảo toàn vốn và an toàn trong kinh doanh. Mặc dù trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã có sự cam kết của ngân hàng mở, nhưng sự tin tưởng và thiện chí giữa người bán và người mua vẫn được coi là yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự an toàn và hiệu quả của thanh toán quốc tế. Khi người mua có thiện chí thì việc thanh toán sẽ diễn ra thuận lợi hơn rất nhiều cho dù bộ chứng từ có sai sót cũng dễ được chấp nhận. Ngược lại, khi họ có ý không muốn tiếp tục thực hiện hợp đồng có thể do cơ hội kinh doanh đã mất hay do các mối hàng khác... họ có thể dựa vào những sai sót dù là rất nhỏ của chứng từ để đòi giảm giá, kéo dài thời gian để chiếm dụng vốn của người bán, thậm chí từ chối thanh toán. Với người mua, sự trung thực của người bán cũng rất quan trọng, bởi vì ngân hàng chỉ làm việc với những chứng từ mà không cần biết việc giao hàng có đúng hợp đồng hay không. Do đó, người mua có thể vẫn phải thanh toán L/C với ngân hàng mà không nhận được hàng hoá theo đúng hợp đồng. Các vi phạm về hợp đồng có thể được giải quyết sau đó nhưng phải mất nhiều thời gian và phí tổn, trước hết là người mua mất cơ hội kinh doanh và bị chiếm dụng vốn. Song ảnh hưởng gián tiếp chỉ là rất nhỏ so với những rủi ro trực tiếp mà nó có thể gây ra. Nguyên nhân chủ yếu của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác về tình hình tài chính, hoạt động kinh doanh cũng như về uy tín và tính trung thực của đối tác. Chính vì vậy mà đưa ra những phán quyết sai lầm gây nên rủi ro trong thanh toán. Để hạn chế rủi ro đạo đức, vấn đề cốt lõi là khắc phục tình trạng thông tin không cân xứng. Đứng ở góc độ nhà xuất khẩu, phải tiến hành điều tra, thu thập thông tin chính xác về khách hàng để có thể sàng lọc những khách hàng chất lượng. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hơn cả vẫn là uy tín của khách hàng. Rủi ro chính trị 2.1.2.3. Rủi ro chính trị trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ là những rủi ro bắt nguồn từ sự phát triển kinh tế, chính trị của các nước có liên quan trong quá trình thanh toán. Tham gia vào nhiều lĩnh vực ngành nghề, có quan hệ với nhiều đối tượng kinh tế của nhiều quốc gia, thanh toán quốc tế mà chủ yếu là phương thức SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 19
- Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Th.S Trần Văn Nghiệp thanh toán tín dụng chứng từ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường kinh tế - chính trị - xã hội của các quốc gia. Một khi các yếu tố trên biến đ ộng dù là nhỏ cũng sẽ ảnh hưởng tới sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp... và từ đó ảnh hưởng tới quá trình thanh toán. Rủi ro chính trị thường gặp nhất là rủi ro do thay đổi môi trường pháp lý đặc biệt ở những nước có hệ thống pháp luật chưa ổn định, thường xuyên có sửa chữa bổ sung. Những rủi ro pháp lý thường liên quan đến việc thay đối các quy định về dự trữ, thuế hay việc ban hành các quy định cản trở hoạt động của ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Trong thực tế, những thay đổi này thường khiến các bên xuất nhập khẩu và ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ của mình, làm cho L/C bị huỷ bỏ, gây thiệt hại cho các bên. Sự phong toả kinh tế của các quốc gia vì mục đích chính trị như trường hợp CuBa. Iraq hay Việt Nam trước đây cũng mang lại những rủi ro tương tự. Bên cạnh đó, các cuộc nổi loạn, biểu tình, bạo động hay chiến tranh, đảo chính, đình công... cũng có thể gây ra rủi ro cho quá trình thanh toán như mất chứng từ, hàng hoá bị mất mát, hư hỏng, ngân hàng bị phong toả hoặc tạm ngừng hoạt động. Những biểu hiện bất lợi của các yếu tố kinh tế - chính trị còn được nhân lên gấp