intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo khoa học: Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người

Chia sẻ: Trịnh Thị Kim Ngọc | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:27

137
lượt xem
18
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Báo cáo khoa học "Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người" do Trịnh Thị Kim Ngọc PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam biên soạn nhằm nghiên cứu nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển, một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người,...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo khoa học: Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người

  1. THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN   NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ NƯỚC TA   NHÌN  TỪ TIẾP CẬN VĂN HÓA & TÂM LÝ CÁC TỘC NGƯỜI                        Trịnh Thị Kim Ngọc                                 PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người,                                  Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam Đặt vấn đề            Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra   cho  sự  nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực  (NNL).   Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn  đề  NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó,   một mảng vấn đề  luôn là nỗi trăn trở  của giới nghiên cứu và hoạch định  chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số  (DTTS) tại các địa bàn  miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay.     Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53  DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng   cục   Thống   kê   (TCTK),   năm   2009,   dân   số   thuộc   DTTS   ở   nước   ta   gồm   12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam.              Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ  nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các   vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng   NNL của đồng bào. Nghị  quyết 52/NQ­CP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về  Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 2016­2020 đã nhận định rất   xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ  nhiều hạn chế. Lao   động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có   trình độ  chuyên môn kỹ  thuật rất thấp, chủ  yếu là lao động giản đơn và   chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường   mới còn hạn chế; tác phong và kỷ  luật lao động của   NNL  các  DTTS  còn  1
  2. nhiều bất cập; số lượng, cơ  cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ  DTTS chưa   theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn.            Thực trạng đó buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào cả những thách thức   mà các DTTS nước ta đang phải đối mặt trong phát triển, và đồng thời phải   ý thức được cả  những thách thức trong phát triển NNL tại các địa bàn rất   đặc thù về mặt địa lý, văn hóa – xã hội mà các DTTS nước ta đang cư trú.             Trong 53 DTTS nước ta phần lớn cư trú ở  các vùng miền núi, biên  giới hải đảo…. chiếm 3/4 diện tích cả  nước. Vùng trung du và miền núi   phía Bắc nước ta gồm 15 tỉnh1, với tổng diện tích là 95.264,4 km² và tổng  dân số  năm (20011) là 11.290.500 người, là địa bàn sinh sống của trên 30  DTTS nước ta. Với vị trí trên tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc và Lào ở phía  Tây, vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm vị  trí đặc biệt quan trọng   trong việc giao lưu kinh tế  ­ văn hóa với các nước láng giềng anh em và   chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.  Thực tế lịch sử đã khẳng định, vùng  đồng bào các DTTS, nói chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nước   ta, nói riêng là những vùng giàu tài nguyên, nhưng xa xôi hẻo lánh và dân cư  thưa thớt. Từ  xưa đến nay, các thế  lực thù địch bên ngoài đều sử  dụng địa  bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo  vệ tổ quốc của dân tộc ta. Ở đó, đồng bào DTTS chính là “Tấm phên dậu”,  là “biên giới lòng dân” của Tổ Quốc và vùng DTTS đã từng là các căn cứ địa  cách mạng. Tuy nhiên, nhìn chung vùng đồng bào DTTS vẫn là vùng kinh tế  ­ xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, vùng đồng bào DTTS, một mặt, họ luôn  nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng Chính phủ và của tòan thể cộng  đồng xã hội. Mặt khác, đó cũng là những thách thức lớn cho việc thu hút,  phát triển NNL cho địa bàn này.   I. Nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển            Khái niệm nguồn nhân lực           Cho đến hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực vẫn được coi là một  khái niệm mở và là khái niệm trọng tâm của công cuộc phát triển. Hiện có  1 Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là Thành phố Thái Nguyên; Thành phố Việt Trì. 2
  3. rất nhiều cách tiếp cận và lý giải về nguồn nhân lực. Theo định nghĩa tổng   quan của Liên hiệp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ  năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới   sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.” Trong đó, nguồn nhân lực  có thể hiểu  ở nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã  hội và nguồn lực con người cho sự  phát triển.  Ở  góc độ  hẹp hơn, NNL   được xem như là khả  năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự  phát  triển kinh tế  xã hội bao gồm các nhóm dân cư  trong độ  tuổi lao động, có   khả năng tham gia lao động và sản xuất xã hội.             Nói cách khác, NNL là tổng thể  những tiềm năng của con người  (trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), bao hàm yếu tố thể lực,  trí lực và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức   hoặc một cơ  cấu kinh tế  ­ xã hội nhất định (Võ Xuân Tiến, 2010).    NNL  còn có thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ  được,   có  khả   năng   đem  lại  thu  nhập  trong  tương  lai  (Beng,   Fischer   &   Dornhusch, 1995).                Nhiều người vẫn hay nhầm hai khái niệm nguồn nhân lực và lực  lượng lao động. Cần phải phân biệt rõ hai khái niệm này để có những luận  giải xác đáng khi phân tích. Lực lượng lao động được xác định là người lao  động đang làm việc và người trong độ  tuổi lao động có nhu cầu nhưng   không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã,  đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động.             Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu   tố phản ánh nguồn nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ  cấu, trong đó a) số lượng thể hiện  ở quy mô; b) chất lượng thể hiện ở sức   khoẻ, thể  lực, trí tuệ, trình độ, sự  hiểu biết, đạo đức, kỹ  năng, thẩm mỹ...  trong đó thể lực,  trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất.  Phát triển nguồn nhân lực           Đi liền với nội hàm NNL chúng ta không thể không nhắc đến khái  niệm phát triển NNL, một mảng ‘thực hành’ bấy lâu nhưng mới trở thành  3
  4. một lĩnh vực học thuật. Trong một nghiên cứu công phu gần đây, Richard  Swanson (2009) mở  rộng cách hiểu phát triển NNL như  là một quá trình  khơi nguồn và phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao khả năng  thể  hiện của cá nhân, đội ngũ, quá trình sản xuất và hệ  thống tổ  chức.   Phát triển nguồn nhân lực chứa đựng hai thành tố  cốt yếu: 1) đào tạo và  phát triển hướng đến phát triển nghiệp vụ nhân lực để nâng cao khả năng  thể hiện của cá nhân; 2) phát triển tổ chức nhằm khơi nguồn nhân lực để  thay đổi khả năng thể hiện của cá nhân.             Theo cách suy luận ‘quá trình’ này, phát triển NNL vừa được coi   như  một hệ  thống vừa được xem như  một cuộc hành trình trang bị  kiến   thức, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động, nhằm mở ra cho cá   nhân những công việc mới dựa vào trên cơ  sở  những kỳ  vọng và định  hướng tương lai của từng tổ chức. Có thể nói, phát triển NNL  là tìm cách  nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mối quan hệ giữa giáo dục, đào   tạo và phát triển. Trong đó, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập   để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang   một nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Xuất phát từ đặc điểm này,  chúng tôi tập trung thảo luận khía cạnh giáo dục và đào tạo của phát triển  NNL các DTTS  ở  Việt Nam. Dưới đây là vài nét khái quát về  hệ  thống  chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực vùng  dân tộc và miền núi. Hình 1. Khung phân tích những thách thức của NNL DTTS 4
  5.                          Khi xem xét về  những cơ  hội và thách thức trong NNL các DTTS,  chúng ta xem xét vốn con người của đồng bào, những vấn đề của NNL trên  trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế ­ xã hội nơi mà cộng   đồng các DTTS  đang sinh sống. Khung phân tích đã được thể hiện theo mô   hình trên đây. II. Một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ  tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người 1. Thách thức từ  những điều kiện về  vị  trí địa lý và cơ  hội tiếp cận  của cộng đồng            Nhìn về điều kiện kinh tế ­ xã hội nói chung, chúng ta thấy, tới gần  một nửa dân số DTTS nước ta (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía  Bắc. Có khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải   miền trung và Tây Nguyên. Như  vậy, có đến gần 80% dân số  của DTTS   sống tại 3 vùng miền khó khăn nhất trong cả  nước. Hầu hết các tỉnh trong  ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung  và Tây Nguyên không chỉ  có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và vị  trí địa lý  vô cùng cách trở: xa xôi hẻo lánh, núi non hiểm trở, hoặc là cũng là vùng   chịu nhiều thiên tai như  bão, lũ cuốn, sạt lở  núi, cũng như  các hệ  lụy khác  của hiện tượng biến  đổi khí hậu…. nhìn chung, đây là các vùng dân cư  5
  6. nghèo nhất trong cả nước ta. Theo địa bàn  cư trú, chúng ta thấy,  Việt Nam có 13 tỉnh, thành phố  trực thuộc Trung ương có tỷ lệ người DTTS cao nhất sinh sống, trong đó có  7 tỉnh có tỷ lệ DTTS cao trên 80%, đều nằm ở khu vực trung du và miền núi  phía Bắc, là: Cao Bằng (94,25%), Hà Giang (86,75%), Bắc Kạn (86,63%),  Lạng Sơn (83,01%), Sơn La (82,39%), Lai Châu (82,02%) và  Điện Biện  (81,58%)…,  thì cũng đều là những địa phương  nghèo so với các tình phía  Bắc. Đồng thời các địa phương nghèo, cũng thường là các địa phương  có các  thứ hạng về HDI thấp nhất trong cả nước tham khảo Bảng 1 dưới đây)2.   Bảng 1. Danh sách các tỉnh đông DTTS nhất và có chỉ số HDI thấp nhất trong 10 năm 1999 ­ 2009 Thứ  Chỉ số  Chỉ số  Chỉ số  Tỷ lệ  hạng  HDI  HDI  HDI  Tên Tỉnh STT DTTS HDI các  năm năm năm tỉnh 1999 2004 2009 1 Tuyên Quang 51,79 49 0,624 0,651 0,684 2 Đắk Nông 35,61 50 .. 0,629 0,681 3 Hòa Bình 72,27 51 0,574 0,629 0,681 4 Trà Vinh 31,65 52 0,600 0,653 0,668 5 Gia Lai 43,7 53 0,519 0,584 0,667 6 Bắc Cạn 86,63 54 0,585 0,623 0,666 7 Cao Bằng 94,25 55 0,541 0,596 0,658 8 Ninh Thuận 21,98 56 0,599 0,629 0,655 9 Lào Cai 66,88 57 0,527 0,608 0,644 10 Kon Tum 53,64 58 0,535 0,576 0,641 11 Sơn La 82,39 59 0,527 0,588 0,641 12 Yên Bái 46,0 60 0,580 0,620 0,631 13 Điện Biên 81,58 61 .... 0,580 0,600 2 Do từ năm 2010 trở lại đây, các chuyên gia UNDP tính toán và công bố HDI theo phương pháp mới có bổ  sung vào bộ công cụ tính toán tiêu chí nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) và tiêu chí bất bình  đẳng xã hội nên những nhóm nghiên cứu chúng tôi không thể  tập hợp các kết quả  của 2 phương pháp đo   đạc và tính toán khác nhau vào một bảng xếp hạng để so sánh với nhau giữa các thời kỳ.  6
  7. Nguồn: Nhóm NC tổng hợp từ các Báo cáo PTCN Việt Nam của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và đề tài Thực trạng đời sống của các DTTS   Việt Nam của Hội đồng Dân tộc             Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống dân   cư như điện, đường, trường, trạm, nước sạch,…. mặc dù đã được Đảng và  Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng tới trên 90% các xã, bản của đồng   bào. Tuy nhiên, việc tiếp cận với những thành tựu của công cuộc đổi mới  của đồng bào còn vô cùng hạn chế.             Cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm   trở  đã làm hạn chế  điều kiện và khả  năng tiếp cận các dịch vụ  xã hội cơ  bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ  và môi trường sống đảm   bảo ... của người dân. Điều này không chỉ   ảnh hưởng đến chất lượng, mà  cả  số  lượng dân số  và nguồn NNL tại các địa bàn nêu trên. Một số  ví dụ  thực tế là: tính đến cuối năm 2011, chỉ có 33% người dân ở 4 tỉnh Hà Giang:  Đồng Văn, Mèo Vạc, Quảng Bạ  và Yêm Minh được sử  dụng nước sạch;   Tại Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong   khi tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh khác ở miền Bắc, như Vĩnh Phúc,  Hải Phòng38... 3   Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2011. 7
  8.             Một số nơi khác nguồn nước sạch rất khó khăn vì phải bơm theo giờ  đóng nối điện. Nhưng ở một số cộng đồng, vài tiếng đồng hồ có nước sạch   không kịp để bà con dự trữ nước dung lúc không có điện, mà chỉ kịp cho trẻ  em và trâu bò trong bản tắm là hết giờ. Nhiều bản có nguồn nước sạch chứa  trong bể  cung của bản, nhưng dân bản cùng cả  ngày mà không biết tiết   kiệm (có khi để nước chảy cả ngày) nên khi bà con đi làm về dùng nước thì   đã không còn.                  Mặc dù ở hầu hết các xã vùng DTTS, kể cả các xã vùng cao, hiểm   trở  đều đã có trạm y tế  xã, cùng các nhân viên y tế  thôn bản. Tuy nhiên,  người dân trong vùng, đặc biệt là số  dân cư  sống  ở  trên núi cao, ít có điều  kiện tiếp cận dịch vụ  chăm sóc sức khoẻ. Điều này đồng bào cho là có  nhiều lý do: 1) đường xá xa xôi là trở ngại lớn cho người dân đi khám, chữa   bệnh tại cơ sở y tế. 2) Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm y tế  xã cũng còn nhiều hạn chế: nguồn lực, trang thiết bị và hạn chế cả về chất  lượng và các phương tiện hỗ trợ đều rất thấp. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực  hỗ  trợ  tăng cường chất lượng dịch vụ  chăm sóc sức khoẻ  cơ  sở  thông qua  chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã  vùng cao vẫn chưa có bác sỹ, vì khó thu hút cán  bộ  y  tế  từ  miền  xuôi  lên.  