intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo hội thảo: Phát triển kinh tế nông nghiệp 2012

Chia sẻ: Ad XxC | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:24

191
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo hội thảo: Phát triển kinh tế nông nghiệp 2012 trình bày đánh giá tác động của chính sách và mục tiêu phát triển ngành đối với nông sản thương mại, tổ chức và hành động cộng đồng để bảo vệ quyền tiếp cận, sử dụng quản lý đất đai, các trường hợp điển cứu về cải cách doanh nghiệp nông thôn và một số nghiên cứu khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo hội thảo: Phát triển kinh tế nông nghiệp 2012

  1. PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP Báo cáo hội thảo, Thứ 3 ngày 27/3/2012
  2. GIỚI THIỆU Nông nghiệp đã và đang đóng vai trò trung tâm trong công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam. Những thay đổi hiện nay trong lĩnh vực nông nghiệp tạo ra cả cơ hội và rủi ro cho người nghèo. Những thay đổi này do sự tác động và dẫn dắt của hàng loạt tác nhân, không chỉ bởi các cơ quan chính phủ, doanh nghiệp quốc doanh mà cả các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Trong bối cảnh này, Oxfam đã khởi xướng một dự án về phát triển kinh doanh nông nghiệp tại Việt Nam. Mục đích của dự án này nhằm cải thiện sinh kế và an sinh cho các nông hộ nhỏ, lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và người tiêu dùng nghèo thông qua tận dụng tối đa lợi ích và giảm thiểu rủi ro của quá trình mở rộng kinh doanh nông nghiệp. Oxfam đã thực hiện một số nghiên cứu về sự phát triển của kinh doanh nông nghiệp ở Việt Nam, bao gồm nghiên cứu về các chính sách và mục tiêu phát triển ngành, phản ứng của cộng đồng đối với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, cải cách doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và hợp đồng sản xuất nông nghiệp. Các nghiên cứu đặc biệt tập trung vào đánh giá ảnh hưởng của sự mở rộng kinh doanh nông nghiệp đối với nông dân sản xuất nhỏ, đặc biệt là nhóm dân tộc thiểu số và phụ nữ, đồng thời đề ra những giải pháp nhằm tận dụng tối đa lợi ích và giảm thiểu rủi ro cho người nghèo. Các nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 11/2011 tới tháng 3/2012. Kết quả nghiên cứu được trình bày tại Hội thảo Quốc gia về Kinh doanh trong Nông nghiệp ở Việt Nam vào ngày 27/3/2012 tại Câu lạc bộ Báo chí (Press Club). Tham dự hội thảo có 69 khách mời, gồm đại diện Tổ chức Oxfam, các Tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế, các nhà tư vấn, Viện nghiên cứu, Cơ quan chính phủ, các Cơ quan thuộc chương trình Phát triển Liên hợp quốc, Báo chí và khu vực Tư nhân. Báo cáo này tóm tắt kết quả các phần trình bày và thảo luận tại hội thảo. Quí vị có thể liên hệ để có bản sao của các bài thuyết trình, tóm tắt kết quả nghiên cứu và biên bản hội thảo bằng cách gửi email về địa chỉ oxfamhk@ohk.org.vn. Các quan điểm trình bày trong báo cáo này là của các thành viên nhóm nghiên cứu và khách mời tham gia hội thảo, không nhất thiết thể hiện quan điểm của Oxfam. 2 Báo cáo ảnh: Lê Minh, Anaïs Lopez, Tineke D’haese, Quốc Tuấn, Danielle Andela (Oxfam)
  3. MỤC LỤC Đánh giá tác động của chính sách và mục tiêu phát triển ngành đối với nông sản thương mại ................. 4 Tổ chức và hành động cộng đồng để bảo vệ quyền tiếp cận, sử dụng và quản lý đất đai .......................... 7 Các trường hợp điển cứu về cải cách doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh và tác động của nó tới cộng đồng ................................................................................................................................................... 11 Nghiên cứu về các mô hình hợp đồng nông nghiệp và tác động của chúng tới nông dân sản xuất nhỏ .. 17 Các bước tiếp theo ..................................................................................................................................... 21 Kết luận ....................................................................................................................................................... 22 Chương trình hội thảo ................................................................................................................................ 23 3
  4. ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐỐI VỚI NÔNG SẢN THƢƠNG MẠI Nghiên cứu này tập trung vào đánh giá tác động của các chính sách và mục tiêu phát triển ngành tới nông dân sản xuất nhỏ. Nhóm nghiên cứu gồm Tiến sĩ Nguyễn Trung Kiên (trưởng nhóm) và Nguyễn Thúy Hằng (thành viên). Nhóm đã kết hợp việc nghiên cứu tài liệu thứ cấp, rà soát chính sách và trường hợp điển cứu về ngành hàng cà phê ở Đắk Lắk và sắn ở Yên Bái. Nghiên cứu đã nêu ra ba chính sách và chương trình quốc gia đóng vai trò định hướng cho quá trình phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam trong vòng hai thập kỷ tới, đó là:  Chính sách “tam nông”  Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTP-NRD)  Quy hoạch tổng thể ngành nông nghiệp và tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp Mục tiêu tổng quát của các chính sách và chương trình này là đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa khu vực nông thôn và ngành nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy phát triển nông thôn toàn diện. Các chính sách và chương trình này đặc biệt nhấn mạnh tới nâng cao sản xuất giá trị gia tăng, cải thiện mức sống, đẩy mạnh bảo vệ môi trường, gìn giữ văn hóa Việt Nam và tăng cường năng lực phòng ngừa, kiểm soát và giảm nhẹ thiên tai. Thông qua tài liệu thứ cấp và các trường hợp điển cứu, nghiên cứu này chỉ ra thực tế triển khai sáu nhóm chính sách chủ chốt đang ảnh hưởng tiêu cực đến nông dân sản xuất nhỏ. Dưới đây là tóm tắt những vấn đề chính trong từng nhóm chính sách mà nhóm nghiên cứu đưa ra và/hoặc được bàn tới trong phiên thảo luận tại hội thảo. Quy hoạch sử dụng đất và tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp Nhóm chính sách này nhằm tối ưu hóa sản xuất nông nghiệp trên đất nông nghiệp, phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh và hỗ trợ ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng cao năng xuất và chất lượng. Trên thực tế, quy hoạch sử dụng đất chỉ tập trung vào một số ngành hàng cụ thể tại những vùng cụ thể. Trường hợp của cây cà phê và sắn, chính phủ đang có kế hoạch giảm diện tích canh tác đồng thời nâng cao năng xuất và chất lượng cây trồng. Điều này có nghĩa là nông dân sẽ phải trồng lại cà phê và sử dụng triệt để hơn kỹ thuật thâm canh. Sẽ mất ba năm để cây cà phê ra quả và trong thời gian này đời sống của nông dân sản xuất nhỏ sẽ bị ảnh hưởng lớn vì họ không có nguồn thu thay thế tương đương. Ngoài ra, thời hạn sử dụng đất nông nghiệp (thường là 20 năm và nhiều nơi sẽ hết hạn trong một vài năm tới) là một yếu tố khiến người sản xuất nản lòng khi cân nhắc đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Đối với cây sắn, kế hoạch giảm diện tích trồng trọt và chuyển sang canh tác bền vững bị gián đoạn bởi chính sách khuyến khích sử dụng sắn để sản xuất nhiên liệu sinh học. Giá sắn tăng vọt và do thiếu đầu tư vào cải tiến kỹ thuật và dịch vụ khuyến nông, dẫn đến tình trạng mở rộng diện tích trồng sắn tự phát và thiếu bền vững. Phiên thảo luận của hội thảo nhấn mạnh đất đai là yếu tố trọng tâm của sản xuất nông nghiệp, bởi vậy quy hoạch sử dụng đất phải tôn trọng và tăng cường quyền sử dụng đất của nông dân, thúc đẩy bảo vệ môi trường và đảm bảo tiếp cận nguồn tài nguyên đất một cách công bằng. Hỗ trợ tín dụng Số người được tiếp cận tới các nguồn tín dụng ngày càng tăng nhưng vẫn chưa nhiều, đặc biệt là nông dân sản xuất nhỏ nói chung và dân tộc thiểu số nói riêng. Nguyên nhân là do người nghèo nông thôn có ít thông tin về dịch vụ tín dụng, yêu cầu phải có sổ đỏ để thế chấp, thủ tục vay vốn phức tạp và lãi suất tương đối cao. Bởi vậy, dịch vụ tín dụng chỉ phục vụ một số ít và nông dân sản xuất nhỏ bị gạt ra ngoài lề. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, đảm bảo tiếp cận tín dụng và sử dụng nguồn tín dụng này để đầu tư sản xuất, ví dụ như giống có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhóm dân tộc thiểu số. 4
  5. Đầu tƣ cơ sở hạ tầng Nhóm chính sách trong lĩnh vực này nhằm xúc tiến tăng trưởng trong nông nghiệp thông qua đầu tư vào các công trình công cộng như thuỷ lợi, đường xá, chợ. Tuy nhiên, quy mô và chất lượng đầu tư hạn chế lại chính là các rào cản để khối tư nhân đầu tư vào nông nghiệp. Nó cũng không nhất quán với chủ trương chú trọng vào nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của ngành hàng cà phê và sắn mà chính phủ đã đề ra. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, đảm bảo người dân được tham gia vào quá trình thiết kế, xây dựng và bảo trì cơ sở hạ tầng là điều tối cần thiết. Nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ Đây là nhóm chính sách nhằm tăng sản lượng và chất lượng nhờ việc đưa vào các giống cao sản, giống lai, kỹ thuật phù hợp với điều kiện địa phương và thúc đẩy nông nghiệp bền vững. Tuy nhiên, mức độ đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và chuyển giao công nghệ về mặt tổng thể là không đầy đủ, chỉ hạn chế ở một vài sản phẩm/ngành hàng cụ thể, và chủ yếu tập trung vào tăng năng suất mà chưa chú trọng vào chất lượng và tính bền vững. Ngành hàng cà phê mới chỉ đầu tư để áp dụng tiêu chuẩn chất lượng quốc gia vốn thấp hơn tiêu chuẩn sản xuất cà phê đạt chứng chỉ quốc tế. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, hệ thống khuyến nông ở Việt Nam còn yếu kém, thông tin về các chính sách và nghị định không đến được tới người dân. Cần đầu tư nhiều hơn vào cải tiến công nghệ và nâng cao khả năng tiếp cận tới kỹ thuật mới, ví dụ như kỹ thuật canh tác sắn bền vững trên đất dốc. Chính sách về thị trƣờng Nhóm chính sách này được xây dựng nhằm hỗ trợ tiếp cận tới các thị trường mới, huy động nguồn lực từ khu vực kinh tế tư nhân và hỗ trợ xúc tiến thương mại. Tuy nhiên, nhóm chính sách chưa quan tâm 1 đầy đủ tới bảo vệ và phát triển thương hiệu địa phương và chỉ giới vùng miền của sản phẩm . Tăng cƣờng mối quan hệ hợp tác giữa các bên liên quan Nhóm chính sách này được hình thành để tăng cường hợp tác giữa các bên tham gia chuỗi giá trị (nhà nông, nhà kinh doanh, nhà nghiên cứu và nhà nước) nhằm đảm bảo một môi trường pháp lý thuận lợi về mặt tín dụng, tiếp cận thông tin... Tuy nhiên, quan hệ liên đối tác này vẫn thiếu vắng sự có mặt của nông dân sản xuất nhỏ, các tổ chức xã hội dân sự và hiệp hội công nghiệp, hoặc mối liên kết này hoàn toàn không hiệu quả. Hệ lụy của sự mất cân đối về quyền lực trong quan hệ liên đối tác này là các quyết định đưa ra có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới nông dân sản xuất nhỏ. Trong ngành hàng cà phê và sắn, các bên tham gia chuỗi giá trị cố tình lảng tránh sử dụng hợp đồng vì họ không cùng tham gia thiết lập, chia sẻ và duy trì cơ chế đãi ngộ và ràng buộc, do vậy quyền lợi và nghĩa vụ của các bên ký hợp đồng không được thực thi. Dựa trên phân tích vấn đề trên đây, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số đề xuất như sau: Đối với chính quyền tỉnh và trung ƣơng:  Tăng cường sự tham gia của những người sản xuất nhỏ trong quy hoạch sử dụng đất;  Tăng cường tính cạnh tranh của nông sản trên thị trường quốc tế thông qua nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng;  Tạo động lực để người sản xuất tham gia cải tiến chất lượng và giá trị gia tăng;  Nâng cấp tiêu chuẩn chất lượng quốc gia ngang bằng với các tiêu chuẩn chất lượng và nhu cầu của thị trường quốc tế;  Cải thiện các cơ chế hỗ trợ bảo hiểm giao dịch cho tất cả các bên tham gia chuỗi giá trị;  Nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng của dịch vụ tín dụng;  Tăng cường đầu tư vào nghiên cứu, phát triển và cơ sở hạ tầng;  Cải thiện các cơ chế hợp tác. 1 Tên hoặc ký hiệu trên một số sản phẩm nhất định để chỉ vị trí địa lý hoặc nguồn gốc của sản phẩm đó (ví dụ như thành phố, khu vực hoặc quốc gia). Chỉ giới vùng miền của sản phẩm có thể coi như một chứng chỉ chất lượng, được sản xuất theo phương pháp truyền thống hoặc có danh tiếng nhất định nhờ nguồn gốc địa lý của nó. 5
  6. Đối với các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ và hiệp đoàn sản xuất  Hỗ trợ nông dân sản xuất nhỏ tham gia vào chuỗi giá trị chất lượng cao theo hướng cạnh tranh và bền vững;  Hỗ trợ thành lập các nhóm sản xuất và liên kết họ với nhau;  Hỗ trợ quan hệ đối tác và chia sẻ thông tin giữa các bên tham gia vào chuỗi giá trị;  Hỗ trợ tiếp cận nguồn tín dụng trung hạn cho các nhà sản xuất nhỏ. Đối với khu vực kinh tế tƣ nhân, bao gồm nhà sản xuất  Tăng cường chia sẻ thông tin thị trường;  Hình thành và duy trì động lực cho nhà sản xuất và thương mại tham gia vào quá trình sản xuất bền vững và giá trị cao;  Tăng cường sự liên kết giữa các nhà sản xuất để nâng cao chất lượng và hiệu quả chi phí. 6
  7. TỔ CHỨC VÀ HÀNH ĐỘNG CỘNG ĐỒNG ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN TIẾP CẬN, SỬ DỤNG VÀ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu các tác nhân, tiến trình và ảnh hưởng của việc chuyển đổi đất đai trong kinh doanh nông nghiệp tới tình trạng đói nghèo, cũng như cách thức mà một số cộng đồng phản kháng việc mở rộng kinh doanh nông nghiệp trên đất đai của gia đình và cộng đồng họ. Nghiên cứu do Bryn Tucknott (trưởng nhóm), Phạm Quang Trung (quản lý dự án Oxfam) và Doãn Thị Thu Thủy (trợ lý nghiên cứu/biên dịch viên) thực hiện. Nhóm đã sử dụng phương pháp định lượng để nghiên cứu ba trường hợp chuyển đổi đất đai ở Quảng Trị, Quảng Bình và Nghệ An. Trƣờng hợp điển cứu 1 Nghiên cứu đầu tiên tập trung vào sự đền bù cao hơn chứ không thể ngăn phản kháng của cộng đồng đối với quyết chặn việc tái phân bổ đất đai. Do vậy, định thu hồi đất ở làng Rali, xã Hương ACEP quyết định chuyển hướng và tập Sơn, tỉnh Quảng Trị. Trong giai đoạn từ trung vào tạo quyền năng cho cộng đồng năm 2009 đến 2011, 300 héc ta đất công để họ có thể tự bảo vệ tốt hơn trước các ở làng Rali đã bị giao cho các công ty mối đe dọa bên ngoài. Chiến lược mới kinh doanh nông nghiệp làm đồn điền cà của ACEP bao gồm tổ chức nông dân và phê và sắn mà hầu như không có đền bù cộng đồng, tăng cường năng lực đại diện gì cho người dân. của các nhóm yếu thế, đẩy mạnh tiến Vấn đề này đã được giải quyết nhờ sự trình ra quyết định có sự tham gia ở cấp hỗ trợ của ACEP, một tổ chức phi chính làng, nâng cao nhận thức về quyền/pháp phủ trong nước. Ban đầu ACEP tập trung luật, hỗ trợ tiến trình quy hoạch sử dụng vào xúc tiến tiến trình cấp giấy chứng đất có sự tham gia của các bên và tối ưu nhận sử dụng đất. Tuy nhiên, chiến lược hóa việc sử dụng đất công. Kết quả là, này phức tạp, tốn kém và mất nhiều thời làng Rali đã thành công khi từ chối đề gian. Hơn nữa, chứng nhận sử dụng đất nghị giao thêm đất cho các công ty kinh chỉ đảm bảo cho dân làng được nhận tiền doanh nông nghiệp sau này. Trƣờng hợp điển cứu 2 Trường hợp thứ hai nghiên cứu sự phản quyết định tập trung vào vận động chính sách kháng của cộng đồng với quyết định thu dựa vào cộng đồng. Giống như ACEP, chiến hồi đất ở xã Cao Quảng, tỉnh Quảng Bình. lược của CIRD bao gồm nâng cao nhận thức, Với sự hỗ trợ của CIRD – một tổ chức phi huy động cộng đồng, xây dựng năng lực cho chính phủ trong nước, từ năm 2000, các những người đại diện cho cộng đồng về quan thôn trong xã đã xây dựng được kế hoạch điểm và thủ tục pháp lý, vận động và truyền sử dụng đất với sự tham gia của các bên thông. Chiến dịch vận động đòi đất của cộng và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Sau đồng đã gặt hái được thành công. Họ không khi tỉnh Quảng Binh giao 10.000 héc ta đất chỉ đòi lại được đất mà còn mở rộng được của thôn và xã cho công ty lâm nghiệp diện tích đất công và khôi phục được kế quốc doanh Cao Quảng năm 2002, CIRD hoạch sử dụng đất của thôn và xã. 7
  8. Trƣờng hợp điển cứu 3 Trường hợp thứ ba nghiên cứu ảnh hưởng sinh kế khác tương đương. Nhiều hộ đã của chuyển đổi đất đai do mở rộng hoạt tiêu gần hết tiền đền bù vào sinh hoạt phí động kinh doanh sữa thương mại quy mô trong khi chờ huyện có kế hoạch giao đất lớn ở huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Cho mới. Vận hành của nhà máy sữa quy mô tới nay, tỉnh đã giao 2.500 héc ta đất thuộc lớn này cũng đang gây ra nhiều tác động DNNN cho công ty sữa TH. tiêu cực tới môi trường như làm suy kiệt Diện tích đất này trước đây giao cho nông nguồn nước địa phương, chất thải gia súc... dân sản xuất nhỏ thuê để trồng các loại cây Công ty sữa TH dự định tiếp nhận thêm giá trị cao như cam và cao su. Bất chấp 8.400 héc ta đất và tăng đàn bò từ 24.000 hiện trạng canh tác này, nông dân vẫn bị lên 135.000 con trong vòng 10 năm tới. buộc phải ký vào một văn bản ghi rằng họ Tuy nhiên, họ sẽ chỉ đạt được mục tiêu này đang sử dụng đất không hiệu quả. Họ nếu nông dân sẵn sàng từ bỏ đất sổ đỏ của không thể phản đối việc giao lại đất vì dự mình cho công ty. Mặc dù có đóng góp vào án sữa được xác định là phục vụ lợi ích đảm bảo an ninh lương thực quốc gia quốc gia. nhưng tình trạng mất đất, suy thoái môi Do nông dân thuê đất từ nông trường nên trường, đền bù không đủ và chậm trễ trong họ chỉ nhận được đền bù cho các khoản triển khai kế hoạch tái định cư đang khiến đầu tư trồng trọt chứ không được đền bù người dân địa phương ngày càng phẫn nộ, đất. Đối với nhiều hộ gia đình, số tiền đền làm gia tăng tình trạng đói nghèo và dễ bị bù này còn chưa bằng thu nhập trong hai tổn thương ở cấp địa phương. Hơn thế nữa, năm của họ. Trong suốt hai năm qua, phần khả năng quản lý tiến trình tái định cư, đền lớn nông hộ bị thu hồi đất không có đất bù và phục hồi sản xuất đất của chính canh tác thay thế hoặc tìm được nguồn quyền địa phương còn rất hạn chế. Sau đây là một số kết luận và bài học chính rút ra từ các trường hợp điển cứu được trình bày và thảo luận ở hội thảo: Chuyển đổi đất đai là một vấn đề lớn đối với nông dân sản xuất nhỏ và cần phải đƣợc giải quyết Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, “thúc đẩy kinh doanh nông nghiệp nhằm tăng trưởng kinh tế nông thôn đã phải trả giá bằng lợi ích của người nông dân, đặc biệt liên quan đến đất đai”. Điều này đã dẫn tới “những hệ lụy nghiêm trọng” và “sẽ tạo ra bất ổn xã hội nếu kinh doanh nông nghiệp tiếp tục lấy đất của nông dân”. Các nhà đầu tư kinh doanh nông nghiệp phải đóng vai trò tích cực để đảm bảo rằng nông dân không bị lâm vào tình cảnh tồi tệ hơn và thu nhập của họ phải tăng theo thời gian. Quá trình sửa đổi luật đất đai hiện nay là một cơ hội lý tưởng để giải quyết những vấn đề này. Các cộng đồng đƣợc tạo quyền năng có thể phản đối việc chuyển đổi đất đai Chính cộng đồng đóng một vai trò quan trọng trong phản đối việc chuyển đổi đất đai. Với sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong nước và căn cứ vào các điều khoản tiến bộ trong luật đất đai và nghị định dân chủ cơ sở, các cộng đồng được tạo quyền năng có thể đòi được đền bù cao hơn hoặc phản đối thành công việc chuyển đổi đất đai sau này. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, nông dân được tạo quyền năng để có thể đàm phán hiệu quả hơn các điều khoản, điều kiện trong các thỏa thuận sản xuất theo hợp đồng (xem phần 5 của báo cáo này). Hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trong nƣớc là tối quan trọng trong tạo quyền năng cho cộng đồng Các tổ chức phi chính phủ trong nước đóng vai trò then chốt trong quá trình tạo quyền năng cho cộng đồng. Những chiến lược thành công bao gồm: nâng cao nhận thức về quyền/pháp luật, tổ chức cộng đồng, thúc đẩy quá trình ra quyết định có sự tham gia ở cấp cộng đồng, xây dựng năng lực cho đại diện cộng đồng trong lập kế hoạch, đàm phán, giao tiếp, vận động, thúc đẩy quan hệ giữa đại diện cộng đồng và các bên có liên quan. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, hỗ trợ pháp lý cho nông dân bị ảnh hưởng bởi chuyển đổi đất đai là đặc biệt quan trọng. 8
  9. Lập quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia của các bên và tối ƣu hóa sử dụng đất công có thể ngăn chặn/giảm thiểu chuyển đổi đất đai Việc lập quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia và tăng cường khả năng sử dụng đất công của nông dân sản xuất nhỏ đã đem lại một số kết quả tích cực, ví dụ như nâng cao nhận thức và mối gắn kết cộng đồng, tăng giá trị của đất công trong mắt người dân nhờ tạo thêm nguồn thu nhập từ đất, chứng minh với chính quyền rằng người dân có năng lực quản lý đất đai tốt, thậm chí tốt hơn các doanh nghiệp quốc doanh hay các đơn vị thương mại, tạo lập quyền được tham vấn và quyền đồng thuận với bất kỳ kế hoạch chuyển đổi đất đai nào nằm trong quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, và nhận được đền bù thỏa đáng. Chứng nhận sử dụng đất đảm bảo hơn quyền sử dụng và tăng giá trị đền bù 70-80% nông dân sản xuất nhỏ ở Việt Nam hiện đã có giấy chứng nhận quyền sở hữu đất (sổ đỏ), trong đó ghi rõ phương thức và thời hạn sử dụng đất. Sổ đỏ làm tăng độ an toàn của quyền sử dụng đất nhưng nhà nước vẫn có thể thu hồi sổ đỏ và phê duyệt quy hoạch chuyển đổi đất vì lợi ích quốc gia. Trong trường hợp này, sổ đỏ đảm bảo giá trị đền bù cao hơn cho người dân. Có thể sử dụng tốt hơn rừng sản xuất 2 Rừng sản xuất được chia thành ba loại, T1, T2 và T3 . Các hoạt động khai thác hoặc trồng rừng phải được chính quyền khảo sát và cấp phép trước khi triển khai. Hoạt động khai thác rừng giàu loại T3 đã bị cấm từ năm 2011 vì người ta cố tình giảm hạng loại rừng này xuống T2/T1 trước khi khảo sát để được khai thác nhiều hơn. Hoạt động khai thác rừng loại T2 cũng bị cấm ở tỉnh Quảng Bình vì thiếu minh bạch pháp lý sau khi Chiến lược phát triển rừng giai đoạn 2006-2010 kết thúc và chi phí khảo sát rừng khá cao mà nguồn lực hiện nay của tỉnh không đáp ứng được. Rừng loại T1 có thể được khai thác hoặc trồng mới căn cứ vào vùng quy hoạch đã được phê duyệt. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, tỉ lệ cấp sổ xanh ở tỉnh Quảng Bình vẫn còn tương đối thấp và cần phải đẩy mạnh hơn. Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn vào khảo sát và triển khai các chương trình trồng rừng để tạo thêm công ăn việc làm và cải thiện các dịch vụ môi trường. Việc thu hồi đất vì lợi ích quốc gia đang bộc lộ nhiều vấn đề Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, Điều 39 của Luật đất đai (năm 1994) cho phép thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thay đổi kế hoạch sử dụng đất vì mục tiêu quốc phòng, an ninh và lợi ích kinh tế quốc gia. Tuy nhiên, cụm từ “lợi ích quốc gia” không được định nghĩa rõ ràng và một số Bộ có thể thay đổi các quy hoạch sử dụng đất đai hiện hành. Trên thực tế, việc thu hồi đất vì “lợi ích kinh tế quốc gia” có những vấn đề nhất định và đang được giải quyết thông qua quá trình sửa đổi Luật đất đai. Phải cải thiện quy trình và tiêu chuẩn đền bù, tái định cƣ và tạo nguồn sinh kế thay thế Các tiêu chuẩn đền bù và tái định cư hiện tại không đầy đủ, năng lực của chính quyền địa phương trong quản lý và phân bổ nguồn lực cho các quy trình này còn rất hạn chế, đặc biệt trong các dự án chuyển đổi đất đai quy mô lớn. Điều này đặt ra những thách thức to lớn trong quản lý suy thoái về môi trường, mất nguồn sinh kế nông nghiệp, thiếu đất nông nghiệp phục vụ khu vực tái định cư, thiếu nghề phi nông nghiệp và đầu tư dạy nghề phù hợp với nông dân sản xuất nhỏ. Đền bù và tái định cư cho nông dân không được tiếp tục thuê đất từ DNNN đặc biệt có vấn đề. Mục tiêu và quy hoạch ngành có thể tác động tiêu cực tới nông dân sản xuất nhỏ Các chương trình quốc gia, ví dụ như các chính sách khuyến nông buộc tỉnh và huyện nâng cao mục tiêu và quy hoạch ngành. Vì phần lớn đất có thể canh tác đã được giao cho các hộ gia đình, cộng đồng hoặc xã nên những mục tiêu này chỉ có thể đạt được thông qua các thỏa thuận sản xuất theo hợp đồng hoặc chuyển đổi đất đai theo hướng thành lập các nông trại quy mô lớn. 2 Loại 3: Rừng giàu: có hơn 50m3 gỗ/ha, Loại 2: Rừng trung bình: có dưới 50m3 gỗ/ha, Loại 1: Rừng nghèo: đất rừng chỉ có bụi rậm, không có cây hoặc bị suy thoái nghiêm trọng. 9
  10. Sau đây là những kiến nghị chính mà nhóm nghiên cứu đưa ra và/hoặc được thảo luận tại hội thảo: Đối với các tổ chức xã hội dân sự  Mở rộng và tăng cường hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ về tổ chức cộng đồng, tăng cường đại diện, nâng cao nhận thức về quyền/luật pháp, hỗ trợ pháp lý và quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia;  Khuyến khích và hỗ trợ thành lập dịch vụ tư vấn độc lập có thể trợ giúp nông dân đàm phán hợp đồng, tư vấn cho nông dân và cộng đồng về luật pháp, quyền lợi và trách nhiệm của họ, hỗ trợ nông dân khi xảy ra tranh chấp. Đối với chính quyền  Đảm bảo rằng đền bù cho nông dân sản xuất nhỏ - những người bị buộc giao đất vì lợi ích của doanh nghiệp tư nhân – phải dựa trên giá thị trường tự do chứ không phải giá do nhà nước quy định;  Tăng đền bù cho nông dân mất quyền thuê đất từ các doanh nghiệp quốc doanh, đặc biệt là những nông dân không có nguồn lực đất đai hoặc cơ hội thu nhập thay thế;  Thành lập một đơn vị thanh tra hoặc thanh tra viên độc lập để xem xét các khiếu nại về đất đai. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, đơn vị thanh tra hoặc thanh tra viên này có thể tập trung vào các vấn đề liên quan đến xây dựng và thực thi chính sách/luật pháp;  Làm rõ các yếu tố cấu thành khái niệm Lợi ích Công hoặc Lợi ích Quốc gia trong Luật đất đai. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, đây là điểm mấu chốt trong lần rà soát chỉnh sửa Luật sắp tới;  Đảm bảo các quy hoạch tái định cư đã tính đến những đặc điểm đa dạng văn hóa và cơ sở vật chất thay thế, được chuẩn bị đầy đủ và sẵn sàng triển khai ngay sau khi đất đai bị nhà nước thu hồi;  Thiết lập cơ chế giám sát độc lập các chương trình tái định cư nhằm đảm bảo các chương trình này đạt được tiêu chí “tương đương hoặc tốt hơn”;  Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, nhà nước phải cải thiện hệ thống giám sát việc thực hiện luật đất đai hiện hành, trong đó có tăng cường vai trò của cộng đồng, xã hội dân sự chứ không chỉ đơn thuần dựa vào báo cáo của các cơ quan nhà nước. 10
  11. CÁC TRƢỜNG HỢP ĐIỂN CỨU VỀ CẢI CÁCH DOANH NGHIỆP NÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI CỘNG ĐỒNG Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu các tác nhân, tiến trình và tác động tới tình trạng đói nghèo của quá trình cải cách DNNN trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam và đưa ra một số đề xuất chính sách cho chính phủ. Nghiên cứu này do Nguyễn Đức Nhật (trưởng nhóm) và bốn thành viên (Nguyễn Minh Hương, Hồ Hoàng Đức, Trương Thanh Mai và Bùi Văn Tuấn) thực hiện. Nhóm đã sử dụng phương pháp định tính để nghiên cứu ba trường hợp cải cách doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh, kết hợp với nghiên cứu tài liệu, phân tích hồ sơ lưu trữ, phỏng vấn các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách tại tại Hà Nội. Nhóm nghiên cứu cố gắng tìm hiểu ảnh hưởng của cải cách đối với cơ hội tạo việc làm, thu nhập của các nông hộ gia tham gia sản xuất theo hợp đồng, sử dụng đất, nguồn thu thuế, lợi ích công và sản xuất địa phương trong từng trường hợp điển cứu. Theo kết quả nghiên cứu, có hai tiến trình cải cách chính trong các doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh ở Việt Nam, đó là i) sắp xếp lại cơ cấu sử dụng đất và ii) cải cách cơ chế quản lý và quyền sử dụng đất, dựa trên một số nghị định và nghị quyết về cải cách DNNN ban hành từ năm 1995 đến 2010. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2010, số lượng doanh nghiệp ở Việt Nam đã tăng từ 42.000 lên 288.000, trong khi số DNNN giảm từ 29.201 xuống còn 3.241, chiếm 1% tổng số doanh nghiệp và giảm so 69% trong vòng 10 năm. Tuy nhiên, số doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh lại chỉ giảm từ 371 còn 257 trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2010, vẫn chiếm khoảng 19% tổng số doanh nghiệp nông nghiệp. Các con số này chứng minh một thực tế là trong vòng 5 năm trở lại đây, tiến trình cải cách doanh nghiệp quốc doanh diễn ra chậm chạp, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Phương pháp phổ biến trong ngành nông nghiệp là thử nghiệm và cải cách dần dần chứ không thay đổi từng bước. Điều này tạo ra những tranh luận gay gắt giữa các nhà hoạch định chính sách về tốc độ cải cách, đảm bảo sự cân bằng giữa cạnh tranh và công bằng xã hội, giải quyết những thất bại của thị trường truyền thống. Các cuộc tranh luận này bị ảnh hưởng nhiều bởi hệ tư tưởng và các nhóm lợi ích chứ không dựa trên bằng chứng thực tế. 11
  12. Nghiên cứu này tập trung vào các DNNN lớn ở khu vực miền Trung Việt Nam, mỗi doanh nghiệp hiện có cơ cấu sở hữu khác nhau. Chi tiết được trình bày dưới đây. Trƣờng hợp điển cứu 1 Trường hợp thứ nhất tập trung vào một hàng tư nhân do không đảm bảo về tài nông trường quốc doanh hiện vẫn hoàn sản thế chấp – đó là quyền sử dụng đất toàn thuộc sở hữu nhà nước và đang hoạt mà công ty đã cho nông dân thuê. động như một công ty trách nhiệm hữu Công ty cũng phải chịu sự cạnh tranh từ hạn dưới sự giám sát của chính quyền địa các nhà sản xuất khác cũng như các phương. Trong ba trường hợp được thương lái tư nhân và người mua địa nghiên cứu, công ty này có diện tích đất phương. lớn nhất (2.500 héc ta), ký hợp đồng với Kết quả của tiến trình cải cách này là giảm nhiều nông hộ nhất (1.800 hộ) và có số biên chế do số lượng nhân viên trong giai nhân viên đứng thứ hai (736 người). đoạn trước cải cách quá lớn, cải thiện Trong quá trình cải cách, công ty đã phải năng xuất, hiệu quả kinh tế cũng như tiếp đối phó với ba vấn đề chính, đó là quản lý cận của nông hộ địa phương tới thị đất, tài chính eo hẹp và áp lực thị trường. trường – đây là những tác động tương Các vấn đề liên quan đến quản lý đất phát đồng với trường hợp điển cứu thứ hai: sinh từ khuôn khổ pháp lý rối rắm về giao doanh nghiệp quốc doanh cổ phần hóa đất nông trường cho nông dân sản xuất (xem dưới đây). nhỏ, đất sản xuất trở nên manh mún và Điều này chứng tỏ một điều, xét trên quan thiếu chứng nhận quyền sử dụng đất. Các điểm giảm nghèo, doanh nghiệp quốc vấn đề về tài chính của công ty bao gồm doanh này về trung hạn có thể hoạt động thiếu nguồn đầu tư của nhà nước trong tốt, thậm chí tốt hơn doanh nghiệp quốc khi công ty không thể vay được từ ngân doanh trong trường hợp điển cứu 2. Trƣờng hợp điển cứu 2 Trường hợp thứ hai tập trung vào một doanh chính mà doanh nghiệp vấp phải bao gồm sự nghiệp quốc doanh đang ở giai đoạn cuối quá chưa rõ ràng trong các chính sách và khuôn trình cổ phần hóa, trong đó nhà nước chỉ sở khổ pháp lý của nhà nước, thiếu lòng tin vào hữu 10% cổ phần, 90% còn lại do tư nhân cải cách do khu vực tư nhân dẫn dắt, căng nắm giữ. Trong số ba doanh nghiệp được thẳng giữa phía ủng hộ độc quyền và phía nghiên cứu, đây là doanh nghiệp có diện tích ủng hộ cạnh tranh, mối gắn kết yếu ớt giữa đất lớn thứ hai (1.288 héc ta), số hợp đồng doanh nghiệp và cộng đồng. với nông hộ đứng thứ hai (950) và số nhân Nhóm nghiên cứu đã chỉ ra một số tác động viên lớn nhất (1.072 người). Các tác nhân của tiến trình cải cách này như sau: kinh tế chính của tiến trình cải cách là chính quyền của phần lớn công nhân và nông hộ ký hợp tỉnh, ban quản trị cấp cao doanh nghiệp và đồng với công ty đều được cải thiện, lao động các nhà đầu tư tư nhân. Một số khó khăn dư thừa được tuyển lại do mở rộng kinh chính của doanh nghiệp trong quá trình cải doanh, nông nhân làm hợp đồng cho công ty cách được xác định như sau. Trong giai đoạn được bảo vệ trước các rủi ro/bất ổn thị đầu, đó là quan điểm tiêu cực của nhân viên trường mặc dù về lâu dài thì lợi nhuận của và các nông hộ địa phương đối với cải cách, người sản xuất có thể suy giảm vì công ty các nông hộ cũng ít được tham gia vào tiến hiện đang có hành vi thao túng thị trường. trình cải cách do vị thế kinh tế của họ thấp Công bằng mà nói, đây là mô hình cải cách cộng với sự thiếu minh bạch và thiếu lòng tin doanh nghiệp quốc doanh thành công nhất của doanh nghiệp vào năng lực cộng đồng. cho tới nay xét trên phương diện giảm nghèo. Trong giai đoạn hiện nay, những khó khăn 12
  13. Trƣờng hợp điển cứu 3 Trường hợp thứ ba tập trung vào một doanh trong quá trình cổ phần hóa. Khó khăn trong nghiệp quốc doanh đã được chuyển thể quá trình cổ phần hóa này bao gồm: quản lý thành công ty cổ phần, trong đó chính phủ đất yếu kém dẫn tới tình trạng chuyển giao vẫn duy trì 75% cổ phần, số còn lại do người đất trái phép, xung đột giữa những người dân địa phương sở hữu. Hoạt động doanh muốn duy trì sở hữu nhà nước và những nghiệp nằm dưới sự giám sát của Tổng công người muốn chuyển giao tài sản cho cộng ty đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC). đồng địa phương. Kết quả của quá trình cổ Trong số ba doanh nghiệp được nghiên cứu, phần hóa này là doanh nghiệp bắt đầu có lợi đây là doanh nghiệp có diện tích đất thấp nhuận, hàng loạt công nhân bị sa thải do tinh nhất (400 héc ta), số nông hộ ký hợp đồng ít giản lao động dẫn đến tình trạng thất nghiệp, nhất (230) và số nhân viên nhỏ nhất (25). những nông dân và công nhân không có tiền Các tác nhân trong tiến trình cổ phần hóa mua cổ phần bị loại ra khỏi cuộc chơi, và lợi gồm bản thân doanh nghiệp, chính quyền địa tức chia cho cổ đông cũng tương đối tối thấp. phương và một tổ chức phi chính phủ quốc tế Nông dân và công nhân ngày càng bất bình hỗ trợ nâng cao năng lực. Trung ương có vai trước tình trạng này. Xét trên quan điểm giảm trò khá bị động trong khi công nhân và các nghèo, đây là trường hợp cải cách doanh nông hộ ký hợp đồng gần như bị phớt lờ nghiệp quốc doanh ít thành công nhất. Dựa vào kết quả kiểm tra chéo và phân tích hồ sơ lưu trữ, nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số kết luận chung cho cả ba trường hợp điển cứu như sau: Cải thiện hiệu quả kinh tế sau cải cách Trong cả ba trường hợp điển cứu, hệ quả của cải cách là giảm nhân công, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, tăng cường quản lý mặc dù trong một số trường hợp là thấp hơn mong đợi vì thiếu động lực khuyến khích cho quản lý cấp cao, khó tiếp cận nguồn lực, tự chủ trong quản lý thấp và vẫn còn bảo hộ cạnh tranh. Những vai trò mâu thuẫn của nhà nƣớc trong quá trình cải cách Mặc dù một trong những mục tiêu trọng yếu của cải cách DNNN là tăng cường hiệu quả và năng suất bằng cách nâng cao quyền tự chủ và đặt DNNN vào thị trường cạnh tranh, nhưng nhà nước tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong quá trình cải cách bởi những động cơ và kỳ vọng khác nhau. Nhà nước tiếp tục gây ảnh hưởng ở các cấp độ khác nhau tới hoạt động của DNNN thông qua duy trì quyền sở hữu; bổ nhiệm lãnh đạo; tham gia vào quá trình phát triển và triển khai chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp; dùng các phương tiện pháp lý và hành chính để kiểm soát tốc độ, quy mô, bản chất quá trình cải cách; và kiểm soát phân bổ ngân sách công. Nhà nước cũng gây ảnh hưởng bằng cách hạn chế tiếp cận vốn vay của khu vực tư nhân, vì nếu thiếu chứng nhận sử dụng đất, các DNNN không thể dùng đất làm tài sản thế chấp. Chính quyền địa phương dường như đóng vai trò tích cực hơn trong quá trình cải cách vì họ buộc phải giải quyết khủng hoảng ở tỉnh và phải phản hồi những vấn đề do người dân đưa ra trong quá trình giám sát. Quyền sử dụng đất vẫn bấp bênh Trong những trường hợp điển cứu trên, các DNNN vẫn kiểm soát một diện tích đất lớn đang được nông hộ sản xuất nhỏ thuê. Đất được phân chia manh mún để sản xuất tự cấp và hoa màu thu lợi nhưng người thuê không có chứng nhận quyền sử dụng đất để bảo vệ quyền lợi. Do vậy một số nông hộ sản xuất nhỏ - không phải là tất cả - do dự khi đầu tư cải thiện sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là cả nhà nước, DNNN và nông hộ sản xuất nhỏ, ai cũng có lợi ích trong phần đất này. Nhưng trên thực tế, người nông dân hầu như không hề có quyền lực trong “tam giác lợi ích” này vì họ không có nguồn lực và ảnh hưởng bằng DNNN và không thể phản kháng được sự độc quyền của nhà nước. Hơn nữa, vai trò điều tiết và lập kế hoạch kinh tế xã hội của nhà nước ngày càng mờ nhạt bởi ưu tiên tối đa hóa lợi nhuận đầu tư. Đây là những điều kiện để các công ty, các nhà đầu cơ tư nhân và nhóm người có thế lực chiếm đất. 13
  14. Hệ lụy về phân bổ nguồn lực của cải cách Hệ lụy về phân bổ nguồn lực sau cải cách rất khác nhau tùy vào từng trường hợp cụ thể. Cải cách DNNN thường dẫn tới tình trạng sa thải nhân công với quy mô lớn mặc dù trong trường hợp điển cứu thứ hai, những người bị sa thải đều đã được tuyển lại do doanh nghiệp mở rộng kinh doanh. Trước đây, các DNNN trả lương tương đối thấp nhưng công nhân được trợ cấp hoặc sử dụng miễn phí các dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Sau khi cải cách, lương công nhân vẫn thấp so với thị trường nhưng các dịch vụ phụ trợ bị giảm nghiêm trọng, thậm chí bị cắt hẳn. Trong trường hợp thứ nhất và thứ hai, các hộ gia đình địa phương nhìn chung là có lợi từ tiến trình cải cách mặc dù lợi ích này có thể bị suy giảm khi doanh nghiệp có hành vi lũng đoạn thị trường như trong trường hợp thứ hai. Trường hợp thứ ba cho thấy do đánh giá thấp giá trị tài sản doanh nghiệp, sự mất cân bằng quyền lực giữa các bên và quá trình giám sát yếu kém đã đưa phần lớn tài sản doanh nghiệp vào tay các nhóm đặc quyền chính trị và kinh tế. Hậu quả là, một số lượng lớn đất đai ở cả hai tỉnh trong địa bàn nghiên cứu đã nằm trong quyền sở hữu của một nhóm người nhỏ, làm cho tình trạng mất đất ngày càng gia tăng. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi công nhân bị sa thải hàng loạt và tình trạng thất nghiệp tăng. Điều này làm giảm tính hợp pháp của tiến trình cải cách, giảm hiệu quả các DNNN đã cải cách và tạo ra các rủi ro gây bất ổn xã hội. Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số đề xuất chính sách dựa trên kết quả phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu và các trường hợp doanh nghiệp ở trên. Dưới đây là các đề xuất chính sách và phản hồi của các đại biểu tham dự hội thảo. Làm rõ và cam kết thực hiện một chiến lƣợc cải cách doanh nghiệp quốc doanh nhất quán Nghiên cứu này cho thấy Việt Nam đang áp dụng nhiều phương thức cải cách DNNN khác nhau, phản ánh sự khác biệt trong hệ tư tưởng, năng lực lãnh đạo, thế lực của các nhóm lợi ích, tính thực dụng của các nhà hoạch định chính sách – những người nhận ra rằng có nhiều hơn một cách khiến DNNN có lợi cho người nghèo, họ quan ngại về hậu quả của các liệu pháp thả nổi thị trường và/hoặc tư hữu hóa toàn bộ, và xu hướng phổ biến trong tiến trình hoạch định chính sách của Việt Nam là thực nghiệm và cải cách dần dần. Do vậy, nhóm nghiên cứu thiên về phương thức cải cách dần dần và thí điểm trong từng hoàn cảnh cụ thể - điều này phù hợp với năng lực hiện nay của Việt Nam và đóng góp các dẫn chứng thực tế vào quá trình hoạch định chính sách về mặt trung hạn. Phương thức này có thể hoặc không dẫn tới một cách tiếp cận nhất quán hơn về trung hạn khi các chiến lược cải cách phân quyền và căn cứ vào bối cảnh địa phương trở thành mô hình được ưa chuộng. Tuy nhiên những người ủng hộ liệu pháp thả nổi phản đối phương thức này do tốc độ cải cách chậm chạp, sự kém hiệu quả kinh niên của DNNN, các vấn đề mà DNNN đang tạo ra cho nền kinh tế, thế lực của các nhóm lợi ích gây cản trở cho tiến trình cải cách dần dần, và các vấn đề liên quan đến phân quyền do năng lực yếu kém và sự thiếu minh bạch của các cấp chính quyền địa phương. Theo quan điểm của họ, vấn đề cốt lõi là nhanh chóng giảm số lượng doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh và tái phân bổ đất đai mà các doanh nghiệp này quản lý cho cộng đồng và hộ gia đình. Cải cách chính sách về sử dụng đất Nhóm nghiên cứu đề xuất cải cách chính sách sử dụng đất theo hướng cân bằng giữa công bằng và hiệu quả, cho phép xây dựng các giải pháp phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể và tăng cường quyền sử dụng đất của các nông hộ sản xuất nhỏ thông qua hợp đồng thuê đất dài hạn hoặc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Cải thiện sự nhất quán trong chính sách Nhóm nghiên cứu cho rằng cải cách chính sách sử dụng đất nên được coi là một phần của một đợt cải cách chính sách toàn diện và đồng bộ nhằm nâng cao an sinh xã hội, tăng cường giáo dục, đào tạo cho công nhân thất nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho nông dân sản xuất nhỏ, giúp họ mua được cổ phần của các công ty cổ phần hóa, qua đó tăng cường sự tham gia của họ vào quá trình cải cách. 14
  15. Tăng cƣờng hỗ trợ cho nông dân sản xuất nhỏ Nhóm nghiên cứu kêu gọi các tổ chức phi chính phủ đầu tư nhiều hơn vào các hoạt động nâng cao kiến thức cộng đồng về thị trường và chính sách nhà nước, xây dựng năng lực để cộng đồng phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao vị thế đàm phán của nông dân sản xuất nhỏ và công nhân trong quá trình ký kết hợp đồng, hỗ trợ người sản xuất tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý, tăng số hộ có chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhóm nghiên cứu cũng kêu gọi nhà nước tạo ra một môi trường thuận lợi để các nhà tài trợ quốc tế đầu tư vào quá trình cải cách doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh. Đầu tƣ nhiều hơn vào các dịch vụ hỗ trợ công nhân thất nghiệp Nhóm nghiên cứu kêu gọi đầu tư nhiều hơn vào đào tạo và hỗ trợ công nhân bị thất nghiệp trong quá trình cải cách DNNN, mặc dù như đã lưu ý trong phần thảo luận, giảm việc làm trong DNNN có thể được bù đắp bằng các công ăn việc làm được tạo ra trong các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp cộng đồng. Tăng cƣờng đầu tƣ vào trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhóm nghiên cứu kêu gọi các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp nâng cao trách nhiệm xã hội của mình, kêu gọi các nhà tài trợ và tổ chức phi chính phủ như Oxfam nâng cao nhận thức và năng lực của doanh nghiệp trong thực hiện trách nhiệm xã hội. Đề xuất chίnh sách Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một số đề xuất chính sách dựa trên kết quả phỏng vấn, nghiên cứu tài liệu và các trường hợp doanh nghiệp ở trên. Dưới đây là các đề xuất chính sách và phản hồi của các đại biểu tham dự hội thảo. Làm rõ và cam kết thực hiện một chiến lƣợc cải cách doanh nghiệp quốc doanh nhất quán Nghiên cứu này cho thấy Việt Nam đang áp dụng nhiều phương thức cải cách DNNN khác nhau, phản ánh sự khác biệt trong hệ tư tưởng, năng lực lãnh đạo, thế lực của các nhóm lợi ích, tính thực dụng của các nhà hoạch định chính sách – những người nhận ra rằng có nhiều hơn một cách khiến DNNN có lợi cho người nghèo, họ quan ngại về hậu quả của các liệu pháp thả nổi thị trường và/hoặc tư hữu hóa toàn bộ, và xu hướng phổ biến trong tiến trình hoạch định chính sách của Việt Nam là thực nghiệm và cải cách dần dần. Do vậy, nhóm nghiên cứu thiên về phương thức cải cách dần dần và thí điểm trong từng hoàn cảnh cụ thể - điều này phù hợp với năng lực hiện nay của Việt Nam và đóng góp các dẫn chứng thực tế vào quá trình hoạch định chính sách về mặt trung hạn. Phương thức này có thể hoặc không dẫn tới một cách tiếp cận nhất quán hơn về trung hạn khi các chiến lược cải cách phân quyền và căn cứ vào bối cảnh địa phương trở thành mô hình được ưa chuộng. Tuy nhiên những người ủng hộ liệu pháp thả nổi phản đối phương thức này do tốc độ cải cách chậm chạp, sự kém hiệu quả kinh niên của DNNN, các vấn đề mà DNNN đang tạo ra cho nền kinh tế, thế lực của các nhóm lợi ích gây cản trở cho tiến trình cải cách dần dần, và các vấn đề liên quan đến phân quyền do năng lực yếu kém và sự thiếu minh bạch của các cấp chính quyền địa phương. Theo quan điểm của họ, vấn đề cốt lõi là nhanh chóng giảm số lượng doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh và tái phân bổ đất đai mà các doanh nghiệp này quản lý cho cộng đồng và hộ gia đình. Cải cách chính sách về sử dụng đất Nhóm nghiên cứu đề xuất cải cách chính sách sử dụng đất theo hướng cân bằng giữa công bằng và hiệu quả, cho phép xây dựng các giải pháp phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể và tăng cường quyền sử dụng đất của các nông hộ sản xuất nhỏ thông qua hợp đồng thuê đất dài hạn hoặc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Cải thiện sự nhất quán trong chính sách Nhóm nghiên cứu cho rằng cải cách chính sách sử dụng đất nên được coi là một phần của một đợt cải cách chính sách toàn diện và đồng bộ nhằm nâng cao an sinh xã hội, tăng cường giáo dục, đào tạo cho công nhân thất nghiệp, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng cho nông dân sản xuất nhỏ, giúp họ mua được cổ phần của các công ty cổ phần hóa, qua đó tăng cường sự tham gia của họ vào quá trình cải cách. 15
  16. Tăng cƣờng hỗ trợ cho nông dân sản xuất nhỏ Nhóm nghiên cứu kêu gọi các tổ chức phi chính phủ đầu tư nhiều hơn vào các hoạt động nâng cao kiến thức cộng đồng về thị trường và chính sách nhà nước, xây dựng năng lực để cộng đồng phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao vị thế đàm phán của nông dân sản xuất nhỏ và công nhân trong quá trình ký kết hợp đồng, hỗ trợ người sản xuất tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý, tăng số hộ có chứng nhận quyền sử dụng đất. Nhóm nghiên cứu cũng kêu gọi nhà nước tạo ra một môi trường thuận lợi để các nhà tài trợ quốc tế đầu tư vào quá trình cải cách doanh nghiệp nông nghiệp quốc doanh. Đầu tƣ nhiều hơn vào các dịch vụ hỗ trợ công nhân thất nghiệp Nhóm nghiên cứu kêu gọi đầu tư nhiều hơn vào đào tạo và hỗ trợ công nhân bị thất nghiệp trong quá trình cải cách DNNN, mặc dù như đã lưu ý trong phần thảo luận, giảm việc làm trong DNNN có thể được bù đắp bằng các công ăn việc làm được tạo ra trong các doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh nghiệp cộng đồng. Tăng cƣờng đầu tƣ vào trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp Nhóm nghiên cứu kêu gọi các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp nâng cao trách nhiệm xã hội của mình, kêu gọi các nhà tài trợ và tổ chức phi chính phủ như Oxfam nâng cao nhận thức và năng lực của doanh nghiệp trong thực hiện trách nhiệm xã hội. 16
  17. NGHIÊN CỨU VỀ CÁC MÔ HÌNH HỢP ĐỒNG NÔNG NGHIỆP VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÚNG TỚI NÔNG DÂN SẢN XUẤT NHỎ Nghiên cứu này tập trung vào tác động giảm nghèo của các mô hình sản xuất theo hợp đồng do các công ty ký kết với nông dân trồng bông, sắn và lạc tại ba tỉnh của Việt Nam, và đưa ra kiến nghị đối với các nhà hoạch định chính sách, tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp và bản thân người nông dân. Đây là các ngành hàng được sản xuất theo hợp đồng nông sản phổ biến nhất ở Việt Nam, phù hợp với chiến lược sinh kế và có tiềm năng giúp các nông hộ sản xuất nhỏ thoát nghèo. Sản xuất theo hợp đồng được định nghĩa là “thỏa thuận giữa nông dân và doanh nghiệp chế biến và/hoặc tiếp thị về sản xuất và cung ứng nông sản trong các hợp đồng đầu vụ, thường với mức giá đã được định trước”. Các chương trình sản xuất theo hợp đồng có thể được phân loại theo i) bản chất hợp đồng (liệu hợp đồng có quy định phương thức hỗ trợ vật tư, kỹ thuật sản xuất, và các thỏa thuận cung ứng hay không, dưới hình thức nào và mức độ đến đâu); ii) cơ cấu tổ chức của các bên tham gia chương trình sản xuất theo hợp đồng. Mức độ khác nhau tùy theo sản phẩm, nguồn lực của doanh nghiệp chế biến và mức độ gắn kết cần thiết giữa nông dân và doanh nghiệp như kiểm soát chất lượng, cách thức giao hàng... Nhóm đã nghiên cứu mô hình phân quyền của công ty bông Tây Nguyên trong ngành hàng bông ở tỉnh Đắc Nông, mô hình đa bên của Nhà máy tinh bột sắn Hướng Hóa tại Quảng Trị và công ty Sỹ Thắng chế biến lạc bóc vỏ ở Nghệ An, và một mô hình quản lý tập trung của công ty Agrimex sản xuất lạc giống ở Nghệ An – công ty đang tiến tới mô hình môi giới trung gian. Trong mô hình quản lý tập trung, công ty thương mại nông nghiệp cung cấp vật tư đầu vào, tín dụng, dịch vụ khuyến nông và phương tiện vận chuyển cho nông dân thông qua trưởng thôn hoặc các điểm thu mua. Công ty ký kết hợp đồng với các trưởng thôn và/hoặc các điểm thu mua chứ không phải trực tiếp với nông dân. Trong mô hình đa bên, doanh nghiệp sử dụng một hoặc nhiều bên trung gian để cung cấp đầu vào, tín dụng, dịch vụ khuyến nông và phương tiện vận chuyển. Trong mô hình này, doanh nghiệp có thể ký hợp đồng với i) một hoặc nhiều đơn vị trung gian để họ ký tiếp hợp đồng với hợp tác xã hoặc trưởng thôn; hoặc ii) cả đơn vị trung gian và hợp tác xã/trưởng thôn cùng một lúc. Trong tất cả các trường hợp trên thì hợp tác xã, điểm thu mua hoặc trưởng thôn đứng ra thỏa thuận với nông dân sản xuất nhỏ chứ không phải là doanh nghiệp. Nghiên cứu này do Nhâm Tuấn Phong (trưởng nhóm), Trần Thị Hải, Vũ Vân Anh và Phạm Thị Bích Diệp (thành viên) thực hiện. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng phương pháp định lượng và phân tích dữ liệu dựa trên i) quan điểm thể chế/quản trị (các nguyên tắc, điều lệ, việc thực thi và dịch vụ hỗ trợ) và ii) quan điểm vì người nghèo (gồm nông dân sản xuất nhỏ, phân bổ chi phí - lợi nhuận, chia sẻ rủi ro). Phân tích so sánh các trường hợp điển cứu làm nổi bật những điểm như sau: Nông dân và doanh nghiệp có lý do khác nhau để tham gia sản xuất theo hợp đồng Đối với các doanh nghiệp, sản xuất theo hợp đồng có thể: đảm bảo nguồn cung nguyên liệu thô ổn định nhằm giảm chi phí trong sản xuất quy mô lớn (như bông), giảm rủi ro liên quan đến các khoản đầu tư trả trước lớn; tăng cường chất lượng nguồn cung thông qua thiết lập hệ tiêu chuẩn và hỗ trợ kỹ thuật; hỗ trợ giới thiệu dòng sản phẩm mới nhờ tăng cường tiếp cận và tiếp xúc với nông dân, củng cố kế hoạch kinh doanh dài hạn thông qua quan hệ đối tác lâu dài với nông dân. Sản xuất theo hợp đồng cũng cho phép các doanh nghiệp thu hút trợ cấp của nhà nước (như trợ cước vận chuyển, dịch vụ khuyến nông…) nhằm giảm chi phí và rủi ro. Ví dụ, hỗ trợ của nhà nước dành cho dịch vụ khuyến nông và thay đổi giống mới đã thúc đẩy công ty Agrimex thiết lập hợp đồng sản xuất lạc giống. Hỗ trợ của nhà nước cho phép độc quyền thu mua và trợ cấp khuyến nông đã thúc đẩy công ty bông Tây Nguyên mở rộng quy mô sản xuất theo hợp đồng tới nhiều nông dân hơn. Đối với người nông dân, sản xuất theo hợp đồng giúp họ tăng cường tiếp cận tới nguồn hỗ trợ kỹ thuật, vật tư đầu vào như giống, phân bón và thuốc trừ sâu nhằm giảm chi phí giao dịch và tăng sản lượng. Trong một số trường hợp, doanh nghiệp cung cấp vật tư cho nông dân với giá thấp hơn thị trường và các dịch vụ mà các nhà cung cấp khác không có. Sản xuất theo hợp đồng cũng có thể tăng khả năng tiếp cận tới nguồn tín dụng mặc dù điều này không xảy ra trong các trường hợp thuộc phạm vi nghiên cứu này. Sản xuất theo hợp đồng cũng 17
  18. đảm bảo rằng nông dân sẽ có thể bán toàn bộ nông phẩm của mình mặc dù, trong hầu hết các trường hợp, không có sự bảo đảm về giá cả (xem dưới đây). Đây là động lực ràng buộc nông dân với các hợp đồng sản xuất, mặc dù theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, trong một số trường hợp, nông dân đã ký kết hợp đồng sản xuất vẫn bán sản phẩm của mình cho những người trả giá cao hơn khi có cơ hội. Tổ chức nông dân có lợi cho cả nông dân và doanh nghiệp Bằng chứng từ các trường hợp điển cứu cho thấy tổ chức nông dân có thể mang lại lợi ích cho cả nông dân và doanh nghiệp. Các trường hợp điển cứu và cả phần thảo luận trong hội thảo đã minh chứng rằng tổ chức nông dân cho phép người nông dân chia sẻ lao động và các nguồn lực khác, đạt được quy mô kinh tế có hiệu quả và đàm phán được giá đầu vào, đầu ra tốt hơn. Đối với các doanh nghiệp, thỏa thuận với các tổ chức nông dân giảm thiểu số lượng hợp đồng, đơn giản hóa quá trình cung cấp đầu vào và thu gom đầu ra, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh, giảm khả năng nông dân sẽ bán sản phẩm nếu có cơ hội tốt hơn. Doanh nghiệp đầu tư vào tổ chức nông dân và xây dựng năng lực nhìn chung thành công hơn những doanh nghiệp chỉ làm việc qua trưởng thôn. Duy trì quan hệ hiệu quả với nông dân là nhân tố thành công chủ chốt Xây dựng lòng tin và đầu tư vào mối quan hệ lâu dài với nông dân là điểm trọng yếu để chương trình sản xuất theo hợp đồng thành công trong phần lớn trường hợp. Quan hệ giữa đại diện doanh nghiệp và nông dân là vô cùng quan trọng để gia tăng số lượng người tham gia cũng như góp phần xác định và giải quyết sớm những vấn đề nảy sinh. Ngoài ra, trường hợp của công ty Hướng Hóa cho thấy gây dựng được niềm tin còn quan trọng hơn bản thân hợp đồng để ngăn chặn tình trạng nông dân bán theo cơ hội. Nghĩa là các doanh nghiệp sẽ cần phải lưu ý đến số lượng, thái độ và kỹ năng của đội ngũ nhân viên tiếp xúc trực tiếp với nông dân. Điều khoản và điều kiện hợp đồng có xu hƣớng thiên vị doanh nghiệp Người nông dân nhìn chung ở vị thế yếu trong tiến trình định giá, thậm chí ngay cả khi có người đại diện, họ cũng có ít tầm ảnh hưởng hơn các doanh nghiệp. Điều này xảy ra trong cả quá trình chọn thời điểm định giá cũng như xác định khung giá. Phần lớn hợp đồng trong nghiên cứu này tính theo giá thị trường tại thời điểm giao hàng. Một hợp đồng còn quy định cả giá sàn, mặc dù điều khoản này có công bằng với người nông dân hay không vẫn cần phải thảo luận thêm. Điểm đáng lưu ý là những người nông dân được phỏng vấn đều muốn dùng giá thị trường và phản đối điều khoản về giá sàn vì sợ rằng giá sàn sẽ được áp dụng trước ngay cả khi giá thị trường cao hơn. Trong tất cả các trường hợp điển cứu, nhà nước không tham gia vào quá trình đàm phán giá giúp nông dân. Một số hợp đồng có bao gồm các điều khoản hỗ trợ mất mùa và thiên tai – trường hợp mà phần lớn nông dân vẫn phải dựa vào sự hỗ trợ của nhà nước khi thiên tai xảy ra. Theo nhóm nghiên cứu, nông dân chưa biết tận dụng tối đa các biện pháp bảo hộ mà sản xuất theo hợp đồng có thể hỗ trợ để chống lại sự bất ổn thị trường. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, có nhiều yếu tố khác, không chỉ là hợp đồng sản xuất, ảnh hưởng tới việc phân phối chi phí và lợi ích trong chuỗi giá trị. Hiệu lực hợp đồng thấp Trong tất cả các trường hợp được nghiên cứu, quyền lợi của cả nông dân và doanh nghiệp đều không được bảo vệ trên thực tế. Nhà nước không tham gia giúp nông dân đàm phán giá tốt hơn và cũng không sẵn sàng hoặc không thể ngăn nông dân đã ký kết hợp đồng với doanh nghiệp bán nông phẩm cho người khác. Tác động hạn chế đối với sự tham gia của nông dân Trong tất cả các trường hợp được nghiên cứu, hình thức sản xuất theo hợp đồng hầu như không tạo ra sự khác biệt về số lượng tham gia của nông dân sản xuất nhỏ/nghèo. Đối với những nông phẩm đặc thù như lạc giống, việc áp dụng mô hình sản xuất theo hợp đồng có thể mang lại một số đặc quyền cho nông dân như được sử dụng đất đai màu mỡ hơn, kỹ năng/kiến thức tốt hơn… 18
  19. Tác động đa dạng tới thu nhập hộ gia đình Trong tất cả các trường hợp được nghiên cứu, sản xuất theo hợp đồng hầu như không có tác động gì tới giá sản phẩm tại vườn. Thu nhập của người nông dân tham gia sản xuất theo hợp đồng ở Nghệ An và Quảng Trị có tăng nhưng do gia tăng sản lượng chứ không phải do tăng giá bán tại vườn. Sản xuất bông tạo ra nguồn thu nhập ổn định, chứ không nâng cao thu nhập chung. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, cần có nhiều thông tin định lượng hơn về phân phối chi phí, lợi nhuận và rủi ro trong chuỗi giá trị để hiểu rõ hơn về tác động giảm nghèo nói chung. Dựa trên những kết quả nghiên cứu này, nhóm đã xác định ra một số yếu tố thành công chính giúp người nông dân có lợi hơn khi tham gia sản xuất theo hợp đồng. Những yêu tố này gồm:  Chọn ngành hàng phù hợp. Sản xuất theo hợp đồng có hiệu quả nhất đối với những ngành hàng có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị và/hoặc phải đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng và giao nhận cụ thể tại vườn;  Sử dụng các đơn vị môi giới trong hợp đồng đa bên giúp kết nối khoảng cách về năng lực giữa doanh nghiệp và nông dân, nâng cao vị thế đàm phán của người nông dân;  Tổ chức, liên kết nông dân và xây dựng năng lực;  Chia sẻ thông tin, giao tiếp và giải quyết các vấn đề chung giúp xây dựng lòng tin và củng cố quan hệ giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị;  Phương thức hoạt động phù hợp với cả nông dân và doanh nghiệp;  Tạo động lực để gắn kết nông dân với các mô hình sản xuất theo hợp đồng như tiếp cận tín dụng, hỗ trợ kỹ thuật, cơ chế bảo hiểm…;  Có cơ chế định giá minh bạch, công bằng, có sự tham gia của các bên và vẫn thích ứng với các điều kiện thị trường;  Nhà nước cần đóng vai trò tích cực hơn, ví dụ tham gia vào phát triển ngành, kết nối các tác nhân tham gia vào chuỗi giá trị, đảm bảo cung cấp các dịch vụ hỗ trợ, hỗ trợ nông dân thương lượng giá, xác nhận hợp đồng và đảm bảo hiệu lực thực thi hiệu quả khi cần thiết. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, điều này có nghĩa là các cơ quan nhà nước sẽ cần cử các cán bộ không chỉ có kỹ năng về khuyến nông mà còn có thể làm việc với nông dân về thành lập tổ nhóm, phát triển kinh doanh, cơ chế hợp đồng… Nhóm nghiên cứu và/hoặc đại biểu tham gia hội thảo đã đưa ra các kiến nghị như sau: Đối với chính phủ:  Biến Quyết định 80/CP-2002 về thúc đẩy sản xuất theo hợp đồng nông nghiệp thành một văn bản có tính bắt buộc thay vì là một hướng dẫn như hiện nay;  Lồng ghép tốt hơn chương trình sản xuất theo hợp đồng vào quy hoạch và phân bổ ngân sách nhà nước ở cấp tỉnh, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để khuyến khích sự phát triển của các mô hình sản xuất theo hợp đồng có lợi cho người nghèo;  Thiết thập cơ chế định giá cho việc triển khai các hợp đồng nông vụ với đại diện của nông dân đồng thời phản ứng nhanh nhạy với các tín hiệu thị trường. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, việc nhà nước trực tiếp tham gia vào định giá có thể không khả thi nhưng chắc chắn nhà nước có thể đóng vai trò trong giám sát hợp đồng;  Thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp/hòa giải để bảo vệ quyền lợi cho cả người nông dân và doanh nghiệp;  Hỗ trợ tiếp cận tín dụng cho các doanh nghiệp ký kết hợp đồng nông vụ. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, nên mở rộng hoạt động tín dụng tới cả nông dân theo hướng giúp họ đưa ra những lựa chọn đúng đắn về cây trồng thay vì hướng họ tới một loại cây trồng cụ thể;  Nâng cao chất lượng dịch vụ khuyến nông cho nông dân, bao gồm hỗ trợ thành lập tổ nhóm nông dân và tập trung mạnh hơn vào tiếp thị nông phẩm. Theo các luận điểm đưa ra trong hội thảo, điều này đòi hỏi cán bộ khuyến nông có khả năng hợp tác với các nhóm nông dân và mở rộng phạm vi hỗ trợ hơn hiện tại. 19
  20. Đối với các tổ chức phát triển Vai trò chính của các tổ chức phát triển là phải đảm bảo người nông dân được đại diện và bảo vệ trong quá trình sản xuất theo hợp đồng nông vụ. Để làm được điều đó, các tổ chức phát triển như Oxfam nên:  Vận động chính phủ sửa đổi Quyết định 80/CP-2002 nhằm phản ánh được những kinh nghiệm thực tế và vận dụng các trường hợp thành công;  Vận động đưa chương trình sản xuất theo hợp đồng vào quy hoạch phát triển ngành của tỉnh và huyện;  Nâng cao nhận thức của chính quyền địa phương về chi phí, rủi ro và lợi ích của hoạt động sản xuất theo hợp đồng đối với nông dân sản xuất nhỏ, tăng cường năng lực của chính quyền địa phương để họ có thể phân tích chuỗi giá trị và thị trường, cũng như giám sát hiệu quả việc triển khai sản xuất theo hợp đồng;  Hỗ trợ thành lập các tổ nhóm nông dân, xây dựng năng lực cho tổ nhóm nông dân và bản thân người nông dân nói riêng, giúp họ nắm được các mô hình sản xuất theo hợp đồng, có kỹ năng phân tích thị trường, đàm phán, và hiểu về hợp đồng;  Xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp để tăng cường khả năng hợp tác hiệu quả với nông dân, tổ nhóm nông dân và các bên trung gian khác. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2