nhiều lần khi nó ảnh hưởng đến sự ổn định giá trị đồng tiền. Vì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ thường liên quan đến nhiều quốc gia khác nhau với đồng tiền khác nhau nên rủi ro do thay đổi tỷ giá cũng là một rủi ro rất lớn tuy không xuất phát từ quá trình thanh toán. Một ngân hàng có thể bị thiệt hại khi cho khách hàng vay để mở L/C hoặc chiết khấu chứng từ khi tỷ giá thay đổi. Trong các giao dịch, người ta thường dùng các ngoại tệ mạnh hơn để làm đơn vị tiền tệ, mà chủ yếu là USD. Thông thường, ngân hàng cho khách hàng vay ngoại tệ để thanh toán L/C, và có thể phải mua ngoại tệ này ở nơi khác. Khi người mua trả tiền cho ngân hàng, nếu tỷ giá tăng thì ngân hàng thu được một khoản chênh lệch tỷ giá bổ sung. Ngược lại, nếu tỷ giá giảm thì khoản phí thu được chưa chắc đã bù đắp được khoản lỗ do chênh lệch tỷ giá gây ra. Ngoài việc ngân hàng buộc khách hàng phải ký quỹ mở L/C bằng ngoại tệ mạnh sẽ không chỉ gây thiệt hại cho khách hàng trong giai đoạn tỷ giá không ổn định mà nhiều khi còn tiềm ẩn những rủi ro SVTH: Nguyễn Thị Bé - Lớp: 33K01.1 Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo thực tập một số khó khăn của Tổng Công ty may Đồng Nai
70 p | 3723 | 729
-
Báo cáo tốt nghiệp:Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại nhà máy bánh kẹo cao cấp Hữu Nghị
73 p | 896 | 397
-
Báo cáo tốt nghiệp: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty TNHH Giang Sơn”
64 p | 792 | 369
-
Đề tài "Một số giải pháp marketing nhằm hoàn thiện và nâng cao mức độ thỏa mãn khách hàng của Công ty TM-DV Tràng Thi"
71 p | 636 | 351
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Chi nhánh Công ty Sông Đà 7
39 p | 666 | 349
-
Đề tài "Một số biện pháp Marketing nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu Hà Tây"
49 p | 420 | 166
-
Đề tài "Một số vấn đề về vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty cầu 75 thuộc Tổng công ty công trình giao thông 8 - Bộ Giao Thông Vận tải"
61 p | 389 | 145
-
Đề tài: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Công ty công trình giao thông 208 thuộc tổng giao thông 4 - Bộ Giao Thông Vận tải
82 p | 300 | 136
-
Báo cáo tốt nghiệp: “Một số vấn đề về Thanh toán không dùng tiền mặt tại NHĐT&PT Cao Bằng - Thực trạng và giải pháp” .
59 p | 341 | 133
-
Báo cáo tốt nghiệp: Một số công tác nhằm hoàn thiện công tác lập báo cáo và phân tích báo cáo tài chính tại công ty cơ khí và thiết bị điện Đà Nẵng
63 p | 375 | 110
-
Báo cáo đề tài:" “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản trị nhân sự tại Tổng công ty xăng dầu Việt Nam ”.
91 p | 200 | 71
-
Luận văn đề tài:" đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay hộ sản xuất tại Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Thanh Trì”.
53 p | 230 | 69
-
báo cáo đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chánh trong cho vay trung dài hạn tại Sở Giao Dịch NHNNVN
82 p | 121 | 26
-
Báo cáo đề tài cấp Nhà nước: Nghiên cứu chế tạo các loại sợi ngắn và vải mát từ tre và luồng để gia cường cho vật liệu polyme composite thân thiện môi trường - TS. Bùi Chương
166 p | 167 | 24
-
Báo cáo khoa học: "Một số kết quả nghiên cứu ứng dụng bức xạ gamma trong bảo quản khoai tây"
5 p | 78 | 12
-
Báo cáo đề tài khoa học cấp Bộ: Cơ sở khoa học xây dựng mô hình lưu trữ tư nhân ở Việt Nam
131 p | 39 | 12
-
Báo cáo khoa học: Một số phép biến đổi bảo toàn cạnh và góc của tam giác
20 p | 92 | 9
-
Báo cáo đề tài nghiên cứu khao học sinh viên: Khảo sát đa dạng di truyền và xác lập chỉ thị phân tử cho việc nhận dạng một số dòng Bơ (persea americana miller) đã qua sơ bộ tuyển chọn tại Lâm Đồng
27 p | 132 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn