Báo cáo khoa học: Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người
lượt xem 18
download
Báo cáo khoa học "Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người" do Trịnh Thị Kim Ngọc PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam biên soạn nhằm nghiên cứu nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển, một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người,...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Báo cáo khoa học: Thách thức trong phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa và tâm lý các tộc người
- THÁCH THỨC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC THIỂU SỐ NƯỚC TA NHÌN TỪ TIẾP CẬN VĂN HÓA & TÂM LÝ CÁC TỘC NGƯỜI Trịnh Thị Kim Ngọc PGS.,TSKH., Viện Nghiên cứu Con người, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam Đặt vấn đề Một trong những vấn đề nằm trong những quan tâm hàng đầu đặt ra cho sự nghiệp đổi mới đất nước, đó là phát triển nguồn nhân lực (NNL). Với vai trò quyết định sự thành bại của NNL trong sự nghiệp phát triển, vấn đề NNL luôn được đặt ra cấp thiết cho mọi thời kỳ và thời đại. Trong đó, một mảng vấn đề luôn là nỗi trăn trở của giới nghiên cứu và hoạch định chính sách, đó là phát triển NNL dân tộc thiểu số (DTTS) tại các địa bàn miền núi, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ở nước ta hiện nay. Nước ta có 54 dân tộc, ngoài người Kinh là nhóm đa số, còn 53 DTTS, sinh sống tại 53 tỉnh thành phố trên cả nước. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê (TCTK), năm 2009, dân số thuộc DTTS ở nước ta gồm 12.251.436 người, chiếm tỷ lệ 14,27% dân số Việt Nam. Nhìn chung, vùng đồng bào DTTS sinh sống là vùng dân cư có tỷ lệ nghèo cao, có đời sống vật chất và tinh thần khó khăn hơn nhiều so với các vùng miền khác trong cả nước. Điều đó đã tác động mạnh mẽ tới thực trạng NNL của đồng bào. Nghị quyết 52/NQCP ngày 12 tháng 6 năm 2016 về Đẩy mạnh phát triển NNL các DTTS giai đoạn 20162020 đã nhận định rất xác đáng rằng: NNL của các DTTS nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế. Lao động DTTS chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông nghiệp, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật rất thấp, chủ yếu là lao động giản đơn và chưa qua đào tạo; nhận thức, kỹ năng sống, khả năng thích ứng môi trường mới còn hạn chế; tác phong và kỷ luật lao động của NNL các DTTS còn 1
- nhiều bất cập; số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ cán bộ DTTS chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu thực tiễn. Thực trạng đó buộc chúng ta phải nhìn thẳng vào cả những thách thức mà các DTTS nước ta đang phải đối mặt trong phát triển, và đồng thời phải ý thức được cả những thách thức trong phát triển NNL tại các địa bàn rất đặc thù về mặt địa lý, văn hóa – xã hội mà các DTTS nước ta đang cư trú. Trong 53 DTTS nước ta phần lớn cư trú ở các vùng miền núi, biên giới hải đảo…. chiếm 3/4 diện tích cả nước. Vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta gồm 15 tỉnh1, với tổng diện tích là 95.264,4 km² và tổng dân số năm (20011) là 11.290.500 người, là địa bàn sinh sống của trên 30 DTTS nước ta. Với vị trí trên tiếp giáp Trung Quốc ở phía Bắc và Lào ở phía Tây, vùng trung du và miền núi phía Bắc chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu kinh tế văn hóa với các nước láng giềng anh em và chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia. Thực tế lịch sử đã khẳng định, vùng đồng bào các DTTS, nói chung và vùng trung du và miền núi phía Bắc nước ta, nói riêng là những vùng giàu tài nguyên, nhưng xa xôi hẻo lánh và dân cư thưa thớt. Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của dân tộc ta. Ở đó, đồng bào DTTS chính là “Tấm phên dậu”, là “biên giới lòng dân” của Tổ Quốc và vùng DTTS đã từng là các căn cứ địa cách mạng. Tuy nhiên, nhìn chung vùng đồng bào DTTS vẫn là vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó, vùng đồng bào DTTS, một mặt, họ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng Chính phủ và của tòan thể cộng đồng xã hội. Mặt khác, đó cũng là những thách thức lớn cho việc thu hút, phát triển NNL cho địa bàn này. I. Nguồn nhân lực các DTTS nước ta trong tiếp cận phát triển Khái niệm nguồn nhân lực Cho đến hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực vẫn được coi là một khái niệm mở và là khái niệm trọng tâm của công cuộc phát triển. Hiện có 1 Xét về mặt hành chính, vùng này bao gồm 15 tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Trung tâm vùng là Thành phố Thái Nguyên; Thành phố Việt Trì. 2
- rất nhiều cách tiếp cận và lý giải về nguồn nhân lực. Theo định nghĩa tổng quan của Liên hiệp quốc thì “nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước.” Trong đó, nguồn nhân lực có thể hiểu ở nghĩa rộng là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội và nguồn lực con người cho sự phát triển. Ở góc độ hẹp hơn, NNL được xem như là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế xã hội bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia lao động và sản xuất xã hội. Nói cách khác, NNL là tổng thể những tiềm năng của con người (trước hết & cơ bản nhất là tiềm năng lao động), bao hàm yếu tố thể lực, trí lực và nhân cách của con người nhằm đáp ứng yêu cầu của một tổ chức hoặc một cơ cấu kinh tế xã hội nhất định (Võ Xuân Tiến, 2010). NNL còn có thể được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995). Nhiều người vẫn hay nhầm hai khái niệm nguồn nhân lực và lực lượng lao động. Cần phải phân biệt rõ hai khái niệm này để có những luận giải xác đáng khi phân tích. Lực lượng lao động được xác định là người lao động đang làm việc và người trong độ tuổi lao động có nhu cầu nhưng không có việc làm (người thất nghiệp). Nguồn nhân lực là những người đã, đang và sẽ bổ sung vào lực lượng lao động. Khi nói đến nguồn nhân lực, tức là nói đến vốn con người. Các yếu tố phản ánh nguồn nhân lực được thể hiện gồm số lượng, chất lượng và cơ cấu, trong đó a) số lượng thể hiện ở quy mô; b) chất lượng thể hiện ở sức khoẻ, thể lực, trí tuệ, trình độ, sự hiểu biết, đạo đức, kỹ năng, thẩm mỹ... trong đó thể lực, trí lực, tâm lực là ba yếu tố quan trọng nhất. Phát triển nguồn nhân lực Đi liền với nội hàm NNL chúng ta không thể không nhắc đến khái niệm phát triển NNL, một mảng ‘thực hành’ bấy lâu nhưng mới trở thành 3
- một lĩnh vực học thuật. Trong một nghiên cứu công phu gần đây, Richard Swanson (2009) mở rộng cách hiểu phát triển NNL như là một quá trình khơi nguồn và phát triển chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao khả năng thể hiện của cá nhân, đội ngũ, quá trình sản xuất và hệ thống tổ chức. Phát triển nguồn nhân lực chứa đựng hai thành tố cốt yếu: 1) đào tạo và phát triển hướng đến phát triển nghiệp vụ nhân lực để nâng cao khả năng thể hiện của cá nhân; 2) phát triển tổ chức nhằm khơi nguồn nhân lực để thay đổi khả năng thể hiện của cá nhân. Theo cách suy luận ‘quá trình’ này, phát triển NNL vừa được coi như một hệ thống vừa được xem như một cuộc hành trình trang bị kiến thức, nâng cao kỹ năng thực hành cho người lao động, nhằm mở ra cho cá nhân những công việc mới dựa vào trên cơ sở những kỳ vọng và định hướng tương lai của từng tổ chức. Có thể nói, phát triển NNL là tìm cách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong mối quan hệ giữa giáo dục, đào tạo và phát triển. Trong đó, giáo dục được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con người bước vào một nghề nghiệp, hoặc chuyển sang một nghề mới, thích hợp hơn trong tương lai. Xuất phát từ đặc điểm này, chúng tôi tập trung thảo luận khía cạnh giáo dục và đào tạo của phát triển NNL các DTTS ở Việt Nam. Dưới đây là vài nét khái quát về hệ thống chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi. Hình 1. Khung phân tích những thách thức của NNL DTTS 4
- Khi xem xét về những cơ hội và thách thức trong NNL các DTTS, chúng ta xem xét vốn con người của đồng bào, những vấn đề của NNL trên trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề kinh tế xã hội nơi mà cộng đồng các DTTS đang sinh sống. Khung phân tích đã được thể hiện theo mô hình trên đây. II. Một số thách thức trong phát triển NNL vùng DTTS nước ta nhìn từ tiếp cận văn hóa tâm lý tộc người 1. Thách thức từ những điều kiện về vị trí địa lý và cơ hội tiếp cận của cộng đồng Nhìn về điều kiện kinh tế xã hội nói chung, chúng ta thấy, tới gần một nửa dân số DTTS nước ta (48,6%) sống tại vùng trung du miền núi phía Bắc. Có khoảng 30% (29,3%) sống tại các vùng Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung và Tây Nguyên. Như vậy, có đến gần 80% dân số của DTTS sống tại 3 vùng miền khó khăn nhất trong cả nước. Hầu hết các tỉnh trong ba vùng trung du miền núi phía Bắc, Bắc trung bộ và Duyên hải miền trung và Tây Nguyên không chỉ có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt và vị trí địa lý vô cùng cách trở: xa xôi hẻo lánh, núi non hiểm trở, hoặc là cũng là vùng chịu nhiều thiên tai như bão, lũ cuốn, sạt lở núi, cũng như các hệ lụy khác của hiện tượng biến đổi khí hậu…. nhìn chung, đây là các vùng dân cư 5
- nghèo nhất trong cả nước ta. Theo địa bàn cư trú, chúng ta thấy, Việt Nam có 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ lệ người DTTS cao nhất sinh sống, trong đó có 7 tỉnh có tỷ lệ DTTS cao trên 80%, đều nằm ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc, là: Cao Bằng (94,25%), Hà Giang (86,75%), Bắc Kạn (86,63%), Lạng Sơn (83,01%), Sơn La (82,39%), Lai Châu (82,02%) và Điện Biện (81,58%)…, thì cũng đều là những địa phương nghèo so với các tình phía Bắc. Đồng thời các địa phương nghèo, cũng thường là các địa phương có các thứ hạng về HDI thấp nhất trong cả nước tham khảo Bảng 1 dưới đây)2. Bảng 1. Danh sách các tỉnh đông DTTS nhất và có chỉ số HDI thấp nhất trong 10 năm 1999 2009 Thứ Chỉ số Chỉ số Chỉ số Tỷ lệ hạng HDI HDI HDI Tên Tỉnh STT DTTS HDI các năm năm năm tỉnh 1999 2004 2009 1 Tuyên Quang 51,79 49 0,624 0,651 0,684 2 Đắk Nông 35,61 50 .. 0,629 0,681 3 Hòa Bình 72,27 51 0,574 0,629 0,681 4 Trà Vinh 31,65 52 0,600 0,653 0,668 5 Gia Lai 43,7 53 0,519 0,584 0,667 6 Bắc Cạn 86,63 54 0,585 0,623 0,666 7 Cao Bằng 94,25 55 0,541 0,596 0,658 8 Ninh Thuận 21,98 56 0,599 0,629 0,655 9 Lào Cai 66,88 57 0,527 0,608 0,644 10 Kon Tum 53,64 58 0,535 0,576 0,641 11 Sơn La 82,39 59 0,527 0,588 0,641 12 Yên Bái 46,0 60 0,580 0,620 0,631 13 Điện Biên 81,58 61 .... 0,580 0,600 2 Do từ năm 2010 trở lại đây, các chuyên gia UNDP tính toán và công bố HDI theo phương pháp mới có bổ sung vào bộ công cụ tính toán tiêu chí nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index) và tiêu chí bất bình đẳng xã hội nên những nhóm nghiên cứu chúng tôi không thể tập hợp các kết quả của 2 phương pháp đo đạc và tính toán khác nhau vào một bảng xếp hạng để so sánh với nhau giữa các thời kỳ. 6
- Nguồn: Nhóm NC tổng hợp từ các Báo cáo PTCN Việt Nam của Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam và đề tài Thực trạng đời sống của các DTTS Việt Nam của Hội đồng Dân tộc Bên cạnh đó, các điều kiện về cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống dân cư như điện, đường, trường, trạm, nước sạch,…. mặc dù đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng tới trên 90% các xã, bản của đồng bào. Tuy nhiên, việc tiếp cận với những thành tựu của công cuộc đổi mới của đồng bào còn vô cùng hạn chế. Cơ sở hạ tầng kém, điều kiện sinh hoạt khó khăn và địa hình hiểm trở đã làm hạn chế điều kiện và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ và môi trường sống đảm bảo ... của người dân. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng, mà cả số lượng dân số và nguồn NNL tại các địa bàn nêu trên. Một số ví dụ thực tế là: tính đến cuối năm 2011, chỉ có 33% người dân ở 4 tỉnh Hà Giang: Đồng Văn, Mèo Vạc, Quảng Bạ và Yêm Minh được sử dụng nước sạch; Tại Lai Châu, chỉ có 53% hộ gia đình sử dụng điện nối mạng quốc gia, trong khi tỷ lệ này lên đến 100% ở một số tỉnh khác ở miền Bắc, như Vĩnh Phúc, Hải Phòng38... 3 Kết quả điều tra mức sống hộ gia đình, TCTK, 2011. 7
- Một số nơi khác nguồn nước sạch rất khó khăn vì phải bơm theo giờ đóng nối điện. Nhưng ở một số cộng đồng, vài tiếng đồng hồ có nước sạch không kịp để bà con dự trữ nước dung lúc không có điện, mà chỉ kịp cho trẻ em và trâu bò trong bản tắm là hết giờ. Nhiều bản có nguồn nước sạch chứa trong bể cung của bản, nhưng dân bản cùng cả ngày mà không biết tiết kiệm (có khi để nước chảy cả ngày) nên khi bà con đi làm về dùng nước thì đã không còn. Mặc dù ở hầu hết các xã vùng DTTS, kể cả các xã vùng cao, hiểm trở đều đã có trạm y tế xã, cùng các nhân viên y tế thôn bản. Tuy nhiên, người dân trong vùng, đặc biệt là số dân cư sống ở trên núi cao, ít có điều kiện tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Điều này đồng bào cho là có nhiều lý do: 1) đường xá xa xôi là trở ngại lớn cho người dân đi khám, chữa bệnh tại cơ sở y tế. 2) Chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ của trạm y tế xã cũng còn nhiều hạn chế: nguồn lực, trang thiết bị và hạn chế cả về chất lượng và các phương tiện hỗ trợ đều rất thấp. Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ tăng cường chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ sở thông qua chính sách bố trí bác sỹ về làm việc tại các trạm xá xã. Tuy nhiên, nhiều xã vùng cao vẫn chưa có bác sỹ, vì khó thu hút cán bộ y tế từ miền xuôi lên. Chính sách cử tuyển gần đây cũng đã giúp các địa phương vùng DTTS giải quyết một số khó khăn về việc thiếu cán bộ chuyên môn có trình độ đạt chuẩn làm việc cho cấp xã. Tuy nhiên, nhiều sinh viên cử tuyển sau khi tốt nghiệp không muốn về làm việc ở tuyến xã, họ thường ở lại ít nhất là tuyến huyện4. Đói nghèo trong dân cư là một đặc trưng của vùng DTTS. Ba vùng tập trung đông DTTS đều là 3 vùng có tỷ lệ nhèo đói cao nhất ở nước ta. Tuy nhiên, có một thực tế là, tỷ lệ giảm nghèo chủ là tỷ lệ của lãnh đạo địa phương các cấp cùng bà con phấn đấu trong cuộc sống cam go. Còn bà con ta không thích được thoát nghèo. Bởi quen tâm lý dựa dẫm, đồng bào sợ rằng sau khi thoát nghèo, họ không còn nhận được các chính sách hỗ trợ cao 4 TCTK, 2010, Báo cáo Điều tra Mức sống hộ gia đình và Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan của ngành y tế. Năm 2008. 8
