Báo cáo tốt nghiệp
" Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất "
mục lục
Nội dung
Trang
- Lời mở đầu : 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 3 4 4
4. Phương pháp nghiên cứu 5. Kết cấu khoá luận - Chương I : Tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất 4 5 6
6
và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm hộ sản xuất 2. Vai trò của của HSX trong nền kinh tế thị trường 3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh 6 7 9
tế HSX
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế 11
HSX
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng 11
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với HSX 3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân 13 16
hàng và HSX
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với HSX 1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng 2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối 17 17 18
với HSX
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân 23
hàng đối với HSX
- Chương II : Thực trạng tín dụng đối với hộ sản 27
xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 1. Đặc điểm kinh tế xã hội tác động đến kinh doanh kinh 27 27
doanh của NHNo huyện Từ Liêm
2. Quá trình hình thành phát triển và chức năng của NHNo & 29
2
PTNT huyện Từ Liêm
3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ 31
Liêm
II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo & 32
PTNT Hà Tây
1. Huy động vốn 2. Hoạt động cho vay 32 34
III. Thực trạng tín dụng đối với HSX tại NHNo & 40
PTNT huyện Từ Liêm
1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo 40
huyện Từ Liêm
2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo 42
huyện Từ Liêm trong thời gian qua
IV. Đánh giá về hoạt động tín dụng đối với HSX tại 58
58 62
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm 1. Kết quả đạt được 2. Hạn chế trong hoạt động cho vay hộ sản xuất - Chương III : Giải pháp nâng cao chất lượng tín 68
dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất
68 68 68 69
I. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX 1. Chính sách tín dụng đối với HSX của Nhà nước 2. Định hướng chung của NHNo & PTNT Việt Nam 3. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây 4. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với HSX của 70
NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây
II. Một số giải pháp cơ bản 1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với 71 71
HSX
2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay HSX 3. Giải pháp bổ trợ 81 84
86 86 88
3
III. Kiến nghị 1. Kiến nghị với Nhà nước 2. Kiến nghị với chính quyền địa phương 3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam Kết luận Tài liệu tham khảo 89 90 91
Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu :
Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, NHNo & PTNT huyện Từ Liêm đã đạt được những thành tựu đáng kể trong tiến trình phát triển.
Năm đầu thành lập, Ngân hàng phải đối mặt với nhiều khó khăn chồng chất, nguồn vốn kinh doanh nhỏ bé, khách hàng chính là các Doanh nghiệp Nhà nước và các HTX bị giải thể hoặc thu hẹp quan hệ với Ngân hàng do việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp và chính sách giao đất sử dụng lâu dài cho các hộ gia đình. Trong thị trường hoạt động cũ bị thu hẹp thì thị trường mới là các hộ nông dân đang trong bước đầu thử nghiệm.
Đứng trước những khó khăn trên, Ngân hàng vẫn kiên trì thực hiện chuyển hướng trong kinh doanh , xác định đối tượng phục vụ chính là "nông nghiệp, nông thôn và nông dân". Sự chuyển hướng kinh doanh đúng đắn đã đem lại kết quả to lớn. Ngân hàng có mạng lưới gồm 3 chi nhánh cơ sở hoạt động có chất lượng cao với thị trường rộng lớn. Vốn tín dụng Ngân hàng đã giúp đỡ hàng nghìn hộ sản xuất trên địa bàn có đủ vốn sản xuất kinh doanh góp phần phát triển kinh tế địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng tích cực ra nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
4
Trong quá trình CNH - HĐH đất nước đặc biệt là quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách để phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Trong đó, Đảng và Nhà nước có chính sách tín dụng hỗ trợ vốn cho vay hộ nông dân phát triển. Tuy nhiên thực tế việc mở rộng cho vay hộ sản xuất ngày càng khó khăn do tính chất phức tạp của hoạt động này, món vay nhỏ bé, chi phí nghiệp vụ cao, khả năng rủi ro ngày càng lớn. Với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn xoá đói giảm nghèo, xây dựng
nông thôn mới thì nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất hoạt động Ngân hàng nhất là trong môi trường kinh doanh đầy rủi ro như khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Xuất phát từ tình trạng của vấn đề, đề tài : "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm" mang tính cấp thiết và ý nghĩa thực tiễn quan trọng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất, đáp ứng nhu cầu vay vốn của hộ, góp phần thực hiện các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài :
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hộ sản xuất và vai trò của TDNH đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất, qua đó thấy được tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
- Phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm. Từ đó, tìm ra những mặt còn tồn tại, trên cơ sở đó có những giải pháp tháo gỡ khó khăn và nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị để thực hiện giải pháp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Với tính đa dạng, phức tạp của đề tài, cho nên chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề thực tiễn cụ thể trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm trong năm 1998 - 2000.
4. Phương pháp nghiên cứu :
- Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá, phân tích tổng hợp, diễn giải, quy nạp, phân tích thống kê, so sánh.
- Kết hợp nghiên cứu lý luận, kinh nghiệm nước ngoài vào thực tiễn
vận dụng vào NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
5. Kết cấu khoá luận :
5
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương.
Chương I :
Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Chương II :
Thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần
6
phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Chương I Tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất và chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
I. Hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường :
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu", tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy những năm gần đây các nhà kinh tế bắt đầu quan tâm thực sự đến sự phát triển nông thôn, nông nghiệp và mô hình kinh tế hộ sản xuất. Sự quan tâm nghiên cứu về hộ sản xuất của các nhà khoa học đã đánh dấu thời kỳ thay đổi, thái độ đối với hộ sản xuất trong hệ thống lý thuyết chính thống và hệ thống chính sách kinh tế xã hội hiện thời.
1. Khái niệm hộ sản xuất :
Nói đến sự tồn tại của hộ sản xuất trong nền kinh tế, trước hết chúng ta cần thấy rằng hộ sản xuất không chỉ có ở nước ta mà còn có ở tất cả các nước có nền sản xất nông nghiệp trên thế giới. Hộ sản xuất đã tồn tại qua nhiều phương thức và vẫn đang tiếp tục phát triển. Chúng ta có thể xem xét một số khái niệm khác nhau về hộ sản xuất , trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ, hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, nhóm người đó cùng hộ sản xuất là hộ, hộ gia đình.
7
Ngày nay hộ sản xuất đang trở thành một nhân tố quan trọng sự nghiệp CNH - HĐH đất nước và là sự tồn tại tất yếu trong qúa trình xây dựng một nền kinh tế đa thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phù hợp với xu thế phát triển chung, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước , NHNo & PTNT Việt Nam ban hành phụ lục số 1 kèm theo quyết định 499A ngày 2/ 9/ 1993, theo đó thì khái niệm hộ sản xuất được hiểu như sau : "Hộ sản xuất là đơn vị kinh tế tự chủ, trực tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi quan hệ sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của mình". Thành phần chủ
yếu của hộ sản xuất bao gồm : hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên.
Như vậy, hộ sản xuất là một lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn. Hộ sản xuất hoạt động trong nhiều ngành nghề nhưng hiện nay phần lớn hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và PTNT, các hộ này tiến hành sản xuất kinh doanh đa dạng kết hợp trồng trọt với chăn nuôi và kinh doanh ngành nghề phụ. Đặc điểm sản xuất kinh doanh nhiều ngành nghề nói trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các hộ sản xuất ở nước ta trong thời gian qua.
2. Vai trò của hộ sản xuất trong nền kinh tế thị trường:
Từ khi NQ 10 - Bộ chính trị ban hành, hộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ, năng động trong kinh tế nông thôn, nhờ đó người nông dân gắn bó với ruộng đất hơn, chủ động đầu tư vốn để thâm canh, tăng vụ, vừa đổi mới cơ cấu sản xuất, việc trao quyền tự chủ cho hộ nông dân đã khơi dậy nhiều làng nghề truyền thống, mạnh dạn vận dụng tiến bộ KHKT trong sản xuất để có hiệu quả kinh tế lớn nhất. Điều này càng khẳng định sự tồn tại khách quan của hộ sản xuất với vai trò là cầu nối trung gian giữa hai nền kinh tế , là đơn vị tích tụ vốn, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
a. Hộ sản xuất là cầu nối trung gian để chuyển nền kinh tế tự
nhiên sang kinh tế hàng hoá.
Lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá đã trải qua giai đoạn đầu tiên là kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình, tiếp theo là giai đoạn chuyển biến từ kinh tế hàng hoá nhỏ lên kinh tế hàng hoá quy mô lớn, đó là nền kinh tế hoạt động mua bán trao đổi bằng trung gian tiền tệ.
Bước chuyển biến từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá nhỏ trên quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử mà nếu chưa trải qua thì khó có thể phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn giải thoát khỏi tình trạng nền kinh tế kém phát triển.
b. Hộ sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lao
8
động, giải quyết việc làm ở nông thôn.
Lao động là một trong những yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất , lao động là nguồn gốc của giá trị thặng dư, lao động góp phần làm tăng của cải vật chất cho mọi quốc gia. Việt Nam có 80 % dân số sống ở nông thôn, nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực này còn đang ở mức thấp do trình độ thấp. Hiện nay, ở nước ta có khoảng 13 triệu lao động chưa được sử dụng và quỹ thời gian của người lao động ở nông thôn cũng chưa được sử dụng hết. Các yếu tố sản xuất chỉ mang lại hiệu quả thấp do có sự mất cân đối giữa lao động, đất đai và việc làm ở nông thôn. Như vậy, để sử dụng hợp lý nguồn lao động, giải quyết việc làm ở nông thôn nước ta cần phải phát triển kinh tế hộ sản xuất. Trên thực tế đã cho thấy trong những năm vừa qua hàng triệu cơ sở sản xuất được tạo ra bởi các hộ sản xuất trong khu vực nông nghiệp và nông thôn.
c. Hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc
đẩy sản xuất hàng hoá.
Ngày nay, hộ sản xuất đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá, là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, các hộ sản xuất phải quyết định mục tiêu sản xuất kinh doanh của mình là sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào để trực tiếp quan hệ với thị trường. Để đạt được điều này các hộ sản xuất đều phải không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu và một số biện pháp khác để kích thích cầu, từ đó mở rộng sản xuất đồng thời đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất.
Với quy mô nhỏ, bộ máy quản lý gọn nhẹ, năng động, hộ sản xuất có thể dễ dàng đáp ứng được những thay đổi của nhu cầu thị trường mà không sợ ảnh hưởng đến tốn kém về mặt chi phí. Thêm vào đó lại được Đảng và Nhà nước có các chính sách khuyến khích tạo điều kiện để hộ sản xuất phát triển. Như vậy với khả năng nhạy bén trước nhu cầu thị trường, hộ sản xuất đã góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của thị trường tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển cao hơn.
3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế hộ sản xuất :
9
Nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống ở nông thôn, chúng ta tiến lên CHXH dựa trên nền sản xuất thuần nông. Sớm nhận thức rõ vai trò của nông nghiệp trong quá trình xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta từng bước có những chủ trương chính sách về nông nghiệp, tạo
điều kiện cho kinh tế hộ phát triển làm nòng cốt để phát triển kinh tế nông thôn.
Tháng 1/ 1981 Ban bí thư TW Đảng ban hành chỉ thị 100 về khoán cho nông nghiệp, thực chất là giải phóng "tự do hoá" sức lao động của hàng chục triệu hộ nông dân thoát khỏi sự giàng buộc của cơ chế tập trung.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, với đường lối đổi mới, nông nghiệp được xác định là "mặt trận hàng đầu" tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản xuất ở nông thôn, chuyển nền nông nghiệp tự túc, tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước , phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nước đã ban hành những chủ trương, chính sách để thực hiện định hướng nêu trên. Nhờ đó kinh tế hộ sản xuất cần được đặt vào đúng vị trí của nó.
Tháng 4/ 1988 - Bộ chính trị đã ban hành nghị quyết 10 nhằm cụ thể hoá một bước quan điểm đổi mới của Đại hội 6 đối với lĩnh vực quản lý nông nghiệp, tạo điều kiện cho việc hình thành và thúc đẩy kinh tế hộ sản xuất phát triển. Từ đây nộ nông dân được thừa nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất kinh doanh và là đơn vị kinh tế cơ sở ở nông thôn.
Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị, rồi đến NQ 66 của HĐBT ngày 2/ 3/ 1992 cùng luật doanh nghiệp tư nhân nghị định 29 ngày 29/ 3/ 1998, luật công ty. .. thì hộ sản xuất đã được thừa nhận là một đơn vị kinh tế bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Điều này được khẳng định tại điều 21 Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 : "kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển".
Đại hội lần thứ 7 của Đảng với chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Chủ trương đúng đắn của Đại hội 7 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nước ta nói chung và đặc biệt đối với kinh tế hộ gia đình nói riêng.
10
Tháng 6/ 1993 tại kỳ họp lần thứ 5 (khoá 7) Đảng đã ban hành nghị quyết TW 5, tiếp tục khẳng định quyền tự chủ của hộ với tư cách là một chủ thể kinh tế ở nông thôn được luật thừa nhận quyền sử dụng đất đai (5 quyền), quyền vay vốn tín dụng, quyền lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh có lợi nhất, quyền tự do lưu thông tiêu thụ sản phẩm.
Nghị quyết TW 5 cùng các văn bản luật, NĐ của Chính phủ đã tạo hành lang pháp lý, khơi dậy động lực cho hơn 10 triệu hộ nông dân phát triển. Từ đó phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8 với chủ trương CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn thì nông nghiệp nông thôn nói chung, hộ sản xuất nói riêng đã được đặt lên vị trí quan trọng hàng đầu của sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Nghị quyết TW 6 lần 1 với chủ trương "tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước nhất là CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn " đã khẳng định nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực có vai trò cực kỳ quan trọng cả trước mắt và về lâu dài làm cơ sở để ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Cùng với chính sách về các thành phần kinh tế , kinh tế hộ được khuyến khích phát triển : "kinh tế hộ gia đình tồn tại và phát triển lâu dài, luôn luôn có vị trí quan trọng".
II. Tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế hộ sản xuất:
1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng là một phạm trù của kinh tế hàng hoá. Bản chất của tín dụng là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong nền kinh tế hàng hoá có nhiều loại hình tín dụng như : Tín dụng thương mại, tín dụng Ngân hàng , tín dụng Nhà nước , tín dụng tiêu dùng.
Tín dụng Ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng nói chung. Đó là quan hệ tin cậy lẫn nhau trong vay và cho vay giữa các Ngân hàng, tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp và các cá nhân, được thực hiện dưới hình thức tiền tệ và theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng quy định :
"Hoạt động tín dụng là việc tổ chức tín dụng sử dụng nguồn vốn tự
có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng"
11
"Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh Ngân hàng và các nghiệp vụ khác"
Do đặc điểm riêng của mình, tín dụng Ngân hàng có được những hình thức tín dụng khác về khối lượng, thời hạn và phạm vi đầu tư. Với đặc điểm tín dụng bằng tiền, vốn tín dụng Ngân hàng có khả năng đầu tư chuyển đổi vào bất cứ lĩnh vực nào của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Vì vậy mà tín dụng Ngân hàng ngày càng trở thành một hình thức tín dụng quan trọng trong các hình thức tín dụng hiện có.
Trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn sử dụng thuật ngữ "tín dụng hộ sản xuất". Tín dụng hộ sản xuất là quan hệ tín dụng Ngân hàng giữa một bên là Ngân hàng với một bên là hộ sản xuất hàng hoá. Từ khi được thừa nhận là chủ thể trong mọi quan hệ xã hội, có thừa kế, quyền sở hữu tài sản, có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, có tài sản thể chấp thì hộ sản xuất mới có khả năng và đủ tư cách để tham gia quan hệ tín dụng với Ngân hàng. Đây cũng chính là điều kiện cần để hộ sản xuất đáp ứng điều kiện vay vốn Ngân hàng.
12
Đối với Ngân hàng từ khi chuyển sang hệ thống Ngân hàng 2 cấp, hạch toán kinh tế và kinh doanh độc lập, các Ngân hàng phải tự tìm kiếm thị trường với mục tiêu an toàn và lợi nhuận. Thêm vào đó là nghị định 14/ CP ngày 2/ 3/ 1993 của thủ tướng Chính phủ, thông tư 01/ TD - NH ngày 26/ 3/ 1993 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện nghị định 14 CP về chính sách cho hộ sản xuất vay vốn để phát triển nông lâm ngư nghiệp. Và gần đây là quy định số 67/ 1999/ QĐ- TTG của Thủ tướng chính phủ, văn bản số 320/ CV- NHNN14 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện quy định trên, văn bản số 791/ NHNN - 06 của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về thực hiện một số chính sách Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn. Tiếp sau đó một loạt các thông tư, văn bản của Ngân hàng Nhà nước ra đời như văn bản số 283/ QĐ - NHNN14 ngày 25/ 8/ 2000 về việc ban hành quy chế bảo lãnh Ngân hàng, văn bản 284 QĐ - NHNN1 ngày 25/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng thay cho văn bản 324 cũ. Thông tư số 10 NHNN1 ngày 31/ 8/ 2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện giải pháp về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng theo QĐ số 11/ 2000/ NQ- CP của Chính phủ ngày 31/ 7/ 2000. Quyết định số 06/ HĐQT - NHNo & PTNT Việt Nam về việc quy định cho vay đối với khách hàng mới gần đây nhất ngày 18/ 1/ 2001 thay cho quyết định 180 cũ. Từ đó đã
giải quyết cơ bản những khó khăn thắc mắc về cơ chế thủ tục tạo môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng phát triển. Với các văn bản trên đã mở ra một thị trường mới cho Ngân hàng trong hoạt động tín dụng. Trong khi đó hộ sản xuất đã cho thấy sản xuất có hiệu quả nhưng còn thiếu vốn để mở rộng tiến hành sản xuất kinh doanh. Đứng trước tình trạng đó, việc tồn tại một hình thức tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là một tất yếu và phù hợp với cung cầu trên thị trường được môi trường xã hội, pháp luật cho phép.
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trong nền kinh tế hàng hoá các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu không có vốn. Nước ta hiện nay thiếu vốn là hiện tượng thường xuyên xảy ra đối với các đơn vị kinh tế, không chỉ riêng đối với hộ sản xuất. Vì vậy vốn tín dụng Ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng, nó trở thành "bà đỡ" trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Nhờ có vốn tín dụng các đơn vị kinh tế đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới đảm bảo thắng lợi trong cạnh tranh. Riêng đối với hộ sản xuất, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ sản xuất.
a. Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình sản xuất liên tục, góp phần đầu tư phát triển kinh tế.
13
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất cùng với sự chuyên môn hoá sản xuất trong xã hội ngày càng cao, đã dẫn đến tình trạng các hộ sản xuất khi chưa thu hoạch sản phẩm, chưa có hàng hoá để bán thì chưa có thu nhập, nhưng trong khi đó họ vẫn cần tiền để trang trải cho các khoản chi phí sản xuất, mua sắm đổi mới trang thiết bị và rất nhiều khoản chi phí khác. Trong những lúc này các hộ sản xuất cần có sự trợ giúp của tín dụng Ngân hàng để có đủ vốn duy trì sản xuất được liên tục. Nhờ có sự hỗ trợ về vốn, các hộ sản xuất có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực sẵn có khác như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất , hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Từ đó nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho mọi người.
Như vậy, có thể khẳng định rằng tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nhu cầu vay vốn để phát triển sản xuất là cần thiết và rất lớn, khu vực nông thôn trở thành một thị trường to lớn của tín dụng Ngân hàng. Cũng vì thế mà thị phần của hộ sản xuất trong dư nợ của NHNo ngày càng tăng.
b. Tín dụng Ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn
và tập trung sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, vai trò tập trung vốn tập trung sản xuất của tín dụng Ngân hàng đã thực hiện ở mức độ cao hơn hẳn với cơ chế bao cấp cũ. Hiệu quả hoạt động kinh doanh là vấn đề sống còn đối với các Ngân hàng phải đảm bảo được độ an toàn và có lợi nhuận, tránh rủi ro trong cho vay.
Bằng cách tập trung vốn vào kinh doanh, các hộ sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giúp cho các hộ sản xuất càng có điều kiện để mở rộng sản xuất có hiệu quả hơn thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế và đồng thời Ngân hàng cũng đảm bảo hạn chế được rủi ro tín dụng.
Thực hiện tốt chức năng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, Ngân hàng phải quan tâm đến nguồn vốn đã huy động được để cho hộ sản xuất vay. Vì vậy Ngân hàng sẽ thúc đẩy các hộ sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. Trên cơ sở đó hộ sản xuất biết phải tập trung vốn như thế nào để sản xuất góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
c. Tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề
truyền thống, ngành nghề mới giải quyết việc làm cho người lao động.
14
Việt Nam là một nước có nhiều làng nghề truyền thống, nhưng chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH chúng ta cũng phải quan tâm đến ngành nghề truyền thống có khả năng đạt hiệu quả kinh tế , đặc biệt trong quá trình thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát huy được làng nghề truyền thống cũng chính là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng Ngân hàng sẽ là công cụ tài trợ cho các ngành nghề mới thu hút được số lao động nhàn dỗi, giải quyết việc làm cho người
lao động. Từ đó góp phần làm phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Do đó, tín dụng Ngân hàng là đòn bẩy kinh tế kích thích các ngành nghề kinh tế trong hộ sản xuất phát triển, tạo tiền đề để lôi cuốn các ngành nghề này phát triển một cách nhịp nhàng và đồng bộ.
d. Vai trò của tín dụng Ngân hàng về mặt chính trị, xã hội : Tín dụng Ngân hàng không những có vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn có vai trò to lớn về mặt xã hội.
Thông qua việc cho vay mở rộng sản xuất đối với các hộ sản xuất đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Đó là một trong những vấn đề cấp bách hiện nay ở nước ta. Có việc làm, người lao động có thu nhập sẽ hạn chế được những tiêu cực xã hội. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các ngành nghề phát triển, giải quyết việc làm cho lao động thừa ở nông thôn, hạn chế những luồng di dân vào thành phố. Thực hiện được vấn đề này là do các ngành nghề phát triển sẽ làm tăng thu nhập cho nông dân, đời sống văn hoá, kinh tế, xã hội tăng lên, khoảng cách giữa nông thôn và thành thị càng nhích lại gần nhau hạn chế bớt sự phân hoá bất hợp lý trong xã hội , giữ vững an ninh chính trị.
Ngoài ra tín dụng Ngân hàng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, điển hình là chính sách xoá đói giảm nghèo. Tín dụng Ngân hàng thúc đẩy các hộ sản xuất phát triển nhanh làm thay đổi bộ mặt nông thôn, các hộ nghèo trở lên khá hơn, hộ khá trở lên giầu hơn. Chính vì lẽ đó các tệ nạn xã hội dần dần được xoá bỏ như : rượu chè, cờ bạc, mê tín dị đoan... nâng cao trình độ dân trí, trình độ chuyên môn của lực lượng lao động. Qua đây chúng ta thấy được vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc củng cố lòng tin của nông dân nói chung và của hộ sản xuất nói riêng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
3. Yếu tố ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất : Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và hộ sản xuất một mặt cũng giống như các quan hệ tín dụng khác trong cơ chế thị trường, nhưng mặt
15
khác đó còn là chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì vậy, có rất nhiều yếu tố tác động, ảnh hưởng đến quan hệ tín dụng này.
