intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Báo cáo nghiên cứu: Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại tỉnh miền Trung - MS9

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

58
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi các giống lợn như lợn Móng Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho các chương trình giống thuần và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Báo cáo nghiên cứu: Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại tỉnh miền Trung - MS9

  1. Ministry of Agriculture & Rural Development Báo cáo tiến độ của dự án 004/05VIE Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam MS9: Báo cáo 6 tháng lần 4 (01/2008 - 06/2008) 1
  2. Mục lục 1. THÔNG TIN VỀ CÁC ĐỐI TÁC: ...............................................................................................3 2. TÓM TẮT DỰ ÁN:........................................................................................................................4 3. TÓM TẮT KẾ HOẠCH:...............................................................................................................4 4. ĐẶT VẤN ĐỀ VÀ TỔNG QUAN VỀ DỰ ÁN:......................................................................6 5. TIẾN ĐỘ CỦA DỰ ÁN TÍNH ĐẾN NGÀY BÁO CÁO: ...........................................................7 5.1. ĐIỂM QUA CÁC CÔNG VIỆC ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN: ..............................................................................7 5.3. CÁC LỢI ÍCH CỦA CÁC HỘ CHĂN NUÔI NHỎ: .........................................................................................9 5.4. TRANG THIẾT BỊ .....................................................................................................................................9 5.5. VIỆC CÔNG BỐ THÔNG TIN TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN THÔNG TIN ĐẠI CHÚNG .......................................9 5.6. QUẢN LÝ DỰ ÁN ....................................................................................................................................9 6. VỀ MỘT Số VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ................................................................................9 6.1 MÔI TRƯỜNG ........................................................................................................................9 6.2 CÁC VẤN ĐỀ VỀ GIỚI TÍNH VÀ XÃ HộI ................................................................................10 7. MộT Số VấN Đề Về VIệC THựC HIệN VÀ TÍNH BềN VữNG:..............................................10 7.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ, CÁC KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP .....................................................................10 7.2 TÍNH BỀN VỮNG .......................................................................................................................10 8. CÁC BƯỚC TIẾP THEO ......................................................................................................10 9. KẾT LUẬN..............................................................................................................................11 10. CAM ĐOAN ............................................................ ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED. 2
  3. 1. Thông tin về các đối tác: Phát triển chăn nuôi lợn bền vững quy mô nông hộ Tên dự án tại một số tỉnh miền Trung Việt Nam Viện chăn nuôi Quốc gia (NIAH); Trường Đại học Nông Các đối tác tham gia phía Việt Nam Lâm Huế (HUAF); Viện Thú Y Quốc Gia (NIVR) TS. Nguyễn Quế Côi Trưởng đại diện dự án phía VN The University of Queensland/Victorian Department of Các đối tác tham gia phía Australia Primary Industry/South Australian Research and Development Institute/University of Sydney Dr Darren Trott, Dr Ian Wilkie, Dr Colin Cargill, Dr Tony Cán bộ tham gia dự án phía Australia Fahy, Dr Trish Holyoake 1 tháng 4 năm 2006 Ngày bắt đầu tháng 4 năm 2009 Ngày kết thúc (theo dự định ban đầu) tháng 4 năm 2009 Ngày kết thúc (sau khi đã sửa chữa) tháng 07 năm 2007 – tháng 01 năm 2008 Giai đoạn báo cáo Các địa chỉ liên lạc: Phía Australia: Trưởng dự án Tên Dr Darren Trott Telephone: 617 336 52985 Giảng viên chính, trường Thú Y, Đại học Tổng 617 336 51355 Chức vụ Fax: hợp Queensland Trường Thú Y, Đại học Tổng hợp Queensland d.trott@uq.edu.au Cơ quan Email: Phía Australia: Quản lý hành chính Melissa Anderson 61 7 33652651 Tên Telephone: Trưởng văn phòng các dự án nghiên cứu 61 7 33651188 Chức vụ Fax: Trường Tài nguyên đất và thức ăn, Đại học m.anderson@uq.edu.au Cơ quan Email: Tổng hợp Queensland Phía Việt Nam TS. Đỗ Ngọc Thuý 84 4 8693923 Tên Telephone: Nghiên cứu viên 84 4 8694082 Chức vụ Fax: NIVR dongocthuy73i@yahoo.com Cơ quan Email: 3
  4. 2. Tóm tắt dự án: Các hộ chăn nuôi nhỏ ở miền Trung Việt nam chủ yếu nuôi các giống lợn như lợn Móng Cái, lợn Mini, lợn Soc cao nguyên - những giống lợn đã có khả năng thích nghi rất tốt với các điều kiện tại miền Trung, nhưng có năng suất và hiệu quả kinh tế kém. Việc nâng cao chất lượng của các giống lợn địa phương bằng cách đưa cac dòng Móng Cái có năng suất cao cho các chương trình giống thuần và giống lai sẽ dẫn đến kết quả là mang lại lợi nhuận đáng kể cho các hộ chăn nuôi nhỏ nếu được tiến hành đồng thời với chương trình chăn nuôi khép kín từ khi đẻ đến khi vỗ béo (tập trung chủ yếu vào các chương trình thú y, chăn nuôi, chuồng trại và dinh dưỡng) để nâng cao năng suất chăn nuôi và giảm bớt các rủi ro về bệnh tật. Chương trình cải tiến liên tục này (CIP) sẽ được bắt đầu bằng việc trang bị các kiến thức cần thiết cho các nhà thú y và chăn nuôi, dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia Australia. Thông qua phương thức “Tập huấn cho các giáo viên”, chương trình CIP sẽ được mở rộng đến những người làm thú y cơ sở, những người quản lý trại và một số nông dân được chọn lựa để có thể thu nhận được các kiến thức và các kỹ năng có thể áp dụng được thành công trong thực tế. 3. Tóm tắt kế hoạch: Dự án được thực hiện với 6 mục tiêu chính: 1. Tập huấn cho các giáo viên; 2. Lựa chọn các trại; 3. Làm quen với các phương pháp chăn nuôi tốt nhất; 4. Đưa lợn giống xuống các nông hộ; 5. Theo dõi các lợi nhuận; và 6. Củng cố lợi nhuận. Trong thời gian 6 tháng thứ 2 thực hiện dự án, các tiến độ đáng kể đã được thực hiện đối với các mục tiêu 2-4, theo đúng như đề cương của dự án, với 1 số những thay đổi nhỏ và yêu cầu kéo dài thêm thời gian do 1 số tình huống không được dự báo trước. Một điều tra về các hộ nông dân, do các nhà khoa học Việt Nam và Australia thiết kế trong quá trình chương trình tập huấn diễn ra tại Australia đã được hoàn thành tại các tỉnh Quảng Nam, Thừa Thiên Huế, Bình Định và tỉnh Quảng Trị. Một dạng mẫu điều tra online đã do trường Queensland thiết kế và đã đưa vào thực hành nhằm mục đích đơn giản hóa việc đăng nhập số liệu và các phân tích, và cung cấp các công cụ để theo dõi chương trình cải tiến liên tục (CIP) tại các trại đã được chọn lựa. Hệ thống này còn có khả năng cập nhật các hình ảnh, bởi vậy mà các ảnh hoặc hình vẽ về kế hoạch xây dựng cải tiến chuồng trại cũng có thể được đánh giá hoặc trao đổi nhanh chóng giữa các nhà khoa học. Các dữ liệu này sẽ cung cấp nền tảng cơ bản cho việc mở rộng tiếp tục mô hình này, vượt ra khỏi cả khuôn khổ của dự án hiện tại. Trên cơ sở các trả lời của các điều tra, mà đã được phân tích qua bằng chương trình SPSS, 27-30 trại tốt nhất ở mỗi tỉnh đã được chọn lực và các mục tiêu 3-4 đã được bắt đầu đi vào thực hiện (nâng cấp các trang thiết bị, tập huấn, và nhập lợn giống). Các nhà khoa học Việt Nam, những người mà dã được tham gia khóa tập huấn tại Australia sẽ tiến hành 2 bài đánh giá về các trình độ thu được. Thứ nhất, dựa trên các cuộc điều tra tại thực địa và việc thảo luận với các nhà khoa học Australia, họ đã đặt ra nhiệm vụ thiết kế hệ thống chuồng trại thích hợp cho lợn Móng Cái đối với các trại đã được chọn lựa để công việc có thể chính thức được khởi động. Thứ hai, trong quá trình các nhà khoa học Australia tiến hành các chuyến đi thực địa, họ đã tiến hành các đánh giá và nhận biết ra các vấn đề tồn tại, thảo luận và đưa ra các ưu tiên. 4
  5. Do chi phí của việc đi lại và do thiếu các kỹ thuật viên cơ sở có kinh nghiệm để hỗ trợ, chúng tôi đã quyết định là tạm thời để tỉnh Bình Định ra khỏi các mục tiêu 2-4 cho tới sau này của dự án. Thay vào đó, các cố gắng sẽ được tập trung vào việc tiến hành các thay đổi ở tình Quảng Trị (do NIAH tự quản lý) và Thừa Thiên Huế (do HUAF tự quản lý). NIVR sẽ bảo đảm việc tiến hành các chẩn đoán về bệnh tiêu chảy và các bệnh khác cho các trại, hỗ trợ về thú y trong việc điều tra các ổ dịch bệnh và cung cấp vacxin E. coli do cơ quan này chế tạo để phòng bệnh tiêu chảy do E. coli ở lợn con theo mẹ cho cả 2 tỉnh này. Tùy địa điểm thích hợp, các nhà khoa học của NIAH và HUAF mà đã được tập huấn ở Australia sẽ hợp tác với nhau trong các chương trình tập huấn ở cả 2 tỉnh để đảm bảo việc chuyển giao 1 cách đầy đủ nhất các ý tưởng và các kỹ năng. Trong quá trình tiến hành điều tra, bất chấp 1 thực tế là các loại hình của hệ thống các trại là rất đa dạng và chất lượng của chuồng trại là khác nhau rất nhiều, chúng tôi cũng đã quyết định rằng, hơn vì so sánh các ưu điểm thể hiện giữa lợn nái lai nhập ngoại và lợn Móng Cái, phần lớn các hộ nông dân (ngoại trừ 1 ngoại lệ là 1 hộ gia đình rất có kinh nghiệm trong việc nuôi các giống lợn ngoại) sẽ được nhận các lợn nái hậu bị thuần chủng Móng Cái. Nếu các hộ nông dân đạt được những thành công với việc nuôi lợn Móng Cái, thì sau đó họ cũng có thể được khuyến khích để mở rộng chăn nuôi và nuôi lợn F1 hoặc các lợn lai trong tương lai. Có 2 mô hình thích hợp khác nhau đã được thử nghiệm, mỗi mô hình ở 1 tỉnh. Tại Thừa Thiên Huế, do khoảng cách giữa các trại và HUAF gần nhau nên các chuyến đi thực địa xuống các trại cũng được tiến hành thường xuyên hơn. Do vậy, các thay đổi đối với các điều kiện chăn nuôi như việc xây dựng khu chuồng riêng cho các lợn nái đã cạn sữa, khu chuồng cho lợn nái đẻ và chuồng riêng cho lợn con, tăng mức độ thoáng gió và hệ thống làm mát bằng nước nhỏ giọt cũng đã được tiến hành cùng thời gian với việc đưa lợn giống sinh sản vào nuôi, đồng thời với việc tập huấn từng bước 1 đối với từng giai đoạn có tính quyết định của quá trình chăn nuôi. Các lợn nái hậu bị mang thai đầu tiên ở Thừa Thiên Huế sẽ đẻ con vào khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11. Ở tỉnh Quảng Trị, các trại được chọn lựa đã tham gia chương trình tập huấn về nuôi lợn Móng Cái thuần chủng do NIAH tổ chức ngay sau khi quá trình chọn lựa các trại được tiến hành xong. Một mô hình chuồng nuôi lý tưởng cho lợn Móng Cái đã được thiết kế như là mô hình mẫu cho nông dân để có thể dựa vào đó và tiếp tục phát triển một khi mà đã bắt đầu có lợi nhuận. Các lợn nái hậu bị được nuôi trong vùng lợn Móng Cái thuần chủng ở miền Bắc được dự định là sẽ được vận chuyển đến các trại đã được chọn lựa ở tỉnh Quảng Trị trong tháng 7. Tuy nhiên, các ổ dịch FMD và PRRS nổ ra ở tỉnh Quảng Trị đã làm cản trở việc chu chuyển gia súc vào tỉnh này, và bởi vậy các lợn nái hậu bị lại phải bán trở lại cho các hộ nông dân ở miền Bắc. Do vậy, quá trình nâng cấp chuồng trại đã được tiến hành xong hoàn toàn trước khi đưa lợn giống sinh sản vào nuôi. Tuy nhiên, sau đó thì tình hình các bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng Trị đã ít nhiều sang sủa hơn nên các lợn nái hậu bị lại đã tiếp tục được chọn lựa và sẽ được đưa vào đây vào khoảng tháng 11 hoặc tháng 12, khi mà giá cả là hoàn toàn thích hợp. Các chương trình tập huấn chính và đồng thời ở mỗi tỉnh đã được lập kế hoạch vào tháng 11, tập trung chủ yếu vào việc chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái Móng Cái trong quá trình mang thai và nuôi con, cũng như là việc chăm sóc lợn con ở độ tuổi trước cai sữa. Trong tuần thứ 1, các kỹ thuật viên cơ sở sẽ được tập huấn, sau đó là đến các nông dân đã được chọn lựa vào tuần thứ 2. Do sự chậm trễ về kế hoạch thực hiện trong khoảng 3-4 tháng gây ra bởi dịch bệnh FMD và PRRS ở tỉnh Quảng Trị, những người tham gia dự án muốn có thêm 1 khoảng thời gian gia hạn là 3 tháng đối với tất cả các báo cáo tiến độ 6 tháng (tháng 1 và tháng 7 hàng năm). Các thay đổi về nhân lực tham gia dự án bao gồm: việc biệt phái TS. Côi sang vị trí mới là giám đốc Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, và TS. Tạ Thị Bích Duyên sẽ là người thay thế để quản lý dự án phía NIAH. TS. Trish Holyoake cũng đã chính thức xin phía trường Sydney rút khỏi dự án này do bà ta phải tham gia 1 số dự án khác. Do vậy, khoản ngân sách $18,000 trước đây là vốn hoạt động của phía trường Sydney được yêu cầu là sẽ phân phối đều cho các cơ quan nghiên cứu phía Việt Nam để trang trải các chi phí đi lại do các trì hoãn gây ra ở tỉnh Quảng Trị và việc phải đi lại nhiều hơn đối với các nhà khoa học ở Huế. 5
  6. 4. Đặt vấn đề và tổng quan về dự án: Để thoả mãn nhu cầu về thịt lợn ngày càng tăng, một số nông hộ ở miền Trung Việt Nam đã không ngừng mở rộng chăn nuôi, tăng năng suất, trong khi đó, vấn có một số hộ vẫn giữ chăn nuôi theo phương thức cũ với các điều kiện chuồng nuôi nghèo nàn. Cùng với việc chăn nuôi được mở rộng thì cũng kéo theo nhiều bệnh tật xảy ra, đặc biệt là ở giai đoạn lợn con còn đang bú mẹ, do vậy, không có gì là ngạc nhiên khi các bệnh tiêu chảy gây ra các thiệt hại đáng kể cho lợn ở giai đoạn này. Bệnh thường được giải quyết và và kiểm soát bởi sự kết hợp giữa quản lý tốt, tiêm phòng đầy đủ, tuy nhiên các điều kiện môi trường không đảm bảo tại rất nhiều trại chính là nguyên nhân chính gây ra bệnh, đặc biệt là ở các khu vực chuồng lợn đẻ và cai sữa. Kháng sinh – nguyên nhân chính làm tăng các chi phí của sản xuất – cũng được sử dụng quá nhiều và việc sử dụng tùy tiện này cũng đã gây ra mức độ kháng thuốc cao với rất nhiều chủng vi khuẩn phân lập được từ các lợn nuôi tại Việt Nam. Việc mở rộng chăn nuôi lợn quy mô hộ gia đình ở các tỉnh miền Trung Việt Nam cũng là nguồn cải thiện thu nhập đáng kể đối với các gia đình nghèo, nhưng hiện tại cũng bị cản trở do lợi nhuận thu được là rất thấp do năng suất sinh sản tốc độ tăng trọng kém, thiếu các kỹ năng trong chăn nuôi và quản lý, thức ăn nghèo nàn và các vấn đề về bệnh tật. Dựa trên các kinh nghiệm thu được từ dự án CARD hiện tại (001/04VIE), các vấn đề mà người chăn nuôi quy mô nhỏ ở Việt Nam hiện đang phải đối mặt là: • Thiếu các theo dõi ngay tại trại về hiệu quả chăn nuôi hàng ngày • Thiếu các theo dõi về tăng trọng bình quân ngày, tiêu tốn thức ăn và số lợn bán ra/nái/năm để đánh giá năng suất chăn nuôi toàn đàn và lợi nhuận thu được • Chưa đề ra và đạt được các mục tiêu về sinh sản • Hệ thống thông thoáng gió và làm mát kém, làm hạn chế khả năng tiêu thụ thức ăn của lợn • Thiếu thức ăn cho các loại lợn, từ sơ sinh đến khi xuất chuồng • Thiếu các theo dõi về tình hình bệnh tật của đàn lợn, đặc biệt là về tỷ lệ chết, tuổi và nguyên nhân gây chết • Chiến lược tiêm phòng vacxin cho các bệnh chưa đứng, do vậy đã làm hạn chế tác dụng phòng bệnh của vacxin • Thiếu chuyên gia thú y và các cán bộ khuyến nông để đào tạo và chỉ dẫn cho nông dân • Thiếu các mô hình trình diễn tại các tỉnh để tập huấn cho những người cần học Để có các hiểu biết rõ ràng hơn về các rủi ro làm hạn chế và giảm hiệu quả chăn nuôi lợn, cần phải có 1 cuộc điều tra trên số lượng nông hộ tương đối lớn tại các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Bình Định. Các số liệu theo dõi trước đó về vấn đề chăn nuôi, thú y, chuồng trại, môi trường và thu nhập sẽ được thu thập và đánh giá để xác định các ưu tiên nghiên cứu. Một ví dụ đại diện của các trại chăn nuôi quy mô nhỏ (được giới hạn là nuôi
  7. Rất nhiều nông hộ nghèo hiện nay vẫn nuôi các giống lợn nội với ý định lai chúng với các giống lợn ngoại để tăng khá năng phát triển và năng suất ở đàn con F1. Tuy nhiên, các giống lợn nội nuôi tại các nông hộ hiện tại có năng suất rất kém. Trong số 3 dòng lợn thuần chủng chính, giống lợn Móng Cái có năng suất cao hơn cả. Giống lợn Móng Cái có năng suất cao đã được tiến hành lai với lợn Bắc Giang cho đàn con trung bình là 13-14 con/lứa đẻ (so với các giống lợn nội khác chỉ đạt 8-9 con) và tốc độ tăng trọng bình quân đạt 350-400 g/ngày (các giống khác 200-250 g/ngày). Kết quả này đã bộc lộ rõ các ưu việt của giống lợn Móng Cái. Nếu thay thế được đàn lợn nội bằng lợn Móng Cái thuần chủng có năng suất và chất lượng cao sẽ tạo thành các vùng hạt nhân về lợn Móng Cái thuần chủng cho vùng Duyên hải miền Trung. Các con nái hậu bị thuần chủng sẽ được tăng lên về số lượng và sẽ được bán cho các hộ chăn nuôi nhỏ khác trong chương trình lai với lợn đực ngoại. Các công thức lai trong đàn F1 sẽ cho tốc độ phát triển tốt hơn các giống nội hiện đang nuôi, nhưng lại thích nghi hơn với các điều kiện môi trường của địa phương so với các giống lợn ngoại. Ngoài ra, chương trình này còn góp phần bảo tồn nguồn gen lợn Móng Cái thuần chủng tại khu vực Duyên hải Miền Trung. 5. Tiến độ của dự án tính đến ngày báo cáo: 5.1. Điểm qua các công việc đã được thực hiện: 1) Những thay đổi, cải tiến cuối cùng đối với hệ thống dữ liệu trực tuyến: Một mạng dữ liệu hoàn chỉnh có thể được truy cập tại địa chỉ URL: http://survey.library.uq.edu.au/pigs/ . Tên truy cập (AUSAIDCARD) và mật khẩu (pigproject) đã được kiến tạo cho các thành viên của ban quản lý dự án CARD có thể tiếp cận và xem xét các dữ liệu (nhưng không thể làm thay đổi các báo cáo theo dõi) tại bất kỳ thời điểm nào bởi vì nó sẽ liên tục được cập nhật trong suốt quá trình thực hiện dự án. Phiên bản dạng word của dạng câu hỏi điều tra ngắn gọn bằng tiếng Anh và tiếng Việt có thể được xem chi tiết trong Phụ lục 1. Ms. Tarni Cooper đã tiến hành nhập các dữ liệu thu được từ các trại mô hình trong các chuyến công tác tới Việt Nam 2007/2008. Mỗi trại đều đã được gắn với một mã số ID. Chúng tôi đã cố gắng tập huấn cho các nhà khoa học Việt nam cách sử dụng các mẫu đánh giá kiểm tra với mỗi lần họ xuống thăm các trại đã được chọn lựa. Tuy nhiên, cách thức này chỉ có những thành công nhất định do một số nguyên nhân tác động như: khả năng đăng nhập vào mạng internet ở Việt nam còn chậm và khó, do một vài lỗi mã hóa đã cản trở việc lưu giữ dữ liệu nếu tiến hành nhập số liệu từ phía Việt Nam, cũng như là việc chưa nhận thức đúng mục đích thực và tác dụng của các điều tra từ phía những đối tác tham gia dự án. Ms. Tarni sẽ tiến hành một chuyến công tác tiếp theo vào khoảng thời gian 2008/2009 để tiến hành một đánh giá hàng năm đối với tất cả các trại mà đã được kiểm tra, đánh giá trước đó vào năm 2007/2008. Việc làm này sẽ cung cấp cho dự án các số liệu cực kỳ hữu ích. Rất nhiều các số liệu đã được thu thập từ các trại mô hình sẽ được báo cáo trong báo cáo MS6 và sẽ được nộp tới văn phòng dự án CARD trong thời gian sớm nhất. 2) Việc đánh giá kiểm tra các trại do các thành viên đội dự án phía Australia thực hiện (Tháng 5/2008) Để thuận lợi và cho phép việc so sánh một cách dễ dàng, các báo cáo về các chuyến công tác từ TS. Tony Fahy và TS. Colin Cargill về các nhiệm vụ tập huấn, đào tạo đối với phía Việt Nam vào tháng 5 năm 2008 sẽ được báo cáo trong các tài liệu báo cáo mốc thực hiện số 11, bởi vì phần đào tạo cũng được tiến hành trong suốt tháng 11 năm 2008 (có trong báo cáo 6 tháng lần 5). Một bản tóm tắt về các bài tập huấn, đào tạo cũng được trình bày trong báo cáo của TS. Linh từ trường Đại học Huế. 3) Về việc nộp các tóm tắt các kết quả thực hiện được của dự án tới Hội nghị Hợp tác Chăn nuôi Thú Y Á - Úc lần thứ 13 tại Hà Nội, tháng 9 năm 2008. 7
  8. Có tất cả 7 tóm tắt (3 từ Viện Thú Y, 2 từ trường Đại học Huế, một từ Viện Chăn nuôi và 1 từ TS. Colin Cargill) đã được nộp tới ban thư ký Hội nghị AAAP và đã được chấp nhận để trình bày tại hội nghị tổ chức vào tháng 9 năm 2008 (Xem Phụ lục 2: Các Tóm Tắt Hội nghị). Các bài báo cáo từ Viện Thú Y chủ yếu tập trung vào các tiến độ đã đạt được trong việc chế tạo vacxin E. coli, kiểm tra an toàn và hiệu lực của vacxxin, đồng thời xác định tỷ lệ của các nguyên nhân khác nhau gây tiêu chảy ở lợn con theo mẹ và xác định các yếu tố độc lực ở các chủng ETEC và STEC phân lập được từ các trường hợp tiêu chảy trước cai sữa, sau cai sữa và phù đầu ở Việt Nam. Chi tiết về các kết quả này sẽ được báo cáo riêng trong một báo cáo của dự án 001/04VIE. Hai bài báo từ trường Đại học Huế đã báo cáo các kết quả về các điều tra tại trại đã được tiến hành vào năm 2007 và kết quả thử nghiệm so sánh chuồng trại được xây dựng theo phương thức truyền thống với thiết kế mới được xây dựng trong quá trình thực hiện dự án. Ở nhóm chuồng trại được xây dựng theo kiểu mới, số lượng lợn con sinh ra và sống sót (11.1±2.6) và số con cai sữa (9.3±1.1) là cao hơn một cách rõ rệt (P < 0.01) so với nhóm chuồng trại theo phương thức truyền thống (với các con số lần lượt là 9.5±1.5 và 7.1±1.4). Ngoài ra, các lợn con được nuôi trong chuồng trại kiểu mới có tỷ lệ tăng trọng từ lúc sinh đến cai sữa cũng cao hơn rõ rệt (126.3±19.5 g/ngày so với 107.4±15.4 g/ngày; P < 0.05). Bài báo cáo từ Viện Chăn nuôi cũng đã ghi nhận lại những chuyển biến rõ ràng ở tỉnh Quảng trị từ khi đưa mô hình mới vào áp dụng: số con sinh ra và sống sót (11.5 so với 10 lợn con/đàn) và cai sữa (10.5 so với 9.5 lợn con) và có sự giảm đáng kể về tỷ lệ chết trước cai sữa (2.1% so với 8.6%). Quan trọng hơn, báo cáo này đã nhấn mạnh những lợi ích kinh tế đáng kể đã đạt được như giá thức ăn rẻ, tận dụng được một số phụ phẩm có sẵn tại địa phương, kết hợp với thức ăn đậm đặc, hơn là phải mua thức ăn có bán sẵn trên thị trường. 