- nhất của Đảng và Nhà nước. 3. Thách thức trong cơ hội tìm việc làm của lao động Với địa bàn chủ yếu là rừng núi, lao động trong vùng DTTS nước ta chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp, đặc biệt là 2 vùng có số lượng và tỷ lệ DTTS cao nhất cả nước là Trung du miền núi phía Bắc, nơi có trên 75% lao động làm nông nghiệp. Trong khi tỷ lệ này lực lượng này trên cả nước chỉ là 51,9%. Chưa nói đến việc nông nghiệp của đồng bào ta chủ yếu đang dừng lại ở mô hình nông nghiệp nương rẫy, tự cung tự cấp, phụ thuộc rất hiều vào thòi tiết, nên chất lượng và hiệu quả kinh tế từ đó chưa cao. Ở các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, cũng như với các ngành nghề có chuyên môn kỹ thuật cao thì lực lượng lao động này chưa tiếp cận được và nếu có thì số lượng cũng rất hiếm, chất lượng cũng rất thấp. Mặc dù, Nhà nước đã ban hành Thông tư 58/2017, là nhà nước sẽ hỗ trợ (đóng bảo hiểm xã hội thay) cho các đơn vị sử dụng lao động là người DTTS tối đa là 5 năm/người lao động. Đồng thời, Ban Quản lý nhiều khu chế xuất và công nghiệp ở các tỉnh thành đã đề nghị các doanh nghiệp ưu tiên gia tăng cơ hội việc làm cho người DTTS với nhiều ưu đãi của địa phương. Tuy nhiên, trình độ tiếp thu thông tin kỹ thuật, trau dồi nâng cao tay nghề, theo yêu cầu sản xuất của các doanh nghiệp, thì lao động là người DTTS nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được và vì vậy tỷ lệ lao động tham gia các doanh nghiệp trong nước và liên doanh đều rất hiếm hoi. Trong bối cảnh cạnh tranh vi ệc làm của lao động trẻ đang ngày một khốc liệt, nên việc làm của lao động người DTTS thường là những việc làm có thu nhập chưa cao. Bảng 2. Cơ cấu dân số DTTS theo ngành nghề làm việc các vùng trong cả nước trong đó có vùng DTTS T ỷ l ệ % Nhóm dân số Cả Miền núi Duyên hải Tây nước phía Bắc miền Trung nguyên 9
- Theo ngành Nông nghiệp 51,9 75,0 58,5 73,4 Công nghiệp 21,5 9,9 17,5 7,9 Dịch vụ 26,5 15,1 24,0 18,6 Theo nghề Nghề nông & nghề đơn 78,44 64,81 76,33 giản Ngành nghề có CMKT 22,37% 6,26 7,31 5,93 cao và trung bình lao động có CMKT Lao động quản lý 0,85 0,56 (ĐBSCL) 0,76 Nhìn lại ở các địa phương là trung tâm công nghiệp lớn, các khu chế suất quy mô, hiện đại với hàng vài chục ngàn công nhân, thì cũng rất ít phần trăm lao động người DTTS tìm được cơ hội việc làm tại đó. Riêng tỉnh Đắk Lắk là một điểm sáng về giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS. Theo số liệu thống kê của Sở LĐTB&XH tỉnh Đắc Lắc, riêng năm 2016 đã tỉnh giải quyết việc làm cho khoảng 26.850 người, trong đó lao động là người dân tộc thiểu số là 8.600 người. Tiền lương và thu nhập của người lao động khoảng từ 3,5 4,5 triệu đồng/người/tháng. Tuy nhiên, do trình độ học vấn, nghề nghiệp, nhận thức chính trị và tác phong công nghiệp của lao động là nguwoif DTTS còn nhiều hạn chế….Số người lao động bị mất việc làm hàng năm vẫn còn cao hơn các đối tượng khác…..5 Riêng đối với đội ngũ cán bộ (làm công tác lãnh đạo, quản lý ở địa phương) tỷ lệ này ở vùng DTTS chiếm tỷ lệ không thấp hơn so với các 5 Tham khảo. Công nhân lao động dân tộc thiểu số trong các doanh nghiệp tỉnh Đắk Lắk: Ý thức chấp hành kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn kém. http://congdoan.vn/tintuc/chinhsachphapluat quanhelaodong509/congnhanlaodongdantocthieusotrongcacdoanhnghieptinhdaklakythuc chaphanhkyluatlaodongvatacphongcongnghiepkem183161.tld 10
- vùng khác (0,92%). Có được kết quả này, phần nào nhờ chính sách ưu tiên nhân lực thuộc các DTTS tham gia công tác quản lý dân cư ở địa bàn, nên tỷ lệ này có cao hơn. Tuy nhiên, chất lượng NNL cũng đang là vấn đề nan giải. Chính sách ưu tiên DTTS cũng được thực hiện trong việc tuyên truyền bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp. Trong tổng số các đại biểu Quốc hội khóa XII (493 người), có 87 đại biểu là người DTTS (tỷ lệ 17,7%), thuộc 32/53 thành phần dân tộc. Ở cấp địa phương, tỷ lệ DTTS tham gia Hội đồng nhân dân các cấp còn cao hơn. Tại nhiệm kỳ 2010 2015 tỷ lệ này là 20,53% ở cấp tỉnh, 20,18% ở cấp huyện và 24,4% ở cấp xã6. Tỷ lệ thành viên ủy ban nhân dân các cấp là người DTTS có thấp hơn, tương ứng bằng 10,9% (cấp tỉnh), 11,32% (cấp huyện), 17,9% (cấp xã). Điển hình có tỉnh như Cao Bằng tỷ lệ thành viên là DTTS tham gia ủy ban nhân nhân đạt gần 100%. Thực tế này cho thấy tỷ lệ người dân tộc tham gia hội đồng nhân dân các cấp (tính cơ cấu được ưu tiên) cao hơn tỷ lệ người DTTS tham gia vào ủy ban nhân dân (trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý được ưu tiên)7. Hình 2: Cơ cấu ngành nghề làm việc theo vùng 6 Ủy ban Dân tộc. (2010). “Nghiên cứu thực trạng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và đề xuất các giải pháp phát triển nguồn nhân lực vùng DT& MN”. 7 Ủy ban Dân tộc. (2010). Tài liệu đã dẫn 11
- 4. Thách thức về chất lượng NNL người DTTS từ góc độ trí lực Một trong những chỉ báo cơ bản nhất của chất lượng dân số và NNL là tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ, thì tỷ lệ này ở các tỉnh trung du & miền núi phía Bắc vẫn là các tỉnh có tỷ lệ người lớn biết chữ thấp nhất trong cả nước. Trong đó hầu hết là các tỉnh miền núi phía Bắc (bảng 3 dưới đây). Bảng 3: Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên tại một số tỉnh miền núi, đông dân tộc sinh sống ĐVT:% T Khu vực, đơn vị hành Chung Nam Nữ Chênh T chính lệch Trung toàn quốc 93,5 95,8 91,4 4,4 Ba vùng có tỷ lệ biết chữ thấp nhất I Trung bình vùng miền núi 87,3 phía Bắc II Trung bình Vùng Tây 88,27 nguyên II Trung bình Vùng ĐB sông 91,6 I Cửu Long 10 tỉnh có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ thấp nhất 1 Lai Châu 57,4 71,9 42,7 29,2 2 Hà Giang 65,5 76,1 55,1 21,0 3 Điện Biên 67,6 80,7 54,8 25,9 4 Sơn La 75,2 86,7 63,8 22,9 5 Lào Cai 77,5 84,7 70,6 14,1 6 Gia Lai 80,5 86,6 74,5 12,1 7 Cao Bằng 82,2 87,2 77,4 9,8 Nguồn: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 Bảng trên cho thấy, trung bình từ 14 20% dân số là người DTTS có tuổi 15 trở lên không biết chữ và không hiểu được 1 câu đơn giản của tiếng Việt. Với điều kiện ngôn ngữ bất cập, họ không thể nghe được tiếng Việt, mà toàn bộ thông tin chủ yếu bằng tiếng Việt, thì thông tin về khoa học 12
- công nghệ và kinh tế xã hội đến với bà con người DTTS cực kỳ khó khăn. Thực tế ghi nhận tại một số tỉnh 3 miền Tây Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ cho thấy: các đối tượng mù chữ phần lớn là người cao tuổi, có tâm lý ngại đi học, cho nên việc vận động họ đến lớp là vô cùng khó khăn. Tuy nhiên, giờ đây ngay cả thanh niên của nhiều gia đình có hoàn cảnh khó khăn, lại là lao động chính, nên họ cũng không có thời gian học tập. Đáng chú ý, tại vùng biên giới Tây Bắc, tỷ lệ người DTTS trong độ tuổi từ 15 đến 60 không biết đọc, biết viết hiện chiếm trên 21% số dân. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các ban chỉ đạo phổ cập giáo dục tại cấp xã, cấp huyện, nhất là ở những xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn chưa thật sự chú trọng, quan tâm công tác xóa mù chữ và ngăn ngừa hiện tượng tái mù. Số người mù chữ, tái mù chữ ở các xã này rất cao, công tác xóa mù chữ không đạt hiệu quả như yêu cầu của các đề án phát triển đặt ra. Khi người mù chữ ở nhiều DTTS chiếm tỷ lệ cao, đồng nghĩa với việc một số lượng đáng kể của lực lương lao động không thể tiếp cận thông tin từ báo chí, sách vở…. Nguồn thông tin chỉ đến với bà con qua phát thanh, truyền hình, qua tuyên truyền miệng của cán bộ địa phương trong các buổi tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn.v.v... Song, thực tế trong nhiều năm qua, không chỉ truyền thông trên các phương tiện nghe nhìn, mà cả tuyên truyền trực tiếp vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn cho nhiều nhóm người DTTS. Trong khi đó, bên cạnh các yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên và kinh tếxã hội, vấn đề giáo dục, đặc biệt tình trạng bỏ học nổi lên như một thực tế cấp bách tại cùng đồng bào DTTS. Một nghiên cứu việc học tập của học sinh DTTS địa bàn ba tỉnh nghiên cứu cho thấy,tính từ năm 2004 trở lại đây4 hiện tượng học sinh DTTS bỏ học diễn ra ngày càng phổ biến. Đáng chú ý là số lượng học sinh DTTS qua các bậc học ngày một giảm dần khi các cấp học tăng lên. Kết quả nghiên cứu trường hợp về tiếp cận giáo dục của học sinh DTTS tại Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên do Viện nghiên cứu phát triển kinh tế xã hội, thực hiện năm 2010 cho thấy: tại Điện Biên, tỷ lệ học sinh từ 64,82% bậc tiểu học xuống 27,31% bậc trung học cơ sở và chỉ 13
- còn 7,87% bậc trung học phổ thông. Có nghĩa xu hướng chung ở khu vực miền núi phía Bắc là bậc học càng cao thì tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số lại càng thấp8. Biểu 1: Học sinh các DTTS tại ba tỉnh nghiên cứu năm 2004 (%) 70 60 50 40 Tiểu học 30 THCS 20 THPT 10 0 Hà Giang Điện Biên Yên Bái Nguồn: Số học sinh phổ thông thuộc các DTTS phân theo địa phương năm 2010. TCTK Kết quả nghiên cứu này đã cho nhận xét tương tự như nhiều công trình cứu khác về tình hình giáo dục vùng DTTS khu vực Tây Nguyên mà các nhà nghiên cứu khác đã công bố (xem Trương Huyền Chi, 2010). Nghiên cứu tại 3 tỉnh Hà Giang, Yên Bái và Điện Biên cho thấy tỷ lệ này dường như không được cải thiện trong suốt thời gian từ 2004 đến năm 2010. Đối chiếu với số liệu thống kê tại thời điểm 2010, số lượng học sinh đến trường thậm chí còn giảm đi tại một số tỉnh như Hà Giang từ 128,955 em (năm 2004) đến năm 2010 xuống còn 120,410; Yên Bái từ 93,734 giảm còn 76,064 học sinh. Trong đó, tỷ lệ học sinh bậc tiểu học của Hà Giang từ 55,92% xuống 34,24% và giảm tiếp còn 9,84% tại bậc phổ thông trung học. Tình hình Yên Bái cũng không khả quan hơn khi tỷ lệ học sinh đi học từ 54% xuống 34,40 và đến cấp 3 thì tỷ lệ học sinh chỉ còn 10,61%. 8 Tham khảo công trình. Học không được hay học để làm gì? Trải nghiệm của thanh thiếu niên các DTTS tại 3 tình Yên Bái, Hà Giang và Điện Biên. Công bố tháng 12/2011. 14
- Con số này thực sự đáng lưu tâm bởi nó dường như không thể hiện tương thích với nỗ lực không ngừng từ phía Nhà nước và các cơ quan chức năng về hỗ trợ giáo dục cho đồng bào DTTS trong mấy năm trở lại đây. Hình như, tình hình học sinh bỏ học có vẻ như không đi đôi với mức độ ưu đãi, hỗ trợ ngày càng tăng từ các chính sách của Chính phủ và các địa phương. Nhà nước quan tâm xây dựng trường lớp kiên cố cho học sinh, nhưng ở nhiều cộng đồng, các em không muốn học. Buổi sáng, nhờ có cô giáo đến tìm từng nhà đón học sinh đến lớp, thì lớp có học trì. Tuy nhiên, ở nhiều lớp bản, sau giờ ra chơi là trong lớp chỉ còn 1 vài em, bởi chúng lấy lý do “cái bụng đói quá về ăn miếng cơm nguội …. hoặc lý do không đi học vì được cha mẹ lên nương phải đi giúp họ ….”9. Tổng kết một số nghiên cứu đã có việc việc học con chữ của học sinh DTTS thật nhọc nhằn: ở nhiều cộng đồng xu hướng bỏ học của thanh thiếu niên DTTS đang gia tăng. Trong một lớp học đa dân tộc, nếu một vài em ở nhóm lớn (nhóm đông người) nghỉ học, nhiều em khác sẽ bắt chước nghỉ theo ngay. Ví dụ: nhóm Pà Thẻng ở một vài trường Hà Giang, chẳng hạn, khi có vài bạn bỏ học, chúng theo nhau bỏ học luôn. Trong khi đó, nhóm thiểu số nhưng ít người hơn thì các em có vẻ kiên tâm học tập hơn. Thêm nữa, ngay giữa các địa bàn và tộc người nghiên cứu cũng có tỷ lệ học sinh bỏ học ở các cấp khác nhau. Chẳng hạn ở cộng đồng người Hmông và Dao tỷ lệ học sinh học hết cấp 1 bỏ học là khá phổ biến, do hai địa bàn này chỉ có điểm trường từ lớp 1 đến lớp 5 xây dựng tại thôn bản. Trong khi đó, tỷ lệ học sinh người Thái và người Pà Thẻn lại theo được hết cấp 2 và tỷ lệ nghỉ học cấp 3 là khá cao. Một nguyên nhân do trường cấp 3 ở trên huyện, cách nhà khoảng 12km. Việc đi lại học tập của phần lớn các em không ở lại bán trú luôn gặp nhiều khó khăn. Khi nghiên cứu tại 3 tỉnh Hà Giang, Yên Bái và Điện Biên cho thấy, một thực tế là nhiều phụ huynh không muốn cho con đi học bởi, có đi học cũng chỉ về làm nương, làm rẫy…. Nếu có bạn này bạn kia…. trong lớp Kết quả nghiên cứu về PTCN của Dân tộc Chứt ở miền Trung Việt Nam do Quỹ Nafosted tài trợ. Viện 9 Nghiên cứu Con người. 2015 – 2016. 15
- chuyên tâm học tập bởi họ còn có bố làm ở xã, có anh làm ở huyện….. họ có cơ hội xin được việc làm….10 4. Thách thức về mặt thể lực của nguồn nhân lực vùng DTTS Chất lượng NNL phải được tính đến từ khi đứa trẻ mới hình thành. Dựa vào một số chỉ báo chính như tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ suất chết trẻ em, tình trạng bệnh tật và tuổi thọ bình quân…, chúng ta có cơ sở để đánh giá về chất lượng (về mặt thể chất, thể lực) của NNL của DTTS chưa cao. Thứ nhất, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em vùng DTTS còn cao. Mặc dù, tỷ lệ này có giảm so với thập niên trước, nhưng tỷ lệ này vẫn cao so với mức trung bình của cả nước 3 tiêu thức đo lường: suy dinh dưỡng cân nặng/độ tuổi, suy dinh dưỡng chiều cao/tuổi và suy dinh dưỡng cân nặng/chiều cao (Xem bảng 4). Bảng 4: Một số chỉ số về thể lực nguồn nhân lực vùng DTTS Đơn vị: % Nhóm dân số Tỷ lệ SDD cân Tỷ suất chết Tuổi thọ bình quân nặng trẻ
- Nguồn: Kết quả điều tra dân số và nhà ở năm 2009; Dự án bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội các dân tộc Mảng, La Hủ, CốngỦy ban nhân dân tỉnh Lai Châu năm 2010; Dự án bảo tồn và phát triển kinh tế xã hội các dân tộc Cờ Lao Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang năm 2010 Đối với một số nhóm DTTS số rất ít người tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn cao hơn rất nhiều như ở dân tộc Mảng 40,03%, La Hủ 44%, Cờ Lao 47,37%... Tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi của trẻ em dưới 24 tháng trong các nhóm DTTS có giảm, từ 35% (1998) xuống còn 33% (2006), nhưng lại tăng lên đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 54% (1998) lên 57% (2006). Ngược lại, tỷ lệ suy dinh dưỡng thể gầy còm của trẻ em dưới 24 tháng trong các nhóm DTTS tăng lên, từ 13% năm 1998 lên 18% năm 2006, và giảm đi đối với nhóm trẻ em từ 24 tháng trở lên, từ 11% năm 1998 xuống còn 10% năm 200611. Tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cũng ở mức cao, trong đó một số tỉnh tại 2 vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi cao hơn gấp đôi, thậm chí gần gấp ba mức trung bình trong cả nước, như Lai Châu (47,7%), Điện Biên (39,7%), Hà Giang (37,5%), Kon Tum (38,2%)… (Bảng 3 ở trên). Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ảnh hưởng lớn đến sự phát triển về thể chất, trí tuệ… của NNL vùng DTTS rất ít người trong hiện tại và tương lai. Nguyên nhân của những vấn đề trên có thể thấy rõ, là lối sống, thói quen, tập tục của các cộng đồng DTTS. Thách thức trong phát triển NNL trong DTTS từ tiếp cận kinh tế là chuyện không còn phải bàn cãi. Tuy nhiên, những thách thức từ tiếp cận văn hóa và ý thức tộc người của cộng đồng cũng khá nam giải, mà trong chủ đề này, thiết nghĩ chúng tôi không thể không đề cập. 1) Nạn tảo hôn Hộp 4: Tảo hôn ở huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu Nhiều học sinh nghỉ học thường là để lấy vợ lấy chồng. Người Dao, 11 TCTK, 2010, Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. 17