- Chính sách của chính phủ : trên 80% dân số ở nước ta sống ở nông thôn, hình thức sản xuất chủ yếu là làm kinh tế ở quy mô gia đình. Do vậy sự phát triển của kinh tế hộ sản xuất có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế đất nước. Vì vậy, chính sách đối với hộ sản xuất có vị trí quan trọng trong chính sách kinh tế quốc gia, trong đó chính sách về đầu tư vốn có ý nghĩa quan trọng nhằm giải quyết khó khăn về vốn sản xuất kinh doanh của hầu hết các hộ sản xuất. Các chính sách của chính phủ sẽ tạo cơ sở để vốn tín dụng Ngân hàng tiếp cận đến các hộ sản xuất.
sản xuất.
- Chính sách của Ngân hàng : Trong sản xuất kinh doanh , mục tiêu hàng đầu là đạt được lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh. Mức độ rủi ro đầu tư trong nông nghiệp, nông thôn cao trong khi tỷ suất lợi nhuận không cao vì chi phí lớn, do đó hạn chế nhiều trong công việc mở rộng cho vay và giảm hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với hộ Đối với NHNo, hộ gia đình là khách hàng truyền thống, là đối tượng phục vụ chính, do vậy chính sách cho vay của Ngân hàng có ảnh hưởng tới quy định đến khối lượng cho vay các hộ sản xuất.
- Sự phát triển của hộ sản xuất : Mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng vay vốn là quan hệ 2 chiều, vì vậy khả năng sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng cho vay của Ngân hàng đối với các hộ sản xuất. Hiện nay phần lớn hộ gia đình năng lực sản xuất kinh doanh thấp kém do trình độ kinh nghiệm còn hạn chế, kinh tế hộ còn trong giai đoạn tự cung, tự cấp, sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất hàng hoá còn chưa phát triển , người nông dân còn chưa thực sự đặt quá trình sản xuất của mình trong nền kinh tế hàng hoá và đối với các nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó, tìm phương hướng tự sử lý để phát triển. Cho nên, việc cho vay của Ngân hàng đối với hộ sản xuất gặp nhiều khó khăn.
III. Chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
1. Khái niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng :
16
Trong nền kinh tế thị trường., bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng phải là những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận
xét rằng : "Chất lượng phù hợp với mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hoá nào đó" hay "Chất lượng là một sản phẩm hoặc dịch vụ thoả mãn nhu cầu khách hàng".
Tín dụng là một trong những sản phẩm chính của Ngân hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt. Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được chất lượng sau khi khách hàng đã sử dụng. Do vậy, có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng Ngân hàng thể hiện qua các điểm sau :
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu của khách hàng về lãi xuất (giá cả sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện nhưng luôn đảm bảo nguyên tắc tín dụng.
- Đối với Ngân hàng : Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với phạm vi mức độ, giới hạn phù hợp với bản thân ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc trả đầy đủ và có lợi nhuận.
2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất :
Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của NHNo & PTNT Việt Nam, hộ sản xuất được xác định là khách hàng chính của NHNo Việt Nam. Trong quá trình cung ứng sản phẩm của mình cho hộ sản xuất, một việc làm quan trọng và cần thiết là đánh giá được chất lượng của sản phẩm cung ứng, cụ thể là chất lượng tín dụng hộ sản xuất , nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi ích của Ngân hàng và khách hàng. Việc đánh giá này phải thông qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cụ thể.
2.1. Chỉ tiêu định tính :
17
a. Bảo đảm nguyên tắc cho vay : Mọi tổ chức kinh tế hoạt động đề được dựa trên một nguyên tắc nhất định. Ngân hàng là một tổ chức kinh tế đặc biệt, hoạt động của nó ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế , chính trị, xã hội của đất nước, do vậy các nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng rất chặt chẽ. Với mỗi Ngân hàng lại có những nguyên tắc khác nhau. Nguyên tắc cho vay là một nguyên tắc
quan trọng đối với mỗi Ngân hàng. Để đánh giá chất lượng một khoản cho vay, điều đầu tiên phải xem xét là khoản cho vay đó có đảm bảo nguyên tắc cho vay hay không.
Ba nguyên tắc cơ bản của cho vay là :
- Thứ nhất : Cho vay có mục đích kế hoạch.
- Thứ hai : Cho vay có đảm bảo
- Thứ ba : Cho vay phải hoàn trả đúng hạn và có lãi.
Ba nguyên tắc cho vay trên là nguyên tắc tối thiểu mà bất cứ một
khoản cho vay có chất lượng nào cũng phải đảm bảo.
b. Cho vay bảo đảm có điều kiện : Chi tiêu định tính thứ 2 để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đó là cho vay đảm bảo có điều kiện. Các điều kiện để một khách hàng được vay tại NHNo & PTNT Việt Nam.
- Một là : Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật. Đối với hộ sản xuất phải thường trú tại địa bàn nơi chi nhánh NHNo & PTNT đóng trụ sở có xác nhận hộ khẩu nơi thường trú và có xác nhận của UBND xã (phường) nơi cho phép hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Hai là : Khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết. Hộ sản xuất vay vốn phải có vốn tự có tham gia vào dự án, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Hộ sản xuất phải kinh doanh có hiệu quả, không có nợ quá hạn tren 6 tháng với Ngân hàng.
- Ba là : Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp : Không vi phạm pháp
luật phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
- Bốn là : Hộ sản xuất có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh
doanh khả thi có hiệu quả.
- Năm là : Hộ sản xuất thực hiện các quy định để đảm bảo tiền vay.
+ Đối với hộ vay đến 10 triệu đồng không phải thế chấp tài sản
18
+ Đối với hộ vay trên 10 triệu đồng phải thực hiện đảm bảo tiền vay bằng tài sản, quyền sử dụng đất (bao gồm cả công trình, giá trị cây lâu năm, thủy hải sản nuôi trồng đã đến kỳ thu hoạch gắn liền với đất).
Bất cứ một khoản cho vay hộ sản xuất nào đều phải xem xét đến 5
điều kiện cho vay trên để đánh giá chất lượng khoản vay.
c. Quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định là chỉ tiêu định tính quan trọng nhất quyết định tới chất lượng khoản cho vay. Quá trình thẩm định là cách tốt nhất để Ngân hàng nắm được thông tin về khách hàng, về năng lực pháp luật đạo đức của khách hàng, tình hình tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ của khách hàng... Đây là khâu không thể thiếu trong quá trình quyết định cho vay và theo dõi khoản vay. Quá trình thẩm định phải tuân theo các quy định về quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay của từng Ngân hàng. Một khoản vay có chất lượng là khoản cho vay đã được thẩm định và phải đảm bảo các bước của quá trình thẩm định. Quá trình thẩm định một khoản cho vay hộ sản xuất rất phức tạp do đặc điểm sản xuất kinh doanh của hộ là sản xuất kinh doanh tổng hợp. Vì vậy, việc tuân thủ quy trình thẩm định và nội dung thẩm định cho vay là bắt buộc để một khoản cho vay đạt chất lượng.
2.2. Chỉ tiêu định lượng.
Chất lượng tín dụng Ngân hàng là một khái niệm hoàn toàn tương đối. Bên cạnh mặt trừu tượng mà chỉ có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định tính thì mặt cụ thể của nó có thể đánh giá qua các chỉ tiêu định lượng.
a. Doanh số cho vay hộ sản xuất : Doanh số cho vay hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng cho hộ sản xuất vay trong thời kỳ nhất định thường là một năm.
Ngoài ra, Ngân hàng còn dùng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng cho vay hộ sản xuất trong tổng doanh số cho vay của Ngân hàng trong một năm.
D. số cho vay HSX
Tỷ trọng cho vay HSX = ------------------------------------ x 100 (%) Tổng D. số cho vay
19
b. Doanh số thu nợ sản xuất :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng thu hồi được sau khi đã giải ngân cho hộ sản xuất trong một thời kỳ.
Để phản ánh tình hình thu nợ hộ sản xuất, Ngân hàng còn sử dụng chỉ tiêu tương đối phản ánh tỷ trọng thu hồi được trong tổng doanh số cho vay hộ sản xuất của ngân hàng trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức :
Doanh số thu nợ hộ sản xuất
--------------------------------------------- x 100 (%)
Doanh số cho vay hộ sản xuất
c. Dư nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn hộ sản xuất là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh tổng số tiền Ngân hàng chưa thu hồi được sau một thời hạn nhất định kể từ ngày khoản cho vay đến hạn thanh toán tại thời điểm đang xem xét.
Bên cạnh chỉ tiêu tuyệt đối, Ngân hàng thường xuyên sử dụng chỉ
tiêu tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất :
Dư nợ quá hạn HSX
Tỷ lệ nợ quá hạn HSX = ---------------------------------- x 100 (%)
Tổng dư nợ HSX
Đây là chỉ tiêu tương đối được sử dụng chủ yếu để đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Hoạt động Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng Ngân hàng nói tiêng đều chứa đựng nhiều rủi ro tác động đến lợi nhuận và sự an toàn kinh doanh của Ngân hàng. Do vậy, việc đảm bảo thu hồi đủ vốn cho vay đúng hạn, thể hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn thấp là vấn đề quan trọng trong quản lý Ngân hàng liên quan đến sự sống còn của Ngân hàng.
Để xem xét chi tiết hơn khả năng không thu hồi được nợ người ta sử
dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ khó đòi.
Tổng nợ khó đòi Tỷ lệ khó đòi = ---------------------------------- x 100 (%) Tổng nợ quá hạn
Đây cũng là một chỉ tiêu tương đối. Tỷ lệ này ở mức cao là dấu hiệu
cho thấy nguy cơ mất vốn cao do các khoản cho vay có vấn đề.
20
d. Vòng quay vốn tín dụng hộ sản xuất :
D. số thu nợ HSX Vòng quay vốn tín dụng HSX = ----------------------------- Dư nợ bình quân HSX
Để đơn giản trong tính toán, dư nợ bình quân hộ sản xuất được tính bằng cách lấy trung bình cộng dư nợ đầu kỳ và dư nợ cuối kỳ. Đây là một chỉ tiêu quan trọng xem xét chất lượng tín dụng hộ sản xuất, phản ánh tần xuất sử dụng vốn. Vòng quay càng lớn với số dư nợ luôn tăng chứng tỏ đồng vốn Ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho Ngân hàng.
e. Lợi nhuận của Ngân hàng :
Lợi nhuận = Tổng thu - tổng chi - thuế
Trong tổng thu, lãi thu được từ cho vay là chủ yếu, mà đối với NHNo hộ sản xuất là khách hàng chính của Ngân hàng, cho nên lợi nhuận Ngân hàng là thước đo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng cũng như chất lượng cho vay hộ sản xuất.
f. Một số chỉ tiêu khác. D. số cho vay HSX Chỉ tiêu 1 = ----------------------------------------- Tổng số lượt HSX vay vốn
Chỉ tiêu 2:
Chỉ tiêu này phản ánh số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất. Số tiền vay càng cao chứng tỏ hiệu quả cũng như chất lượng cho vay tăng lên. Điều đó thể hiện sức sản xuất cũng như quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tăng lên. Đồng thời thể hiện chất lượng cho vay có xu hướng tăng, bởi thế Ngân hàng cho một lượt hộ sản xuất cho vay nhiều hơn mà vẫn đảm bảo khả năng thu hồi và có lãi.
= x 100 % Tỷ lệ cho vay trung - dài hạn HSX Dư nợ cho vay trung dài hạn HSX Tổng dư nợ HSX
21
Đây là chỉ tiêu tương đối phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu cần vốn trung, dài hạn của hộ sản xuất để mở rộng sản xuất kinh doanh theo đánh giá tỷ lệ tối thiểu là 30% tổng dư nợ (mục tiêu của NHNo & PTNT Việt Nam). Tuy vậy tỷ lệ này có thể cao thấp tuỳ thuộc vào nhu cầu vốn trung
dài hạn của địa phương cũng như chính sách tín dụng của từng Ngân hàng thương mại.
Hai chỉ tiêu 1 và 2 phản ánh hiệu quả tín dụng Ngân hàng đối với việc phát triển kinh tế hộ sản xuất qua đó đánh giá được chất lượng tín dụng của Ngân hàng.
- Chỉ tiêu 3 : Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất hàng năm
Đây là dấu hiệu cho thấy kết quả hoạt động tín dụng. Sử dụng kết hợp với chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn có thể biết được chất lượng cũng như hiệu quả của tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất. Từ chỉ tiêu này có thể tính ra tốc độ tăng trưởng bình quân một giai đoạn cho đánh giá toàn diện hơn chất lượng tín dụng một thời kỳ nào đó.
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối
với hộ sản xuất :
Việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất có ý nghĩa rất lớn với Ngân hàng, hộ sản xuất và nền kinh tế. Do vậy, yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dụng chất lượng hộ sản xuất là một yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Muốn làm tốt điều này, trước hết phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
3.1. Yếu tố môi trường :
Môi trường là một nhóm yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Đặc biệt trong điều kiện sản xuất nông nghiệp ở nước ta còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên thì môi trường tự nhiên có ảnh hưởng rất lớn.
- Môi trường kinh tế xã hội :
Môi trường kinh tế xã hội có ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Môi trường kinh tế ổn định và phát triển sẽ tạo điều kiện cho hộ sản xuất làm ăn có hiệu quả, do vậy hộ sản xuất vay nhiều hơn, các khoản vay đều được hộ sản xuất sử dụng đúng mục đích mang lại hiệu quả kinh tế. Từ đó các khoản vay được hoàn trả đúng thời hạn cả tiền gốc và lãi. Trên cơ sở đó chất lượng tín dụng hộ sản xuất được nâng lên.
22
- Môi trường chính trị pháp lý :
Môi trường chính trị pháp luật ổn định tạo điều kiện và cơ sở pháp lý để hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất tiến hành thuận lợi. Những quy định cụ thể của pháp luật về tín dụng và các lĩnh vực khác có liên quan đến hoạt động tín dụng là cơ sở để xử lý, giải quyết khi xảy các tranh chấp tín dụng.
Vì vậy môi trường chính trị pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng tín dụng hộ sản xuất.
- Môi trường tự nhiên : Tác động trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất. Nhất là những hộ sản xuất nông nghiệp phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, sản xuất kinh doanh xuôn xẻ thì hộ sản xuất có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Nhưng nếu thiên tai bất ngờ xảy ra thì hộ sản xuất sẽ bị thiệt hại lớn về kinh tế , việc trả nợ Ngân hàng sẽ gặp nhất nhiều khó khă. Diễn biến của tự nhiên là không thể đoán trước và khó có thể tránh được khi thiên tai xảy ra. Cho nên môi trường tự nhiên là yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng hộ sản xuất.
3.2. Yếu tố thuộc về khách hàng :
Ngoài yếu tố môi trường ảnh hưởng đến chất lượng hộ sản xuất thì có rất nhiều yếu tố từ chính khách hàng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
- Trình độ của khách hàng : Bao gồm cả trình độ sản xuất và trình độ quản lý của khách hàng. Với một trình độ sản xuất phù hợp và khả năng quản lý khách hàng có thể đạt được kết quả sản xuất kinh doanh tốt để có khả năng tài chính trả nợ Ngân hàng. Tuy nhiên, nếu khách hàng không có khả năng quản lý, đồng thời trình độ sản xuất kém thì việc trả nợ Ngân hàng là rất khó khăn. Vì vậy, trình độ của khách hàng là yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
- Khách hàng sử dụng vốn sai mục đích : Đây là yếu tố thuộc về chủ quan của khách hàng. Yếu tố này Ngân hàng rất khó kiểm soát từ đầu. Việc sử dụng vốn sai mục đích là ý định của khách hàng, ý định này có thể xuất hiện ngay từ đầu khi vay hoặc sau khi đã vay được. Tuy nhiên, việc khách hàng sử dụng vốn sai mục đích đã vi phạm nguyên tắc cho vay, vì vậy đã ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng.
23
- Lừa đảo Ngân hàng : Đây là yếu tố thuộc phạm trù đạo đức, khách hàng cố ý lừa đảo Ngân hàng để lấy tiền. Đạo đức của khách hàng là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay. Khoản vay có được sử dụng đúng mục đích hay không, khoản vay có được hoàn trả lại hay không là tuỳ thuộc vào hành vi đạo đức của khách hàng.
3.3. Yếu tố thuộc về Ngân hàng :
Bên cạnh yếu tố môi trường và yếu tố thuộc về khách hàng mà Ngân hàng khó có thể kiểm soát được thì có rất nhiều yếu tố thuộc về bản thân Ngân hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Những yếu tố này bản thân Ngân hàng có thể tìm được cách hạn chế.
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng : Là một trong những chính sách sản phẩm quan trọng nhất của Ngân hàng. Có chính sách tín dụng đúng đắn sẽ đưa ra được hình thức cho vay phù hợp với nhu cầu, thu hút được khách hàng, đồng thời khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn. Do đó chính sách tín dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng.
- Chấp hành quy định thể chế tín dụng : Việc chấp hành quy định thể chế tín dụng của cán bộ làm tín dụng tốt hay không tốt là nguyên nhân để các chỉ tiêu định tính đánh giá chất lượng Ngân hàng có được thực hiện hay không. Mỗi cán bộ tín dụng khi cho vay đều phải tuân theo luật các tổ chức tín dụng và các quy định thể lệ tín dụng riêng của từng Ngân hàng.
- Cho vay hoặc bảo lãnh với giá trị quá lớn khiến khách hàng khó có thể đủ khả năng tài chính để hoàn trả Ngân hàng đồng thời vi phạm điều kiện về đảm bảo tiền vay, làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng.
- Trình độ cán bộ tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản cho vay. Chất lượng một khoản cho vay được xác định ngay từ khi khoản cho vay được quyết định thông qua các chỉ tiêu định tính.
- Kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng chưa kịp thời, do đó không kịp thời nắm bắt được các thông tin về một khoản cho vay, không biết được yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng nào đã, đang và sẽ xảy ra để có biện pháp kịp thời không làm cho chất lượng tín dụng giảm sút.
- Hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tạo điều kiện để Ngân hàng nắm bắt được các thông tin về Ngân hàng trước khi quyết định một khoản cho vay. Yếu tố này rất quan trọng vì nó góp phần ngăn chặn những khoản cho vay chất lượng không tốt ngay từ khi chưa xảy ra.
24
Tóm lại : Tín dụng Ngân hàng có vai trò hết sức to lớn đối với hộ sản xuất cả về mặt kinh tế , chính trị và xã hội. Nó được coi là công cụ đắc
25
lực của Nhà nước , là đòn bẩy kinh tế , là động lực thúc đẩy hộ sản xuất phát triển một cách toàn diện, từ đó phát huy hết được vai trò to lớn của mình đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như đối với nền kinh tế quốc dân. Nhưng thực tế cho thấy chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất còn nhiều vấn đề cần giải quyết và tháo gỡ. Do đó việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất là điều rất quan trọng đối với Ngân hàng nói chung và NHNo Huyện Từ Liêm nói riêng.
Chương II. thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
I. Giới thiệu về NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến hoạt động kinh doanh
của NHNo Huyện Từ Liêm :
Huyện Từ Liêm là tỉnh thuộc đồng bằng Bắc bộ có diện tích tự nhiên là 219.214 ha, dân số 2,3 triệu người, kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, 80 % dân số sống ở nông thôn, tổng số khoảng 53 vạn hộ, trong đó hộ nghèo là 12 %. Địa bàn hành chính gồm 2 thị xã, 12 huyện, 15 xã trong đó 1/ 4 số xã có làng nghề Tiểu thủ công nghiệp với 130 nghìn lao động có tay nghề.
Năm 2000 kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh cụ thể là :
- Sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 1.027.000 tấn tăng 10,3% so
với năm 1999.
- Tổng sản phẩm trong tình (GDP) tăng 7,2 % so với năm 1999.
- Giá trị sản phẩm nông nghiệp tăng 4,6 % so với năm 1999.
- Cơ cấu kinh tế : nông nghiệp 44 %, công nghiệp 31,65 %, dịch vụ
24,35 %.
Đặc điểm kinh tế xã hội có nhiều ảnh hưởng thuận lợi cũng như khó khăn đối với hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
a. Thuận lợi :
26
Huyện Từ Liêm là một tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng có lợi thế về cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm. Tỉnh có hệ thống đường liên huyện, liên xã, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Hơn nữa, tỉnh tập trung nhiều làng nghề với nhiều ngành nghề tiểu thủ công nổi tiếng đang được khôi phục và phát triển. Đây là những điều kiện thuận lợi để Ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh một cách có hiệu quả.
Nền kinh tế của tỉnh liên tục tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế thay đổi theo hướng tích cực, cơ cấu trong nông nghiệp có su hướng tăng, tỷ trọng ngành chăn nuôi. Công tác chuyển đổi HTX nông nghiệp theo mô hình kiểu mới thực hiện tốt, đã xây dựng được 494/ 533 HTX nông nghiệp đạt 96 %. Bước đầu thực hiện chuyển đổi kinh tế từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn đạt 112/ 315 xã. Đây là yếu tố cơ bản tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay của Ngân hàng.
Một số ngành có điều kiện phát huy tiềm năng đã mạnh dạnh áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất kinh doanh đem lại hiệu quả kinh tế cao. Nhận thức của người nông dân về sự cần thiết đưa các giống mới năng suất cao vào trồng trọt, chăn nuôi ngày càng cao tạo điều kiện đầu tư vốn có hiệu quả.
Ngành Ngân hàng dần dần hoàn thiện cơ chế tín dụng phù hợp với thực tế địa bàn nông thôn, cũng như việc ban hành một số văn bản, chính sách của tỉnh cụ thể hoá các chính sách kinh tế xã hội đối với nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước , từ đó hoạt động của Ngân hàng được thuận lợi hơn trước.
b. Khó khăn :
Nền kinh tế của cả nước nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng phát triển chưa ổn định gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Công cuộc phục vụ nông nghiệp như cơ khí, chế biến trên địa bàn tỉnh chưa phát triển đã hạn chế rất lớn đến sức sản xuất của các hộ gia đình. Giá cả sản phẩm nông nghiệp so với giá hàng công nghiệp, dịch vụ có sự chênh lệch khá lớn theo hướng thiệt hại cho người nông dân. Vì vậy không khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và ảnh hưởng lớn đến đời sống các hộ nông dân. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu của tỉnh chưa tìm lại được hướng đi sau sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu. Do đó không tạo được động lực phát triển sản xuất nông nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp hiệu quả theo hướng có lợi cho nông dân.
27
Từ Liêm là một huyện tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, do đó rất nhiều những người có trình độ KHKT cao sau khi được đào tạo đã ở lại Hà Nội làm việc. Vì vậy, nguồn nhân lực của Huyện Từ Liêm đã mất đi rất nhiều lợi thế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Huyện Từ Liêm trong
quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Huyện Từ Liêm nói riêng. Từ đó tạo một lực cản hoạt động kinh doanh của NHNo Huyện Từ Liêm.
Bên cạnh những đặc điểm kinh tế xã hội là những khó khăn tác động đến hoạt động của NHNo Huyện Từ Liêm ở trên thì sức cạnh tranh của các chi nhánh NHTM khác và các quỹ tín dụng nhân dân ngày càng tăng đã gây trở ngại không nhỏ trong NHNo. Mặc dù NHNo Huyện Từ Liêm chiếm ưu thế hơn hẳn về thị trường hoạt động nguồn vốn kinh doanh cũng như dư nợ cho vay các thành phần kinh tế, chuyên môn của đội ngũ lãnh đạo , cán bộ nhưng sức ép cạnh tranh của các tổ chức trên qua những chính sách lãi xuất huy động tiền gửi, chính sách thu hút khách hàng vay vốn. .. cũng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà trực tiếp là lợi nhuận NHNo. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi Ngân hàng phải nỗ lực phấn đấu bền bỉ, kiên quyết tự đổi mới hoạt động kinh doanh từng bước vượt qua những khó khăn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh năm 2000.
2. Quá trình hình thành, phát triển và chức năng của NHNo &
PTNT huyện Từ Liêm :
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình Ngân hàng gồm Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển , Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng Hợp tác và các loại hình Ngân hàng khác.
NHNo & PTNT Việt Nam thành lập ngày 26/ 3/ 1988 theo NĐ 53/ HĐBT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là thủ tướng Chính phủ) NHNo & PTNT Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước dạng đặc biệt tổ chức theo mô hình tổng công ty Nhà nước , tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn đầu tư.
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm là thành viên của NHNo & PTNT Việt Nam, được thành lập và đi vào hoạt động từ thágn 7/ 1988 trên cơ sở sát nhập 8 đơn vị thuộc NHNo Hà Sơn Bình và 6 đơn vị thuộc NHNo thành phố Hà Nội. Về mô hình tổ chức toàn tỉnh có 14 chi nhánh NHNo huyện, thị xã, 45 Ngân hàng loại 4 và 8 Ngân hàng lưu động thực hiện việc giao dịch trực tiếp với khách hàng trên mạng lưới máy vi tính.
28
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm thực hiện chức năng kinh doanh đa năng, chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng đối
với khách hàng trong và ngoài nước, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội; uỷ thác tín dụng đầu tư cho chính phủ, các chủ đầu tư trong nước và ngoài nước trong các ngành kinh tế , trước hết trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Trong kinh tế đối ngoại NHNo Huyện Từ Liêm cung ứng các dịch vụ : thanh toán quốc tế, tài trợ XNK, bảo lãnh và tái bảo lãnh, mua bán ngoại tệ, thanh toán biên giới. NHNo Huyện Từ Liêm chịu sự quản lý của NHNo Việt Nam, NHNN huyện Từ Liêm.
NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển sang Ngân hàng thương mại quốc doanh, đối tượng đầu tư chủ yếu phục vụ nông nghiệp - nông thôn và nông dân, do đó chịu ảnh hưởng rất lớn vào thiên nhiên, nên hoạt động kinh doanh NHNo huyện Từ Liêm gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy NHNo huyện Từ Liêm đã kiên trì và kiết quyết tập trung chỉ đạo trong nhiều năm qua theo hướng hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với những định hướng lớn , đó là :
- Có nguồn vốn lớn
- Có mạng lưới rộng khắp chất lượng
- Có đội ngũ cán bộ tốt.
- Có công nghệ và công cụ điều hành hiện đại.
- Có nguồn tài chính thường xuyên có lãi.
3. Đặc điểm khách hàng của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
Đối tượng phục vụ chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm là các hộ nông dân. Toàn tỉnh có 53 vạn hộ gia đình, trong đó hộ sản xuất nông nghiệp hơn 49 vạn hộ. Trong đó, số hộ giầu là 4,7 vạn hộ chiếm tỷ trọng 85%, hộ khá có 95,6 vạn hộ, chiếm tỷ trọng 21,6 %, số hộ trung bình 28,1 vạn hộ chiếm tỷ trọng 53,0 %, hộ nghèo 6,4 vạn hộ tỷ trọng chiếm 12 % chủ yếu là hộ sản xuất nông nghiệp. Toàn tỉnh có 112 làng nghề thủ công, mỹ nghệ, chế biến... đang được khôi phục và phát triển , 403 hộ gia đình làm kinh tế trang trại đang đi vào hoạt động bước đầu có hiệu quả.
29
Với những đặc điểm về tự nhiên - kinh tế - xã hội riêng có của Hà Tây đã tác động đến đặc điểm của khách hàng chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm.
Người nông dân là người bạn đáng tin cậy của NHNo huyện Từ Liêm, họ có sức lao động cần cù, chịu khó và sòng phẳng trong quan hệ vay trả. Đây là một trong những lý do của NHNo thực hiện chủ trương cho các HSX vay dưới 5 triệu đồng không cần tài sản thế chấp trước khi chính phủ ban hành quyết định 67/ 1999/ QĐ - TTg. Hiện nay theo quyết định 67, Chính phủ quyết định cho phép NHNo cho vay hộ nông dân dưới 10 triệu đồng không phải thế chấp.
Tuy nhiên, hộ nông dân có thu nhập rất thấp, công cụ sản xuất thủ công, kỹ thuật lạc hậu, hoạt động sản xuất chịu nhiều ảnh hưởng lớn của thời tiết, môi trường tự nhiên, trình độ KHKT, trình độ quản lý của hộ rất thấp. Do đó khả năng mở rộng cho vay của NHNo huyện Từ Liêm cũng bị hạn chế.
Với đặc điểm sản xuất kinh doanh nhỏ trong quy mô hộ gia đình, chưa hướng tới xuất khẩu, do đó thường những món vay có giá trị nhỏ, nhưng số lượng món vay rất lớn, địa bàn rộng nên chi phí cho một món vay còn cao.
Mặc dù, hộ sản xuất còn một số hạn chế trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình nhưng hộ có nhu cầu vay vốn rất lớn để duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh. Do đó, hộ sản xuất rất cần tới sự giúp đỡ về vốn của NHNo huyện Từ Liêm.
II. Khái quát hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm
NHNo huyện Từ Liêm từ một Ngân hàng bao cấp chuyển hẳn sang NHTM gặp không ít những khó khăn, nhưng NHNo huyện Từ Liêm vẫn kiên trì và kiên quyết đi theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Được sự chỉ đạo của tỉnh uỷ, HĐND tỉnh và NHNo Việt Nam, sự ủng hộ của các cấp, các ngành, cùng sự cố gắng nỗ lực của tập thể từ lãnh đạo đến CBNV, NHNo huyện Từ Liêm đã từng bước khắc phục được khó khăn. NHNo huyện Từ Liêm đã phát triển kinh doanh đa năng, đổi mới công cụ điều hành, tổ chức khoán tài chính đến nhóm và người lao động, lấy kết quả kinh tế và mục tiêu sinh lời làm thước đo chính trong kinh doanh. Vì vậy, NHNo huyện Từ Liêm đã trở thành một trong những Ngân hàng đứng đầu trong toàn hệ thống NHNo Việt Nam.
30
1. Huy động vốn: Nguồn vốn chủ yếu của NHNo huyện Từ Liêm bao gồm : vốn huy động (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi
trung, dài hạn và vay các TCTD khác) và vốn tự có. Tổng nguồn vốn của NHNo huyện Từ Liêm tính đến ngày 31/ 12/ 2000 là 1.735 tỷ đồng gấp 10 lần so với mức ban đầu thành lập. Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn bình quân giai đoạn 1995 - 2000 ở mức cao, xấp xỉ 50 %/ năm. Bình quân vốn đạt 1.740 triệu đồng/ cán bộ.
Nguồn vốn huy động của NHNo huyện Từ Liêm chiếm khoảng 80%
tổng nguồn vốn bao gồm : tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi ngắn hạn, tiền
gửi trung dài hạn và vay các TCTD khác. Kết quả huy động vốn của NHNo
huyện Từ Liêm được phản ánh trong bảng số 1, không kỳ hạn là chủ yếu là tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế (TCKT). Tỷ trọng trung bình
của loại vốn này là 16 % trong tổng nguồn vốn huy động, với tốc độ tăng
trưởng hàng năm khá cao, trung bình 38 %. Ưu điểm lớn của nguồn vốn
này là chi phí thấp (lãi xuất không đáng kể) nên được các Ngân hàng rất trú trọng phát triển. Với phương án quản lý hợp lý có tính đến sự an toàn chi trả (tính thanh khoản) sẽ phát huy được hiệu quả của nguồn vốn này.
Tiền gửi ngắn hạn tăng khá, mức tăng trung bình là 25 % trong đó
tiền gửi kỳ phiếu nhỏ hơn 1 năm tăng rất mạnh chứng tỏ phương thức huy
động này phù hợp với nhu cầu của người gửi tiền về kỳ hạn cũng như lãi
suất tương ứng. Hiện nay kỳ phiếu nhỏ hơn 1 năm có các hình thức gửi 3 tháng, 6 tháng, trả lãi sau, 12 tháng tra lãi trước, lãi suất điều chỉnh theo tín
hiệu thị trường. Tiền gửi ký phiếu năm 2000 đạt 611.315 tỷ đồng tăng 71 %
so với năm 1999 chiếm tỷ trọng 49,4 % tổng nguồn vốn huy động. Đây là
một kết quả đáng mừng vì trong khu vực thị trường này sự cạnh tranh đặc
biệt là vấn đề lãi suất tiền gửi rất lớn. Hầu hết người gửi tiền đều mong muốn đầu tư an toàn và nhận được lãi suất cao do vậy một sự thay đổi nhỏ
trong lãi suất tiền gửi sẽ có sự dịch chuyển vốn từ Ngân hàng này sang
Ngân hàng khác, một phần, lãi suất tiền gửi thực tế (trừ tốc độ lạm phát) là rất nhỏ.
Huy động tiết kiệm là chiến lược chính của mỗi Ngân hàng nhằm
mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn và tự lực về nguồn vốn. Đối với NHNo huyện Từ Liêm có địa bàn hoạt động rộng và chủ yếu ở nông thôn và phục
31
vụ nông dân nên huy động tiết kiệm có những đặc điểm khác so với các Ngân hàng trên địa bàn.
So sánh huy động tiết kiệm ở thành thị và nông thôn.
Tại sở giao dịch của NHNo huyện Từ Liêm có thể huy động được
38,6 % tổng tiền gửi toàn tỉnh. Trong khi đó, tỷ trọng tiền gửi huy động
32
được tại một chi nhánh huyện chiếm khoảng 4,2 - 7,6 %. Tại tất cả các chi nhánh huyện và liên xã của NHNo huyện Từ Liêm , vốn huy động chỉ có thể thoả mãn 20 - 25 % tổng nhu cầu về vốn của chi nhánh đó
Bảng 1 : Huy động tiết kiệm tại NHNo huyện Từ Liêm (tính đến
tháng 12/ 2000).
Đơn vị : triệu đồng
Số huyện : 13
1. Tổng số hộ trong khu vực 552.825
2. Tổng số người gửi tiền : 69.721
Tỷ trọng những người gửi tiền/ tổng số hộ (%) 12,6
3. Tổng số tiền gửi tại chi nhánh tỉnh : 714.652
4. Tổng số tiền gửi tại sở giao dịch : 256.956
Tỷ trọng tổng số tiêng gửi (%) : 35,9
5. Số tiền gửi trung bình : 97
Trong năm 2000 cả 14/ 14 NHNo huyện, thị đều có số dư nguồn vốn tăng, tuy nhiên có sự chênh lệch rất lớn giữa các địa bàn. Hai thị xã (Hà Đông, Sơn Tây) có mức huy động cao nhất, tương ứng là 370 tỷ và 209 tỷ trong khi trung bình huyện chỉ đạt trên dưới 56 tỷ đồng. Điều này tạo ra sự bất hợp lý giữa cân đối nguồn vốn huy động cho vay tại từng địa bàn, các chi huyện phụ thuộc vào vốn vay từ NHNo tỉnh. Do vậy, luôn phải có sự điều chỉnh vốn giữa các chi nhánh gây khó khưan cho công tác kế hoạch cũng như hoạt động kinh doanh của từng đơn vị và NHNo tỉnh
Tóm lại , nguồn vốn huy động của NHNo & PTNT huyện Từ Liêm luôn có mức tăng trưởng khá, ổn định và vững chắc, do vậy Ngân hàng luôn có đủ vốn đáp ứng cho nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế trong tỉnh.
2. Hoạt động cho vay :
33
Hoạt động sinh lời chủ yếu của NHTM là hoạt động cấp tín dụng cho các khách hàng. Trong hoạt động tín dụng, mục tiêu chủ yếu của quản lý Ngân hàng là lợi nhuận trên cơ sở phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng. Việc không đáp ứng các đòi hỏi hợp pháp của khách hàng về tín dụng sẽ dẫn đến thiệt hại trước mắt của kinh doanh và kết quả cuối cùng là vấn đề tồn tại của Ngân hàng. Vì vậy, xét về khía cạnh nào đó, khách hàng vay vốn chính là ân nhân của Ngân hàng.
Có thể thấy qua số liệu báo cáo kết quả hoạt động tín dụng của Ngân hàng đã đạt được kế quả khá nổi bật. Dư nợ cho vay năm sau luôn cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân giai đoạn 1995 - 2000 là 26 %. Đến cuối năm 2000 tổng mức dư nợ đạt hơn 1.031 tỷ đồng là một trong những chi nhánh có dư nợ cao toàn ngành. Tuy nhiên, mấy năm gần đây tốc độ tăng trưởng dư nợ có dấu hiệu chứng lại, năm 2000 tăng 27,3 % so với năm 1999. Kết quả này phản ánh chủ trương của NHNo Việt Nam đối với các Ngân hàng chi nhánh trong năm 2000 là phải tập trung củng cố chất lượng tín dụng và xử lý nợ quá hạn.
2.1. Cơ cấu cho vay :
Có nhiều cách phân loại cơ cấu cho vay. Với mỗi cách phân loại có
thể thấy mặt cụ thể của thực trạng cho vay.
a. Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn cho vay :
Bảng 2 : Phân loại dư nợ cho vay của NHNo huyện Từ Liêm theo kỳ hạn
Trung, dài hạn Tổng N
Ngắn hạn (%) (%) cộng ăm
63,4 1 36,6 100
995
1 68 32 100
996
1 63,6 36,4 100
997
1 51,8 48,2 100
998
1 51,5 48,5 100
999
2 48,8 51,2 100
000
34
Xét về kỳ hạn cho vay, hoạt động tín dụng có nhiều biến đổi theo hướng tích cực, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế. Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả hoạt động tín dụng giai đoạn 95 - 2000 có thể thấy rõ tỷ trọng cho vay trung, dài hạn có xu hướng tăng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu cho vay của Ngân hàng. Nếu so mức phấn đấu toàn ngành đề ra là tỷ trọng vốn trung - dài hạn đạt 35 %
tổng dư n ợ thì NHNo huyện Từ Liêm đã đạt mức kế hoạch đề ra ngay từ năm 1995 (hơn 36%) và đến cuối năm 2000 tỷ lệ này là 51,2 %, nếu tính số tuyệt đối thì con số đạt được khá ấn tượng là hơn 528 % tỷ đồng.
Mặt khác, dễ thấy tỷ lệ này chưa phải là mức ổn định. Năm 1995 tỷ trọng là 36 %, năm 96 đạt 32 % năm 97 lên 36 %, năm 98 lên hơn 48 %, năm 99 đạt 49 % và năm 2000 đạt 51,2 %. Tuy nhiên với tỷ lệ cao hơn 30 % liên tục như vậy chứng tỏ hoạt động Ngân hàng đang dần dần phát triển theo chiều sâu đã đáp ứng được nhu cầu vốn trung - dài hạn của các thành phần kinh tế trên địa bàn, vốn này thường là vốn đầu tư mở rộng sản xuất, tăng cường trang thiết bị... thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ và vững chắc , do vậy nâng cao hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng , tạo ra nguồn thu ổn định cho Ngân hàng.
b. Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế :
Xét về cơ cấu dư nợ đối với các khu vực kinh tế cũng phản ánh sự chuyển hướng rõ n ét trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hướng về khách hàng đông đảo là các hộ nông dân và địa bàn nông thôn là chủ yếu. Điều hành thể hiện qua tỷ trọng vốn cho vay đối với hộ sản xuất rất cao.
Bảng 3 : Phân loại dư nợ cho vay theo khu vực kinh doanh của NHNo Hà
Tây.
9
9
9
9
9
2
Năm
5
6
7
8
9
000
Chỉ tiêu
Tổng dư nợ
4 57.467
5 66.144
6 79.409
7 26.625
8 09.812
1 .031.069
- Doanh nghiệp Nhà
3 8.524
2 9.664
4 3.677
5 6.634
4 6.626
1 06.921
nước
Tỷ trọng %
7 ,1
5 ,6
6 ,4
7 ,7
5 ,8
6 ,3
- Hợp tác xã
5 .051
4 .434
2 .060
3 .347
2 .961
3 .000
Tỷ trọng %
1 ,1
0 ,7
0 ,4
0 ,4
0 ,35
0 ,30
- Hộ sản xuất
4 13.892
5 17.346
5 72.849
5 72.505
6 43.131
7 83.093
Tỷ trọng %
9 1,8
9 1,2
8 4,4
8 2,1
7 9,4
8 1,0
35
- Hộ nghèo
1 4.700
5 8.763
9 4.139
1 17.094
1 38.055
Tỷ trọng %
2 ,5
8 ,8
9 ,8
1 4,5
1 2,4
- Cho vay doanh nghiệp Nhà nước (DNNN)
Nhìn chung khối lượng cho vay các DNNN rất nhỏ, ở khu vực này chỉ đạt dưới 14 % tổng dư nợ giai đoạn 95 - 2000. Một phần phản ánh sự chuyển hướng kinh doanh trong hệ thống NHNo, lấy hộ nông dân làm đối tượng phục vụ chủ yếu. Tính từ năm 1995 đến nay, lượng vốn đầu tư có tăng nhưng tốc độ tăng không đáng kể. Đây là điều Ngân hàng không mong muốn song nó phản ánh một thực tế là số DNNN trên địa bàn vẫn đang trong tình trạng khó khăn, quy mô sản xuất nhỏ, vốn tự có rất thấp, trang thiết bị công nghệ lạc hậu, quản lý kém dẫn đến sự cạnh tranh kém. Mặc dù các doanh nghiệp đã được sắp xếp cho phù hợp theo quy định của Chính phủ nhưng đến nay trong số 163 DNNN (có 76 DNNN Trung ương) toàn tỉnh chỉ có 139 đơn vị có quan hệ tín dụng vói Ngân hàng, trong đó khoảng 73 đơn vị có quan hệ thường xuyên.
Trong giai đoạn tiếp theo của quá trình đổi mới, những DNNN sẽ có vai trò hết sức quan trọng. Thực tế trong số 462 doanh nghiệp hoạt động trong tỉnh số DNNN chiếm 45 % nhưng vốn kinh doanh chiếm tới 86 % , doanh thu bình quân chiếm 90 %, nộp ngân sách chiếm 92 %. Như vậy tiềm năng của khu vực này còn rất lớn, không tương xứng với khối lượng cho vay hiện tại
- Cho vay hợp tác xã :
Dư nợ cho vay giảm liên tục về khối lượng cũng như tỷ trọng trong tổng dư nợ và số hợp tác xã có quan hệ tín dụng với Ngân hàng rất nhỏ (26/ 176 hợp tác xã). Nguyên do chủ yếu là các HTX nông nghiệp đã bị thu hẹp vai trò, chức năng hoạt động sản xuất kinh doanh từ khi Nhà nước giao sử dụng đất lâu dài và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các hộ nông dân. Mô hình HTX kiểu mới theo luật HTX trong giai đoạn thử nghiệm chưa phát huy được vai trò mới của mình do đó không đáp ứng được các đòi hỏi của điều kiện vay vốn và trình độ cán bộ quản lý của HTX còn quá yếu.
36
- Cho vay hộ sản xuất :
Ngược lại với các khu vực trên, cho vay đối với hộ sản xuất phát triển mạnh mẽ, thu được kết quả to lớn chứng minh sự đúng đắn trong xác định đối tượng khách hàng chính của Ngân hàng. Chiến lược kinh doanh hướng về các hộ gia đình thể hiện qua mức tăng dư nợ hộ sản xuất trong nhiều năm. Trong giai đoạn 1995 - 2000 tỷ trọng bình quân dư nợ hộ sản xuất / tổng dư nợ xấp xỉ 88%, tạo ra nguồn thu vững chắc quyết định kết quả tài chính luôn luôn có lãi của Ngân hàng.
- Cho vay hộ nghèo :
Thực hiện chủ trương "xóa đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà nước , Ngân hàng đã thực hiện đầu tư cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất với mức lãi suất ưu đãi đạt kết quả khả quan. Đến năm 2000, dư nợ cho vay hộ nghèo đạt 138 tỷ. Hình thức cho vay đối với hộ nghèo thực hiện qua tổ nhóm (5.500 tổ) rất có hiệu quả, tỷ lệ nợ quá hạn rất thấp 0,11 % chứng tỏ công tác xã hội hoá hoạt động kinh doanh Ngân hàng đạt được rất tốt, giúp nhiều hộ gia đình thoát khỏi đói nghèo, vươn lên trong cuộc sống.
2.2. Chất lượng tín dụng Ngân hàng :
Chất lượng tín dụng được xem là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả hoạt động tín dụng trong một giai đoạn của Ngân hàng thương mại.
Bảng 4 : Nợ quá hạn tại NHNo huyện Từ Liêm giai đoạn 1995 - 2000
Chỉ tiêu Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn (%)
8.098 6.554 1,72 1,12 1995 1996
6.943 7.006 8.646 10.200 1,03 0,96 1,06 1,10 1997 1998 1999 2000
37
Qua con số nợ quá hạn hàng năm có thể thấy chất lượng tín dụng của Ngân hàng là tốt. Thể hiện tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ chỉ tiêu 1% năm. Phần lớn nợ quá hạn nằm trong cho vay ngắn hạn, tậpt rung vào khu vực hộ sản xuất. Nếu xét số tuyệt đối thì nợ quá hạn có chiều hướng tăng song
không có nghĩa chất lượng cho vay giảm sút bởi vì doanh số cho vay và dư nợ năm sau cao hơn năm trước. Ngoài ra, do số lượt hộ vay càng nhiều, tất yếu rủi ro tín dụng xảy ra sẽ lớn hơn. Con số tương đối sẽ phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng Ngân hàng. Năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn là 1,1 % đạt mức kế hoạch đề ra và là mức rất thấp so với mức trung bình ngành (khoảng 5%). Từ năm 1995 đến nay số liệu được kiểm tón quốc tế hàng năm thực kiểm và đều đánh giá Ngân hàng hoạt động tốt, có chất lượng qua đó nâng cao uy tín của Ngân hàng.
Bên cạnh đó, số khách hàng có quan hệ tín dụng với Ngân hàng ngày càng tăng. Xét riêng hộ sản xuất năm 1999 có hơn 18,4 ngàn hộ còn dư nợ chiếm 36 % số hộ toàn tỉnh, với tổng số lượt vay 101.063 lượt. Đến 31/ 12/ 2000 có 194 ngàn hộ có dư nợ chiếm 39 % số hộ toàn tỉnh, với tổng số lượt hộ vay là 102.269 lượt giúp cho các hộ có đủ vốn sản xuất kinh doanh , khơi dậy tiềm năng lao động, đất đai khôi phục và phát triển các ngành nghề TTCN truyền thống, giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Như vậy, sau khi xem xét một vài nét cơ bản về hoạt động kinh doanh của NHNo huyện Từ Liêm , có thể đánh giá sơ bộ hoạt động Ngân hàng là chất lượng, hiệu quả có sự phát triển ổn định và vững chắc đã dần chiếm được lòng tin của khách hàng. Đây là cơ sở thuận lợi cho Ngân hàng tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh trong những năm tiếp theo, khi hoàn cảnh kinh tế xã hội đang nảy sinh nhiều khó khăn cho hoạt động Ngân hàng.
Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài nghiên cứu sẽ đi sâu vào nghiên cứu về chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất, bởi vì vấn đề này có ý nghĩa quyết định đến sự an toàn cũng như lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh của Nhà nước thương mại hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn với tren 90 % khách hàng là nông dân.
III. thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm :
38
Trong vòng 2 - 3 năm trở lại đây, NHNo Việt Nam thường xuyên có những thay đổi về cơ cấu, chính sách nhằm thu hút và phục vụ tốt hơn khách hàng của mình. Đồng thời nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cũng như phù hợp với nhu cầu đặc điểm kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Để phù hợp hơn với xu thế cho vay hộ Dân số - KHHGĐ , NHNo Việt Nam ban
hành quyết định 180 HĐQT- QĐ có hiệu lực từ 1/ 1/ 1999 để thay thế QĐ 499A - TDNT NHNo về quy định cho vay đối với khách hàng là hộ sản xuất. Theo QĐ 180 HĐQT thì hộ sản xuất không phân chia thành hai loại như trong QĐ 499A nhưng gần đây nhất có QĐ 06/ HĐQT thay thế cho QĐ 180 trước đây về việc ban hành QĐ cho vay đối với khách hàng. Tuy nhiên do ở Hà Tây HTX hoạt động hiệu quả thấp, các công ty TNHH và DNTN hoạt động quy mô nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn hạn chế nên quan hệ tín dụng với NHNo chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với các thành phần kinh tế khác. Thành phần này chiếm 1 - 2 % tổng dư nợ, 2 - 3 % tổng dư nợ hộ sản xuất. Vì vậy, sử dụng cách phân chia như quyết định 180 - HĐQT ở NHNo huyện Từ Liêm cho giai đoạn phân tích vẫn phản ánh đúng thực trạng cho vay hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm. Để đánh giá thực trạng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm nói chung và chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm nói riêng thì trước hết phải phân tích các chỉ tiêu chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo huyện Từ Liêm.
1. Tình hình thực hiện quy trình tín dụng tại NHNo huyện Từ Liêm :
Để đảm bảo chất lượng tín dụng phần lớn cán bộ tín dụng tại NHNo
huyện Từ Liêm đã thực hiện các quy trình sau :
- Về hồ sơ vay vốn : Cán bộ tín dụng trực tiếp nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng, đối chiếu danh mục hồ sơ như quy định của NHNo Việt Nam , kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của từng loại hồ sơ, báo cáo trưởng phòng tín dụng.
39
- Quá trình thẩm định món vay được NHNo Việt Nam quy định hướng dẫn cụ thể. Tại NHNo huyện Từ Liêm khi khách hàng vay những món vay đến 5 triệu đồng (trước khi có quyết định 67/ QĐ - TTg) và hiện nay là đến 10 triệu đồng thì cán bộ tín dụng hướng dẫn khách hàng lập kế hoạch theo yêu cầu trong đơn xin vay vốn. Trong nhiều trường hợp, cán bộ tín dụng đã thay khách hàng làm điều này. Bởi vậy trên thực tế đã có nhiều trường hợp cán bộ tín dụng không thực hiện bất kỳ một hoạt động phân tích nào khi thẩm định các dự án mà khách hàng "lập" với khoản vay đến 10 triệu đồng. Trên thực tế nhiều khách hàng đã sử dụng vốn vay không đúng mục đích như trong đơn xin vay. Cả cán bộ tín dụng và người vay vốn đều không biết chắc chắn về khả năng sinh lời của dự án. Các biện pháp thẩm định vốn vay hiện thời không thề đánh giá hoặc kiểm soát được hiệu quả sử dụng vốn vay của người vay vốn.
Như vậy quá trình thẩm định nếu không được thực hiện tốt tại NHNo huyện Từ Liêm thì sẽ làm ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng ngân hàng đối với hộ sản xuất.
- Sau khi thẩm định xong nếu không cho vay thì thông báo cho
khách hàng biết bằng văn bản.
- Nếu cho vay thì cùng khách hàng lập hồ sơ vay vốn, hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, chuyển hồ sơ cho bộ phận kế toán, thanh toán, cán bộ tín dụng vào sổ theo dõi cho vay thu nợ.
- Sau khi thực hiện giải ngân, cán bộ tín dụng phải tiến hành kiểm tra
tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.
- Căn cứ vào kết quả kiểm tra tuỳ theo mức độ vi phạm của khách hàng có thể xử lý tạm ngừng cho vay, chuyển nợ qúa hạn, chấm dứt cho vay, khởi kiện trước pháp luật.
- Khi món vay của khách hàng đến hạn thì cán bộ tín dụng phải thông báo cho khách hàng biết số tiền, ngày đến hạn trả trước khi đến hạn 10 ngày.
- Trường hợp nợ đến hạn nhưng khách hàng chưa trả được nợ do nguyên nhân khách quan và khách hàng có giấy đề nghị gia hạn nợ thì cán bộ tín dụng kiểm tra xác minh trình trưởng phòng tín dụng và giám đốc.
- Đôn đốc khách hàng trả nợ đúng kỳ hạn và đề xuất các biện pháp
khi cần thiết, lưu giữ hồ sơ theo quy định của NHNo Việt Nam
- Về xử lý rủi ro:
Vốn trong trường hợp bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan bất khả kháng như bão, lụt, hạn hán, dịch bệnh Nhà nước có chính sách xử lý thiệt hại cho người vay và Ngân hàng cho (xoá, miễn, khoanh, dãn nợ) tuỳ theo mức độ thiệt hại. Các tổ chức tín dụng phải lập hồ sơ đầy đủ như đã hướng dẫn tại thông tư liên tịch 03/ 1997 ngày 22/ 11/ 1997 của Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính và các văn bản hướng dẫn của NHNo Việt Nam
2. Kết quả cho vay thu nợ đối với kinh tế hộ tại NHNo huyện Từ
Liêm trong thời gian qua :
2.1. Doanh số cho vay đối với hộ sản xuất :
40
Với tính chất sản xuất ở quy mô gia đình nhỏ bé, việc mở rộng tín dụng đối với khu vực hộ sản xuất rất khó khăn, thể hiện ở doanh số cho vay không tăng trong 3 năm liền (98 - 2000) và thấp hơn năm 95. Năm 95
doanh số cho vay có mức tăng đột biến (dư nợ rất cao so với năm 94) Sau đó giảm xuống mức trung bình là khoảng 620 tỷ dồng/ năm.
Doanh số cho vay giai đoạn sau không tăng, phản ánh một điều là Ngân hàng càng chú trọng đến vấn đề chất lượng tín dụng khi mà môi trường kinh doanh còn chưa ổn định. Nhưng đây là điều không mong muốn của Ngân hàng bởi vì thu hẹp doanh số cho vay đồng nghĩa với giảm nguồn thu chính của Ngân hàng.
41
Xét về kỳ hạn cho vay, xu hướng dễ nhận thấy là doanh số cho vay ngắn hạn (<1 năm) giảm dân trong khi doanh số cho vay trung - dài hạn lại tăng dần.
Bảng số 5 : Doanh số cho vay hộ sản xuất phân theo loại cho vay
Trung, dài hạn N Tổng
Ngắn hạn (%) (%) ăm cộng
1 74,5 100 25,5
995
1 82,4 100 17,6
996
1 73,3 100 36,7
997
1 67,8 100 32,2
998
1 65,7 100 34,3
999
2 48,8 100 51,2
000
Doanh số cho vay trung - dài hạn có xu hướng gia tăng, trừ năm 1996 có giảm so với năm 1995. Năm 1996 doanh số cho vay trung - dài hạn chỉ chiếm 17,6 % tổng doanh số cho vay hộ sản xuất. Tuy nhiên, trong 4 năm sau đó (từ 1997 đến 200), doanh số cho vay trung - dài hạn liên tục tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Đến năm 2000 doanh số cho vay hộ sản xuất trung - dài hạn đã đạt được 51,2% tổng doanh số cho vay hộ sản xuất. Như vậy tín dụng Ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của những hộ nông dân nhỏ, thông qua vốn đầu tư dài hạn, tuy tỷ trọng dư nợ cũng như tốc độ tăng rất nhanh so với 1999.
Những kết quả trên đây đã phần nào cho thấy chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất trong những năm qua. Để phân tích chính xác hơn ta xem xét số tiền vay mỗi lượt hộ của từng hộ.
Bảng số 6 : Số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất
Đơn vị tính : triệu đồng
Chỉ tiêu
Doanh
Ngắn
số cho vay
hạn
Năm
Tru ng - dài hạn
DS cho vay/ số lượt hộ vay
1995 4,00 8,89 4,5
1996 4,42 7,18 4,97
42
564.9 44 479.1 67
1997 4,97 6,12 5,06
1998 6,77 3,71 5,26
1999 6,05 3,93 5,16
2000 4,28 5,12 6,42
546.4 28 530.8 26 521.9 13 657.1 00
Nguồn : báo cáo kết quả hoạt động tín dụng HSX năm 96, 97, 98, 99,
2000.
Số tiền trung bình mỗi lượt vay của hộ sản xuất có xu hướng tăng nhưng không đáng kể, với mức trung bình là 6 triệu đồng. Với số tiền vay khá nhỏ như vậy chỉ đảm bảo sản xuất ở quy mô như trước, khó tăng thu nhập cho hộ sản xuất.
Số tiền trung bình mỗi lượt vay trung - dài hạn của hộ sản xuất có xu hướng tăng lớn : Năm 1999 là 3,93 triệu/ lượt, năm 2000 là 5,12 triệu/ lượt; trong khi đó năm 1995 là 8,89 triệu đồng/ lượt. Điều này chứng tỏ hộ sản xuất nhỏ, manh mún, kỹ thuật lạc hậu ít quan tâm tới đầu tư thiết bị, kỹ thuật mới vào sản xuất , do đó sản xuất kém hiệu quả. Trong quá trình đầu tư tín dụng hộ sản xuất NHNo huyện Từ Liêm luôn quan tâm đến việc mở rộng quy mô đầu tư tín dụng HSX đồng thời trú trọng đến việc nâng cao chất lượng các khoản vay.
Tại NHNo huyện Từ Liêm có sự khác biệt rất lớn về doanh số cho vay giữa các huyện thị. Doanh số cho vay hộ sản xuất cao chủ yếu tập trung ở một số huyện Phú Xuyên, Mỹ Đức, Sơn Tây, Hà Đông. Năm 2000 NHNo huyện Phú Xuyên đạt doanh số rất cao là 121 tỷ đồng so với mức trung bình 14 Ngân hàng huyện thị là 48 tỷ cho thấy đây là một thị trường rất hấp dẫn và có hiệu quả (doanh số thu nợ năm 2000 trên 69 tỷ, bình quân dư nợ một hộ sản xuất đạt khoảng 6,5 triệu đồng). Trái lại một số Ngân hàng huyện khác doanh số đạt thấp, như NHNo Quốc Oai chỉ đạt 51 tỷ, Đan Phượng 48 tỷ mặc dù tiềm năng trên địa bàn rất lớn.
2.2. Doanh số thu nợ.
43
Đối với một Ngân hàng kết quả thu nợ có ý nghĩa rất quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng Ngân hàng , bảo đảm kinh doanh Ngân hàng an toàn và có lãi.
Các số liệu thu được cho thấy doanh số thu nợ của Ngân hàng tăng liên tiếp trong 4 năm từ 1995 đến 1998, (năm 1999 có sụt giảm so với năm 1998) cho đến năm 2000 doanh số cho vay tăng lên doanh số thu nợ chứng tỏ Ngân hàng đều coi trọng 2 mục tiêu (cho vay - thu nợ).
Bảng số 7 : Tỷ lệ (%) doanh số thu nợ HSX/ DS cho vay HSX tại NHNo
huyện Từ Liêm.
Đơn vị : triệu đồng
Doanh số cho vay
Doanh số thu nợ
% DSTN/
DSCV
N
D
T
ăm
N gắn hạn
D S thu nợ
N gẵn hạn
T - D hạn
N gắn hạn
T - D hạn
- D hạn
S cho vay
1
995
5 57.697
4 15.358
1 42.339
3 94.812
3 68.272
2 6.540
8 9
1 9
1
996
4 74.456
3 90.797
8 3.659
4 12.223
3 38.132
7 4.091
8 0
7 1
1
997
4 91.673
3 59.286
1 32.387
4 47.097
3 48.410
9 8.687
9 6
7 3
1
998
5 22.145
3 51.963
1 70.182
5 20.069
3 84.794
1 35.272
1 08
8 4
1
999
5 34.467
3 55.920
1 78.547
5 10.928
3 47.015
1 63.913
9 1
7 8
2
000
8 10.786
5 10.700
3 00.086
6 66.968
4 80.058
1 86.910
9 4
8 2
Năm 2000 doanh số thu nợ tăng, tuy nhiên tỷ lệ doanh số thu nợ/ doanh số cho vay vẫn đạt được 89 %. Trong 6 năm, tỷ lệ doanh số thu nợ/ doanh số cho vay liên tục tăng và đạt trung bình là 88 %. Đây là dấu hiệu đáng mừng về chất lượng tín dụng hộ sản xuất. Đặc biệt tỷ lệ doanh số thu nợ/ doanh số cho vay trung - dài hạn tăng từ 19 % năm 1995, năm 2000 đạt 82 %.
44
Từ doanh số thu nợ hộ sản xuất tính chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng một năm. Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng. Vòng
quay vốn tín dụng cao cho thấy tốc độ thu nợ cũng như hiệu quả vốn tín dụng Ngân hàng cao.
Bảng số 8 : Vòng quay vốn tín dụng HSX giai đoạn 95 - 2000.
Chỉ tiêu Vòng quay VTD Ngắn hạn
1995 1996 0.97 0.83 1.2 1.12
1997 1998 1999 2000 0.91 0.94 0.8 0.86 1.15 1.18 0.98 0.96
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là chu kỳ sản xuất kinh doanh kéo dài, thường các món vay ngắn hạn từ 6 tháng đến 1 năm. Do đó, vốn
tín dụng có tốc độ quay vòng thấp. Kết quả cho thấy vòng quay vốn ngắn
hạn luôn đạt trên 1 lần, chỉ riêng năm 1999 : 0,98 %, năm 2000 đạt 0,96
lần. Như vậy là đạt yêu cầu, tuy nhiên, Ngân hàng phải tập trung nâng cao chất lượng tín dụng trong những năm tới để vòng quay vốn tín dụng ngắn hạn luôn đạt trên 1 lần.
2.3. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất :
Dư nợ là thước đo tầm vóc của một ngân hàng nên bất kỳ NHTM
nào cũng chú trọng tăng trưởng dư nợ. Do xác định kháchh hàng phục vụ
chính là các hộ nông dân, NHNo huyện Từ Liêm luôn phấn đấu tăng dư nợ
cho vay hộ sản xuất. Đến cuối năm 2000, dư nợ cho vay hộ sản xuất đạt
trên 857,1 tỉ đồng, gấp gần 25 lần năm 1995, là mức cao trong toàn hệ
thống NHNo Việt Nam. Trong 3 năm 1997 đến 1999 dư nợ cho vay hộ sản xuất tăng không đáng kể, tốc độ tăng trưởng thấp (năm 1998 là 15 %).
Năm 2000, dư nợ cho vay hộ sản xuất tăng đáng kể so với năm 1999 tốc độ tăng trưởng là 27 %. Tuy nhiên, dư nợ cho vay hộ sản xuất năm
2000 tăng không phải là do doanh số cho vay tăng mà do doanh số thu nợ giảm đáng kể.
Số hộ còn dư nợ cuối năm 2000 , 19,4 vạn hộ tăng hơn so với năm
1999 (10.825 hộ), phản ánh xu hướng ngân hàng mở rộng cho vay hộ sản
45
xuất, đặc biệt là hộ nghèo nhằm thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo.
Bên cạnh đó, Ngân hàng còn có khuynh hướng cho vay trung - dài hạn với
số khách hàng còn dư nợ trung - dài hạn là 85.205 hộ, tăng 32,2 % so với năm 99, chiếm tỷ trọng xấp xỉ 675 tổng số dư nợ. Dư nợ bình quân 1 hộ sản
46
xuất tăng dần qua các năm nhưng số tiền còn ở mức thấp.
Bảng số 9 : Dư nợ bình quân một hộ sản xuất :
Đơn vị : triệu đồng :
Dư nợ BQ/ hộ
Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 3,69 3,7 4,6 4,9 5,1 5,9
Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng HSX năm 95 đến 2000
Dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất đến năm 2000 mới đạt 5,9 triệu đồng. Dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất trung bình trong 5 năm từ 1995 - 2000 mới đạt được khoảng 4,7 triệu, tức là dưới 5 triệu đồng. Như vậy là dư nợ bình quân 1 hộ sản xuất còn rất thấp. Tăng được dư nợ bình quân một hộ là một cố gắng rất lớn của Ngân hàng, song muốn nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với sự phát triển kinh tế Ngân hàng thì phải tăng hơn nữa dư nợ bình quân một hộ sản xuất cũng như quy mô vay của hộ sản xuất.
Cơ cấu dư nợ cho vay hộ sản xuất cũng có sự thay đổi xét theo nhiều khía cạnh đánh giá. Để thấy rõ điều này phải phântích thực trạng dư nợ cho vay hộ sản xuất theo kỳ hạn cho vay, ngành nghề cho vay, thu nhập của hộ vay và phương thức cho vay.
a. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ.
Bảng số 10 : Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo kỳ hạn
Ngắn hạn (%) Trung - dài hạn Tổng
(%) số
60 40 C hỉ tiêu 1
995
63,2 26,8 1
996
60 40 1
997
55 45 1
998
54 46 1
47
10 0 10 0 10 0 10 0 10 0 999
2 53 47,6
000 10 0
Các khoản cho vay ngắn hạn dùng để tài trợ cho các chi phí theo thời vụ để sản xuất mùa màng và chăn nuôi gia súc như mua hạt giống, phân bón, thức ăn gia súc gia cầm. Dư nợ ngắn hạn tăng liên tục trong nhiều năm. Tính trung bình cả giai đoạn 95 - 2000 đạt hơn 528 tỷ đồng với số hộ dư nợ tính đến 31/ 12/ 99 là 102.269 hộ góp phần tăng trưởng kinh tế địa phương giai đoạn này đạt trung bình 10 %. Tiền trả nợ vay ngắn hạn Ngân hàng thường lấy từ tiền bán sản phẩm hàng hoá (doanh thu bán hàng) sau kỳ thu hoạch nhưng giá cả hàng hoá nông nghiệp vẫn ở mức thấp và luôn biến động, do đó làm tăng trưởng khả năng không trả được vốn và lãi vay ngắn hạn của hộ sản xuất. Mức giảm dư nợ ngắn hạn trong năm 1999 là dấu hiệu cho thấy còn những khó khưan trong hoạt động tín dụng ở khu vực này. Mặc dù dư nợ ngắn hạn năm 2000 tăng so với năm 1999 nhưng doanh số thu nợ ngắn hạn năm 2000 lại sụt giảm nhiều so với năm 1000, điều này càng chứng tỏ sự khó khăn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Do đó, Ngân hàng phải tập trung hơn nữa để nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất nói chung và chất lượng cho vay ngắn hạn nói riêng. Giải quyết mâu thuẫn giữa mục tiêu lợi nhuận và an toàn trong kinh doanh là vấn đề rất phức tạp.
Ngược lại với tình hình cho vay ngắn hạn, dư nợ trung - dài hạn tăng trưởng một cách vững chắc, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong dư nợ cho vay hộ sản xuất : năm 1996 là 36,8 %, năm 1997 là 40 %, năm 1998 là 45 % và năm 1999 đạt được 46 %, năm 2000 đạt 47%. Đây là kết quả đáng mừng vì doanh số thu nợ trung - dài hạn cũng liên tục tăng qua các năm, tỷ lệ doanh số thu nợ trên doanh số cho vay trung - dài hạn cũng liên tục tăng. Các khoản cho vay trung - dài hạn được dùng để mua các tài sản có tính lâu dài như gia súc, máy móc và đầu tư chiều sâu. Một điều đáng lưu tâm là hầu hết số tiền vay là của những hộ sản xuất nhỏ bó hẹp ở quy mô gia đình nhỏ, chứng tỏ nhiều hộ đang vươn lên vượt ra khỏi mức sản xuất thấp. Tuy nhiên, nếu tính số tiền vay trung - dài hạn lại rất thấp, trung bình 1 lần vay chỉ có 4,6 triệu đồng và cũng tương tự với dư nợ trung - dài hạn bình quân giai đoạn này chưa đến 5 triệu đồng (năm 2000).
48
Về lý thuyết, tiền trả nợ trung - dài hạn ngân hàng lấy từ lợi tức kinh doanh ở người sản xuất. Điều này rõ ràng chỉ thực hiện được với những
nhu cầu vay hàng chục triệu đồng, mỗi lần trong khi số khách hàng như vậy ở NHNo huyện Từ Liêm là không nhiều. Số tiền bình quân thấp như vậy bảo đảm nguy cơ thất th oát vốn do không trả được nợ là nhỏ nhưng không kích thích mạnh mẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ sản xuất.
b. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo chi nhánh trực
thuộc.
Tính đến năm 2000, NHNo huyện thị trên địa bàn tỉnh đều tăng dư nợ cho vay hộ sản xuất qua từng năm nhưng có sự chênh lệch khá lớn giữa các Ngân hàng, phản ánh đặc điểm kinh tế - xã hội riêng của từng khu vực cũng như chất lượng kinh doanh của các Ngân hàng cơ sở. Một số khu vực tập trung nhiều làng nghề thủ công truyền thống như huyện Thường Tín, CHương Mỹ, Hà Đông; hay sản xuất nông sản như rau quả xanh chung cấp cho Hà Nội ở Hoài Đức. Số tiền mỗi lần vay của các hộ này khá cao, có hộ đến hàng chục triệu đồng để mua nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất. Do vậy, dư nợ cho vay hộ sản xuất ở các Ngân hàng này khá cao. bình quân dư nợ / cán bộ trên 1,2 tỷ đồng cao hơn nhiều so với mức trung bình của cả chi nhánh. Các Ngân hàng khác có dư nợ cho vay hộ sản xuất không lớn. Hai năm 95, 96 có 9 Ngân hàng và 2 năm 97, 98 có 8 ngân hàng, năm 2000 có 6 Ngân hàng, có dư nợ cho vay hộ sản xuất thấp hơn mức trung bình cộng của 14 Ngân hàng huyện thị, trong đó có một số Ngân hàng như Ngân hàng thị xã Hà Đông , Mỹ Đức, Đan Phượng đạt thấp.
Với phương châm đề ra hiện tại là "An toàn - Chất lượng - Hiệu quả" rõ ràng là các Ngân hàng huyện thị đã cho vay có phần chặt chẽ hơn, năm 2000 số lượt hộ được vay vốn Ngân hàng tăng đáng kể, chủ yếu là hộ nghèo, do vậy hạn chế sức sản xuất của nhiều hộ cần nhưng không được vay. Điều này dễ dẫn đến tình trạng vay mượn lẫn nhau, vay hộ, cho vay lại vốn Ngân hàng với lãi suất cao kiếm chênh lệch (tín dụng ngầm), vì vậy chỉ tiêu định tính "bảo đảm nguyên tắc cho vay" không được thực hiện tốt. Điều đáng lo hơn là những khách hàng tiềm năng có thể chuyển sang vay ở những tổ chức tín dụng khác như quỹ tín dụng nhân dân, mặc dù NHNo vẫn có uy tín và là chỗ dựa chủ yếu của người nông dân trên địa bàn nông thôn.
c. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thu nhập hộ vay.
Bảng số 11 : Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất theo thu nhập hộ vay.
49
Hộ nghèo (%)
Hộ khác (%)
Tổng
C hỉ tiêu
số
1 2,5 97,5
995 10 0
1 9,9 90,1
996 10 0
1 12,0 88,0
997 10 0
1 14,6 83,6
998 10 0
1 18,25 81,8
999 10 0
2 21,30 78,7
000 10 0
Nhằm thực hiện chính sách "Xóa đói giảm nghèo" của Đảng và Nhà nước , NHNo Việt Nam phát triển , mở rộng cho hộ nghèo vay vốn với những ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay, tài sản thế chấp... NHNo huyện Từ Liêm trong 6 năm qua đã mở rộng số hộ nghèo được vay vốn trên địa bàn tỉnh giúp nhiều hộ thoát khỏi đói nghèo, vươn lên. Dư nợ hộ nghèo liên tục tăng qua các năm. Từ chỗ năm 1995 dư nợ hộ nghèo là 10.542 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 2,5 % trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất , thì năm 2000 dư nợ hộ nghèo đã là 138.055 triệu đồng (gấp hơn 12 lần năm 1995), chiếm tỷ trọng 21,3 % trong tổng dư nợ hộ sản xuất. Năm 2000, NHNo huyện Từ Liêm đã cho 42,620 lượt hộ nghèo vay với số tiền 21 tỷ, đưa số hộ còn dư nợ lên 106.866 hộ với số tiền là 138.055 tỉ đồng, nhiều hộ vay sản xuất kinh doanh có hiệu quả, thực hiện trả nợ Ngân hàng đúng hạn vốn vay và lãi. Tín dụng Ngân hàng đã giúp 14.217 hộ phát triển sản xuất ổn định đời sống, vượt qua ngưỡng đói nghèo, thực hiện xây dựng nông thôn mới.
d. Dư nợ cho vay đối với hộ sản xuất phân theo hình thức chuyển tải
vốn.
50
Theo quyết định 499A, NHNo thực hiện 2 hình thức chuyển tải vốn là cho vay trực tiếp hộ sản xuất và cho vay thông qua tổ vay tốn (tổ, nhóm). Theo quyết định 180- HĐQT, NHNo có thêm hình thức chuyển tải vốn thứ 3 là cho vay thông qua doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp Nhà nước. Do
QĐ 180 - HĐQT có hiệu lực từ 01/ 01/ 1999 và sau đó có QĐ 06 của HĐQT trừ việc ban hành quy định cho vay đối với khách hàng do đặc điểm kinh tế xã hội riêng của Hà Tây , NHNo huyện Từ Liêm mới chỉ thực hiện 2 hình thức chuyển tải vốn là cho vay trực tiếp và cho vay thông qua tổ vay vốn.
Bảng 12 : Dư nợ vay đối với hộ sản xuất theo hình thức chuyển tải vốn.
Cho vay trực tiếp Tổng
Cho vay qua “nhóm” số
C hỉ tiêu 1 84,67 15,33
995
1 80,52 19,48
996
1 78,35 21,7
997
1 72,2 27,8
998
1 69,6 30,4
999
2 57,2 32,8
000 10 0 10 0 10 0 10 0 10 0 10 0
Trên 80 % doanh số cho vay năm 1999, 2000 được thực hiện bằng hình thức vay trực tiếp, cho vay thông qua các tổ tín chấp đạt kết quả khả quan. Dư nợ cho vay qua nhóm ngày càng tăng, tuy nhiên chỉ chiếm tỷ trọng 30 % trong tổng dư nợ hộ sản xuất. Đến năm 2000 dư nợ cho vay qua nhóm đã đạt được 299.757 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 32,8 % tổng dư nợ. Đây là dấu hiệu tốt vì hình thức cho vay qua nhóm đang được đánh giá là hình thức có hiệu quả cao thông qua kinh nghiệm của các nước đang phát triển. Mặc dù vậy, số khách hàng vay vốn qua nhóm chỉ chiếm 23 % tổng số hộ gia đình. Tính trung bình mỗi nhóm có khoảng 15 thành viên và món vay trung bình chỉ khoảng xấp xỉ 2 triệu (bảng số 14). Trong khi đó món vay trung bình vay trực tiếp xấp xỉ 6 triệu. Vì vậy, Ngân hàng cần tăng hơn nữa hình thức cho vay qua nhóm và quy mô 1 món vay để giảm nhẹ công việc cho cán bộ tín dụng nhằm nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất.
Bảng số 13 : Dư nợ cho vay qua "nhóm" tại NHNo huyện Từ Liêm.
Đơn vị : triệu đồng
51
Chỉ tiêu : 1998
1999
2000
Tổng số hộ : 515.114
537.875
644.741
Tổng số nhóm : 4.647
4.959
6.212
Tổng số thành viên :
Tỷ trọng trong tổng số hộ gia đình :
1998 1999 2000
80.873 88.249 106.866
15,7 % 16,4 % 23 %
Tổng số thành viên 1 nhóm : 17
18
19
Tổng dư nợ : 159.090
195.474
299.757
Dư nợ / 1 thành viên : 1,97
2,2
2,8
52
Ngân hàng đã hợp tác với rất nhiều các tổ chức xã hội khác như Hội Phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Hội làm vườn, Đoàn thanh niên... để tổ chức cho vay qua tổ nhóm. Số nhóm được vay năm 2000 đã lên tới gần 5.500 nhóm trong đó cho vay hộ nghèo 100 % thông qua nhóm. Đây là một hướng đi mới đúng đắn thể hiện công tác xã hội hoá hoạt động cho vay, nâng cao sức tương trợ lẫn nhau giữa các hộ nông dân, nhất là giúp hộ nghèo có được vốn để sản xuất, thoát khỏi đói nghèo.
2.4. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất :
Để đánh giá tình hình dư nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất Ngân hàng
thường sử dụng chỉ tiêu : Tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ hộ sản xuất.
Bảng 14 : Tỷ lệ dư nợ quá hạn/ Tổng dư nợ hộ sản xuất giai đoạn 95 - 2000
Đơn vị : triệu đồng
Tổng dư nợ HSX Dư nợ quá hạn NQH/
HSX Tổng C hỉ tiêu
1,1 413.892 4.508 1
995
517.346 6.554 1
1,2 7 996
572.899 6.801 1
1,1 9 997
572.505 6.530 1
1,1 4 998
643.131 8.039 1
1,2 5 999
857.100 10.200 2
1,1 0 000
Kết quả trên cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn hộ sản xuất của Ngân hàng ở mức thấp. So với tỷ lệ nợ quá hạn chung (năm 2000 là 1,10%). Dư nợ quá hạn hộ sản xuất thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ quá hạn. Trong 2 năm 99 và 2000 dư nợ quá hạn hộ sản xuất chiếm tới 94 % tổng dư nợ quá hạn. Đây là kết quả tất yếu vì với hàng ngàn hộ vay vốn và hàng vạn lượt vay, đồng thời các hộ sản xuất vay vốn đều sản xuất , kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Do đó, mức độ rủi ro tín dụng trong khu vực này sẽ cao hơn nhiều những khu vực khác. Mặt khác, hộ sản xuất thường có dư nợ chiếm tới trên 80 % tổng dư nợ cho nên tỷ trọng dư nợ quá hạn hộ sản xuất trong tổng dư nợ luôn ở mức cao.
53
Kết quả nổi bật của Ngân hàng trong hoạt động cho vay hộ sản xuất những năm qua là tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm rất thấp, nhỏ hơn rất nhiều mức trung bình của NHNo Việt Nam (hơn 5% năm) và nhỏ hơn mục tiêu phấn đấu của NHNo Việt Nam là tỷ lệ nợ quá hạn xuống còn 3% năm. Xét riêng khu vực đồng bằng sông Hồng gồm những tỉnh có điều kiện sản xuất
tương đối gần gũi với tỷ lệ nợ quá hạn tới 10 % (98, 99) thì có thể thấy chất lượng tín dụng NHNo huyện Từ Liêm là cao. Tuy nhiên, nợ quá hạn hộ sản xuất cũng như nợ quá hạn chung năm 2000 của Ngân hàng bắt đầu giảm hơn so với 2 năm 98, 99 cả về số tuyệt đối và số tương đối, cùng với dư nợ hộ sản xuất tăng không đáng kể, doanh số thu nợ tụt xuống, thì đó là dấu hiệu để Ngân hàng quan tâm hơn nữa tới chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Mặc dù vậy, nhìn vào khối lượng cho vay hộ sản xuất mà Ngân hàng đang quản lý là mức cao trong hệ t hống NHNo thì đây là sự cố gắng lớn của NHNo huyện Từ Liêm.
Để đánh giá đầy đủ hơn về dư nợ quá hạn hộ sản xuất phải phân loại nợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau. Mỗi cách phân loại nợ quá hạn giúp Ngân hàng tìm ra các biện pháp để hạn chế tới mức thấp nhất dư nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất.
a. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo thời gian.
Cách phân loại nợ quá hạn theo thời gian giúp Ngân hàng tính toán được khả năng thất thoát vốn (nợ khó đòi) trên cơ sở đó lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời hỗ trợ công tác chỉ đạo điều hành trong Ngân hàng.
Trong tổng số nợ quá hạn, thông thường nợ quá hạn > 360 ngày chiếm tỷ trọng khá cao, năm 1997 là 50 %, năm 1998 là 35 %, năm 1999 là 25 %, năm 2000 là 15 %. Đây được coi là những khoản nợ không thu hồi được, do đó làm ảnh hưởng tới vốn kinh doanh của Ngân hàng. Trên thực tế số này còn cao hơn vì xác suất không đòi được nợ từ những khoản nợ dưới 1 năm hoàn toàn có thể xảy ra. Mặc dù nợ quá hạn > 360 ngày năm 2000 giảm xuống chỉ còn chiếm 15 % nhưng đây vẫn là một con số mà không một Ngân hàng nào mong muốn và cần phải tiếp tục giảm xuóng.
54
Theo quy định trích phòng xử lý rủi ro, tỷ lệ trích dự phòng nợ quá hạn < 1 năm là 13 %, trên 1 năm là 100 %. Từ đó có thể tính được số nợ khó đòi của Ngân hàng qua các năm. Qua kết quả tính toán thì khả năng thất thoát vốn của Ngân hàng còn cao. Năm 1996 là 2.300 triệu, chiếm 35 % tổng nợ quá hạn, năm 1997 là 4.462 triệu chiếm 65,6 ^, năm 1998 là 3.389 triệu chiếm 51,9 % và năm 1999 là 3.420 triệu chiếm 42,5 %, năm 2000 là 3.638 triệu chiếm 36 %. Mặc dù nợ khó đòi năm 2000 tăng không đáng kể so với năm 1999 về số tuyệt đối và chiếm tỷ trọng thấp hơn năm
1999, mà chủ yếu tập trung vào nợ quá hạn < 180 ngày, đó là một dấu hiệu đáng mừng cho Ngân hàng nhưng Ngân hàng vẫn phải củng cố, tập trung giảm đến tối thiểu khả năng thất thoát vốn và những khoản nợ quá hạn < 180 ngày khả năng không đòi được vẫn có thể xảy ra. Tỷ lệ nợ khó đòi cao luôn là thách thức với Ngân hàng cần phải tháo gỡ.
b. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo kỳ hạn nợ
Bảng 15 :
Đơn vị : %
Ngắn hạn Trung - dài hạn
C hỉ tiêu 1 1,65 0,5
997
1 83 1,46 27 0,75
998
1 71 1,39 29 0,73
999
2 68 1,32 32 0,7
000
66 30
Nợ quá hạn cho vay ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, năm 97 là 83 % năm 98 là 71 %, năm 99 là 68 %, năm 2000 là 66 %. Đồng thời tỷ lệ nợ quá hạn cho vay ngắn hạn lớn hơn rất nhiều so với tỷ lệ nợ quá hạn cho vay hộ sản xuất trung bình là 1,5 %. Trong khi đó, nợ quá hạn cho vay trung - dài hạn có tỷ lệ rất thấp, nhỏ hơn 1 % năm, đồng thời dư nợ trung - dài hạn liên tục tăng qua các năm cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1999 và năm 2000 dư nợ trung - dài hạn chiếm tỷ trọng 51 % tổng dư nợ hộ sản xuất. Như vậy, cho vay trung - dài hạn ngày càng có chất lượng cao hơn cho vay ngắn hạn.
55
Nợ quá hạn chủ yếu nằm trong cho vay ngắn hạn (xấp xỉ 70%) trong đó tập trung vào hộ sản xuất nông nghiệp hay chính xác hơn là ngành chăn nuôi. Ngành này cần vốn đầu tư mua giống khá lớn (năm 2000 bình quân 1 hộ chăn nuôi vay ngắn hạn số tiền xấp xỉ 10 triệu đồng) và phải phòng dịch
cẩn thận. Do vậy nên có khó khăn trong kinh doanh sẽ khó trả đủ vốn vay Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận thu được cao nên là ngành hấp dẫn đầu tư và do vậy Ngân hàng chấp nhận rủi ro khi cho vay.
Hoạt động Ngân hàng luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro làm giảm sút lợi nhuận cũng như sau an toàn của Ngân hàng , cho nên các Ngân hàng luôn phải dự đoán được tình hình hoạt động của mình. Đối với nợ quá hạn, Ngân hàng phải có những biện pháp xử lý kịp thời và ngăn chặn nợ quá hạn mới phát sinh trên cơ sở tìm ra những nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn một cách đầy đủ và chính xác.
c. Dư nợ quá hạn cho vay đối với hộ sản xuất phân theo nguyên
nhân
Dựa vào bảng phân tích các nguyên nhân dẫn đến nợ quá hạn giai
đoạn 1996 - 2000 (bảng 15) có thể rút ra một số nguyên nhân sau :
a. Về nguyên nhân khách quan :
Tổn thất do thiên tai bất khả kháng chiếm tỷ trọng cao, trung bình gần 45 % tổng số nợ quá hạn. Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường xung quanh như thời tiết không thuận lợi, sâu bệnh ở cây trồng, vật nuôi ảnh hưởng xấu đến thu nhập của hộ sản xuất và giảm khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng. Năm 2000, thường xuyên xảy ra lũ lụt, thời tiết xấu đã làm cho nợ quá hạn do thiên tai bất khả kháng gây ra chiếm tới 48,4 % tổng dư nợ quá hạn.
56
Một nguyên nhân cũng chiếm tỷ trọng cao là do khách hàng kinh doanh thua lỗ : năm 1998 là 44,9 % , năm 1999 là 43,8 %. Tuy nhiên nợ quá hạn do nguyên nhân này gây ra chỉ còn chiếm 37,2 % mặc dù con số này vẫn còn là quá cao. Điều này xuất phát từ năng lực sản xuất kinh doanh của nhiều hộ còn kém, thiếu thông tin về thị trường nhất là vấn đề giá cả hàng hoá. Tình trạng ép giá nông sản lúc thu hoạch xảy ra thường xuyên làm giảm thu nhập người lao động. Nhiều hộ do không tính toán được nhu cầu thị trường nên đầu tư cho sản xuất lớn, đến khi bán sản phẩm lại vượt quá nhu cầu thị trường dẫn đến thu lỗ, không trả được nợ ngân hàng. Đây là nguyên nhân khách quan, nhưng cũng có nhiều trường hợp do việc xác định kỳ hạn nợ không hợp lý nên dù chưa ra sản phẩm mà khách hàng đã đến hạn trả lãi, khách hàng phải dùng vốn lưu động hoặc vay nóng với lãi suất cao để trả nợ cho Ngân hàng. Kết quả là gây khó khăn cho hoạt động
sản xuất và có thể dẫn đến thua lỗ. Nguyên nhân này thường xuyên chiếm tỷ trọng xấp xỉ 50 % nợ quá hạn.
Một nguyên nhân khác cũng xuất hiện thường xuyên là khách hàng dùng sai mục đích số tiền vay hay còn gọi là "rủi ro đạo đức". Do tâm lý muốn giàu nhanh chóng, một số người vay đã dùng tiền Ngân hàng để kiếm lợi bất hợp pháp như chơi đề, cờ bạc, hụi (họ) hay buôn bán... Do số lượng khách hàng quá đông mà số lượng cán bộ tín dụng quá nhỏ dẫn đến việc kiểm tra sau khi cho vay lơi lỏng, tạo điều kiện cho khách hàng có những hành vi sử dụng vốn sai mục đích ban đầu.
Ngoài ra còn một số nguyên nhân khách quan như môi trường kinh tế - xã hội, sự thay đổi chính sách, trình độ của khách hàng, khách hàng lừa đảo Ngân hàng , tuy nhiên ảnh hưởng của những nguyên nhân này không đáng kể. Mặc dù vậy, Ngân hàng vẫn phải có những biện pháp đề phòng, ngăn chặn và hạn chế tới mức tối thiểu.
b. Nguyên nhân chủ quan :
Nguyên nhân về phía Ngân hàng không nhiều, chỉ chiếm khoảng 1,5 % nợ quá hạn nhưng hàng năm vẫn có thể xảy ra mà chủ yếu là do cán bộ tín dụng làm sai quy trình cho vay. Ngoài ra, do có buông lỏng kiểm tra món vay, xử lý gia hạn nợ không kịp thời, định kỳ hạn nợ cho khách hàng không phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc phân tích nợ chưa được tiến hành thường xuyên, đúng quy cách nên phát sinh nợ quá hạn là tất yếu.
Những nguyên nhân gây nợ qúa hạn hộ sản xuất phân tích ở trên cũng đồng thời là nguyên nhân dẫn đến chất lượng tín dụng Ngân hàng đối với hộ sản xuất bị tụt giảm.
IV. Đánh giá về hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất tại NHNo & PTNT
huyện Từ Liêm :
1. Kết quả đạt được :
a. Kết quả :
57
Kết quả nổi bật nhất là dư nợ cho vay hộ sản xuất ngày càng tăng và duy trì ở mức cao. Dư nợ hộ sản xuất hàng năm hơn 857,1 tỷ đồng, giúp trên 194 ngàn hộ sản xuất có đủ vốn đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh (chiếm 39% tổng số hộ trên địa bàn), giải quyết việc làm góp phần
thực hiện quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, thực hiện chính sách "xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới".
Khối lượng vốn tín dụng khá lớn, thực hiện đầu tư có trọng điểm đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế của tỉnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nông thôn. Doanh số cho vay hàng năm bình quân khoảng 620 tỷ đồng, riêng cho vay ngành nông nghiệp xấp xỉ 260 tỷ đồng mỗi năm trong đó chú trọng đầu tư tập trung vào các chương trình kinh tế , đặc biệt là ngành chăn nuôi hướng đến năng suất và chất lượng sản phẩm hàng hoá.
Hoạt động trên địa bàn tập trung nhiều làng nghề tiểu thủ công nghiệp (TTCN) , Ngân hàng đã đầu tư thích đáng cho khu vực này, chủ yếu là cho vay để mở rộng sản xuất mua máy móc, thiết bị, nguyên liệu. Ngân hàng có quan hệ thường xuyên với hơn 5.500 hộ sản xuất CN - TTCN ở nông thôn với mức dư nợ tăng liên tục qua các năm. Do đó đã giúp cho các hộ này phát huy được năng lực sản xuất , khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao như hàng thêu, ren, mây tre đan, sơn khảm.
Tỷ trọng dư nợ trung - dài hạn trong tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất cao, trung bình gần 46 % một năm : đây là một tỷ lệ cao mà không phải một chi nhánh Ngân hàng nào cũng đạt được, đặc biệt là Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiêp với đặc trưng sản xuất nông nghiệp là theo mùa vụ. Vốn đầu tư trung - dài hạn đã đáp ứng nhu cầu vốn của các hộ sản xuất về máy móc, thiết bị công tác phục vụ sản xuất , đầu tư chiều sâu như cải tạo đất vườn, mua giống cây ăn quả có giá trị kinh tế cao. .. góp phần nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp của hộ sản xuất.
Phát huy tính cộng đồng trách nhiệm bằng hình thức cho vay qua nhóm như hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh đã tập trung đầu mối khách hàng, nâng cao hiệu quả quản lý, giảm khối lượng công việc cho cán bộ tín dụng và tỷ lệ an toàn vốn cao (NQH thấp, tỷ lệ nợ quá hạn chỉ khoảng 0,5 %), dư nợ ngày càng tăng qua các năm. Đến nay Ngân hàng đã xây dựng và cho vay gần 5.500 nhóm với hàng vạn thành viên, trong đó 100 % cho vay hộ nghèo thông qua nhóm.
58
Chất lượng tín dụng là vấn đề sống còn đối với Ngân hàng luôn được củng cố và nâng cao. Trong hệ thống NHNo Việt Nam , NHNo huyện Từ
Liêm luôn là chi nhánh có chất lượng tín dụng cao. Tỷ lệ nợ quá hạn của Ngân hàng thấp trong nhiều năm liền so với các chi nhánh khác, tỷ lệ nợ quá hạn chung chỉ trên dưới 1 %, tỷ lệ NQH hộ sản xuất trung bình khoảng 1,2 %, trong khi dư nợ cho vay không ngừng mở rộng, tỷ lệ DS thu nợ/ DS cho vay HSX luôn đạt đạt xấp xỉ 88%. Công tác xử lý NQH luôn đạt kết quả tốt mặc dù rủi ro trong nông nghiệp rất lớn và Ngân hàng phải quản lý gần 100.000 món vay mỗi năm với con số tương đương số hộ còn dư nợ.
b. Nguyên nhân :
Nguyên nhân để đạt được những kết quả trên, bên cạnh những chủ trương, chính sách đúng đắn của Chính phủ, NHNo Việt Nam , còn là sự cố gắng của bản thân NHNo huyện Từ Liêm với những chính sách biện pháp của ngân hàng.
- Chuyển hướng đúng đắn trong kinh doanh. Mặc dù lúc thành lập, dư nợ DNNN và kinh tế tập thể chiếm 90 % tổng dư nợ, nhưng khách hàng đã xác định đối tượng khách hàng phục vụ chính là các hộ gia đình, chủ yếu là hộ nông dân. Nhờ đó Ngân hàng đã khai thác được tiềm năng to lớn của thị trường này không ngừng phát triển tạo được uy tín vững chắc trong lòng khách hàng.
- Theo sát mục tiêu kinh tế địa phương, xác định hướng phân bổ tín dụng từ đó lập kế hoạch kinh doanh tại mỗi Ngân hàng cơ sở để xác định hướng cho vay, mức cho vay từng đối tượng cụ thể trên địa bàn.
- Ngân hàng chú trọng hoạt động huy động vốn tạo nguồn cho hoạt động cho vay. Trên cơ sở tính toán nhu cầu tín dụng trên địa bàn, Ngân hàng xác định số vốn huy động. Bằng nhiều biện pháp về chính sách sản phẩm, thông tin tuyên truyền, gắn một phần tiền lương với kết quả huy động vốn, Ngân hàng luôn có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn khá cao.
59
- Mở rộng tín dụng luôn lấy hiệu quả làm thước đo. Hiệu quả thể hiện qua việc cho vay có trọng điểm, theo nhu cầu được tính toán chặt chẽ của khách hàng, bảo đảm an toàn vốn và sinh lời hợp lý. Cụ thể là phải kiểm tra chặt chẽ trước khi cho vay, trong quá trình sử dụng vốn vay, khả năng và hình thức hoàn trả, các vấn đề khác liên quan đến người vay. Việc thẩm định và quyết định cho vay được thực hiện bởi hai bộ phận khác nhau, độc lập với nhau từ khi tiếp nhận dự án đến khi phê duyệt cho vay.
- Củng cố mạng lưới Ngân hàng nhất là Ngân hàng loại 4 và Ngân
hàng lưu động tiếp cận gần dân.
- Đi đôi với việc tăng dư nợ, Ngân hàng tập trung vào việc củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng, coi đây là nhiệm vụ xuyên suốt cả năm. Mục tiêu đề ra là : "Thường xuyên - kịp thời - triệt để - toàn diện". Hàng tháng tổ chức phân tích thực trạng tín dụng đến 100 % khách hàng nhằm xác định khách hàng tập trung xử lý, phân loại dư nợ ra ba loại là nợ quá hạn, nợ đến hạn, nợ chưa đến hạn để có biện pháp xử lý cụ thể đến từng trường hợp, nhằm hạn chế NQH phát sinh. Mặt khác, chấn chỉnh quy trình nghiệp vụ tín dụng, bảo đảm nguyên tắc cho vay, quá trình thẩm định nhất là đối với món vay mới, đồng thời tăng cường kiểm tra sử dụng vốn vay và chất lượng hồ sơ đã cho vay, cụ thể trong tuần để cán bộ tín dụng tự kiểm tra chéo hồ sơ cho vay. Địa bàn cho vay được phân định rõ ràng, cấm cho vay chồng chéo khác địa bàn, nghiêm cấm tự ý thu nợ gốc, lãi vay tại nhà khách hàng, đổi miền 100 % CBTD và tiếp tục đổi miền Giám đốc và kế toán NH loại 4 nhằm xác định rõ thực trạng dư nợ quản lý.
- Tích cực đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng, tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao kiến thức chuyên môn và pháp luật đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Chi nhánh cũng đã thực hiện sàng lọc, sắp xếp tinh gọn lại bộ máy, bố trí đội ngũ cán bộ theo hướng tập trung tăng số cán bộ trực tiếp kinh doanh , giảm số lượng cán bộ gián tiếp. Hiện nay số cán bộ tín dụng đã chiếm trên 50 % tổng số cán bộ.
- Công tác thanh tra kiểm soát được coi trọng và thực hiện nghiêm túc bằng nhiều hình thức nh : kiểm tra thường xuyên, kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chuyên đề xác định, kiểm tra chéo, kiểm tra của lãnh đạo chi nhánh và cơ sở. Vì vậy, đã phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai sót trong thực thi quy trình nghiệp vụ, sửa chữa chấn chỉnh những mặt hạn chế, đảm bảo chất lượng tín dụng cao.
60
- Coi trọng xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa Ngân hàng với các cấp chính quyền địa phương, nắm vững tình hình phát triển kinh tế địa phương để xác định hướng cho vay, biện pháp tháo gỡ với những món vay gặp khó khăn. Vấn đề xã hội hoá hoạt động cho vay cũng mang lại những kết quả tích cực. Ngân hàng đã phối hợp với các đoàn thể , quần chúng để xây dựng các nhóm, thực hiện cho vay qua nhóm tạo thuận lợi cho hộ sản
xuất , đặc biệt là hộ nghèo trong quan hệ vay vốn Ngân hàng và nâng cao chất lượng tín dụng.
- Thực hiện tố cơ chế khoán tài chính đến nhóm và người lao động theo quy định của NHNo Việt Nam. NHNo huyện Từ Liêm đặt ra 5 tiêu chí để đánh giá công việc của cán bộ tín dụng : Huy động tiền gửi theo hoạt động của chi nhánh; dư nợ cho vay; thu hồi nợ ; thu nợ quá hạn; thu lãi. Từng tiêu chí lại được phân thành nhiều cấp hoạt động cụ thể. Ví dụ, nếu dư nợ cho vay là 2 tỷ đồng, hiệu suất hoạt động đánh giá là 100 % và nếu dư nợ cho vay là 1,5 - 2 tỷ đồng, hiệu suất hoạt động được đánh giá là 80 %. Các mức tương tự được xác định đối với các tiêu chí khác. Vào cuối tháng, tổng số điểm đánh giá hiệu suất lao động của cán bộ tín dụng được cộng và tính toán (theo tỷ lệ phần trăm). Khoán tài chính đã thúc đẩy hoàn thành số lượng công việc và nâng cao chất lượng tín dụng. Đồng thời kích thích tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ, tạo ra bước chuyển trong kết quả kinh doanh.
2. Hạn chế trong hoạt động cho vay hộ sản xuất :
a. Hạn chế
Tốc độ tăng trưởng dư nợ hộ sản xuất mấy năm qua đạt thấp chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu của cộng đồng. Năm 2000 dư nợ cho vay ngắn hạn tăng không đáng kể, một số Ngân hàng huyện thị như NHNo Thường Tín, Chương Mỹ, Ba Vì, Quốc Oai
Doanh số cho vay hộ sản xuất mấy năm qua chững lại, doanh số thu nợ tăng không đáng kể, năm 2000 doanh số thu nợ tưng không đáng kể. Số tiền trung bình một món vay còn thấp (dưới 5 triệu), tỷ lệ nợ quá hạn so với toàn hệ thống là thấp, song chưa phản ánh thực chất lượng tín dụng của Ngân hàng. Nợ khó đòi vẫn ở mức cao chiếm tới xấp xỉ 37 % nợ quá hạn, trong đó nợ quá hạn trên 12 tháng vẫn chiếm tỷ trọng cao. Việc ra hạn nợ tiến hành không nghiêm túc, thờii gian ra hạn nợ dài, gia hạn nhiều lần, gia hạn để đối phó. Việc phân tích nợ quá hạn, nợ đến hạn làm hình thức nên lúng túng trong xử lý nợ, khó khăn trong thu hồi nợ quá hạn và nợ quá hạn tiền ẩn khá cao. Khả năng thất thoát vốn còn lớn.
61
Có sự chênh lệch khá lớn giữa các huyện, thị về kết quả hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất. Xét về doanh số cho vay hộ sản xuất năm 2000 chỉ có 8/ 14 huyện thị đạt mức trung bình là 39 tỷ đồng trong đó có
những NHNo huyện rất thấp như NHNo Đan Phượng (18 tỷ). Về dư nợ cũng chỉ có 8/ 14 huyện thị đạt trên mức trung bình, chênh lệch giữa mức cao nhất và thấp nhất đến 45 tỷ đồng. Điều này cho thấy, nhiều khu vực thị trường hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất còn gặp khó khăn.
Hiệu quả vốn cho vay hộ sản xuất đối với phát triển kinh tế của tỉnh, thể hiện qua tốc độ tăng trưởng kinh tế còn thấp, CDP năm 2000 chỉ tăng 7,2 % trong đó tốc độ tăng của ngành nông nghiệp là 4,6 %. Trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế địa phương còn thấp kém, lạc hậu, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm. Kinh tế hộ sản xuất chưa phát triển như tiềm năng của tỉnh, thể hiện mức sống dân cư còn thấp. Hiện nay vốn tín dụng của Ngân hàng chủ yếu tập trung vào nguồn nông nghiệp. Tỷ trọng cho vay ngành này chiếm 76 % tổng dư nợ cho vay hộ sản xuất. Trong khi đó vốn đầu tư cho ngành CN - TTCN vẫn ở mức thấp, trung bình khoảng 15 % năm. Khối lượng tín dụng hiện tại chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp, ngành đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của địa phương và trong quá trình thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Định thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ chưa hợp lý, chưa căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc thu nợ gốc vào cuối kỳ hạn nợ không tạo cho khách hàng thói quen trả nợ.
Điều kiện thứ năm về bảo đảm tiền vay của chỉ tiêu cho vay bảo đảm có điều kiện chưa được thực hiện nghiêm túc. Đối với hộ sản xuất vay đến 5 triệu và/ hoặc 10 triệu vẫn yêu cầu kê khai tài sản thế chấp.
Quá trình thẩm định chưa được cán bộ tín dụng làm tốt theo quy định, cả cán bộ tín dụng lẫn người vay vốn đều không biết chắc chắn về khả năng sinh lời của dự án.
Chi phí trên một món vay còn cao nhất là đối với món vay nhỏ của hộ nghèo. Mức lãi suất cho vay định ra chưa linh hoạt, hiện nay ngân hàng chỉ áp dụng một mức lãi suất cho cả vay ngắn hạn trung và dài hạn.
62
Cán bộ tín dụng rất ít tư vấn cho khách hàng trong khi nhu cầu tư vấn từ phía khách hàng là rất lớn do trình độ của khách hàng thấp, thiếu kinh nghiệm sản xuất. Cán bộ tín dụng vẫn chịu tâm lý nặng nề việc phải chịu rủi ro tín dụng, do đó cán bộ tín dụng không phát huy hết năng lực và khả năng tín dụng của mình. Theo quy định, trong trường hợp có mức nợ quá hạn tương đương với 10 triệu đồng, cán bộ tín dụng phải tạm dừng cho vay để thu hồi nợ.
Ngân hàng hầu như không có những sản phẩm hay những chính sách để khuyến khích khách hàng trả nợ đúng hạn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng.
b. Nguyên nhân.
* Nguyên nhân khách quan :
- Môi trường kinh doanh chưa ổn định : Nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường mới được một thời gian ngắn, nhiều hộ nông dân không bắt kịp những thay đổi của các chính sách kinh tế vũ mô cũng như đòi hỏi ngày càng cao và luôn thay đổi của thị trường nhất là về chất lượng, chủng loại, giá cả sản phẩm hàng hoá. Đa số hộ sản xuất bị hạn chế về năng lực sản xuất kinh doanh, trình độ và kinh nghiệm quản lý và kỹ thuật sản xuất thủ công lạc hậu, vốn tích luỹ ban đầu rất nhỏ nên trong điều kiện cạnh tranh gay gắt trên thị trường, việc sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, sự hỗ trợ của Nhà nước về vốn, công nghệ, cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp, nông thôn còn thấp kém mạng lưới cung cấp nguyên liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa phát triển đã ảnh hưởng nhiều đến sản xuất của các hộ sản xuất. Điều này làm hạn chế đến mở rộng cho vay của Ngân hàng vì rủi ro cao.
- Một nguyên nhân khách quan là do những hạn chế như trình độ dân trí thấp, thiếu những kỹ năng, kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất nên có rất nhiều khách hàng không biết nên sản xuất cái gì, nuôi con nào, trồng cây gì và sản xuất như thế nào. Vì vậy mà tiền vay không được sử dụng đúng mục đích, khả năng khách hàng không trả được nợ cao. Do đó, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng.
* Nguyên nhân chủ quan :
63
Xuất phát từ đặc thù của sản xuất nông nghiệp, các món vay chủ yếu là nhỏ lẻ, số lượng món vay lớn. Số tiền vay mỗi lượt của hộ sản xuất trên địa bàn chỉ khoảng 5 triệu đồng, trong khi hàng năm có khoảng 100.000 món vay của hàng chục ngàn hộ vay vốn. Chi phí cho món vay gồm chi phí tìm kiếm và quản lý các khoản cho vay, chi phí điều tra tín dụng, lưu trữ bảo quản hồ sơ tín dụng, quản lý tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có) và chi phí thu nợ. Rõ ràng là các chi phí trên đối với món vay 1 tỷ đồng một lần của một doanh nghiệp lớn sẽ nhỏ hơn nhiều vơí cùng số tiền 1 tỷ đồng nhưng là 200 món vay của hộ sản xuất. Vì vậy chi phí cho một món vay còn cao.
Có sự quá tải công việc đối với các cán bộ tín dụng (CBTD)
Năm 2000, bình quân 1 CBTD cho vay hộ sản xuất khoảng 1,8 tỷ đồng, thu nợ khoảng 1,9 tỷ đồng, quản lý gần 660 hộ. Dư nợ hộ sản xuất bình quân một CBTD là 2,4 tỷ đồng trong đó có một số chi nhánh Ngân hàng cơ sở bình quân gần 4 tỷ đồng. Theo đánh giá chung của các cán bộ làm công tác tín dụng trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước thì một CBTD quản lý khoảng 500 hộ sản xuất là có thể đảm bảo đương tốt công việc, tất nhiên số lượng này khác nhau tuỳ từng đặc điểm của mỗi vùng.
Theo quy định hiện này, CBTD phải trực tiếp thực hiện các công việc sau : Tiếp nhận giấy đề nghị vay vốn của khách hàng, kiểm tra tính xác thực và đầy đủ của hồ sơ xin vay, kiểm tra các điều kiện vay vốn theo quy định : thẩm định, kiểm tra đối tượng vay vốn là tính khả thi, hiệu quả của phương án hay dự án kinh doanh ; kiểm tra việc sử dụng vốn vay ; việc trả nợ đúng hạn ; quản lý hồ sơ vay vốn theo quy định. Số lượng khách hàng đông, hồ sơ cho vay quản lý nhiều, địa bàn nhiều vùng đi lại khó khăn nên một số CBTD thẩm định cho vay sơ sài, thiếu chặt chẽ, thiếu kiểm tra thực tế, số khác lại quá thận trọng và chặt chẽ làm mất đi nhiều cơ hội kinh doanh có lợi cho Ngân hàng. Mặt khác, cơ chế giải ngân, thu nợ trực tiếp cũng là nguyên nhân gây qúa tải đối với CBTD.
Trong chiến lược kinh tế của chính phủ, từ năm 2000 tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn sẽ tăng lên 50 %, do đó sự quá tải đối với CBTD là điều đáng lo ngại vì đây là lực lượng quan trọng giải ngân cho nền kinh tế , đảm bảo chất lượng tín dụng, đảm bảo sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
64
Nhận thức về cơ chế khoán tài chính chưa đúng, chưa đầy đủ. Khoán tài chính thực chất là gắn trách nhiệm với quyền lợi của người lao động đến kết quả kinh doanh cuối cùng, tạo bước chuyển đổi trong hoạch toán kinh doanh , tự chủ về tài chính, thúc đẩy đơn vị, cá nhân tích cực vươn tới mục tiêu mở rộng kinh doanh có hiệu quả. Song một số đơn vị có hiện tượng cào bằng trong giao khoán, quyết toán khoán và phân phối tiền lương do đó không kích thích động lực kinh doanh của người lao động. Một số nơi còn giao trắng cho cán bộ mà không theo dõi, kiểm tra xem bộ phận, cá nhân nhận khoán thực hiện đến đâu, thực hiện như thế nào, dẫn đến có hiện tượng chạy theo thu thập thuần tuý, cho vay theo số lượng không chú ý đến
chất lượng làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của đơn vị và Ngân hàng.
Thông tin phòng ngừa rủi ro trong hoạt động tín dụng chưa được quan tâm, sử dụng một cách tối ưu. Các dữ liệu trong máy vi tính, thông tin từ các phương tiện báo chí, các cuộc hội thảo khoa học trong và ngoài nước chưa được khai thác triệt để phục vụ cho quản lý, điều hành của các cấp lãnh đạo cũng như công tác của cán bộ tín dụng.
Công tác kiểm tra, kiểm soát : Đây cũng là công cụ quản lý đảm bảo cho hoạt động của Ngân hàng thực hiện đúng quy định của pháp luật , các quy chế quản lý của ngành, của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam , hạn chế rủi ro trong kinh doanh , bảo vệ an toàn tài sản, đảm bảo tính chính xác, độ tin cậy của thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành. Vai trò chủ động kiểm tra, kiểm soát của các chi nhánh cơ sở chưa làm thường xuyên, chưa sâu sát và nghiêm túc cả về nội dung và phương pháp.
Trình độ đội ngũ cán bộ Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng không đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Cán bộ tín dụng thường sử dụng những kinh nghiệm truyền thống hơn là dựa trên những phân tích tài chính và kỹ thuật để thẩm định dự án cũng như xác định thời hạn và kỳ hạn nợ cho từng món vay. Các phương pháp phân tích dòng lưu chuyển tiền mặt, phân tích về khả năng sinh lời của dự án, các phương pháp thẩm định tài chính của dự án... chưa được CBTD sử dụng.
65
Một nguyên nhân gây ra nợ quá hạn và nợ quá hạn tiềm ẩn do CBTD thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay còn sai sót, điều tra ban đầu chưa sát thực tế dẫn đến cho vay không đúng nhu cầu, định kỳ hạn nợ tuỳ tiện gây khó khăn cho sản xuất hoặc trả nợ Ngân hàng của khách hàng vay vốn. Đồng thời sự hiểu biết của CBTD về kỹ thuật và những vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh , về cây trồng, vật nuôi. .. còn hạn chế.
Chương III giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ sản xuất
I. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất
1. Chính sách tín dụng đối với hộ sản xuất của Nhà nước :
Với quan điểm khẳng định kinh tế hộ gia đình luôn có vị trí quan trọng, Đảng và Nhà nước ta có rất nhiều chính sách ưu đãi cho nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản xuất nói riêng. Các chính sách ưu đãi này được cụ thể hóa trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lĩnh vực Ngân hàng có chính sách tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Chính sách này được quy định tại Điều 8 - Luật các tổ chức tín dụng "Nhà nước có chính sách tín dụng tạo điều kiện về vốn, lãi suất, điều kiện, kỳ hạn vay vốn đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá , thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn
Sau đó, Thủ trướng chính phủ đã ban hành quyết định số 67/ 1999/ QĐ - TTg về một chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản số 320/ NHNN14 giao cho NHNo & PTNT Việt Nam chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. NHNo & PTNT Việt Nam ban hành văn bản số 791/ NHNP - 06 cụ thể hoá nội dung thực hiện chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm góp phần cùng các ngành, lĩnh vực khác thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn và phát triển kinh tế các hộ sản xuất trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.
2. Định hướng chung của NHNo & PTNT Việt Nam :
66
Để thực hiện hướng đầu tư và chính sách tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn do Chính phủ đề ra, đồng thời căn cứ định hướng của Thống đốc NHNN, NHNo & PTNT Việt Nam đưa ra định hướng : Tăng cường năng lực tài chính, nâng cao năng lực quản lý điều hành, tăng cường quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm để thực hiện tốt vai trò chủ lực và chủ đạo trong hệ thống tín dụng nông nghiệp,
nông thôn và nâng cao chất lượng kinh doanh, giảm thiểu rủi ro tín dụng, đa dạng hoá và hiện đại hoá các hoạt động dịch vụ Ngân hàng.
Đồng thời NHNo & PTNT Việt Nam cho vay các đối tượng chủ yếu
sau :
- Ưu tiên cho cây trồng, vật nuôi theo hướng sản phẩm hàng hoá, vùng chuyên canh tập trung. Đối với ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống cho vay theo hướng tập chung, có thị trường ổn định trong và ngoài nước.
- Ưu tiên những vùng sản xuất hàng hoá tập trung, vùng sinh thái nuôi trồng đặc sản, trong đó đồng bằng sông Hồng là lương thực, rau quả, chăn nuôi lợn, gà, trâu bò.
- Hộ gia đình là khách hàng chủ yếu, khuyến khích phát triển loại
hình kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác.
3. Định hướng phát triển kinh tế tỉnh Hà Tây :
Từ nay đến hết năm 2001 Hà Tây vẫn là một tỉnh nông nghiệp. Mục tiêu đề ra là đạt cơ cấu kt : Nông nghiệp 40 %, Công nghiệp và xây dựng 30 %, du lịch và dịch vụ 30 %. Định hướng cụ thể là
Phát triển nông nghiệp theo hướng CNH - HĐH đồng thời tiến hành
đồng bộ các yếu tố cơ bản sau :
+ Vật liệu sản xuất nông nghiệp : thông qua thành tựu và tác động của công nghệ sinh học, hoá học tạo ra giống mới có năng xuất, chất lượng cao.
+ Đổi mới động lực, công cụ sản xuất nông nghiệp : tập chung chủ yếu vào những ngành và công đoạn có nhu cầu cấp thiết mà lao động thủ công làm không có hiệu quả như bơm nước, bảo vệ thực vật, làm đất chế biến, bảo quản, vận chuyển... trước hết vào những vùng nông nghiệp tập trung, thâm canh sản xuất nhiều nông sản cho nhu cầu xuất khẩu.
67
Phát triển mạnh mẽ các ngành nghề nông nghiệp nông thôn. Công nghiệp nông thôn được xác định bắt đầu bằng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp được hình thành và tồn tại trong các làng xã chuyên làm nông nghiệp với vị trí là nghề phụ và trong các làng nghề truyền thống. Khuyến khích các thành phần kinh tế mở ra nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng.
Cải tạo, xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thông ; xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ tưới tiêu, nâng cấp phát triển giao thông nông thôn, lưới điện, y tế, giáo dục...