4) Các báo cáo từ Viện Chăn nuôi và trường Đại học Huế: Có tất cả bảy nông hộ ở tỉnh Quảng Trị đã được hỗ trợ để xây dựng chuồng nuôi lợn mới dựa trên cơ sở thiết kế ban đầu đã được Mr. Biên từ Viện Chăn nuôi phác họa. Kiểu chuồng ban đầu của Mr. Biên đã được nâng cấp, cải tiến thành kiểu hiện tại, dựa trên cơ sở các quan sát và kinh nghiệm (xem phụ lục 3: Nâng cấp, cải tiến thiết kế chuồng nuôi lợn Móng Cái thuần chủng). Một vài trại đã có các hệ thống uống nước tự động. Kết quả thu được đáng phấn khích nhất trong giai đoạn 6 tháng ở Quảng Trị là việc đưa các lợn hậu bị Móng Cái thuần chủng tới các trại đã được chọn lựa vào ngày 1 tháng 5 năm 2008. Đợt dịch bệnh lở mồm long móng ở các tỉnh miền Trung Việt Nam đã gây ra một trì hoãn không thể tránh được và đã làm tăng giá thức ăn và kiểm dịch của đàn nuôi mới. Giá mua lợn là cao hơn rất nhiều so với trước khi ổ dịch xảy ra. Một nguyên nhân khác làm cho tình hình dịch bệnh trở nên nghiêm trọng hơn, đó là hội chứng rối loạn sinh sản và hô hấp ở lợn do virus PRRS (trước đây vẫn được gọi nôm na là "bệnh tai xanh") xảy ra ở các tỉnh miền Trung Việt Nam trong suốt từ đầu đến giữa năm 2008. Thật tình cờ và không may, dự án phải trì hoãn quá nhiều ngày do dịch lở mồm long móng vào năm 2007, đàn lợn Móng Cái thuần chủng của Viện Chăn nuôi đã được tiêm phòng vacxin PRRS (vacxin Trung Quốc do Bộ NN và PTNT nhập khẩu) và vacxin lở mồm long móng. Các nái hậu bị đã được đưa vào nuôi, phối và đẻ con vào nửa năm sau của 2008, và tất cả đã sống sót qua ổ dịch PRRS, trong khi cùng thời gian đó, có rất nhiều lợn nuôi tại Quảng trị đã bị chết hoặc bị tiêu hủy (xem Phụ lục 4: Báo cáo từ NIAH) Tại Thừa Thiên Huế, Dr. Linh đã trình bày 3 nội dung chính trong báo cáo (Xem Phụ lục 5: báo cáo từ trường Đại học Huế). Nội dung 1 là các lớp tập huấn đã được tổ chức thành công ở Huế và Quảng Trị - ở đó, các nhà khoa học Việt Nam và Australia đã được tiếp xúc gần gũi với các nộng hộ đã được chọn lựa ở mỗi tỉnh. Chương trình tập huấn gồm 5 nội dung chính: Kiểm soát đàn và Phương pháp lưu giữ, theo dõi các dữ liệu; Hiệu quả của việc sử dụng hộp sưởi đối với sức khỏe của lợn con; Chuồng nuôi lợn và các điều kiện về môi trường; Dinh dưỡng cho lợn, cách cho ăn, phòng và chống các bệnh ở lợn. Mỗi người tham dự lớp học đã được nhận 1 chứng chỉ tham gia (tương đương với trình độ tập huấn 4). TS. Linh cũng đã báo cáo về dịch bệnh PRRS ở miền Trung Việt nam và ảnh hưởng nghiêm trọng của nó tới dự án, gây chết 32 lợn nái (nghi ngờ bị PRRS) và 8
  9. 19 lợn nái khác đã bị tiêu hủy do có các triệu chứng lâm sàng của PRRS tại 5 xã thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế (phần lớn các lớn nái đang trong thời gian của lứa đẻ thứ 2). Các nông hộ, sau đó đã được nhận tiền trợ cấp với giá là 20.000 VNĐ cho 1 kg thiệt hại, nhưng đó lại chính là thời điểm quyết định của dự án để chuẩn bị cho việc sinh đẻ của ít nhất là 45 đàn. Tuy vậy, TS. Linh cũng đã tiến hành báo cáo về việc vượt qua các trở ngại trong chăn nuôi và sinh sản của đàn lợn đã đạt được nhờ các sáng kiến của dự án, và các nông hộ đã ở trong 1 tình thế rất tốt để bắt đầu sản xuất lại với giá lợn đã lên rất cao trở lại. Các hộp sưởi mới cho lợn con đã cực kỳ phát huy hiệu quả, đặc biệt là trong suốt mùa lạnh và hiệu quả sinh sản của đàn lợn đã tăng lên nhiều với tỷ lệ trung bình là 13.1 lợn con/nái sinh ra và sống sót (ở các lợn nái lứa đẻ thứ 2 hoặc 3, hơn là lợn nái hậu bị) và chỉ có 3 nái đã được phối không thành công. Căn cứ vào giá lợn cai sữa cao tại thời điểm hiện tại (70.000- 80.000 VNĐ) - đây chính là sự thúc đẩy mạnh mẽ đối với dự án trên cơ sở nếu hầu hết các lợn con sinh ra sống sót cho đến lúc cai sữa. Với việc đưa lợn Móng Cái có khả năng sản xuất cao vào nuôi, cùng với việc kiểm soát tốt môi trường chuồng nuôi lợn nái và lợn con, việc sử dụng các hộp sưởi ấm, thì các chương trình tập huấn bây giờ có thể chỉ tập trung chủ yếu vào giai đoạn trước cai sữa, đặc biệt là về các nguyên nhân gây bệnh và cách phòng bệnh tiêu chảy. Ts. Linh cũng đã ghi chép là lịch tiêm phòng vacxxin (bao gồm cả vacxin phòng PRRS) và việc đánh giá một cách tóm tắt các sáng kiến đã làm của dự án cho tới ngày hôm nay. Các sáng kiến này bao gồm việc cải tiến trên quy mô lớn hơn đối với vấn đề chuồng trại, bao gồm cả việc đưa các hộp ủ vào sử dụng, cách khống chế nhiệt độ và việc đưa vacxin E. coli có chứa các loại kháng nguyên khác nhau do NIVR chế tạo vào tiêm phòng. Các tiến triển rõ rệt về số lợn con trong đàn tăng lên, giảm khoảng cách giữa các lứa đẻ (chủ yếu là do lợn mẹ được nuôi với chế độ dinh dưỡng đầy đủ hơn) và tần suất cao của các lần sinh sản thành công của các lợn nái đã làm cho các chủ nông hộ thu nhận những lời khuyến cáo có lợi từ phía các nhà khoa học Australia và Việt nam. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều việc nữa phải làm để cải thiện tình hình này. 5.3. Các lợi ích của các hộ chăn nuôi nhỏ: Trong giai đoạn này, các hộ chăn nuôi đã được chọn lựa đã được nhận trực tiếp các thứ sau: - Từng gia đình được tiến hành đào tạo, tập huấn với các chuyên gia người Australia và Việt Nam vào thời điểm tháng 5 năm 2008 và đã được nhận các chứng chỉ tham gia tập huấn - Đưa các lợn nái Móng Cái thuần chủng đã được tiêm vacxin vào nuôi tại các trại đã được chọn lựa tại tỉnh Quảng Trị. Hoạt động này đã giúp hình thành các hạt nhân của vùng giống mới. - Mặc dù dịch bệnh nghiêm trọng đã xảy ra ở các tỉnh miền Trung Việt Nam, dự án với các nông hộ nhỏ đã có lợi thế hơn hẳn so với các gia đình hàng xóm đã phải tiến hành thay thế đàn do phải tiêu hủy hoặc bị chết do dịch PRRS và phải bắt đầu gây dựng một đàn mới thật nhanh để tránh giá lợn tăng cao 5.4 Trang thiết bị Không có gì thay đổi so với báo cáo trước. 5.5 Việc công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng Không có gì được công bố mới. 5.6 Quản lý dự án Không có gì thay đổi trong đội dự án. 6. Về một số vấn đề có liên quan Môi trường 9
  10. Không có gì bổ xung thêm. Một báo cáo đầy đủ về các vấn đề môi trường sẽ được trình bày trong MS11. Báco cáo này sẽ bao hàm việc sử dụng hiện nay đối với các chất thải từ chuồng nuôi, nhưng cũng sẽ đảm bảo các vấn đề về an toàn sinh học, đặc biệt là vấn đề dịch bệnh, vấn đề chẩn đoán và khống chế bệnh. 6.1 Các vấn đề về giới tính và xã hội Không có gì bổ xung thêm. Một báo cáo đầy đủ về vấn đề giới tính và các vấn đề xã hội, đặc biệt là việc tạo ra khí biogas từ các chất thải của chuồng nuôi lợn sẽ được báo cáo trong MS11. Một báo cáo về việc xâu dựng vùng chăn nuôi lợn Móng Cái thuần chủng sẽ được trình bày trong MS11. 7. Một số vấn đề về việc thực hiện và tính bền vững: 7.1 Một số vấn đề, các khó khăn và giải pháp Vấn đề 1: Dịch bệnh PRRS tại các tỉnh miền Trung Việt Nam Khó khăn: Thiệt hại khoảng 35% lợn nái giống Móng Cái ở các xã thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế Giải pháp: 1) Do vacxin phòng bệnh PRRS hiện nay đã có, vì vậy bệnh sẽ không còn là vấn đề lớn nữa đối với thời gian còn lại của dự án. Vacxin cũng cần được bổ xung vào lịch trình tiêm các loại vacxin hiện tại và các nông hộ cũng cần phải được thông tin đầy đủ về các bệnh thường gặp ở lợn để có kế hoạch phòng bệnh thích hợp. 2) Các lợn nái bị chết đã nhanh chóng được thay thế (thực tế thì chúng cũng có thể được mua từ các nông hộ khác ở trong vùng có nuôi lợn Móng Cái thuần chủng, hơn là các đàn lai F1). Ở tỉnh Quảng Trị, hiện nay, việc này đã tạo ra 1 cơ hội để đầu tư, hơn là một nguy cơ đe dọa. 3) Một báo cáo ghi chép lại sự xuất hiện của dịch PRRS (sử dụng dữ liệu từ nguồn của các nhà khoa học Việt Nam) cũng đã được gộp trong báo cáo này (Xem Phụ lục 6: Báo cáo về ảnh hưởng của dịch PRRS đối với dự án 004/005 VIE). Phụ lục này đã tóm tắt hầu hết các thông tin có liên quan đến "Bệnh tai xanh" đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng. Vấn đề 2: Tập trung nhiều hơn vào vấn đề phòng và thanh toán bệnh có tính chất địa phương Khó khăn: Có 1 vấn đề hiển hiện ra là các nông hộ vẫn chưa nhận thức hết được các lợi ích về kinh tế thu được từ việc phòng và điều trị các bệnh nội ngoại ký sinh trùng, phòng chống bệnh cầu trùng và lợi ích bao trùm trên hết của việc tiêm phòng vacxin E. coli. Việc này chỉ có thể thực hiện được khi chúng tôi hoàn chỉnh các đánh giá, kiểm tra tại trại (Xem Phụ lục 7: Danh sách các việc cần kiểm tra, đánh giá tại trại) và chọn các trại tốt nhất ở mỗi xã để tiến hành tập huấn, đào tạo theo hình thức "nông hộ tập huấn cho nông hộ" Giải pháp: 1) Xây dựng chương trình tập huấn theo mô hình "nông hộ tập huấn cho nông hộ" đúng vào thời gian của các chuyến công tác của các chuyên gia phía Australia. Đợt tập huấn vào tháng 5/2008 chủ yếu đã tập trung vào các biện pháp can thiệp ở trình độ cao của dự án (Xem Phụ lục 8: Các mục tiêu của dự án đã được dịch sang tiếng Việt) 2) Thao khảo ý kiến tư vấn của Dr. Elske van de Fliert (Trường Đại học Tổng hợp Queensland) về các phương pháp mới đánh giá thành công của sáng kiến "nông hộ tập huấn cho nông hộ" 7.2 Tính bền vững Vấn đề này sẽ được báo cáo chi tiết trong MS11. 8. Các bước tiếp theo 10
  11. 1) Lập kế hoạch chuẩn bị cho việc tập huấn nông hộ và kiểm tra, đánh giá các trại vào tháng 11/2008-tháng 2/2009 vào đúng thời gian của các chuyến công tác dài ngày của các thành viên đội dự án phía Australia (kể cả Ms. Tarni Cooper). 2) Lên kế hoạch về phương thức quản lý, nuôi dưỡng tại trại, và tập trung thêm vào việc tập huấn cho nông hộ về việc thanh toán bệnh ghẻ và hội chứng tiêu chảy ở lợn trước cai sữa (gây ra do vi khuẩn, virus và ký sinh trùng, mà mỗi bệnh lại đòi hỏi một phương thức phòng và điều trị khác nhau) - 2 loại bệnh dễ có thể phòng chống nhất đã tạo nên "giá ẩn giấu" trong các thiệt hại về chăn nuôi và cũng cần đòi hỏi sự chú ý cẩn thận về các triệu chứng và chẩn đoán. 3) Thực hiện an toàn sinh học và các chương trình đảm bảo chất lượng để phòng chống lại các loại bệnh mới và đảm bảo cho các loại thuốc được dùng để điều trị là đúng và thích hợp. Trong khi, rất khó để có thể vận hành chương trình an toàn sinh học và cấp độ các trại riêng rẽ, thì các chính sách như ngăn chặn, kiểm dịch và cách ly là hoàn toàn có thể làm được ở cấp độ các xã. 9. Kết luận Tại thời điểm này của dự án, có một điều rất rõ ràng là các chủ nông hộ ở các trại mô hình hiện nay đã nhận thấy rõ tầm quan trọng của: a) Chuồng trại được xây dựng và được thiết kế thích hợp, bao gồm cả vấn đề thông thoáng gió b) Có hệ thống làm mát thích hợp cho lợn nái, đặc biệt là trong thời tiết nóng và cung cấp bầ tiểu khí hậu khác nhau cho các lợn nái và lợn con. c) Một vấn đề mấu chốt quan trọng là các hộp sưởi cho lợn con đảm bảo đủ sạch, khô, ấm để cho lợn con khỏe mạnh và phát triển tốt d) Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho các lợn nái đang mang thai, lợn nái trong thời kỳ cạn sữa, đảm bảo đầy đủ trạng thái dinh dưỡng, giảm thời gian tối thiểu từ khi đẻ đến khi phối giống lứa sau, tăng số lứa đẻ trong 1 năm. Có một thực tế đã xảy ra là phần lớn các nông hộ đều cho lợn ăn với khẩu phần giới hạn, do vậy các việc cần phải cải tiến trong thời gian tới là tập trung nhiều hơn vào chăm sóc cho lợn nái mang thai và lợn nái cạn sữa. Có một việc rất rõ ràng rằng các nông hộ chăn nuôi đều rất dễ dàng bị dịch bệnh bên ngoài tấn công (ví dụ như PRRS) và họ cũng thường xuyên không nhận thấy được bệnh nào có tồn tại ở địa phương đó, hoặc là loại vacxin nào đã được sử dụng để tiêm phòng. Việc phổ biến quá nhiều thông tin cùng một lúc tới người nông dân có xu hướng sẽ dẫn tới kết quả là họ sẽ không tiếp thu hết các kiến thức và kỹ năng đã được giảng giải. Tuy nhiên, sau các buổi tập huấn, những người nông dân đã có được những kinh nghiệm đầu tiên, và những cải tiến trong phương thức chăn nuôi từ những thay đổi đơn giản về chuồng trại, quản lý, chăm sóc nuôi dưỡng lợn nái và lợn con. Đây chính là thời điểm thuận lợi cho việc tiếp tục nâng cao các kiến thức và các nhận thức cho các nông hộ về vấn đề dịch bệnh và cách sử dụng thuốc. 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2