- Bản Hua Bon, xã Phúc Khoa, tỉnh Lai Châu là nơi có 100% người Mông sinh sống. Hầu hết phụ nữ đã kết hôn trước 16 tuổi, có trường hợp kết hôn từ năm 13 tuổi. Số con bình quân của một phụ nữ ở bản là 5 đến 6 con. Ở xã Hố Mít, huyện Tân Uyên, nơi đồng bào dân tộc Mông sinh sống tình trạng tảo hôn cũng xảy ra phổ biến, hầu hết nữ giới kết hôn trước 16 tuổi, thậm chí con của các đồng chí lãnh đạo cũng tảo hôn. Trên địa bàn vùng cao, đồng bào dân tộc không làm giấy khai sinh, vì thế chính quyền không có cơ sở để xử lý các cặp vợ chồng tảo hôn. (Nguồn: Phỏng vấn các cán bộ huyện Tân Uyên ) Pà Thẻng (Yên Bái) thường lấy vợ lấy chồng ở độ tuổi 1415 thường do cha mẹ sắp đặt. Xuất phát từ nhu cầu thiếu người lao động bên nhà trai muốn lấy thêm lao động về làm hơn là việc xây dựng hạnh phúc cho con cái. Một số gia đình khi hỏi vợ cho con, ‘cô dâu’ vẫn đang học lớp 7, lớp 8. Khi hỏi cưới, gia đình nhà trai hay cam kết cưới về vẫn cho con dâu học tiếp. Nhưng thực tế, sau khi về nhà chồng, cô gái không được đi học nữa mà chỉ ở nhà làm nội trợ. Nhà gái cũng ít khi thắc mắc bởi họ cho rằng con mình thuộc về gia đình người chồng quản lý. Vấn đề tảo hôn của người Hmông khác biệt ở chỗ việc lấy chồng lấy vợ sớm thường do tự các em đề xuất. Đến tuổi trưởng thành, các em được tự do tìm hiểu yêu đương và được quyền đề xuất mong muốn lấy vợ, lấy chồng. Bởi lẽ theo quan niệm người Hmông, con gái 1617 tuổi mà chưa lấy chồng xem như ‘ế.’ Các em thường thông báo với cha mẹ việc kết hôn của mình và chờ gia đình định ngày tổ chức. phần đa các em học sinh người Thái đều học hết cấp 2, nhiều em học lên cấp 3, khi đi học ít bị cha mẹ ép lấy chồng sớm. Độ tuổi kết hôn của người Thái hiện nay từ 18 đến 20. Mặc dù nhà nước ban hành luật hôn nhân và gia đình, không cho phép nam hay nữ chưa đến tuổi quy định được phép kết hôn, trên thực tế, người dân vẫn tổ chức cưới hỏi nhưng không đăng ký để tránh phiền phức pháp lý. Vấn đề là ở chỗ phong tục của người Hmông, người Dao hay người Pà Thẻn thường dựng vợ gả chồng từ 14 15 tuổi và điều này được thôn bản công nhận là “hợp thức” so với phong tục tập quán truyền thống địa phương. 18
- Tuổi thọ của người DTTS cũng thấp hơn so với tuổi thọ bình quân chung của dân số cả nước. Mức độ chênh lệch giữa tuổi thọ của nam giới và nữ giới cũng cao hơn so với mặt bằng chung. Nhiều địa phương đông đồng bào DTTS sinh sống có tuổi thọ bình quân rất thấp như: Lai Châu 63,8 tuổi, Lào Cai 65,8 tuổi, Hà Giang 66,3 tuổi,… Đối với một số dân tộc ít người, đang cư trú trong các địa bàn đặc biệt khó khăn như Mảng, La Hủ, Cống, Cờ Lao, Pu Péo, Rơmăm, Ơ Đu, Chứt… tuổi thọ bình quân thấp tới mức báo động (thường chỉ khoảng 50 55 tuổi, trong đó tuổi thọ của nam giới thấp hơn nữ giới rất nhiều)12. Trong khi tuổi thọ của DTTS còn thấp, trong khi tình trạng sinh đẻ chưa được kiểm soát là một trong những nguyên nhân làm cho cơ cấu dân số ở độ tuổi dưới khá 15 cao (chúng ta còn gọi là dân số trẻ) và trên 15 tuổi thấp hơn so với cả nước. Trong mọi hoàn cảnh, dân số trẻ luôn được coi là một tín hiệu tốt cho phát triển NNL. Tuy nhiên, do thể lực và trí lực của lớp người trẻ còn nhiều hạn chế mặc nhiên sẽ làm suy giảm chất lượng NNL vùng DTTS trong tương lai. Trong khi đó, sự nghiệp phát triển luôn đòi hỏi ở chất lượng NNL ngày một cao. Thứ ba Về chiều cao và cân nặng trung bình của thanh niên DTTS trong độ tuổi 18 22 tại các vùng miền núi và DTTS cũng thấp hơn nhiều so với thanh niên ở các vùng khác trong cả nước. Hộp 2. Sau 50 năm nữa thanh niên Việt Nam mới có chiều cao bằng thanh niên Nhật bản hiện nay Theo một điều tra mới do Bộ Y tế công bố năm 2016 cho thấy, chiều cao trung bình của phụ nữ Việt Nam đang ở mức khiêm tốn là 152,6 cm, trong khi đàn ông cao hơn một chút, ở mức 162,4 cm. Về cân nặng, các chị em có trọng lượng trung bình là nặng 51,2 kg, trong khi các anh em nặng bình quân nặng 58,1 kg13. Căn cứ vào các nguồn dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau trên trang 12 Bob Baulch và các tác giả viện Hàn lâm KHXH Việt Nam(2009), Nghèo ở các dân tộc thiểu số tại Việt Nam 13 Đây là kết quả nằm trong nội dung điều tra quốc gia yếu tố nguy cơ bệnh không lây nhiễm do Bộ Y tế tiến hành từ tháng 810/2015 với sự tham gia của gần 4.000 người trong độ tuổi từ 1869 tại 63 tỉnh thành. 19