Chính  sách  cử  tuyển gần đây  cũng  đã  giúp  các  địa  phương  vùng DTTS  giải quyết một số khó khăn về việc thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt  chuẩn làm việc cho cấp xã. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cử  tuyển sau khi tốt  nghiệp không muốn về  làm việc  ở  tuyến xã, họ  thường  ở  lại ít nhất là  tuyến huyện4.              Đói nghèo trong dân cư là một đặc trưng của vùng DTTS. Ba vùng   tập trung đông DTTS đều là 3 vùng có tỷ  lệ  nhèo đói cao nhất  ở  nước ta.   Tuy nhiên, có một thực tế là, tỷ lệ giảm nghèo chủ là tỷ lệ của lãnh đạo địa  phương các cấp cùng bà con phấn đấu trong cuộc sống cam go. Còn bà con   ta không thích được thoát nghèo. Bởi quen tâm lý dựa dẫm, đồng bào sợ  rằng sau khi thoát nghèo, họ không còn nhận được các chính sách hỗ trợ cao   4 TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình và Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan của  ngành y tế. Năm 2008. 8
  9. nhất của Đảng và Nhà nước.  3. Thách thức trong cơ hội tìm việc làm của lao động            Với địa bàn chủ yếu là rừng núi, lao động trong vùng DTTS nước ta   chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số  lượng và tỷ  lệ DTTS cao nhất cả nước là Trung du miền núi phía Bắc, nơi   có trên 75% lao động làm nông nghiệp. Trong khi tỷ  lệ  này lực lượng này  trên cả nước chỉ là 51,9%. Chưa nói đến việc nông nghiệp của đồng bào ta  chủ  yếu đang dừng lại  ở  mô hình nông nghiệp nương rẫy, tự  cung tự cấp,   phụ  thuộc rất hiều vào thòi tiết, nên chất lượng và hiệu quả  kinh tế  từ  đó  chưa cao.              Ở các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cũng như với các ngành nghề  có chuyên môn kỹ thuật cao thì lực lượng lao động này chưa tiếp cận được  và nếu có thì số  lượng cũng rất hiếm, chất lượng cũng rất thấp. Mặc dù,  Nhà nước đã ban hành Thông tư  58/2017, là nhà nước sẽ  hỗ  trợ  (đóng bảo  hiểm xã hội thay) cho các đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tối đa là  5 năm/người lao động. Đồng thời, Ban Quản lý nhiều khu chế xuất và công  nghiệp ở các tỉnh thành đã đề nghị các doanh nghiệp ưu tiên gia tăng cơ hội  việc làm cho người DTTS với nhiều  ưu đãi của địa phương. Tuy nhiên,  trình độ tiếp thu thông tin kỹ thuật, trau dồi nâng cao tay nghề, theo yêu cầu  sản xuất của các doanh nghiệp, thì lao động là người DTTS nhìn chung vẫn  chưa đáp  ứng được và vì vậy tỷ  lệ  lao động tham gia các doanh nghiệp   trong nước và liên doanh đều rất hiếm hoi. Trong bối cảnh cạnh tranh vi ệc   làm của lao động trẻ  đang ngày một khốc liệt, nên việc làm của lao động  người DTTS thường là những việc làm có thu nhập chưa cao.                                        Bảng 2. Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc                                              các vùng trong cả nước trong đó có vùng DTTS                                                                                                           T ỷ l ệ %     Nhóm dân số Cả   Miền núi   Duyên hải  Tây  nước phía Bắc  miền Trung nguyên 9
  10.        Theo ngành    Nông nghiệp 51,9 75,0 58,5 73,4 Công nghiệp 21,5 9,9 17,5 7,9 Dịch vụ 26,5 15,1 24,0 18,6        Theo nghề Nghề nông & nghề đơn  78,44 64,81 76,33 giản Ngành nghề có CMKT  22,37% 6,26 7,31 5,93 cao và trung bình lao  động  có  CMKT Lao động quản lý 0,85 0,56 (ĐBSCL) 0,76             Nhìn lại ở các địa phương là trung tâm công nghiệp lớn, các khu chế  suất quy mô, hiện đại với hàng vài chục ngàn công nhân, thì cũng rất ít phần  trăm lao động người DTTS tìm được cơ hội việc làm tại đó. Riêng tỉnh Đắk  Lắk là một điểm sáng về giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS.          Theo số liệu thống kê của Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc, riêng năm 2016   đã tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 26.850 người, trong đó lao động là   người dân tộc thiểu số  là 8.600 người. Tiền lương và thu nhập của người   lao động khoảng từ 3,5 ­ 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do trình độ   học vấn, nghề nghiệp, nhận thức chính trị và tác phong công nghiệp của lao   động là nguwoif DTTS còn nhiều hạn chế….Số người lao động bị  mất việc   làm hàng năm vẫn còn cao hơn các đối tượng khác…..5             Riêng đối với đội ngũ cán bộ  (làm công tác lãnh đạo, quản lý ở  địa  phương) tỷ  lệ  này  ở  vùng DTTS chiếm tỷ  lệ  không thấp hơn so với các   5  Tham khảo.  Công nhân lao động dân tộc thiểu số trong các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk: Ý thức chấp  hành kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn kém. http://congdoan.vn/tin­tuc/chinh­sach­phap­luat­ quan­he­lao­dong­509/cong­nhan­lao­dong­dan­toc­thieu­so­trong­cac­doanh­nghiep­tinh­dak­lak­y­thuc­ chap­hanh­ky­luat­lao­dong­va­tac­phong­cong­nghiep­kem­183161.tld 10
  11. vùng khác (0,92%). Có được kết quả này,  phần nào nhờ chính sách ưu tiên  nhân lực thuộc các DTTS tham gia công tác quản lý dân cư ở địa bàn, nên tỷ  lệ này có cao hơn. Tuy nhiên, chất lượng NNL cũng đang là vấn đề nan giải.                       Chính sách  ưu tiên DTTS cũng được thực hiện trong việc tuyên  truyền bầu cử đại  biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Trong tổng số các đại  biểu Quốc hội khóa XII (493 người), có 87 đại biểu là người DTTS (tỷ  lệ  17,7%), thuộc 32/53 thành phần dân tộc.  Ở  cấp địa phương,  tỷ  lệ  DTTS  tham gia Hội đồng nhân dân các cấp còn cao hơn. Tại nhiệm kỳ 2010 ­ 2015   tỷ lệ này là 20,53% ở cấp tỉnh, 20,18% ở cấp huyện và 24,4% ở cấp xã6.            Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân các cấp là người DTTS có thấp hơn,   tương  ứng bằng 10,9% (cấp tỉnh), 11,32% (cấp huyện), 17,9% (cấp xã).  Điển hình có tỉnh như  Cao Bằng tỷ  lệ  thành viên là DTTS tham gia  ủy ban   nhân nhân đạt gần 100%. Thực tế này cho thấy tỷ lệ người dân tộc tham gia   hội đồng nhân dân các cấp (tính cơ  cấu được  ưu tiên) cao hơn tỷ  lệ  người   DTTS tham gia vào ủy ban nhân dân (trình độ  học vấn, chuyên môn nghiệp   vụ và năng lực quản lý được ưu tiên)7. Hình 2: Cơ cấu ngành nghề làm việc theo vùng 6 Ủy ban Dân tộc. (2010). “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề  xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN”.  7 Ủy ban Dân tộc. (2010). Tài liệu đã dẫn 11
  12. 4. Thách thức về chất lượng NNL người DTTS từ góc độ trí lực        Một trong những chỉ  báo cơ  bản nhất của chất lượng dân số  và   NNL là tỷ  lệ  người lớn (từ  15 tuổi trở  lên) biết chữ, thì tỷ  lệ  này  ở  các   tỉnh trung du & miền núi phía Bắc vẫn là các tỉnh có tỷ lệ người lớn biết   chữ  thấp nhất trong cả nước. Trong đó hầu hết là các tỉnh miền núi phía  Bắc (bảng 3 dưới đây).  Bảng 3: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại một số tỉnh  miền núi, đông dân tộc sinh sống ĐVT:% T Khu vực, đơn vị hành  Chung Nam Nữ Chênh  T chính lệch Trung toàn quốc 93,5 95,8 91,4 4,4 Ba vùng có tỷ lệ biết chữ thấp nhất I Trung bình vùng miền núi  87,3 phía Bắc II Trung bình Vùng Tây  88,27 nguyên II Trung bình Vùng ĐB sông  91,6 I Cửu Long             10 tỉnh có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ thấp nhất 1 Lai Châu 57,4 71,9 42,7 29,2 2 Hà Giang 65,5 76,1 55,1 21,0 3 Điện Biên 67,6 80,7 54,8 25,9 4 Sơn La 75,2 86,7 63,8 22,9 5 Lào Cai 77,5 84,7 70,6 14,1 6 Gia Lai 80,5 86,6 74,5 12,1 7 Cao Bằng 82,2 87,2 77,4 9,8 Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009             Bảng trên cho thấy, trung bình từ 14 ­ 20% dân số là người DTTS có   tuổi 15 trở lên không biết chữ và không hiểu được 1 câu đơn giản của tiếng  Việt. Với điều kiện ngôn ngữ bất cập, họ không thể nghe được tiếng Việt,   mà toàn bộ  thông tin chủ  yếu bằng tiếng Việt, thì thông tin về  khoa học   12
  13. công nghệ  và kinh tế  xã hội đến với bà con người DTTS cực kỳ khó khăn.  Thực tế ghi nhận tại một số tỉnh 3 miền Tây Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây  Nam Bộ cho thấy: các đối tượng mù chữ phần lớn là người cao tuổi, có tâm   lý ngại đi học, cho nên việc vận động họ đến lớp là vô cùng khó khăn. Tuy   nhiên, giờ đây ngay cả thanh niên của nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn,  lại là lao động chính, nên họ  cũng không có thời gian học tập. Đáng chú ý,  tại vùng biên giới Tây Bắc, tỷ  lệ  người DTTS trong độ  tuổi từ  15 đến 60   không biết đọc, biết viết hiện chiếm trên 21% số dân. Nguyên nhân dẫn đến  tình trạng này là do các ban chỉ đạo phổ cập giáo dục tại cấp xã, cấp huyện,  nhất là  ở  những xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn chưa thật sự  chú trọng,   quan tâm công tác xóa mù chữ và ngăn ngừa hiện tượng tái mù. Số người mù  chữ, tái mù chữ   ở  các xã này rất cao, công tác xóa mù chữ  không đạt hiệu   quả như yêu cầu của các đề án phát triển đặt ra.              Khi người mù chữ   ở  nhiều DTTS chiếm tỷ lệ cao, đồng nghĩa với   việc một số  lượng đáng kể  của lực lương lao động không thể  tiếp cận  thông tin từ báo chí, sách vở…. Nguồn thông tin chỉ đến với bà con qua phát  thanh, truyền hình, qua tuyên truyền miệng của cán bộ địa phương trong các  buổi tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn.v.v... Song, thực tế trong nhiều năm  qua, không chỉ  truyền thông trên các phương tiện nghe ­ nhìn, mà cả  tuyên   truyền trực tiếp vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn cho nhiều nhóm  người DTTS.              Trong khi đó, bên cạnh các yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên và   kinh tế­xã hội, vấn đề giáo dục, đặc biệt tình trạng bỏ học nổi lên như một  thực tế cấp bách tại cùng đồng bào DTTS. Một nghiên cứu việc học tập của   học sinh DTTS địa bàn ba tỉnh nghiên cứu cho thấy,tính từ năm 2004 trở lại  đây4 hiện tượng học sinh DTTS bỏ  học diễn ra ngày càng phổ  biến. Đáng  chú ý là số  lượng học sinh DTTS qua các bậc học ngày một giảm dần khi   các cấp học tăng lên. Kết quả nghiên cứu trường hợp về tiếp cận giáo dục   của học sinh DTTS  tại Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên do Viện nghiên cứu  phát triển kinh tế xã hội, thực hiện năm 2010 cho thấy: tại Điện Biên, tỷ lệ  học sinh từ 64,82% bậc tiểu học xuống 27,31% bậc trung học cơ sở và chỉ  13
  14. còn 7,87% bậc trung học phổ  thông. Có nghĩa xu hướng chung  ở  khu vực  miền núi phía Bắc là bậc học càng cao thì tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số lại   càng thấp8. Biểu 1: Học sinh các DTTS tại ba tỉnh nghiên cứu năm 2004 (%) 70 60 50 40 Tiểu học 30 THCS 20 THPT 10 0 Hà Giang Điện Biên Yên Bái Nguồn: Số học sinh phổ thông thuộc các  DTTS phân theo địa phương năm 2010. TCTK             Kết quả nghiên cứu này đã cho nhận xét tương tự  như  nhiều công  trình cứu khác về tình hình giáo dục vùng DTTS khu vực Tây Nguyên mà các  nhà nghiên cứu khác đã công bố (xem Trương Huyền Chi,  2010). Nghiên cứu  tại 3 tỉnh Hà Giang, Yên Bái và Điện Biên cho thấy tỷ  lệ  này dường như  không được cải thiện trong suốt thời gian từ 2004 đến năm 2010. Đối chiếu  với số liệu thống kê tại thời điểm 2010, số lượng học sinh đến trường thậm   chí còn giảm đi tại một số tỉnh như Hà Giang từ 128,955 em (năm 2004) đến  năm 2010 xuống còn 120,410; Yên Bái từ 93,734 giảm còn 76,064 học sinh.  Trong   đó,   tỷ   lệ   học   sinh   bậc   tiểu   học   của   Hà   Giang   từ   55,92%   xuống  34,24% và giảm tiếp còn 9,84% tại bậc phổ thông trung học. Tình hình Yên  Bái cũng không khả quan hơn khi tỷ lệ học sinh đi học từ 54% xuống 34,40   và đến cấp 3 thì tỷ lệ học sinh chỉ còn 10,61%.  8  Tham khảo công trình. Học không được hay học để làm gì? Trải nghiệm của thanh thiếu niên các DTTS  tại 3 tình Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên. Công bố tháng 12/2011.  14
  15.           Con số này thực sự đáng lưu tâm bởi nó dường như  không thể  hiện   tương thích với nỗ lực không ngừng từ  phía Nhà nước và các cơ quan chức   năng về  hỗ  trợ  giáo dục cho đồng bào DTTS trong mấy năm trở  lại đây.  Hình như, tình hình học sinh bỏ học có vẻ như không đi đôi với mức độ ưu   đãi,   hỗ   trợ   ngày   càng   tăng   từ   các   chính   sách   của   Chính   phủ   và   các   địa   phương. Nhà nước quan tâm xây dựng trường lớp kiên cố  cho học sinh,   nhưng  ở  nhiều cộng đồng, các em không muốn học. Buổi sáng, nhờ  có cô  giáo đến tìm từng nhà đón học sinh đến lớp, thì lớp có học trì. Tuy nhiên, ở  nhiều lớp bản, sau giờ ra chơi là trong lớp chỉ còn 1 vài em, bởi chúng lấy lý  do “cái bụng đói quá về ăn miếng cơm nguội …. hoặc lý do  không đi học vì   được cha mẹ lên nương phải đi giúp họ ….”9.                Tổng kết một số nghiên cứu đã có việc việc học con chữ của học   sinh DTTS thật nhọc nhằn:  ở nhiều cộng đồng xu hướng bỏ  học của thanh  thiếu niên DTTS đang gia tăng. Trong một lớp học đa dân tộc, nếu một vài   em  ở  nhóm lớn (nhóm đông người) nghỉ  học, nhiều em khác sẽ  bắt chước   nghỉ  theo ngay. Ví dụ: nhóm Pà Thẻng  ở  một vài trường Hà Giang, chẳng   hạn, khi có vài bạn bỏ  học, chúng theo nhau bỏ  học luôn. Trong khi đó,   nhóm thiểu số nhưng ít người hơn thì các em có vẻ kiên tâm học tập hơn.               Thêm nữa, ngay giữa các địa bàn và tộc người nghiên cứu cũng có tỷ  lệ  học sinh bỏ  học  ở  các cấp khác nhau. Chẳng hạn  ở  cộng đồng người   Hmông và Dao tỷ  lệ học sinh học hết cấp 1 bỏ học là khá phổ  biến, do hai   địa bàn này chỉ  có điểm trường từ  lớp 1 đến lớp 5 xây dựng tại thôn bản.   Trong khi đó, tỷ lệ học sinh người Thái và người Pà Thẻn lại theo được hết  cấp 2 và tỷ lệ nghỉ học cấp 3 là khá cao. Một nguyên nhân do trường cấp 3  ở trên huyện, cách nhà khoảng 12km. Việc đi lại học tập của phần lớn các  em không ở lại bán trú luôn gặp nhiều khó khăn.               Khi nghiên cứu tại 3 tỉnh Hà Giang, Yên Bái và Điện Biên cho thấy,  một thực tế  là nhiều phụ  huynh không muốn cho con đi học bởi, có đi học   cũng chỉ  về  làm nương, làm rẫy…. Nếu có bạn này bạn kia…. trong lớp    Kết quả nghiên cứu về PTCN của Dân tộc Chứt ở miền Trung Việt Nam do Quỹ Nafosted tài trợ. Viện  9 Nghiên cứu Con người. 2015 – 2016.  15
  16. chuyên tâm học tập bởi họ còn có bố làm ở xã, có anh làm ở huyện….. họ có  cơ hội xin được việc làm….10                              4. Thách thức về mặt thể lực của nguồn nhân lực vùng DTTS             Chất lượng NNL phải được tính đến từ khi đứa trẻ mới hình thành.   Dựa vào một số  chỉ  báo chính như  tỷ  lệ  suy dinh dưỡng,   tỷ  suất chết trẻ  em, tình trạng bệnh tật và tuổi thọ  bình quân…, chúng ta có cơ  sở  để  đánh  giá về chất lượng (về mặt thể chất, thể lực) của NNL của DTTS chưa cao.             Thứ  nhất, tỷ  lệ  suy dinh dưỡng của trẻ  em  vùng DTTS còn cao.  Mặc dù, tỷ lệ này có giảm so với thập niên trước, nhưng tỷ lệ này vẫn cao   so với mức trung bình của cả  nước 3 tiêu thức đo lường: suy dinh dưỡng   cân nặng/độ  tuổi, suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi và suy dinh dưỡng cân  nặng/chiều cao (Xem bảng 4).    Bảng 4: Một số chỉ số về thể lực nguồn nhân lực vùng DTTS                                                                Đơn vị: % Nhóm dân số Tỷ lệ SDD cân  Tỷ suất chết  Tuổi thọ bình quân  nặng trẻ 
  17. Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009; Dự án bảo tồn và   phát triển kinh tế xã hội các dân tộc Mảng, La Hủ, Cống­Ủy ban nhân   dân tỉnh Lai Châu năm 2010; Dự án bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội   các dân tộc Cờ Lao ­Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm 2010           Đối với một số nhóm DTTS  số rất ít người tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ  em còn cao hơn rất nhiều như  ở dân tộc Mảng ­ 40,03%, La Hủ ­ 44%, Cờ  Lao ­ 47,37%... Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 24 tháng   trong các nhóm DTTS có giảm, từ 35% (1998) xuống còn 33% (2006), nhưng   lại tăng lên đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 54% (1998) lên 57%  (2006). Ngược lại, tỷ  lệ  suy dinh dưỡng thể  gầy còm của trẻ  em dưới 24   tháng trong các nhóm DTTS tăng lên, từ  13% năm 1998 lên 18% năm 2006,   và giảm đi đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 11% năm 1998 xuống   còn 10% năm 200611.              Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng  ở mức cao, trong đó một số  tỉnh tại 2 vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ  suất chết trẻ  em   dưới 1 tuổi cao hơn gấp đôi, thậm chí gần gấp ba mức trung bình trong cả  nước, như  Lai Châu (47,7%), Điện Biên (39,7%), Hà Giang (37,5%), Kon  Tum (38,2%)… (Bảng 3  ở trên). Đây là một trong những nguyên nhân chính  gây  ảnh hưởng lớn đến sự  phát triển về  thể chất, trí tuệ… của NNL vùng   DTTS rất ít người trong hiện tại và tương lai.              Nguyên nhân của những vấn đề trên có thể thấy rõ, là lối sống, thói  quen, tập tục của các cộng đồng DTTS. Thách thức trong phát triển NNL   trong DTTS từ  tiếp cận kinh tế  là chuyện không còn phải bàn cãi. Tuy  nhiên, những thách thức từ  tiếp cận văn hóa và ý thức tộc người của cộng  đồng cũng khá nam giải, mà trong chủ  đề  này, thiết nghĩ chúng tôi không  thể không đề cập.  1) Nạn tảo hôn                     Hộp 4: Tảo hôn ở huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu            Nhiều học sinh nghỉ học thường là để lấy vợ lấy chồng. Người Dao,   11  TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. 17
  18. Bản Hua Bon, xã Phúc Khoa, tỉnh Lai Châu là nơi có 100% người Mông sinh  sống. Hầu hết phụ nữ đã kết hôn trước 16 tuổi, có trường hợp kết hôn từ  năm  13 tuổi. Số con bình quân của một phụ nữ  ở bản là 5 đến 6 con.  Ở xã Hố  Mít,   huyện Tân Uyên, nơi đồng bào dân tộc Mông sinh sống tình trạng tảo hôn cũng   xảy ra phổ  biến, hầu hết nữ  giới kết hôn trước 16 tuổi, thậm chí con của các  đồng chí lãnh đạo cũng tảo hôn. Trên địa bàn vùng cao, đồng bào dân tộc không   làm giấy khai sinh, vì thế chính quyền không có cơ sở để xử lý các cặp vợ chồng  tảo hôn. (Nguồn: Phỏng vấn các cán bộ huyện Tân Uyên ) Pà Thẻng (Yên Bái) thường lấy vợ lấy chồng ở độ tuổi 14­15 thường do cha   mẹ  sắp đặt. Xuất phát từ  nhu cầu thiếu người lao động bên nhà trai muốn   lấy thêm lao động về làm hơn là việc xây dựng hạnh phúc cho con cái. Một   số  gia đình khi hỏi vợ cho con, ‘cô dâu’ vẫn đang học lớp 7, lớp 8. Khi hỏi   cưới, gia  đình nhà trai hay cam kết cưới về  vẫn cho con dâu học tiếp.   Nhưng thực tế, sau khi về nhà chồng, cô gái không được đi học nữa mà chỉ   ở  nhà làm nội trợ. Nhà gái cũng ít khi thắc mắc bởi họ  cho rằng con mình   thuộc về gia đình người chồng quản lý.            Vấn đề tảo hôn của người Hmông khác biệt ở  chỗ  việc lấy chồng   lấy vợ  sớm thường do tự  các em đề  xuất. Đến tuổi trưởng thành, các   em  được tự do tìm hiểu yêu đương và được quyền đề xuất mong muốn lấy vợ,  lấy chồng. Bởi lẽ theo quan niệm người Hmông, con gái 16­17 tuổi mà chưa  lấy chồng xem như ‘ế.’ Các em thường thông báo với cha mẹ việc kết hôn  của mình và chờ gia đình định ngày tổ chức. phần đa các em học sinh người   Thái đều học hết cấp 2, nhiều em học lên cấp 3, khi đi học ít bị cha mẹ ép  lấy chồng sớm. Độ tuổi kết hôn của người Thái hiện nay từ 18 đến 20. Mặc  dù nhà nước ban hành luật hôn nhân và gia đình, không cho phép nam hay nữ  chưa đến tuổi quy định được phép kết hôn, trên thực tế, người dân vẫn tổ  chức cưới hỏi nhưng không đăng ký để tránh phiền phức pháp lý. Vấn đề là  ở  chỗ  phong tục của người Hmông, người Dao hay người Pà Thẻn thường  dựng vợ  gả  chồng từ  14 ­15 tuổi và điều này được thôn bản công nhận  là  “hợp thức” so với phong tục tập quán truyền thống địa phương.  18
  19.           Tuổi thọ của người DTTS cũng thấp hơn so với tuổi thọ bình quân  chung của dân số  cả nước. Mức độ  chênh lệch giữa tuổi thọ  của nam giới   và nữ  giới cũng cao hơn so với mặt bằng chung. Nhiều địa phương đông   đồng bào DTTS sinh sống có tuổi thọ  bình quân rất thấp như: Lai Châu ­  63,8 tuổi, Lào Cai ­ 65,8 tuổi, Hà Giang ­ 66,3 tuổi,… Đối với một số  dân  tộc ít người, đang cư trú trong các địa bàn đặc biệt khó khăn như Mảng, La  Hủ, Cống, Cờ Lao, Pu Péo, Rơmăm, Ơ Đu, Chứt… tuổi thọ bình quân thấp  tới mức báo động (thường chỉ  khoảng 50 ­ 55 tuổi, trong đó tuổi thọ  của   nam giới thấp hơn nữ giới rất nhiều)12.             Trong khi tuổi thọ của DTTS còn thấp, trong khi tình trạng sinh đẻ  chưa được kiểm soát là một trong những nguyên nhân làm cho cơ  cấu dân  số ở độ tuổi dưới khá 15 cao  (chúng ta còn gọi là dân số trẻ) và trên 15 tuổi   thấp hơn so với cả nước. Trong mọi hoàn cảnh, dân số trẻ luôn được coi là  một tín hiệu tốt cho phát triển NNL. Tuy nhiên, do thể lực và trí lực của lớp   người trẻ  còn nhiều hạn chế mặc nhiên sẽ làm suy giảm chất lượng NNL   vùng DTTS trong tương lai. Trong khi đó, sự nghiệp phát triển luôn đòi hỏi   ở chất lượng NNL ngày một cao.                Thứ ba Về chiều cao và cân nặng trung bình  của thanh niên DTTS  trong độ tuổi 18 ­ 22 tại các vùng miền núi và DTTS cũng thấp hơn nhiều so  với thanh niên ở các vùng khác trong cả nước.             Hộp 2. Sau 50 năm nữa thanh niên Việt Nam mới có chiều cao  bằng  thanh niên Nhật bản hiện nay           Theo một điều tra mới do Bộ Y tế công bố  năm 2016 cho thấy, chiều cao   trung bình của phụ nữ Việt Nam đang ở mức khiêm tốn là 152,6 cm, trong khi đàn  ông cao hơn một chút,  ở  mức 162,4 cm. Về cân nặng, các chị  em có trọng lượng  trung bình là nặng 51,2 kg, trong khi các anh em nặng bình quân nặng 58,1 kg13.  Căn cứ vào các nguồn dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau trên trang  12 Bob Baulch và các tác giả viện Hàn lâm KHXH Việt Nam(2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt  Nam 13  Đây là kết quả nằm trong nội dung điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế   tiến hành từ tháng 8­10/2015 với sự tham gia của gần 4.000 người trong độ tuổi từ 18­69 tại 63 tỉnh thành. 19
  20. Averageheight.co cùng các thống kê khác để đưa ra bản đồ chiều cao người dân  các nước trên thế giới. Theo bản đồ này thì chiều cao trung bình của người dân  Việt Nam nằm trong top 10 nước người dân thấp nhất thế giới, với vị trí thứ 4  (tính từ dưới lên) chiều cao trung bình của nam giới là 1,621m.             Nếu xem xét trong hơn 30 năm qua, chiều cao trung bình của nam thanh niên  Việt Nam chỉ tăng thêm trên 4,5cm thấp hơn chuẩn quốc tế 13cm, trung bình mỗi  năm chỉ tăng 0,15cm. Qua tham khảo thấy rằng Nhật Bản những năm 50 của thế  kỷ trước là một trong các quốc gia có chiều cao hạn chế trên thế giới đã tăng lên  10cm trong vòng 40 năm. Hiện nay thanh niên Nhật Bản đã đạt mức trung bình  1,72 m đối với nam và 1,57m đối với nữ, chỉ thua kém chiều cao trung bình thế  giới 5cm. Do có sự quan tâm và quyết tâm đầu tư của Chính phủ nếu chúng ta  không có giải pháp phù hợp và quyết tâm cao sẽ mất khoảng 50 năm để phấn đấu,  có nghĩa là đến năm 2050 Việt Nam mới có thể đạt chiều cao trung bình 1,72m  như thanh niên Nhật Bản hiện nay.                                         Nguồn. Theo  Telegrath.            Trong khi đó, theo thống kê về chiều cao năm 2008, ở vùng Tây Bắc  chiều cao trung bình của nam thanh niên là 161,8 cm và của nữ thanh niên ở  vùng Đông Bắc là 151,7 cm. Theo GS.TSKH. Hà Huy Khôi, Phó chủ  tịch  Hội Dinh dưỡng Việt Nam thì, trước tiên là các yếu tố  liên quan đến môi   trường sống và phong cách sống (vệ sinh, dinh dưỡng…) có ảnh hưởng hơn  cả đến chất lượng NNL chứ không phải yếu tố di truyền ảnh hưởng nhiều  đến sự cải thiện của chiều cao hay cân nặng của lực lượng lao động trẻ14.                        Về mô hình bệnh tật phổ biến của vùng DTTS             Mô hình bệnh tật phổ biến của vùng DTTS bao gồm các loại bệnh  như lao, sốt rét, viêm não Nhật Bản, sốt xuất huyết, tả, lỵ, thương hàn, giun  ký sinh, trùng đường ruột, bướu cổ, phong, phụ  khoa, bệnh dạ  dày, viêm  ruột thừa, ngộ  độc (thức ăn, thuốc trừ  sâu, củ   ấu tầu...), uốn ván, suy dinh  dưỡng... Nguyên nhân khiến tỷ  lệ  mắc bệnh  ở  những vùng DTTS cao hơn  so với các vùng khác là: do nhà ở chật trội, tạm bợ, ẩm thấp, những hạn chế  về điều kiện vệ sinh môi trường và tiếp cận nước sạch, tệ nạn nghiện hút,  uống rượu, ngại sử dụng dịch vụ y tế hiện đại… Hơn nữa, phần lớn các hộ  14  Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2