4. Định hướng về hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất của
NHNo & PTNT huyện Từ Liêm :
Thứ nhất, bám sát mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương, Ngân hàng chủ động kịp thời nắm bắt nhu cầu đầu tư, dự án đầu tư, đối tượng đầu tư ở từng vùng, từng xã để thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp , nông thôn.
Mục tiêu phấn đấu tổng dư nợ đạt 1.236 tỷ đồng, trong đó dư nợ
trung - dài hạn là 600 tỷ đồng.
Thứ hai: Gắn tín dụng với đầu tư phát triển nông thôn qua quá trình liên kết các thành phần kinh tế , áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khép kín đầu tư từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ sản phẩm và xuất khẩu. Cụ thể là :
+ Tập trung vốn tín dụng cho sản xuất , mua giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao; xây dựng các công trình thủy lợi nội đồng ; mua phân bón, hoá chất, thiết bị công tác.
+ Tiếp tục cho vay phát triển chăn nuôi theo chương trình dự án
nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
+ Đầu tư khôi phục hiệu quả ngành nghề truyền thống, mạnh dạn phát triển những ngành nghề mới nhằm tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân.
+ Nghiên cứu đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn, lao động, đất đai.
Thứ ba : Giảm thấp nợ quá hạn và nợ có vấn đề theo phương châm "An toàn để phát triển, phát triển phải an toàn". Mục tiêu là tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm là dưới 1 %.
II. Một số giải pháp cơ bản :
68
Để nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng nhằm phát triển kinh tế hộ sản xuất phải đảm bảo hài hoà tất cả các chỉ tiêu chất lượng tín dụng đối
với hộ sản xuất. Do vậy Ngân hàng phải kết hợp đồng bộ các giải pháp cơ bản.
1. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất :
a. Cho vay tập trung, có trọng điểm
Đầu tư vốn tập trung, có trọng điểm đối với khách hàng thuộc những ngành, vùng có tiềm năng lớn và triển vọng phát triển bền vững. Một nguyên tắc quan trọng để tránh rủi ro của Ngân hàng khi thực hiện cho vay đối với khách hàng là "đòi hỏi phải tiến hành kinh doanh một cách thận trọng", vì vậy Ngân hàng phải chọn lọc khách hàng một cách kỹ lưỡng.
Trước mắt Ngân hàng cần tiếp tục đầu tư vào các tiểu ngành hoạt động có hiệu quả là chăn nuôi lợn, gà, gia cầm, trâu bò, trồng cây ăn quả, chế biến nông sản... Khôi hục và phát triển các làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống là một định hướng lớn trong chính sách kinh tế của tỉnh, do vậy Ngân hàng cần trú trọng đầu tư cho các hộ làm nghề.
Các sản phẩm tiểu thủ công nghiệp làm ra có giá trị cao, tuy nhiên còn nhiều khó khăn về khâu nguyên liệu, giá vật tư đầu vào, tìm kiếm thị trường tiêu thụ... nên sự phát triển còn chậm, do đó cần cẩn trọng khi vay.
b. Đẩy mạnh cho vay hộ sản xuất qua tổ nhóm tương trợ (tổ tín
chấp).
Tổ tương trợ là mô hình do cộng đồng dân cư tự nguyện thành lập, dưới sự chỉ đạo của chính quyền xã hay các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội được UBND xã công nhận và cho phép hoạt động. Hoạt động của tổ tương trợ là nhằm giúp đỡ nhau giữa các thành viên và giải quyết tốt các vấn đề sau :
Thứ nhất : Tổ là nơi sản xuất và đánh giá nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất bảo đảm công khai, chuẩn xác, kịp thời. Nhờ đó Ngân hàng giải ngân nhanh mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng
Thứ hai : Việc hình thành tổ tín chấp vay vốn có quy ước riêng là điều kiện cần thiết, thực hiện vai trò kiểm tra, đôn đốc, giám sát sử dụng vốn vay, trả nợ đúng hạn của hộ vay vốn.
69
Thứ bai : Tổ cũng là nơi để các hộ sản xuất tương trợ nhau, không những về nhu cầu tín dụng mà còn về kiến thức kỹ thuật sản xuất , về nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra.
Thứ tư : Cho vay qua tổ tín chấp sẽ khắc phục được khó khăn về tài sản thế chấp của hộ xin vay mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng. Bởi lý do tài sản thế chấp gần như không có khả năng phát mại do tập quán của người Việt Nam không muốn mua lại các tài sản này.
Hình thức chuyển tải vốn tín dụng tới hộ sản xuất thông qua tổ tín
chất đem lại lợi ích cho cả hai phía : hộ vay vốn và Ngân hàng.
Đối với hộ gia đình họ có khả năng tiếp cận vốn tín dụng Ngân hàng mà không mất nhiều chi phí giao dịch, đi lại. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì hiện nay số tiền vay của đa phần các hộ gia đình còn nhỏ nên người dân dễ nảy sinh tâm lý ngại đi vay ngân hàng mà vay mượn những người xung quanh, gây tình trạng cho vay nặng lãi không có hiệu quả kinh tế - xã hội.
Đối với Ngân hàng, thông qua hình thức tổ tín chấp, việc cung cấp tín dụng được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn đồng thời đảm bảo an toàn cho vốn vay. Kết quả thực hiện cho vay qua "nhóm" của NHNo huyện Từ Liêm đã cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn hàng năm rất thấp dưới 1%. Mặt khác, cho vay qua "nhóm" giảm áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng. Với số tiền hộ sản xuất vay hàng năm xấp xỉ 3 triệu đồng, nếu muốn tăng 25 % dư nợ phải chấp nhận tăng thêm khoảng 26% số lượng khách hàng, như thế áp lực quá tải ngày càng nặng nề làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Tuy nhiên với tổ tương trợ thì các thành viên của tổ đưa đơn xin vay vốn và phương án kinh doanh cho tổ trưởng. Việc hoàn thành thủ tục vay vốn do tổ trưởng đảm nhiệm.
Với kinh nghiệm những năm qua Ngân hàng có thể áp dụng hình thức này sâu rộng hơn nữa. Tuy nhiên để chất lượng tínd ụng ngày càng được nâng cao và cho vay qua "nhóm" ngày càng có hiệu qủa thì Ngân hàng cần được thực hiện tốt một số vấn đề sau :
- Thứ nhất : Ngân hàng phối hợp tốt với các tổ chức chính tị xã hội đặc biệt là Hội nông dân, Hội phụ nữ và Hộ cựu chiến binh. Đây là các tổ chức chính trị thích hợp điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
- Thứ hai : Ngân hàng tổ chức các lớp bồi dưỡng cho trưởng n hóm
kiến thức cơ bản về quản lý, về nghiệp vụ tín dụng. ..
70
- Thứ ba : Ngân hàng nên triển khai thí điểm cho vay hộ sản xuất qua HTX. Điều này cũng tương tự như cho vay quá nhóm nhưng trước mắt
giúp Ngân hàng giải quyết được hạn chế liên quan đến tư cách pháp nhân của nhóm.
- Thứ tư : Về lâu dài, trong quá trình sàng lọc Ngân hàng nên chuyển
một số tổ tín chấp có đủ điều kiện sang thể chế tài chính vi mô.
c. Thực hiện cho vay không phải thế chấp
Theo quy định hiện nay những hộ vay vốn sản xuất kinh doanh đến 10 triệu đồng thì không phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản. Quy định này tạo điều kiện cho nhiều hộ sản xuất nhỏ, thu nhập thấp tiếp cận đến vốn tín dụng Ngân hàng , nhưng mặt khác cũng làm phát sinh nguy cơ có hàng ngàn món vay nhỏ bị mất an toàn. Do đó, thường Ngân hàng vẫn yêu cầu khách hàng phải kê khai tài sản thế chấp. Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp :
- Thứ nhất : Ngân hàng nên bỏ thông lệ yêu cầu người vay kê khai tài sản và coi tài sản kê khai là tài sản thế chấp. Danh sách tài sản nên được sử dụng là thông tin cần thiết cho cán bộ tín dụng và chỉ được sử dụng trong quá trình thẩm định món vay đồng thời khẳng định tính nghiêm túc của mục đích vay vốn.
- Thứ hai : Để giải quyết vấn đề về tài sản thếp chấp của người xin vay và không bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ tín dụng với các hộ có tiềm năng cán bộ tín dụng có thể tham khảo phương pháp cho điểm tín dụng : Phương pháp này nhằm xác định rủi ro tín dụng theo những khía cạnh đánh giá khác nhau. Phương pháp sử dụng 3 tiêu thức cơ bản về người vay để đánh giá là : tư cách, năng lực, vốn (hay khả năng tài chính).
1. Tư cách + năng lực + vốn = điểm rủi ro tín dụng tốt
2. Tư cách + năng lực + vốn thiếu = điểm khá
3. Tư cách + vốn + năng lực thiếu = điểm khá
4. Tư cách khiếm khuyết + năng lực + vốn = điểm nghi ngờ
5. Tư cách + năng lực - vốn = điểm hạn chế
6. Tư cách - năng lực + vốn = điểm kém
7. Năng lực + vốn - tư cách = điểm nguy hiểm
71
8. Vốn - tư cách - năng lực = điểm đặc biệt xấu
9. Tư cách - năng lực - vốn = điểm kém
10. Năng lực - tư cách - vốn = tín dụng lừa đảo
+ Về tư cách người vay : Nhiều chuyên gai Ngân hàng xem đây là yếu tố hàng đầu tạo ra sự thành công của một hợp đồng tín dụng. Đó là sự trung thực, ý thức trách nhiệm cao đối với các cam kết trong hợp đồng vay vốn. Việc điều tra tư cách người vay có thể thực hiện qua việc tiếp xúc trực tiếp, qua hồ sơ lưu trữ tại Ngân hàng trong những lần vay trước, từ các nhà cung cấp nguyên liệu đầu vào, họ được liệt kê khi khách hàng xin vay vốn. Khi đánh giá khả năng tài chính của người vay ngoài đánh giá khả năng tài chính cần tính đến thu nhập dự kiến tương lai của người xin vay.
Ngoài các biện pháp trên. Ngân hàng còn phải áp dụng các biện pháp tổ chức và kiểm soát quá trình giải ngân để đảm bảo việc sử dụng vốn vay dúng mục đích như thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
d. áp dụng các biện pháp phân tích tài chính kỹ thuật trong quy trình
tín dụng.
Cán bộ tín dụng tại NHNo huyện Từ Liêm thường sử dụng kinh nghiệm truyền thống trong quy trình tín dụng, do đó chất lượng tín dụng không đảm bảo. Để giải quyết vấn đề này Ngân hàng phải thực hiện các biện pháp sau :
- Thứ nhất : Ngân hàng phải nâng cao chất lượng thẩm định dự án hoặc phương án sản xuất kinh doanh của hộ xin vay vốn, thực hiện nghiêm túc quá trình thẩm định trước khi ra quyết định cho vay. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng sử dụng các phương pháp phân tích về tài chính cũng như về kỹ thuật để thẩm định dự án. Cán bộ tín dụng phải thẩm định được khả năng sinh lời của dự án để từ đó ra quyết định cho vay hay không cho vay.
- Thứ hai : Đối với những món vay nhỏ cần áp dụng thủ tục riêng để
thẩm định làm cho hoạt động phân tích trở nên đơn giản hơn.
72
- Thứ ba : Ngân hàng cải tiến thủ tục thẩm định món vay trung và dài hạn. Ngân hàng soạn thảo các mô hình tài chính cho quá trình sản xuất, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng trọt... để giúp cán bộ tín dụng thẩm định món vay cả về phương diện kỹ thuật và tài chính. Ngân hàng cần triển khai các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về các vấn đề này nhằm cần triển khai hoá
các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về các vấn đề này nhằm nâng cao khả năng cũng như trình độ thẩm định dự án của cán bộ tín dụng.
- Thứ tư : Khi quyết định thời hạn cho vay và định kỳ hạn nợ, Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng phải sử dụng phương pháp phân tích dòng lưu chuyển tiền tệ và gắn với chu kỳ sản xuất kinh doanh hơn là kinh nghiệm truyền thống. Đồng thời Ngân hàng phải trợ giúp cán bộ tín dụng kiến thức về vấn đề này thông qua các khoá đào tạo.
e. Thực hiện công tác thu nợ có hiệu quả, ngăn ngừa nợ quá hạn
tiềm ẩn và nợ quá hạn mới phát sinh :
- Chất lượng tín dụng cao còn thể hiện qua công tác thu nợ có hiệu quả. Vì vậy, ngân hàng cần một hệ thống thu nợ để nhắc nhở những khoản nợ đến hạn của khách hàng cũng như đôn đốc họ trả nợ. Hoạt động của hệ thống này rất quan trọng vì chứng tỏ rằng Ngân hàng :
+ Có hiệu quả trong việc kiểm tra và quản lý tài sản vay
+ Nghiêm khắc trong hoạt động kinh doanh
+ Muốn duy trì quan hệ tốt đẹp với khách hàng
Việc gửi thư nhắc nhở và tiến hành đòi nợ có tính hệ thống và đúng lúc phải được thực hiện đối với tất cả các tài khoản. Trong thông báo, lời lẽ phải lịch thiệp song cũng cần nghiêm khắc, cương quyết yêu cầu khách hàng thanh toán đủ và đúng hẹn.
Ngân hàng luôn duy trì tổ chức phân tích tình hình dư nợ và tình hình dư nợ đến từng xã, từng cán bộ và từng khách hàng. Qua việc phân tích xác định rõ món vay có vấn đề, nợ quá hạn theo mức độ khác nhau ; xác định xã trọng điểm, khách hàng trọng điểm. Định kỳ hàng tháng ngân hàng chia hoạt động tín dụng ra 4 phần để phân tích và chỉ đạo cụ thể từng phần như sau
+ Đối với nợ quá hạn : Tổ chức phân tích từng đối tượng và phân ra 3 loại : loại thu được ngay, loại thu dần một phần và loại khó thu. Từ đó, xác định rõ nguồn thu, biện pháp thu, thời gian thu phù hợp.
73
+ Đối với nợ sắp đến hạn : Từ ngày 01 đến ngày 10 tháng trước, tổ chức in ra những món nợ đến hạn của tháng sau , thông báo cho cán bộ tín dụng. Từ ngày 20 đến ngày 25 cán bộ tín dụng đi thâm nhập khách hàng để xác định khả năng thu của từng khách hàng đến hạng tháng sau, từ đó có
biện pháp cụ thể đến từng khách hàng, nếu có khó khăn phải báo cáo lãnh đạo để có biện pháp giúp đỡ. Làm tốt phần này đã hạn chế nợ quá hạn phát sinh.
+ Đối với nợ chưa đến hạn : Sẽ tổ chức kiểm tra sau, chú ý những món nợ từ 10 triệu đồng trở lên và tập trung kiểm tra vào hai nội dung chính đó là : Vật tư bảo đảm tiền vay và diễn biến của tài sản thế chấp. Nếu có vấn đề thì xử lý theo các biện pháp tín dụng, giúp đỡ khách hàng sớm khắc phục khó khăn có điều kiện trả nợ Ngân hàng.
+ Đối với các món cho vay mới : Yêu cầu cho vay nghiêm chỉnh, đúng quy trình nhằm tạo ra mặt bằng dư nợ mới chất lượng lành mạnh hơn.
Để xử lý những khoản nợ quá hạn cần thực hiện các giải pháp sau
* Đối với nợ quá hạn phải thu ngay : là loại nợ bị quá hạn do định kỳ hạn nợ chưa sát, do thu hoạch mùa vụ chậm, tiêu thụ sản phẩm và thanh toán chậm, do nguyên nhân khách quan như thiên tai mất mùa, cán bộ phải bám sát để theo dõi đôn đốc thu hồi nợ, cho phép khách hàng được gia hạn nợ. Khi khách hàng có đủ khả năng trả nợ phải thu ngay, thu đủ 100 %. Tuy nhiên, Ngân hàng cần ngăn chặn việc gia hạn nợ tuỳ tiện, gia hạn nhiều lần để chạy theo chỉ tiêu đề ra khi nhận khoán, giấu giếm khuyết điểm. Cán bộ tín dụng phải xác định được các nguồn hoàn trả của hộ vay, nếu điều này không thể thực hiện được thì không được phép gia hạn. Đối với hhộ vay có tài sản thế chấp khi gia hạn không đủ giá trị theo quy định thì phải yêu cầu có thêm tài sản thế chấp khác.
* Đối với nợ quá hạn phải thu dần : là loại nợ khách hàng thiếu khả năng thanh toán không đủ tiền trả ngay một lần, cán bộ tín dụng phải chia số nợ ra nhiều kỳ để khách hàng trả dần, mỗi lần ít nhất 20 % số nợ ghi trên khế ước.
* Đối với nợ khó đòi : Tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng số nợ quá hạn của ngân hàng cao do cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan như khách hàng sử dụng sai mục đích vốn vay, kinh doanh kém dẫn đến thua lỗ. Có thể áp dụng các biện pháp như thu giữ tài sản thế chấp, thu hồi sản phẩm vào mùa vụ. ..
g. Ngân hàng chủ động tìm các dự án và tư vấn cho v khách hàng.
74
Một nguyên nhân dẫn đến khách hàng không có khả năng trả nợ là khách hàng không biết sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và tiêu thụ ở
đâu. Vì vậy nhu cầu tư vấn của khách hàng rất lớn. Để giải quyết vấn đề n ày, Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau :
- Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm các dự án sản xuất, kinh doanh đưa đến cho khách hàng và trợ giúp vốn, cho khách hàng. Ngân hàng giúp khách hàng lập dự án và tính toán khả năng sinh lời của dự án.
- Ngân hàng phối hợp với các cơ quan khoa học, kỹ thuật để giúp tư vấn cho khách hàng về kỹ thuật sản xuát, về các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh , về ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Ngân hàng tổ chức các lớp đào tạo cán bộ tín dụng về KHKT liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, về pháp luật. .. để cán bộ tín dụng trực tiếp tư vấn cho khách hàng.
- Ngân hàng tư vấn cho khách hàng về các vấn đề pháp lý liên quan đến các hợp đồng sản xuất, kinh doanh, hợp đồng thực hiện dự án khi có nhu cầu.
- Ngân hàng chủ động phối hợp cùng các ngành khác tìm thị trường cung ứng và thị trường tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng. Đồng thời Ngân hàng cũng thực hiện cho hộ sản xuất vay thông qua các Công ty cung ứng vật tư và tổ chức bao tiêu sản phẩm. Đây là hình thức cho vay gián tiếp đến hộ sản xuất của Ngân hàng, với quy trình tín dụng có cơ cấu ba bên : Ngân hàng, công ty cung ứng vật tư hoặc đơn vị bao tiêu sản phẩm và hộ sản xuất
h. Ngân hàng đưa ra các sản phẩm khuyến khích :
Các sản phẩm này vừa khuyến khích hộ sản xuất vay vốn vừa
khuyến khích hộ trả nợ đúng kỳ hạn.
75
Khuyến khích hoàn vốn nhanh : Theo đặc tính này, Ngân hàng định ra một mức lãi xuất cao hơn mức lãi suất vay thông thường. Nếu khách hàng trả gốc và lãi đúng hạn hoặc trước hạn thì vào ngày đáo hạn khách hàng đó sẽ được hưởng 20 % số lãi mà họ đã thanh toán trong Ngân hàng. Yếu tố này thúc đẩy họ thanh toán đúng hạn. Bên cạnh đó, đặc tính này tạo ra sự gặp gỡ thường xuyên giữa Ngân hàng và khách hàng và đến lượt nó sự giao thiệp thường xuyên này giúp Ngân hàng giám sát và đưa ra giải
pháp giải quyết nợ khó đòi có thể xảy ra hoặc hỗ trợ khách hàng trong sản xuất.
Cho vay trả góp : Việc thu nợ gốc vào cuối kỳ hạn nợ đã không tạo cho khách hàng thói quen trả nợ, đặc biệt đối với những hộ thu nhập thấp. Vì vậy., Ngân hàng đưa ra phương thức cho vay trả góp, phương thức này cho phép khách hàng trả nợ gốc làm nhiều lần trong kỳ hạn vay. Số lần trả nợ gốc phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập để trả nợ của khách hàng.
Lãi suất linh hoạt : Ngân hàng định ra nhiều mức lãi xuất khác nhau ứng với từng mức tiền vay cụ thể, từng loại hình sản xuất , kinh doanh cụ thể để khuyến khích khách hàng vay vốn tập trung vào những mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và của địa phương.
Kết hợp tín dụng với tiết kiệm : Ngân hàng đưa ra sản phẩm tiết kiệm nhằm khuyến khích hộ sản xuất đặc biệt là hộ có thu nhập thấp gửi tiết kiệm và vay vốn hoàn trả đúng hạn, ứng với mỗi số tiền tiết kiệm, khách hàng được vay một hạn mức tín dụng có ưu đãi hơn về lãi suất, thời hạn. Sản phẩm này vừa giải quyết được vấn đề tài sản thế chấp, vừa là một bảo đảm để khách hàng hoàn trả tiền vay đúng hạn, vừa góp phần giúp các hộ sản xuất tiết kiệm tiền nâng cao mức sống, mở rộng sản xuất kinh doanh của họ.
y. Duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng vay vốn :
Mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng vay vốn là quan hệ hai chiều chặt chẽ. Ngân hàng hỗ trợ về vốn sản xuất kinh doanh cho khách hàng và ngược lại, khách hàng vay vốn đem lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Vì vậy, chính sách đối với khách hàng vay vốn là trọng tâm trong chiến lược kinh doanh của bất kỳ khách hàng thương mại nào. Đối với NHNo huyện Từ Liêm , thiết lập được mối quan lâu dài với hộ sản xuất sẽ đem lại lợi ích.
+ Biết được nhu cầu vay thực tế cũng như chu kỳ sản xuất kinh
doanh của họ để có hình thức tài trợ thích hợp, đáp ứng nhu cầu vốn.
+ Giảm chi phí để điều tiết về khách hàng trước khi ra quyết định
76
cho vay vì thông tin về khách hàng đã được lưu trữ tại Ngân hàng
+ Bảo đảm an toàn vốn vay và chất lượng tín dụng món vay vì những khách hàng có quan hệ lâu dài thường kinh doanh có hiệu quả và ý thức trả nợ Ngân hàng tốt. Từ đó tạo ra nguồn thu ổn định, vững chắc cho Ngân hàng.
Tuỳ từng đối tượng hộ vay, Ngân hàng có những chính sách thích hợp. Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, nhân viên Ngân hàng phải xoá bỏ tâm lý e ngại ban đầu thông qua sự chủ động giúp đỡ họ giải quyết vướng mắc về thủ tục cho vay, cách thức giải ngân, thu lãi và nợ gốc; tiến hành giải ngân nhanh chóng sau khi xét duyệt cho vay để tạo ra ấn tượng ban đầu tốt đẹp về hình ảnh của Ngân hàng. Đối với khách hàng đã quan hệ từ trước có tín nhiệm, ngân hàng có thể ưu đãi về lãi xuất cho vay, giảm bớt các điều kiện vay vốn... Mặt khác, trong quá trình kinh doanh nếu khách hàng gặp khó khăn chưa trả nợ, Ngân hàng có thể gia hạn nợ hoặc điều chỉnh kỳ hạn trả nợ để họ tiếp tục sản xuất kinh doanh. Các cán bộ Ngân hàng nên thăm hỏi, tặng quà nhân dịp lễ tết đối với khách hàng vay lớn có tín nhiệm cao để thắt chặt quan hệ.
2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay hộ sản xuất :
a. Lập kế hoạch cho vay :
Hoạt động cho vay hộ sản xuất tạo ra thu nhập hàng đầu của Ngân hàng. Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng cơ cấu vốn đầu tư và được đảm bảo khi có sự lựa chọn khách hàng cẩn thận. Tất cả những điều này nằm trong chính sách cho vay hay kế hoạch chiến lược các hoạt động cho vay của Ngân hàng. Cơ cấu kế hoạch có thể chia ra 2 phần cụ thể là :
- Xác định thị trường : Là đề ra phương hướng cho vay của Ngân hàng bao gồm việc lựa chọn các ngành hoặc hoạt động kinh tế có phát triển phục vụ có hiệu quả và lâu dài, hạn chế cho vay ngành kém hiệu quả.
- Thiết lập đường lối tín dụng : Là xác định phương hướng chung phân bổ các khoản cho vay khách hàng thuộc các nhóm ngành. Điều này giúp Ngân hàng phân bổ một cách cân đối cơ cấu đầu tư nhằm đạt được sự tăng trưởng bền vững trong ngành được tài trợ trong khi vẫn cho phép đa dạng hoá hoạt động , phân tán rủi ro cho vay.
77
Việc lập kế hoạch căn cứ trên mục tiêu chương trình phát triển kinh tế của tỉnh cũng như định hướng của ngành, phân định chức năng rõ ràng
với từng đơn vị cơ sở. Các chi nhánh Ngân hàng huyện, thị (Ngân hàng cấp III) cung cấp dữ liệu kinh tế xã hội, báo cáo về cơ cấu cho vay, phân tích cung cầu tín dụng của hộ sản xuất tại địa bàn hoạt động. Yêu cầu đặt ra là thông tin phải đảm bảo tính chính xác, đầy đủ, kịp thời và thường xuyên được cập nhật. NHNo huyện Từ Liêm sẽ tổng hợp và sàng lọc thông tin lập ra kế hoạch cho vay thường xuyên và thời kỳ 3 năm, 5 năm. ..
Việc lập kế hoạch chính xác và khoa học sẽ hướng dẫn các nhân viên Ngân hàng nhất là cán bộ tín dụng tập trung nỗ lực vào đối tượng khách hàng chính một cách hiệu quả hơn.
b. Tăng cường tiếp cận đến từng hộ sản xuất :
Việc xây dựng và củng cố mạng lưới Ngân hàng cơ sở rộng khắp với nhiều điểm giao dịch và điều kiện thuận lợi giúp Ngân hàng tiếp xúc gần hơn đến các hộ gia đình nhưng chưa đủ để các khách hàng nhỏ đến với Ngân hàng. Một số lý do các hộ sản xuất còn ít tiếp cận đến tín dụng chính thức (tín dụng Ngân hàng ) đã được tổng kết lại :
1. Thiếu thông tin bao gồm sự thiếu quan tâm của Ngân hàng , thiếu
một nền văn minh Ngân hàng và các chương trình tín dụng.
2. Nhiều vùng còn xa với các điểm giao dịch của Ngân hàng
3. Chi phí cho vay cao
4. Yêu cầu thế chấp ngặt nghèo
5. Hồ sơ giấy tờ phức tạp.
6. Rủi ro trong nông nghiệp có thể dẫn đến không trả đươc nợ
Do vậy việc tiếp xúc trực tiếp với các hộ gia đình đóng một vai trò quan trọng trong việc mở rộng tiếp cận. Ngân hàng cần một hệ thống thông tin, tuyên truyền về lợi ích khi quan hệ với Ngân hàng cũng như giúp đỡ tìm ra vướng mắc của họ để cùng nhau tháo gỡ. Để mở rộng tiếp cận đến từng hộ sản xuất , Ngân hàng cần thực hiện một số vấn đề sau :
- Đối với các món vay nhỏ dưới 5 triệu đồng, Ngân hàng nên đơn giản hoá quy trình cho vay để đẩy mạnh tiến độ mở rộng khả năng tiếp cận.
78
- Cần tăng cường lực thẩm định các món vay nhỏ và quy trình thẩm định cũng nên được hoàn thiện với những thủ tục riêng để đơn giản hoá hoạt động phân tích dự án. Cần soạn thảo các bẳng tham khảo nhanh về doanh thu và chi phí dưới hình thức một danh sách kiểm tra đối với từng hoạt động sản xuất khác như : chăn nuôi, trồng trọt. ..
- Khi đánh giá hiệu quả công việc của cán bộ tín dụng, nên bổ sung
thêm một tiêu thức đó là số lượng người vay do cán bộ tín dụng quản lý.
- Cán bộ tín dụng không nên bị bắt buộc phải đình chỉ hoạt động cho vay của mình trong trường hợp đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay trong quá trình thẩm định, xét duyệt và theo dõi khoản vay. Nếu như cán bộ tín dụng đã tuân thủ đầy đủ các quy chế cho vay, họ không nên bị quy trách nhiệm đối với những rủi ro đã xảy ra. Rủi ro của các khoản vay trong trường hợp đó là mang tính chất thể chế hơn là rủi ro của cá nhân cán bộ tín dụng
c. Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay :
Đa dạng hoá các loại hình cho vay, phương thức cho vay, mạnh dạn áp dụng các phương thức cho vay mới khi có điều kiện. Hiện nay Ngân hàng chủ yếu cho vay theo phương thức từng lần. Phương thức này thích hợp với hộ vay vốn không thường xuyên sản xuất theo mùa vụ, chu chuyển vốn chậm. Do thủ tục vay vốn còn phức tạp, cần nhiều giấy tờ gây khó khăn cho khách hàng thường xuyên. Đối với những khách hàng có vòng quay vốn thường xuyên và quá trình vay trả sòng phẳng, có tín nhiệm trong quan hệ giao dịch, Ngân hàng có thể cho vay theo hạn mức tín dụng. Phương thức này cho phép khách hàng có thể duy trì một hạn mức tín dụng trong thời hạn nhất định theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Trong phạm vi hạn mức tín dụng và thời hạn hiệu lực của hợp đồng tín dụng, mỗi lần rút vốn cho vay khách hàng chỉ phải lập giấy nhận nợ tiền vay kèm theo các chứng từ xin vay phù hợp với mục đích sử dụng vốn trong hợp đồng tín dụng, tiết kiệm được nhiều thời gian và chi phí quản lý hồ sơ của Ngân hàng.
Về lâu dài, khi tỉnh có vùng chuyên canh trồng lúa có hai vụ liền kề, Ngân hàng có thể cho vay lưu vụ nếu xét thấy phương án sản xuất của hộ đang có hiệu quả và lãi món vay trước đã trả đủ. Theo phương thức này, hộ nông dân sau một chu kỳ sản xuất chỉ cần trả hết lãi có thể xin vay lưu vụ mà không cần làm lại thủ tục vay từ đầu. Cho vay bằng phương thức này giúp các hộ sản xuất có điều kiện chủ động về vốn, giảm chi phí giao dịch, giảm các thủ tục phiền hà và gắn bó người nông dân với Ngân hàng hơn.
3. Giải pháp bổ trợ :
79
a. Giải pháp về huy động vốn :
Vốn huy động phải đáp ứng được hai yêu cầu :
+ Một là : đáp ứng đủ cho nhu cầu vốn của các hộ sản xuất, đặc biệt
là vốn trung và dài hạn để đầu tư và phát triển chiều sâu
+ Hai là : Giảm chi phí huy động nhằm tăng chênh lệch giữa lãi suất
đầu ra và lãi suất đầu vào.
Khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng vì mục đích muốn có thu nhập, thuận tiện khi sử dụng và an toàn. VIệc đánh giá mục đích nào quan trọng tuỳ thuộc vào từng đối tượng gửi tiền. Thường thì các tổ chức kinh tế gửi vào mục đích thanh toán thuận tiện và an toàn, lãi suất tiền gửi không phải là vấn đề họ quan tâm. Trong khi đa số các khoản tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục đích chính là muốn có thu nhập một cách an toàn. Các khoản tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động, do đó Ngân hàng phải có biện pháp kích thích đoạn thị trường này. Để giải quyết tốt hoạt động huy động vốn Ngân hàng cần thực hiện các giải pháp sau :
- Định mức về huy động tiết kiệm nên được sử dụng như là một tiêu thức đánh giá cán bộ tín dụng. Ngân hàng yêu cầu cán bộ tín dụng khi giải ngân, thu nợ và thăm khách hàng phải có trách nhiệm huy động tiết kiệm.
- Ngân hàng đưa ra những sản phẩm khuyến khích tiết kiệm. Ngân hàng cần thiết kế và áp dụng hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn với nhiều mức lãi suất khác nhau tuỳ thuộc vào số dư trên tài khoản. Sản phẩm này sẽ kết hợp được nhiều điểm lợi như khả năng rút tiền dễ dàng (không kỳ hạn) mức lãi suất tăng dần, có tính hấp dẫn cao (không quy định số dư tối thiểu)
- Ngân hàng cần có sản phẩm tiết kiệm nhằm huy động các món tiền gửi nhỏ. Sản phẩm này có đặc tính khuyến khích hộ nghèo có thu nhập thấp gửi tiết kiệm, từ đó giúp họ tăng vốn sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Ngân hàng tích cực xây dựng, củng cố mạng lưới Ngân hàng lưu động và Ngân hàng liên xã tiếp cận gần dân, sát dân tăng thời gian giao dịch với khách hàng.
- Ngân hàng phải trú trọng đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Bởi vì yếu tố cạnh tranh về giá bị hạn chế, các khách hàng rất khó nâng hơn nữa lãi suất tiền gửi vì chênh lệch lãi suất đầu vào - đầu ra hiện tại rất nhỏ (0,35%) không đảm bảo cho kinh doanh có lãi. Ngân hàng cần thực hiện theo hướng :
80
+ Nâng cao năng lực của nhân viên giao dịch trực tiếp với khách hàng, những người được coi là bộ mặt của Ngân hàng. Họ giữ vai trò quan
trọng trong việc tạo ra những dịch vụ Ngân hàng có chất lượng cao. Sự tham gia của họ thể hiện ở sự giao tiếp nhằm tạo ấn tượng đẹp về hình ảnh Ngân hàng , sự tự tin và tính chuyên nghiệp trong nhận biết ý muốn của khách hàng, xử lý thành thạo nhanh chóng các thủ tục dịch vụ, chủ động đề nghị giúp đỡ những khó khăn, vướng m ắc có thể phát sinh từ phía khách hàng.
+ Tăng cường trang thiết bị phương tiện vật chất, thiết bị Ngân hàng nhanh chóng, chính xác, giảm các thủ tục thao tác thủ công. Sự tham gia của các vật chất hiện đại sẽ nâng cao chất lượng phcụ vụ tạo ra bầu không khí tin cậy đối với khách hàng, thể hiện tính chuyên nghiệp cao của hoạt động Ngân hàng. Từ đó, nâng cao uy tín của Ngân hàng.
b. Giải pháp về công tác cán bộ
Con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng , cũng như trong việc nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng. Nghiệp vụ Ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao. Để giải quyết vấn đề này, Ngân hàng cần thực hiện hai giải pháp sau :
- Đào tạo bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kiến thức kinh tế , kinh tế ngoại ngành, pháp luật cho nhân viên Ngân hàng đặc biệt là đối với các cán bộ tín dụng để họ có đủ năng lực và phẩm chất đạo đức đảm đương tốt công việc được giao.
- Bố trí sử dụng nguồn nhân lực. Việc bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ giữ vị trí rất quan trọng trong quản ý Ngân hàng. Một khi nguồn lực được sử dụng đúng đắn và hợp lý sẽ tạo điều kiện cho từng cán bộ phát huy hết năng lực của mình, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Muốn làm tốt việc này, trước hết Ban lãnh đạo Ngân hàng phải đánh giá chính xác trình độ năng lực mỗi người làm cơ sở bố trí đúng người, đúng việc. Mặt khác, cần lưu ý đến tinh thần, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao và tiếp thu những nguyện vọng, ý kiến phản hồi từ mỗi người để ra quyết định một cách chính xác. Ngân hàng cần tiếp tục tăng số lượng cán bộ tín dụng giảm cán bộ hành chính để gảm chi phí quản lý và giảm áp lực quá tải đối với cán bộ tín dụng hiện tại. Ngân hàng cần có chính sách ưu đãi thông qua thu nhập, chế độ đãi ngộ phù hợp với cường độ, thời gian lao động và trách nhiệm nặng nề mà họ phải đảm nhiệm.
III. Kiến nghị :
81
1. Kiến nghị với Nhà nước :
* Nhà nước có chính sách đầu tư cho nông nghiệp. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các chính sách này, Nhà nước cần có một hệ thống chính sách phát triển nông nghiệp ở tầm quốc gia. Hệ thống chính sách bao gồm các chính sách :
* Chính sách tài chính - tiền tệ :
+ Chính phủ nên nới lỏng chính sách lãi suất để đảm bảo rằng các định chế tài chính nông thôn có đủ khả năng trang trải tất cả các chi phí bao gồm chi phí vốn theo giá thị trường, chi phí hoạt động , lạm phát, chi phí bù đắp những khoản mất vốn đồng thời đảm bảo một mức lợi nhuận hợp lý.
+ Chính phủ cần khuyến khích sự cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn qua đó nâng cao chất lượng của dịch vụ này. Sẽ có nhiều chương trình tiết kiệm và tín dụng được chuyển đổi thành hợp tác xã tín dụng hơn nếu như các thủ tục đăng ký hoạt động được đơn giản hoá và mức vốn pháp định cần thiết được hạ thấp hơn nữa.
+ Chính phủ nên áp dụng các biện pháp nhằm tăng cường, nâng cao chất lượng của công tác đào tạo đối với khu vực dịch vụ tài chính nông thôn. Các biện pháp đó có thể bao gồm việc phân bổ theo một tỷ lệ phần trăm tối thiểu đã được xác định trước trong tổng chi phí cho ngân sách đào tạo. Việc chia sẻ chi phí giữa Chính phủ và các định chế tài chính sẽ đẩy nhanh quá trình thực hiện.
* Chính sách trợ giá :
+ Trợ giá đầu vào : Nhà nước nên có trợ giá để khuyến khích nông dân áp dụng KHKT mới hoặc tài trợ cho các doanh nghiệp nhập khẩu vật tư, thiết bị, phân bón, thuốc trừ sâu để bán cho hộ sản xuất với giá cả ổn định.
+ Trợ giá đầu ra : Sản phẩm nông nghiệp mang tính chất thời vụ, việc tiêu thụ sản phẩm thường gặp khó khăn. Nhà nước cần gia tăng quỹ bình ổn giá cả, bù đắp cho nông dân đảm bảo không bị rớt giá, gây thua lỗ. Hoặc Nhà nước trợ giá cho các đơn vị thu mua sản phẩm của người nông dân khi kết thúc mùa vụ.
- Chính phủ bảo hiểm : Nhà nước đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm ở nông thôn như : bảo hiểm mùa màng, bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm tàu thuyền đánh bắt thuỷ hải sản.
- Chính sách bảo trợ xuất khẩu
- Chính sách tiêu thụ nông sản nhằm tạo thị trường ổn định cho
82
người nông dân.
- Chính sách đất đai : Nhà nước đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
- Chính sách thương mại ;
* Chính phủ nên xem xét việc công nhận về tư cách pháp lý cho các tổ , nhóm tín chấp vay vốn giúp Ngân hàng thuận lợi hơn trong quá trình cho vay nhằm đảm bảo chất lượng tín dụng.
* Các hộ làm kinh tế quy mô lớn, sản xuất sản phẩm hàng hoá đang xuất hiện ngày càng nhiều tạo ra động lực thúc đẩy quá trình phân công lao động, tăng sản phẩm hàng hoá. Về vốn kinh doanh của các hộ này chủ yếu là vốn tự lực nhưng nhu cầu vốn bổ sung là phổ biến, nhất là vốn trung - dài hạn. Nhưng khó khăn chính đối với các hộ này khi vay vốn Ngân hàng là vấnn đề thế chấp tài sản. Nếu tính giá trị đất sử dụng được giao để thế chấp thì mức vốn được vay không đủ chi phí vì suát đầu tư ban đầu khá cao. Điều này thường gặp ở các hộ vay vốn trồng cây ăn quả, cây công nghiệp. Nếu tính giá trị tài sản trên đất, ví dụ giá trị vườn cây ăn để thế chấp, thì căn cứ để xác định giá trị tài sản và cơ quan xác nhận Nhà nước chưa có quy định cụ thể.
* Nhà nước cần xem xét miễn thuế trong vài năm tới cho các Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, cấp đủ kịp thời các khoản nợ khoanh hàng năm đã được xác định. Có như vậy hệ thống NHNo mới có đủ vốn cần thiết để tồn tại và tăng trưởng quy mô hoạt động. Ngân hàng Nhà nước sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ điều tiết thu nhập thoả đáng cho hệ thống NHNo như vấn đề dự trữ bắt buộc, lãi suất tái cấp vốn, nguồn vốn tín dụng ưu đãi để tạo thêm thu nhập cho NHNo.
2. Kiến nghị với chính quyền địa phương :
* Trong những năm tới, tỉnh Hà Tây phải xây dựng các vùng kinh tế phát triển cây con làm tiền đề cho giai đoạn đầu tư tiếp theo, vì không có quy hoạch thì không thể đầu tư có hiệu quả. Nhiều địa phương khi nói đến vốn thì thiếu nhiều nhưng yêu cầu tính nhu cầu vốn cụ thể và phương án hay dự án vay vốn thì lại không xác định được. Tỉnh có thể xây dựng các vùng trồng lúa xuất khẩu tậpt rung ; vùng trồng cây công nghiệp ; vùng trồng cây ăn quả ; vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm, lợn hướng nạc, bò sữa, chế biến nông sản. .. Xây dựng hệ thống khép kín khâu nguyên liệu, sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
83
Hiện đại hoá cơ sở hạ tầng nông thôn, trước mắt xây dựng các công trình thuỷ nông phục vụ tưới tiêu cho cây trồng, cơ giới hoá sản xuất nông
nghiệp. Đây là vấn đề cần thiết đảm bảo xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi.
* Trên cơ sở các quy hoạch kinh tế theo vùng, ngành nghề, cây con, tỉnh chỉ đạo các ngành chức năng xây dựng các dự án khả thi để giúp NHNo tiếp cận và thẩm định để mở rộng cho vay theo dự án phục vụ phát triển kinh tế địa phương.
* Đối với khu vực HTX, tỉnh có chủ trương củng cố các HTX, tạo điều kiện cho NHNo mở rộng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong nông nghiệp và nông thôn như cứng hoá kênh mương, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi nội đồng, điện, đường, trường, trạm theo đúng luật.
3. Kiến nghị với NHNo & PTNT Việt Nam :
* Theo quy định hiện hành, các hộ nông dân được giao đất sử dụng lâu dài khi vay trên 10 triệu đồng phải thế chấp quyền sử dụng đất nông nghiệp. Tuy nhiên, điều này chỉ có giá trị trên lý thuyết vì trên thực tế khi người vay không hoàn trả được nợ thì tài sản là đất nông nghiệp rất khó phát mại và gần như là không thể được. Mặt khác, nông dân được giao đất với thời hạn rất dài, thường là trên 20 năm. Do vậy nếu bị Ngân hàng phát mại thì sẽ kiếm sống như thế nào khi mà sản xuất chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất phi nông nghiệp còn rất hạn chế, gây ra hậu quả nặng nề về mặt xã hội. Vì vậy, NHNo & PTNT Việt Nam cần tìm một hình thức bảo đảm có khả năng thực thi cao nhằm hỗ trợ công tác cho vay của Ngân hàng cũng như việc sản xuất của hộ nông dân.
- NHNo & PTNT cần nghiên cứu, tổng kết và cải tiến cho phù hợp hơn về cơ chế cho vay qua tổ, nhóm, cơ chế giải ngân, thu nợ, mô hình tổ chức cho vay lưu động, xác định rõ hình thức cho vay trang trại để nhân rộng các mô hình có hiệu quả, tạo thành hành lang pháp lý rõ rằng, chặt chẽ, thuận lợi cho mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất.
84
- NHNo & PTNT nên trao quyền tự chủ ở mức cao hơn nữa cho các chi nhánh NHNo tỉnh trong việc quyết định cơ cấu kỳ hạn nợ,. các sản phẩm tiết kiệm và tín dụng mới.
Kết luận
Hoạt động tín dụng đóng vai trò rất quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng mà còn đối với nền kinh tế do vậy việc đầu tư vốn có hiệu quả hay không, có ý nghĩa rất lớn đến sự thành bại trong kinh doanh Ngân hàng cũng như sự phát triển của nền kinh tế.
85
Bước chuyển trong hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất là nhân tố quyết định đến những thành công trong hoạt động kinh doanh của NHNo & PTNT tỉnh Hà Tây những năm qua, trong đó thành tích nổi bật là dư nợ không ngừng mở rộng và chất lượng tín dụng không ngừng đảm bảo. Tuy nhiên hoạt động này đang gặp nhiều khó khăn do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan như đã phân tích ở trên, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Qua việc nghiên cứu và phân tích, đưa ra những giải pháp nhằm giải quyết những mặt tồn tại và nâng cao chất lượng tín dụng hộ sản xuất nhằm phát triển kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1. Ngân hàng thương mại - NXB TP Hồ Chí Minh 1993.
2. Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại - NXB CTQG 1997.
3. Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính
4. Luật NHNN và Luật TCTD
5. Quy định 499A - TDNT 02/ 09/ 1993 NHNo Việt Nam hướng
dẫn nghiệp vụ cho vay hộ sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp
6. Quyết định 180/ QĐ - HĐQT NHNo Việt Nam quy định cho vay
đối với khách hàng.
7. Quy chế cho vay đối với khách hàng. NHNo & PTNT Việt Nam
12/ 1998./
8. Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo & PTNT huyện Từ Liêm năm
96, 97, 98, 99, 2000.
9. Báo cáo tổng kết công tác tín dụng NHNo & PTNT huyện Từ
Liêm các năm 96, 97, 98, 99, 2000.
10. Kinh tế hộ - Lịch sử và triển vọng phát triển. Vũ Tuấn Anh NXB
KHXH 1997.
11. Kinh tế hộ trong nông thôn Việt Nam. Chu Văn Vũ - NXB
KHXH 1995.
12. Đầu tư hỗ trợ của Nhà nước cho nông dân phát triển kinh tế hộ
gia đình. Nguyễn Hữu Đạt - NXB KHXH 1995
13. Nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn CNH - HĐH. Đặng
Thọ Xương - NXB Chính trị quốc gia 1997.
14. Văn hiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII.
15. Tạp chí Ngân hàng
86
16. Tạp chí thông tin NHNo.
87