- Averageheight.co cùng các thống kê khác để đưa ra bản đồ chiều cao người dân các nước trên thế giới. Theo bản đồ này thì chiều cao trung bình của người dân Việt Nam nằm trong top 10 nước người dân thấp nhất thế giới, với vị trí thứ 4 (tính từ dưới lên) chiều cao trung bình của nam giới là 1,621m. Nếu xem xét trong hơn 30 năm qua, chiều cao trung bình của nam thanh niên Việt Nam chỉ tăng thêm trên 4,5cm thấp hơn chuẩn quốc tế 13cm, trung bình mỗi năm chỉ tăng 0,15cm. Qua tham khảo thấy rằng Nhật Bản những năm 50 của thế kỷ trước là một trong các quốc gia có chiều cao hạn chế trên thế giới đã tăng lên 10cm trong vòng 40 năm. Hiện nay thanh niên Nhật Bản đã đạt mức trung bình 1,72 m đối với nam và 1,57m đối với nữ, chỉ thua kém chiều cao trung bình thế giới 5cm. Do có sự quan tâm và quyết tâm đầu tư của Chính phủ nếu chúng ta không có giải pháp phù hợp và quyết tâm cao sẽ mất khoảng 50 năm để phấn đấu, có nghĩa là đến năm 2050 Việt Nam mới có thể đạt chiều cao trung bình 1,72m như thanh niên Nhật Bản hiện nay. Nguồn. Theo Telegrath. Trong khi đó, theo thống kê về chiều cao năm 2008, ở vùng Tây Bắc chiều cao trung bình của nam thanh niên là 161,8 cm và của nữ thanh niên ở vùng Đông Bắc là 151,7 cm. Theo GS.TSKH. Hà Huy Khôi, Phó chủ tịch Hội Dinh dưỡng Việt Nam thì, trước tiên là các yếu tố liên quan đến môi trường sống và phong cách sống (vệ sinh, dinh dưỡng…) có ảnh hưởng hơn cả đến chất lượng NNL chứ không phải yếu tố di truyền ảnh hưởng nhiều đến sự cải thiện của chiều cao hay cân nặng của lực lượng lao động trẻ14. Về mô hình bệnh tật phổ biến của vùng DTTS Mô hình bệnh tật phổ biến của vùng DTTS bao gồm các loại bệnh như lao, sốt rét, viêm não Nhật Bản, sốt xuất huyết, tả, lỵ, thương hàn, giun ký sinh, trùng đường ruột, bướu cổ, phong, phụ khoa, bệnh dạ dày, viêm ruột thừa, ngộ độc (thức ăn, thuốc trừ sâu, củ ấu tầu...), uốn ván, suy dinh dưỡng... Nguyên nhân khiến tỷ lệ mắc bệnh ở những vùng DTTS cao hơn so với các vùng khác là: do nhà ở chật trội, tạm bợ, ẩm thấp, những hạn chế về điều kiện vệ sinh môi trường và tiếp cận nước sạch, tệ nạn nghiện hút, uống rượu, ngại sử dụng dịch vụ y tế hiện đại… Hơn nữa, phần lớn các hộ 14 Bộ Y tế (2008) , Báo cáo chung tổng quan ngành y tế 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Báo cáo: Biến đổi khí hậu toàn cầu và thách thức
29 p | 514 | 101
-
BÁO CÁO KHOA HỌC: "CHỌN LỌC DÒNG ACETOBACTER XYLINUM THÍCH HỢP CHO CÁC LOẠI MÔI TRƯỜNG DÙNG TRONG SẢN XUẤT CELLULOSE VI KHUẨN VỚI QUY MÔ LỚN"
20 p | 217 | 50
-
Báo cáo kết quả dự án: Xây dựng Mô hình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để giảm chi phí sản xuất lúa tại xã Thới Long, huyện Ô Môn, tỉnh Cần Thơ
81 p | 198 | 37
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: " DẠY VÀ HỌC TIẾNG ANH CHUYÊN NGÀNH TRONG TÌNH HÌNH MỚI: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP"
11 p | 313 | 36
-
Báo cáo khoa học: "Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá thời cơ và thách thức"
5 p | 124 | 26
-
Thành tựu và thách thức trong quản lý tài nguyên và cải thiện cuộc sống cho người dân ở Trung du - Miền núi Việt Nam - Trần Đức Viên
146 p | 133 | 22
-
Đề tài: “Bán hàng trực tiếp, một hình thức bán hàng nhiều cơ hội và thách thức”
39 p | 138 | 21
-
Báo cáo khoa học: "ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN KHÁC NHAU LÊN HOẠT TÍNH CỦA MEN TRYPSIN VÀ CHYMOTRYPSIN Ở CÁ BỐNG TƯỢNG BỘT (Oxyeleotris marmoratus)"
7 p | 160 | 16
-
Báo cáo khoa học: Phương pháp lọc thư rác tiếng Việt dựa trên từ ghép và theo vết người sử dụng
11 p | 128 | 14
-
Báo cáo khoa học: ác tiền tố của định hướng thị trường: một nghiên cứu thực nghiệm tại Việt Nam
9 p | 147 | 13
-
Báo cáo khoa học: " QUẢN LÝ CHUỖI THỨC ĂN TỰ NHIÊN TRONG NUÔI CÁ EO NGÁCH BẰNG MÔ HÌNH ECOPATH"
8 p | 94 | 12
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học đề tài " Sau hơn 40 năm thực hiện “di chúc” chủ tịch Hồ Chí Minh - những thành tựu và thách thức của Việt Nam "
0 p | 105 | 9
-
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KỸ THUẬT: Đặc tính của vi khuẩn phân lập từ FROG (Rana tigerina) ở TP.HCM
6 p | 83 | 6
-
Báo cáo nghiên cứu khoa học: "Hút thuốc ở người dân lào: Thách thức và cơ hội kiểm soát thuốc lá"
20 p | 53 | 5
-
Báo cáo khoa học: Tình hình trẻ em thế giới 2011 Tóm tắt: Tuổi vị thành niên - tuổi của những cơ hội
16 p | 101 | 4
-
Báo cáo: Cải thiện tỉ lệ trẻ sinh sống trong dọa sẩy thai: thách thức và cập nhật thực hành lâm sàng
24 p | 8 | 4
-
Báo cáo khoa học: Chuỗi xung 3D MRCP nguyên lý và kỹ thuật tối ưu hình ảnh
19 p | 17 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn