LUẬN VĂN:
Báo chí với việc tuyên truyền
giá trị văn hóa truyền thống của các
dân tộc thiểu số vùng tây bắc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giá trị bản sắc văn hóa dân tộc được coi là tấm giấy thông hành để mỗi con người
bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn. Điều này càng có ý nghĩa quan
trọng khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường, giao lưu và hội nhập với thế giới
trong xu thế toàn cầu hóa.
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa được vun đắp qua hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, tạo thành
những nét đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Xét về bản
chất, lịch sử dân tộc ta ngay từ thời dựng nước là lịch sử không ngừng đấu tranh chống
ngoại xâm để dành và giữ nền độc lập, tạo nên phẩm chất cao cả và thiêng liêng nhất của
bản sắc văn hóa dân tộc, đó là tinh thần yêu nước thương nòi. Chủ nghĩa yêu nước của
văn hóa dân tộc ta không chỉ biểu lộ ở lòng dũng cảm, đức hy sinh mà còn ở tinh thần
đoàn kết, nhân ái, yêu thương con người, ý thức bảo vệ nhân phẩm, giữ gìn đạo lý.
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, văn hóa Việt Nam đã vượt qua thế bị động để
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu thêm bản sắc của mình.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng mặt
trận văn hóa mà cốt lõi của nó là bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn 80 năm qua định hướng
dân tộc đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt những văn kiện của Đảng về văn hóa, văn
nghệ. Nghị quyết 5 của Ban chấp TW khóa VIII đã đánh dấu bước phát triển mới về
đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Với phương hướng chung của sự nghiệp văn
hóa nước ta là
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người…tạo ra trên đất
nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao… [31, tr.54]
Có thể nói Nghị quyết TW V là nguồn cảm hứng, nâng cao tinh thần của
nhân dân ta bước vào thế kỷ mới, làm cho văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển đất nước. Nghị quyết cũng chỉ rõ “ nền văn hóa Việt Nam là nền văn
hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [31, tr.57].
Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường
biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng Tây Bắc có vị trí chiến lược trong an ninh-quốc
phòng, được coi là “phên dậu” của tổ quốc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nơi đây
đã diễn ra nhiều trận đánh và chiến dịch quân sự ác liệt mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên
Phủ chấn động địa cầu năm xưa. Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi
cao chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam. Dãy núi Hoàng Liên Sơn cao đến 1500m dài tới
180km, rộng 30km, với một số đỉnh núi cao trên 3000m, vùng Tây Bắc có 2 con sông lớn
đó là sông Đà và sông Thao (Tức là sông Hồng). Thượng nguồn của sông Mã cũng trên vùng
Tây Bắc. Với đặc điểm địa hình như vậy đã tạo nên cho vùng Tây Bắc không gian văn hóa
dân tộc đặc sắc, nổi bật nhất là văn hóa dân tộc Thái với những điệu múa xòe uyển chuyển,
quyến rũ với trang phục dân tộc độc đáo, kín đáo nhưng gợi cảm, với những trái Còn, trái Pa
Pao chao liệng khi xuân đến, Và với những phiên chợ tình thơ mộng, lãng mạn của dân tộc
Mông...Ngoài ra vùng Tây Bắc còn có gần 30 dân tộc anh em các dân tộc thiểu số, sống
đoàn kết hòa thuận muôn đời bên nhau.
Vùng Tây Bắc Việt Nam có một nền văn hóa cội nguồn đa dạng, độc đáo, được
kết tinh từ đời này sang đời khác. Đó là một trong những nội lực to lớn của đất nước.
Nhưng hiện nay, giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc vùng Tây Bắc đang xuất hiện xu
hướng bị đồng hóa về văn hóa, từ nghi thức sinh hoạt, lễ hội tín ngưỡng, phong tục tập
quán, đến những bộ trang phục truyền thống các dân tộc giờ đây ít được lớp trẻ chuộng
dùng, tiếng nói riêng của từng dân tộc cũng bị pha trộn, nhiều lớp trẻ không biết nói của
dân tộc mình. Âm nhạc, những làn điệu dân ca cũng bị xem thường hoặc chỉ là thú vui
của người cao tuổi...do đó, “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và
xây dựng những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số”
[31, tr.65] cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà nghị quyết Trung ương V
khóa VIII của Đảng cũng đã đề cập tới.
Với vai trò là một kênh thông tin quan trọng, đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự nghiệp
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của Đảng bộ, chính quyền các
tỉnh vùng Tây Bắc, hệ thống báo chí đã có những đóng góp tích cực trong việc tuyên
truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến đông đảo nhân
dân góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân
dân các dân tộc, nhất là trong công tác tuyên truyền việc giữ gìn và nâng cao bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số. Bằng sức mạnh của mình, báo chí tác động vào nhận
thức của công chúng, của xã hội, tạo ra ý thức cao về vị trí vai trò của văn hóa trong
phát triển, từ đó xây dựng nên những ước muốn gìn giữ và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nhằm tăng thêm sức mạnh nội sinh, phát triển đất
nước, tiến lên giàu đẹp, văn minh. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng việc tuyên
truyền văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng Tây Bắc thời gian qua
vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế như: nội dung thể hiện chưa phong phú, đa dạng, chậm
đổi mới, chưa hấp dẫn, đội ngũ phóng viên, biên tập viên chưa có chuyên môn sâu,
cũng như sự am hiểu về văn hóa các dân tộc thiểu số còn bất cập...Nền kinh tế thị
trường do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã gặt hái được kết quả
bước đầu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, những hệ lụy do mặt trái của cơ chế thị trường
gây ra cũng không phải là nhỏ, đang tác động trực tiếp vào đời sống văn hóa của nhân
dân, có nguy cơ làm sói mòn đạo đức dân tộc, hủy hoại những giá trị dân tộc mà ông
cha ta bao đời nay dầy công vun đắp.
Tây Bắc là một vùng có cơ cấu dân tộc thiểu số cùng chung sống khá đa dạng với
gần 30 tộc người. Qua cơ cấu dân tộc của Tây Bắc cho thấy nơi đây có một nền văn hóa
rất phong phú và đa dạng. Mỗi dân tộc có nét đẹp, giá trị bản sắc văn hóa riêng. Trước
tình hình đó, cần phải có những nghiên cứu cụ thể, khoa học tìm ra những giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyền truyền bảo tồn những bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số. Cho nên tôi chọn đề tài: Báo chí với việc tuyên truyền giá trị văn hóa
truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc nhằm nghiên cứu vấn đề giữ gìn
giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề văn hóa và bản sắc văn hóa đã có nhiều công trình
nghiên cứu và tìm hiểu, nhưng ở mỗi góc độ, mỗi nhà khoa học lại có cách nhìn và tiếp
cận vấn đề khác nhau. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:
- Công trình nghiên cứu của Phan Ngọc (2002):Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội; Trần Ngọc Thêm (1996): Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt
Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh; Trần Văn Bính (2004): Văn hóa các dân tộc Tây
Bắc- Thực trạng và những vấn đề đặt ra,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nông Quốc
Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Vi Hồng Nhân (1996): Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb văn hóa dân tộc, Hà Nội; Trần Quốc Vượng (2003): Văn
hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà Nội; Hoàng Vinh (1997): Một số
vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa các dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội; Hoàng Nam (1998): Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người văn hóa Việt Nam,Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (2003): Trang phục
các tộc người thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày- Thái;
Các luận văn đại học và sau đại học có đề tài liên quan đến truyền thống văn
hóa dân tộc
Chu Đức Kìu (1993): Khảo sát đội ngũ nhà báo dân tộc ít người Cao Bằng lịch sử và
thực trạng”, Luận văn tốt nghiệp đại học, Hà Nội.
La Vũ Quang (1993): Một số vấn đề về tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả thông
tin, tuyên truyền với đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số ở buổi phát thanh đại gia đình các
dân tộc Việt Nam. Luận văn tốt nghiệp đại học. Hà Nội.
Giàng Seo Pùa năm (1994): Những bước đi ban đầu của chương trình phát thanh tiếng
Mông (Đài tiếng nói Việt Nam), Tiềm năng và xu hướng phát triển”, Luận văn tốt nghiệp đại
học, Hà Nội.
Nguyễn Thu Liên (1997): Vấn đề giũ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong các chương
trình phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam, Luận án thạc sỹ báo chí, Học viện báo chí và
tuyên truyền quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Đặng Đình Quang( 1997): Hoạt động thông tin báo chí Tỉnh Lào Cai trong thời kỳ đổi
mới, Luận văn thạc sĩ báo chí, Hà Nội.
Nguyễn Xuyên An Việt (2001): “ Thông tin về miền núi và dân tộc trên sóng VTV1 -
Đài truyền hình Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ khoa học xã hội nhân văn, Hà Nội
Đỗ Thanh Phúc (2005): “ Vấn đề bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
sóng truyền hình của Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh Hòa Bình”, Luận văn thạc sỹ truyền
thông đại chúng.
Trịnh Liên Hà Quyên (2006): “ Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa trong giai đoạn hiện nay” Luận văn thạc sỹ truyền thông đại chúng, Hà Nội.
Tuy đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu sâu về vấn đề bảo tồn bản sắc,
giá trị truyền thống của văn hóa các dân tộc thiểu số, song chưa có công trình nào nghiên
cứu, đề cập đánh giá một cách khách quan, khoa học đến việc tuyên truyền giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc trên hệ thống báo chí, hy vọng sẽ góp
thêm một cách nhìn trong việc tuyên truyền các giá trị văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn về vấn đề giữ gìn giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí Tây Bắc, luận văn chỉ ra được thực trạng,
đề xuất các phương hướng cụ thể nhằm tăng cường vai trò tác động của báo chí trong việc
tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Đi vào phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa đặc sắc của đồng bào các dân tộc thiểu số.
- Khảo sát Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La, Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối
Reo về việc tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số từ tháng 1 năm 2008 đến
tháng 6 năm 2009.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả tuyên truyền các giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí vùng
Tây Bắc.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, tác giả sẽ chỉ tập trung khảo sát,
đánh giá những bài viết liên quan đến việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống đặc sắc và độc đáo của dân tộc thiểu số, thông qua các chuyên trang,
chuyên mục cụ thể của hệ thống các loại hình báo chí Sơn La. Với thời lượng một
năm rưỡi (từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009), với những tài liệu tin, bài
thu thập liên quan đến vấn đề nghiên cứu là cơ sở nhận xét đánh giá khách quan cho
đề tài nghiên cứu.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
báo chí và văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số; những đường lối, chủ trương về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của Đảng và Nhà nước.
Mặt khác còn được tiến hành nghiên cứu trên cơ sở lý thuyết truyền thông và cơ sở lý
luận báo chí. Đề tài còn dựa vào lý thuyết đặc điểm của văn hóa dân tộc, bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số để nghiên cứu, đánh giá.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Thống kê các bài viết liên quan đến tuyên truyền giữ gìn bản sắc văn hóa truyền
thống các dân tộc thiểu số trên Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo, chương trình phát
thanh, truyền hình trong thời gian từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009. Trên cơ sở
đó đánh giá, phân tích rõ hơn vai trò, vị trí của báo chí Sơn La với vấn đề tuyên truyền
giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học với đối tượng là
công chúng báo chí Sơn La để tăng thêm tính khách quan cho đề tài.
5. Đóng góp của đề tài
Đây là công trình đầu tiên về công tác báo chí với việc tuyên truyền những giá trị
văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, cho nên đề tài sẽ có ích cho
đối tượng lãnh đạo, quản lý báo chí hiểu hơn về vai trò, vị trí, thực trạng của hệ thống
báo chí trong việc sản xuất các chương trình nhằm giữ gìn và nâng cao giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, từ đó có những
chính sách phù hợp nhằm lãnh đạo, quản lý hiệu quả hơn. Đề tài cũng có thể là tài liệu
tham khảo cho những người quan tâm đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số nói chung vùng Tây Bắc nói riêng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Về mặt lý luận
Bước đầu tổng kết khái quát những quan điểm cơ bản về báo chí với vấn đề giữ
gìn bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc tổ quốc.
6.2. Về thực tiễn
Làm phong phú thêm những công trình nghiên cứu về giữ gìn bản sắc văn hóa
truyền thống dân tộc và nhất là việc phát huy vai trò của báo chí trong công tác giữ gìn
những giá trị, tinh hoa văn hóa dân tộc. Từ việc nâng cao ý thức công dân, cộng đồng các
dân tộc trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, tạo dựng thói quen,
nếp sống coi trọng bản sắc văn hóa dân tộc mình, tạo môi trường thuận lợi trong việc bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa, từ đó tạo ra phong trào toàn dân bảo vệ phát triển những
giá trị văn hóa phong phú và đặc sắc của dân tộc.Những hệ thống giải pháp và biện pháp
thiết thực của đề tài sẽ góp phần thực hiện tốt không chỉ công tác thông tin, tuyên truyền
trên báo chí mà còn nâng cao nhận thức, ý thức của cả cộng đồng về góp phần gìn giữ
bản sắc văn hóa dân tộc.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương, 11 tiết.
Chương 1
NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Văn hóa
Nói về văn hóa đó là tổng thể những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của một xã hội,
thể hiện trên các mặt vật chất, tinh thần, tri thức và tình cảm, biểu hiện sức sống, sức sáng
tạo của một dân tộc. Ta có thể thấy ở văn hóa nổi lên những đặc trưng cơ bản nhất là tính
nhân sinh, tính giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử.
Nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng
lực, bản chất của con người, nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội .Do
đó, khái niệm văn hóa chứa đựng bản chất nhân văn, nhân bản. Cơ sở của hoạt
động văn hóa là khát vọng hướng tới cái chân, cái thiện và cái mỹ. Có thể coi
đó là ba trụ cột vĩnh hằng của sự phát triển văn hóa nhân loại. Chừng nào cái
cái chân, cái thiện, cái mỹ bị lãng quên chừng đó văn hóa sẽ xuống dốc… [ 35,
tr.12].
Vào thế kỷ XIX thuật ngữ “Văn hóa” được những nhà nhân loại học phương tây
sử dụng như là một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế
giới cơ thế giới có thể chia ra từ trình độ thấp nhất đến trình độ cao nhất, và văn hóa của
họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trí lực và sự vươn
lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B Taylo là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là
toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong
tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được, với tư cách là một thành
viên của xã hội.
Ở thế kỷ XX, khái niệm văn hóa thay đổi theo (F.Boas) ý nghĩa văn hóa được qui
định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”,
vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí,
lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa. Văn hóa không xét ở góc độ cao thấp mà
xét ở góc độ khác biệt [66, tr.18].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, thì văn hóa chỉ gắn liền với con người
và xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại phát triển văn hóa là ở hoạt động sáng tạo
của con người. V.I.Lênin, người kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph. Ăngghen từ quan
điểm xem xét văn hóa với tư cách là sự phát triển bản chất của con người đã nhấn mạnh,
phân tích sâu thêm mặt xã hội của văn hóa với cách tiếp cận từ hình thái kinh tế. Người
nhấn mạnh tính nhân loại, tính giai cấp, tính kế thừa của văn hóa. Đặc biệt xem cách
mạng văn hóa như một bộ phận hữu cơ của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khi tiếp nhận tư tưởng cách mạng của Mác-Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, tinh hoa
văn hóa thế giới và các giá trị văn hóa dân tộc, từ năm 1943 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đưa ra một định nghĩa ở cấp độ khái quát ý nghĩa của văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như
mục đích của cuộc sống, loài người đã sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương pháp sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa” [28, tr.17]. Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Nói tới văn
hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm những gì không phải
là của thiên nhiên mà liên quan tới con người trong quá trình tồn tại, phát triển quá trình
con người làm nên lịch sử…” [66, tr.21].
Hoặc theo định nghĩa của UNESCO, trong ý nghĩa rộng nhất,
Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và
vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những
lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những
tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét
về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt
nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ
văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một
phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân,
tìm tòi không biết mệt mỏi những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo những công
trình vượt trội lên bản thân [66, tr.23-24].
Văn hóa có nhiều cách hiểu khác nhau, trên cơ sở phân tích những định nghĩa về
văn hóa PGS. TSKH: Trần Ngọc Thêm đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau:
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác
giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này
đã nêu bật được bốn đặc trưng quan trọng của văn hóa: Tính hệ thống, tính giá
trị, tính lịch sử và tính nhân sinh [66, tr.22].
Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt, Văn hóa là tổng thể
những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự
phát triển. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội. Chăm lo văn hóa là chăm lo nền tảng tinh thần của
xã hội…” [28, tr.212].
Cho đến nay, mọi người chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định
nghĩa văn hóa. Từ năm 1952, một số nhà dân tộc học người Mỹ đã trích lục được trên
dưới ba trăm định nghĩa về văn hóa của các tác giả khác nhau trên thế giới phát ra từ trước
đó cho đến lúc bấy giờ. Từ đó đến nay chắc chắn số định nghĩa đã tăng lên rất nhiều tuy
nhiên không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hòa hợp, bổ sung cho
nhau, nhưng tựu chung các định nghĩa đều khẳng định rằng, văn hóa là một nhân tố cực kỳ
quan trọng cho sự phát triển của con người và của loài người. Thiếu nó, loài người không
phát triển. Và khi đó xã hội loài người sẽ vĩnh viễn chỉ là một bầy đàn những con vật biết
đứng trên hai chân mà thôi. Như vậy, trong khi có nhiều định nghĩa, khái niệm khác nhau về
văn hóa, các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, nhà văn hóa lại cùng khẳng định vai trò của văn
hóa trong phát triển, coi văn hóa là yếu tố cơ bản, là động lực của phát triển.
Từ “Văn hóa” trong vô vàn cách hiểu, cách định nghĩa về văn hóa ta có thể qui về
hai cách hiểu chính. Theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng
như lối sống, lối suy nghĩ, lối ứng xử...văn hóa được xem là bao gồm những gì do con
người sáng tạo ra. Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học vấn...
Cái đặc trưng cốt lõi của văn hóa, cái làm cho văn hóa có sức mạnh phục vụ phát
triển là bản sắc riêng có của mỗi nền văn hóa, mỗi dân tộc. Chính bản sắc riêng ấy mới
tạo ra sự đa dạng, phong phú của các nền văn hóa trên thế giới, mới kích thích nhu cầu
tìm hiểu, tiếp thu, hòa nhập lẫn nhau giữa các nền văn hóa, nhằm làm cho mình giàu có
hơn, phong phú hơn. Và nhờ vậy nền văn hóa thế giới từ đó càng đa dạng và phong phú.
Quá trình này là quá trình sáng tạo – sáng tạo ra những giá trị mới phục vụ đời sống con
người. Nhờ sáng tạo mà các nền văn hóa có sức mạnh chi phối sự phát triển, tạo ra sự
phát triển. Một nền văn hóa đồng phục sẽ giết chết sự sáng tạo, mà cũng vì thế mà giết
chết sự phát triển.
Văn hóa chính là kết tinh của nhiều giá trị vật chất và tinh thần trong xã hội. Một
năm, một thập kỷ, thậm chí cả thế kỷ không dễ tạo nên cơ sở của một nền văn hóa dân
tộc. Mỗi dân tộc có thể có những sức mạnh riêng về kinh tế, quân sự, tài nguyên, môi
trường, nhưng sức mạnh về văn hóa có ý nghĩa đặc biệt. Nó tác động trực tiếp và lâu dài
đến nhiều hoạt động xã hội. Theo một nhà nghiên cứu nước ngoài, Liên hợp quốc có 193
quốc gia thì chỉ có 34 dân tộc có nền văn hóa có bản sắc trong đó có Việt Nam. Sức mạnh
của văn hóa được tổng hợp từ nhiều nhân tố, nhiều điều kiện chính trị, xã hội nội tại
không thể vay mượn được. Có thể một dân tộc chịu những ảnh hưởng của một nền văn
hóa, văn nghệ của một dân tộc khác nhưng ở một mức độ nhất định, nhưng không thể áp
đặt. Văn hóa qui luật của nó là trao đổi. Khuynh hướng đóng cửa hạn chế giao lưu văn
hóa là trái qui luật. Tuy nhiên, văn hóa là yếu tố nội sinh, không thể chuyển giao như
chuyển giao công nghệ từ nước này, dân tộc này sang dân tộc khác được.
Như vậy, “Văn hóa đóng một vai trò to lớn trong sự phát triển xã hội, văn hóa là
nền tảng, là mục tiêu, là động lực và là hệ điều tiết của sự phát triển xã hội” [61, tr.160].
1.1.2. Văn hóa truyền thống
Cùng với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước ngàn đời của dân tộc
Chúng ta đã có một nền văn hóa lâu đời, độc đáo, đa dạng, là thành quả
nghìn năm đấu tranh, lao động sáng tạo của các dân tộc Việt Nam. Khi nói tới
văn hóa truyền thống, chủ yếu chúng ta muốn nói đến thành quả văn hóa do
cha ông chúng ta đã xây đắp và phát triển trong quá khứ và nó đã làm nên cái
bản sắc, cái độc đáo, cái đặc trưng của văn hóa dân tộc ta [28, tr.105].
Như vậy, giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của mỗi dân tộc là những gì tinh túy
nhất, quí báu nhất. Có thể nói bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc là tổng thể những
tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc, biểu hiện ở một dân tộc trong lịch sử tồn tại và
phát triển của dân tộc đó, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính thống nhất, tính nhất
quán so với chính mình trong quá trình phát triển, đặc biệt trong quá trình giao lưu và hội
nhập văn hóa.
Giá trị bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc cũng chính là những nét riêng có
của tinh thần, bản lĩnh, tâm hồn, tính cách dân tộc, là tâm lý, là sức mạnh nội sinh của
từng nền văn hóa của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa truyền thống còn là sức sống bên
trong của dân tộc, là quá trình thường xuyên tự ý thức, tự khám phá, tự tái tạo, tự điều
chỉnh và tự tiếp nhận, từ đó tạo cho dân tộc mình có những giá trị văn hóa riêng mà nền
văn hóa khác không có.
Những giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc đó được hình thành trong sự
chi phối của những qui luật văn hóa chung của nhân loại, nhưng mang những nét riêng có
của mỗi dân tộc, làm cho nó trở thành hấp dẫn, độc đáo cần học hỏi, tiếp thu. Bản sắc văn
hóa truyền thống dân tộc thể hiện trong truyền thống của mỗi dân tộc. Bản sắc văn hóa
dân tộc hình thành và phát triển theo những điều kiện xã hội và kinh tế, chính trị và thể
chế. Nó cũng phát triển theo quá trình xâm nhập văn hóa, theo xu hướng tiến hóa chung
của nhân loại chủ yếu trên hai mặt mang tính thống nhất vừa giữ vững phát huy cái
hay, cái đẹp vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đúng với tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hóa “Phương Đông hay phương Tây, có cái gì hay, có cái gì tốt
phải học lấy để tạo ra nền văn hóa Việt Nam. Nghĩa là lấy kinh nghiệm tốt của văn
hóa xưa và văn hóa nay, trau dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy
Việt Nam” [28, tr.22].
1.2. TÂY BẮC - MỘT VÙNG ĐẤT GIÀU GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.2.1. Tây Bắc - Vùng đất có tầm quan trọng về địa lý - Kinh tế - Chính trị
Vùng Tây Bắc bao gồm các tỉnh, Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Điện
Biên có đường biên giới giáp với các nước bạn Lào và Trung Quốc, Với gần 30 dân
tộc anh em: Kinh, Thái, H’Mông, Mường, LaHa, Tày, Dao, Kháng, Sinh Mun, Khơ
mú, Lào, Hoa, … cùng sinh sống, là một vùng rộng lớn có địa chính trị, kinh tế- văn
hóa độc đáo, có vị trí chiến lược đối với sự phát triển của đất nước cả về an ninh -
quốc phòng - kinh tế, xã hội và văn hóa. Đây là cửa ngõ đường bộ và các tỉnh biên
giới cũng là án ngữ các quốc gia phương Bắc tiến xuống Đông Nam Á. Chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch phản động, từ trước tới nay luôn lợi dụng vị trí hiểm
trở, những khó khăn tạm thời về kinh tế - xã hội để thực thi các thủ đoạn chia rẽ dân
tộc, thực hiện “ diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, vị
trí quan trọng này luôn được các nhà cầm quân trong lịch sử và được Đảng xác định
là then chốt trong cuộc đấu tranh cách mạng dành độc lập dân tộc cho đến công cuộc
xây dựng và bảo vệ tổ quốc ngày hôm nay.
Trong sự nghiệp đổi, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách
nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc, tạo điều kiện để Tây Bắc phát triển đồng đều và vững chắc, cùng đất nước
tiến lên công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Bên cạnh sự phát triển chung của đất nước,
thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về mở cửa, giao lưu hội nhập kinh tế quốc
tế, Khu vực Tây Bắc cũng đang đứng trước thời cơ và thách thức lớn, giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia, xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ về
đời sống văn hóa trong đời sống đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Từ chủ trương và sự
quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước sự cố gắng nỗ lực của chính quyền địa
phương và nhân dân, đời sống kinh tế văn hóa, xã hội của người dân Tây Bắc đã có
nhiều khởi sắc. Sản xuất nông nghiệp từ chỗ mang tính tự cung, tự cấp đã chuyển
sang hàng hóa sản xuất khá phổ biến ở các vùng gắn với thị trường trong nước và
quốc tế, cơ cấu cây trồng, chăn nuôi đã được chuyển đổi ở nhiều địa phương. Sự đầu
tư của nhà nước vào các công trình kinh tế trọng điểm như: Nhà máy thủy điện Hòa
Bình, nhà máy thủy điện Sơn La hiện có công xuất lớn nhất Đông Nam Á, hệ thống
giao thông nối liền các tỉnh vùng Tây Bắc, giao thông tới các trung tâm huyện, thị
xã, thành phố. Hệ thống bưu điện, chợ, trường học được mở rộng đến từng cụm xã,
bản. Nhiều thôn, bản đã có đội văn nghệ quần chúng, nhiều bản đã trở thành bản văn
hóa có sức hấp dẫn đối với khách du lịch trong nước và quốc tế. Trình độ dân trí của
các đồng bào các dân tộc được nâng lên.
Để đi khảo sát vào những thành tựu phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Bắc,
tác giả luận văn xin đi sâu vào Sơn La, đây là một tỉnh trung tâm của miền núi Tây
Bắc. Trong những năm đổi mới, nhất là từ khi có nghị quyết 22- Bộ chính trị “ Về
một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế xã hội miền núi” (Ngày 27 tháng
11 năm 1989), chỉ thị 39/1998/CT-TTg của thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh
công tác văn hóa thông tin ở miền núi và đồng bào dân tộc thiểu số, cùng hàng loạt
các chỉ thị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện tốt chính
sách dân tộc, Sơn La đã có những bước tiến đáng kể về phát triển kinh tế- xã hội.
Hiện nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm (GDP) của Sơn La đạt 7,8%. Bình quân
lương thực đầu người đạt 400kg, chăn nuôi gia súc, tăng trưởng từ 2-5% năm Sản
xuất lượng thực giữ vững được thế ổn định và tiếp tục phát triển. Tổng sản lượng
lương thực có hạt đạt 25,5 vạn tấn năm 2008. Thế trận cây công nghiệp hàng hóa
chủ lực hiện nay của Sơn La được củng cố và phát triển, tạo vùng nguyên liệu chế
biến và xuất khẩu. Độ che phủ của rừng năm 1996 là 21,5% tăng lên 50% năm 2008,
giá trị xuất khẩu công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 33,5%. Mạng lưới điện
quốc gia đã đến được 99% cơ sở xã, phường, thị trấn, thành phố.
Thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, các dân tộc Tây Bắc nói chung Sơn
La nói riêng đang có những bước tiến đáng kể về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Các cơ sở kinh tế mới, hệ thống trường phổ thông nội trú được quan tâm thỏa đáng.
Vì thế, các dân tộc đã khẳng định tính vững chắc, niềm tin tuyệt đối vào con đường
đổi mới của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Sơn La đã hoàn thành phổ cập giáo dục
tiểu học đúng độ tuổi, chống mù chữ và đang củng cố kết quả đó. Về y tế hiện nay
đã loại trừ bệnh phong trong toàn tỉnh, trên 2200 bản có cán bộ y tế. Trên lĩnh vực
thông tin, báo chí, xuất bản phát triển về cả chiều sâu và bề rộng, góp phần tích cực
vào việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, củng cố khối đại đoàn kết cổ vũ thực hiện công
cuộc đổi mới. Hiện nay Sơn La có 450 bản văn hóa, gần 60.000 gia đình văn hóa, có
trên 650 đội văn nghệ quần chúng, 70% dân số được xem truyền hình, 80% dân số
được nghe hệ thống Đài phát thanh Trung ương và địa phương.
Từ những nét cơ bản về kinh tế, xã hội của Sơn La cho thấy, đời sống văn
hóa, xã hội của đồng bào các dân tộc Sơn La cũng như miền núi Tây Bắc hôm nay
đã có sự thay đổi đáng kể. Những gì đạt được từ chiến lược phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo của Đảng, Nhà nước hôm nay là do “Đảng bộ các tỉnh Tây Bắc
không chỉ quan tâm đến mặt kinh tế mà còn đặc biệt quan tâm chăm lo đến đời sống
tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, phát huy
văn hóa dân tộc và tăng cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc anh em” [53,
tr.39], đây chắc chắn sẽ là động lực để đồng bào Tây Bắc nói chung, Sơn La nói
riêng vững bước phát triển, đi lên.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các tỉnh miền núi Tây Bắc thực chất
cũng là quá trình hình thành và phát triển con người - nguồn lực cơ bản thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của bà con các dân tộc Tây Bắc.
1.2.2. Tây Bắc vùng đất của những trang sử anh hùng
Tây Bắc, là địa bàn miền núi, nhiều dân tộc, có truyền thống văn hóa lâu đời từ
thời dựng nước và giữ nước. Đồng bào các dân tộc Tây Bắc, trừ một bộ phận cư trú ở
vùng thấp, còn phần lớn sống ở vùng núi cao, biên giới nơi không chỉ có nhiều tiềm lực
to lớn về kinh tế mà còn có vị trí chính trị xung yếu, là tiền đồn quan trọng cho bảo vệ tổ
quốc. Người dân Tây Bắc với bản chất chịu thương, chịu khó, cần cù lao động sáng tạo,
yêu quê hương đất nước. Do phải thường xuyên đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt,
chống kẻ thù ngoại xâm, tinh thần đoàn kết cộng đồng đã tạo nên sức mạnh của thiết chế
xã hội truyền thống.
Xưa kia ông cha ta đã dựa vào địa thế hiểm trở và tinh thần chiến đấu của các dân
tộc mà dựng cờ tụ nghĩa hay chiến đấu lâu dài chống lại các thế lực bành trướng và xâm
lược nước ngoài và trong các cuộc kháng chiến sau này miền núi vẫn luôn là địa bàn
chiến lược quan trọng trong công cuộc dành tự do và thống nhất tổ quốc.
Thời kỳ chống Bắc thuộc, Triệu Đà thôn tính Âu Lạc, người dân vùng Tây Bắc đã
cùng nhau đoàn kết với người miền xuôi đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Trong cuộc
kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đồng bào các dân tộc Tây
Bắc luôn đoàn kết một lòng theo Đảng, theo Bác chống thực dân Pháp, vùng Tây Bắc đã
trở thành căn cứ cách mạng quan trọng của Trung ương và của Chính phủ ta. Thời kỳ này
phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở đây, thu hút đông đảo đồng bào các dân tộc Tây
Bắc khẩn trương chuẩn bị đón thời cơ dành chính quyền. Ngược dòng lịch sử, năm 1943,
tại nhà ngục Sơn La, người thanh niên cách mạng dân tộc Thái Lò Văn Giá, đã cùng với
chi bộ nhà tù tổ chức cuộc vượt ngục thành công đưa nhiều đồng chí là tù chính trị trở lại
hoạt động, lãnh đạo phong trào cách mạng chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công khởi nghĩa
toàn quốc. Trong đó có đồng chí Nguyễn Lương Bằng. Sau khi trở về người thanh niên
này đã hy sinh anh dũng.
Cũng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, các dân tộc miền
núi đã hết lòng ủng hộ và hy sinh quên mình cho kháng chiến đi đến thắng lợi. Trong
chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” năm xưa đã có sự
góp sức, góp của không nhỏ của đồng bào các dân tộc Tây Bắc. Trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước (1954-1975), nhân dân các dân tộc Tây Bắc lại đồng lòng đứng lên,
dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng. vượt qua muôn vàn khó khăn, ra sức lao động sản xuất,
góp phần là hậu phương lớn của Miền Nam ruột thịt. Ở Tây Bắc chỉ trong bốn năm từ
năm 1965-1968 Tây Bắc đã có 159.818 thanh niên các dân tộc lên đường tòng quân ra
mặt trận, trong đó có 2% là nữ và nhiều con em các dân tộc thiểu số. Trong suốt cuộc
chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, bàn chân của con em các dân tộc thiểu số đã in khắp
các chiến trường, trong số đó có rất nhiều người đã không bao giờ trở về.
Ngày nay, chiến tranh đã lùi xa, song các thế lực thù địch vẫn lợi dụng địa bàn
hiểm trở, cư dân thưa thớt, đặc biệt lợi dụng dân tộc Tây Bắc có những mối quan hệ láng
giềng và quan hệ họ hàng thân thiết với đồng bào dân tộc ngoài biên giới hoạt động
chống phá cách mạng nước ta, mục đích nhằm vô hiệu hóa các chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, trước “Đường lối chính trị đúng đắn của
Đảng ta đã từng bước cảm hóa mạnh mẽ và thu hút được tất cả các dân tộc thiểu số Tây
Bắc đi theo con đường đấu tranh và xây dựng để có dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [53, tr.45].
Với truyền thống yêu nước và lòng tin vững chắc vào sự nghiệp cách mạng của
Đảng, tiếp bước cha, anh, “Các dân tộc, tộc người sống trên vùng Tây Bắc đã tìm thấy
sức mạnh của mình, con đường phát triển của mình trong sức mạnh và con đường phát
triển chung của cả cộng đồng các dân tộc nước ta,” [53, tr.43] luôn thực hiện tốt chính
sách của Đảng, Nhà nước, định canh, định cư, xóa bỏ cây thuốc phiện truyền thống, thực
hiện nhận đất, nhận rừng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên
tiến, đưa các giống mới vào gieo trồng, tích cực xóa đói, giảm nghèo, xóa nạn mù chữ,
mở mang y tế, phát triển giao thông, vận tải, phát thanh - truyền hình, thông tin văn
hóa…Đảng bộ các dân tộc Tây Bắc đặc biệt quan tâm phát triển nền văn hóa nghệ thuật
các dân tộc thiểu số làm cho nó thực sự nở hoa kết trái góp phần làm phong phú đời sống
văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Nền văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số vùng
Tây Bắc không chỉ tồn tại, đứng yên mà đã và đang luôn luôn vận động phát triển trong
sự giao lưu, tác động lẫn nhau. Quá trình giao lưu ấy đã thúc đẩy mạnh mẽ sự xích lại
gần nhau, tăng thêm mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc ở nước ta.
1.2.3. Tây Bắc vùng đất giàu bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số
Văn hóa Tây Bắc là trầm tích lịch sử kéo dài và nối liền từ tiền - sơ sử cho đến
ngày nay. Các đặc điểm địa lý tự nhiên và lịch sử xã hội của vùng đất này đã tạo nên một
vị thế và đặc điểm văn hóa riêng, có những đóng góp quan trọng vào tiến trình văn hóa
dân tộc. Nói đến Tây Bắc là nói đến một vùng văn hóa đa dạng, phong phú, giàu hương
sắc và đậm đà bản sắc dân tộc, bởi mảnh đất này là nơi hội tụ sinh sống từ lâu đời của
hàng chục dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có một kho tàng di sản văn hóa mang sắc thái
riêng và hết sức quý giá. Đến Tây Bắc, dễ dàng được chứng kiến cách sống đặc trưng của
văn hóa nhà sàn, đắm mình trong những điệu múa nón, múa chuông, múa Cống Tốp, Au
eo… và các làn điệu dân ca trữ tình đằm thắm hòa quyện cùng tiếng đàn tính, đàn môi,
khèn bè, Pí thiu, Pí ót… Đêm đêm, bên bếp lửa nhà sàn, trong hương vị rượu cần ngây
ngất, sẽ được nghe những bản trường ca, tình ca bất hủ, giàu chất sử thi và thấm đẫm tính
nhân văn về quá trình tạo mường lập bản, chống giặc ngoại xâm, về tình yêu quê hương
đất nước, tình yêu đôi lứa và đạo lý làm người. Tây Bắc nổi tiếng với kiến trúc nhà sàn
Thái độc đáo, thơ mộng bằng chất liệu gỗ, nứa, tranh tre, mà điển hình là “khau cút” sinh
động vươn cao ở hai đầu chái nhà và các họa tiết hoa văn hình thoi, hình trám thể hiện ở
hàng lan can hay trên các khung cửa sổ, tạo nên sự hài hòa tinh tế và phù hợp với cảnh
quan thiên nhiên miền núi. Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Sơn La có từ lâu
đời, điển hình là nghề dệt thổ cẩm với các hình trang trí hoa, thú, chim rất trang nhã và
sinh động; Nghề đan lát mây tre, sản xuất gốm của đồng bào Thái, Mường, Dao, Khơ
mú; Luyện sắt làm vũ khí và các dụng cụ sản xuất của đồng bào Mông. Trong các dịp lễ
tết, ngày hội, cộng đồng các dân tộc Tây Bắc có nhiều trò chơi dân gian rất thú vị như
ném còn, kéo co, đua ngựa, bắn nỏ, chơi quay, ném Pa pao… Những phong tục tập quán,
lễ hội của cộng đồng các dân tộc Tây Bắc như : “sên bản, sên mường”, “lên nhà mới”, “lễ
hội gội đầu”, “mừng cơm mới”, “cầu mưa”…cũng rất độc đáo và hấp dẫn. Tất cả những
giá trị văn hóa truyền thống đó đã tạo nên bản sắc riêng và là hành trang quý giá của các
dân tộc Tây Bắc cần phải được bảo vệ gìn giữ và phát huy, bởi văn hóa của mỗi dân tộc
chính là “phần hồn” của dân tộc ấy, nó là thứ không thể thay thế được, nếu để mất bản
sắc văn hóa thì không còn chính dân tộc đó nữa. Ý thức rõ điều đó, nhiều năm qua Đảng
bộ và nhân dân các tỉnh Tây Bắc đã chủ động xây dựng và thực hiện chiến lược bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, bước đầu đã thu được những kết quả khả
quan. Để đi khảo sát những kết quả đạt được trong công tác bảo tồn và gìn giữ những giá
trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của các tỉnh vùng Tây Bắc, chúng tôi xin đi
sâu vào tỉnh Sơn La, đây là một tỉnh trung tâm của miền núi Tây Bắc. Trong những năm
đổi mới, đặc biệt là từ khi thực hiện nghị quyết Trung ương lần thứ V khóa VIII của
Đảng, Sơn La đã tổ chức kiểm kê, điều tra, khảo sát, lập hồ sơ đề nghị xếp hạng các di
tích lịch sử và văn hóa, đến nay đã kiểm kê được 37 di tích lịch sử cách mạng, 36 di tích
khảo cổ học, 14 di tích danh thắng, 3 di tích kiến trúc nghệ thuật, trong số này, đến nay
có 10 di tích được xếp hạng Quốc gia, 29 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Công tác nghiên
cứu khoa học, đề xuất các phương án bảo tồn được đẩy mạnh, các đề tài nghiên cứu cấp
tỉnh về bảo tồn di sản văn hóa đã được thực hiện như: Đề tài nghiên cứu “Văn hóa thời
tiền- sơ sử Sơn La”; Đề tài “Nghiên cứu bổ sung và viết thuyết minh giới thiệu một số di
tích lịch sử văn hóa dọc Quốc lộ 6 tỉnh Sơn La”. Những kết quả nghiên cứu này đã được
áp dụng vào thực tiễn, kịp thời bảo tồn, tôn tạo các di sản văn hóa, tiêu biểu là Khu di
tích Nhà tù Sơn La, Di tích lịch sử văn hóa Quế Lâm Ngự Chế- Đền thờ Vua Lê Thái
Tông, Di tích lịch sử Ngã ba Cò Nòi, Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Mường Và, Tháp
Mường Bám, Thắng cảnh Hang Dơi Mộc Châu. Các di tích này đang được bảo tồn và
khai thác rất hiệu quả, hàng năm thu hút được hàng nghìn lượt người tham quan, học tập
góp phần vào việc giáo dục truyền thống, ý thức phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và
hoạt động xã hội của người dân Sơn La, đồng thời mở rộng giao lưu văn hóa với các
vùng miền trong cả nước.
Công tác sưu tầm, gìn giữ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể cũng luôn được
quan tâm, chú trọng. Hàng trăm di vật thời Tiền sử, sơ sử đã được tìm thấy tại nhiều địa
phương như Mường Chanh (Mai Sơn); Thôm Mòn (Thuận Châu) và một số xã thuộc các
huyện ven sông Đà như Mường La, Bắc yên, Phù Yên, Quỳnh Nhai. Gần 2000 bản sách
được ghi chép bằng chữ Thái cổ thuộc nhiều thể loại như Sử thi, Trường ca, Truyện thơ
dân gian… Nhiều hiện vật của nghề thủ công, mỹ nghệ truyền thống đã được sưu tầm,
trưng bày, khai thác. Đặc biệt, nhằm bảo vệ các di sản vùng lòng hồ Thủy điện Sơn
La, những năm qua Sơn La đã phối hợp với Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành
điền dã, khảo sát thực địa phát hiện được 27 di tích, bước đầu đã xác định được tính
chất, niên đại của các di tích, di chỉ khảo cổ, đó là: 03 di tích thời kỳ Phong kiến; 07
di chỉ khảo cổ học thời đại kim khí; 09 di chỉ thời đại đá mới; 08 di chỉ thời đại đá cũ.
Tất cả những di tích và di chỉ này đang được khẩn trương xây dựng phương án bảo
tồn và phát huy. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc Sơn La tưởng
chừng như đã bị thất truyền hoặc đang có nguy cơ thất truyền và biến dạng, đã và
đang được sưu tầm, phục dựng, gìn giữ và phát huy. Tuy nhiên, khôi phục các lễ hội
truyền thống nhưng phải biết lựa chọn để nâng niu, bảo tồn những giá trị tinh thần,
những nét đẹp văn hóa trong các lễ nghi, sửa đổi những yếu tố không còn phù hợp,
mở rộng quy mô các lễ hội để cho các lễ hội trở thành điểm hội tụ văn hóa của cộng
đồng. Cho đến nay, Sơn La đã có 01 lễ hội với quy mô Khu vực, đó là Ngày hội Văn
hóa các dân tộc Tây Bắc. Nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc, tiêu biểu như các lễ hội:
Lễ hội Hoa Ban, Lễ hội Cầu mưa của dân tộc Thái; Lễ hội Pang A Nụn Pan của dân
tộc La Ha; Lễ hội Mương A Ma của dân tộc Xinh Mun; Lễ hội Xen Pang Ả của dân
tộc Kháng… Các làng nghề truyền thống như: Dệt Thổ cẩm Thèn Luông- Chiềng
Đông- Yên Châu; Gốm Mường Chanh - Mai Sơn, cũng được phục hồi và phát
triển.Việc tích cực sưu tầm, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể của các dân tộc trong tỉnh đã góp phần làm cho các thế hệ con em các dân tộc Sơn
La hiểu biết thêm về truyền thống lịch sử - văn hóa của vùng đất mà cha ông đã khai
phá và dựng xây, từ đó thêm tự hào, gắn bó với quê hương.
Có thể nói ý thức tộc chính là đặc điểm, trình độ mức sống của mỗi dân tộc, được
kết tinh thành những giá trị văn hóa. Văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng
Tây Bắc là kết quả giao lưu của nhiều dân tộc ở nhiều vùng đất khác nhau, ngoài những
nét đặc trưng tiêu biểu và tiếp thu tinh hoa văn hóa, các dân tộc Tây Bắc vẫn giữ được
bản sắc của vùng núi Tây Bắc nơi tuyến đầu tổ quốc, góp phần giữ gìn giá trị văn hóa
truyền thống các dân tộc và phát huy bản sắc văn hóa đó trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG CHIẾN LƯỢC
PHÁT TRIỂN TÂY BẮC
1.3.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước tác động tới Tây Bắc
Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc hoạch
định hệ thống chính sách đồng bộ, trong đó có chính sách dân tộc, các văn bản chính sách
có ý nghĩa lớn đối với miền núi phía Bắc, nói riêng là nghị quyết 22 của Bộ Chính trị
(ngày 27-11-1989) về một số chủ trương chính sách lớn về phát triển kinh tế miền núi,
các văn kiện đại hội Đảng lần thứ VI, VII, VIII, IX, lần thứ X vừa qua.
Thông qua hệ thống các văn bản từ văn kiện của Đảng, Chính Phủ, cũng như các
văn bản dưới luật, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta ngày càng được quan tâm
cả trong phương diện hoạch định chính sách, đến việc thể chế hóa và thực hiện trong đời
sống chính sách dân tộc.
Về kinh tế, nội dung nhiệm vụ trong chính sách dân tộc miền núi phía chính là chủ
trương phát triển kinh tế xã hội miền núi và các vùng dân tộc thiểu số nhằm tạo điều kiện
cho các dân tộc phát huy tiềm năng và nguồn lực, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, phát
triển kinh tế hàng hóa, từng bước rút ngắn khoảng cách về kinh tế giữa miền núi và miền
xuôi.
Về phương diện chính trị, thực hiện chính sách bình đẳng đoàn kết, tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau và cùng phát triển. Đồng bào các dân tộc thiếu số cũng như đa số đều có
quyền làm chủ, có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ công dân, có quyền lợi và trách nhiệm
xây dựng thể chế chính trị, phát huy vai trò hệ thống chính trị ở các vùng dân tộc thiểu
số. Dân chủ hóa đời sống chính trị đã được thực hiện ở các vùng nông thôn miền núi,
vùng dân tộc thiểu số. Ý thức chính trị, văn hóa chính trị mà trước hết là những thông tin,
tri thức về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền lợi và
nghĩa vụ công dân được chú ý quan tâm trong chính sách dân tộc.
1.3.2. Nghị quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng với vấn đề phát huy giá
trị văn hóa truyền thống các dân tộc Tây Bắc
Trong lịch sử phát triển của xã phát triển xã hội của loài người nói chung và của
Việt Nam nói riêng đã chứng minh và khẳng định bất cứ một triều đại nào, một chế độ
chính trị nào, một Đảng nào muốn giữ được vai trò thống trị và lãnh đạo toàn xã hội đều
đặc biệt quan tâm đến văn hóa.
Nền văn hóa chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chủ đạo. Nền văn hóa ấy bắt nguồn từ lịch sử vẻ
vang của dân tộc. Phương châm phát triển văn hóa Việt Nam phải xuất phát từ nguyên
tắc cơ bản: nền văn hóa của chúng ta là của nhân dân.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc bao hàm các nội
dung bảo tồn, phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số tạo nên sự
thống nhất trong sự đa dạng của nền văn hóa Việt Nam.
Với Hồ Chí Minh, nền văn hóa của chúng ta phải đặt lợi ích của dân tộc và nhân
dân là trên hết. Đó là nền văn hóa thấm đầy tính nhân văn. Những người làm công tác
văn hóa, văn nghệ phải chủ động đa dạng hóa phương pháp và phong cách sáng tác, luôn
luôn tìm tòi sáng tạo để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đáp ứng được mong đợi của
nhân dân. Các nghị quyết của Đảng khuyến khích các nhà văn hóa và các nghệ sĩ tìm tòi
nhiều hơn nữa, sáng tạo nhiều hơn nữa trong hoạt động nghệ thuật, đồng thời, phải ngăn
chặn những xu hướng văn hóa nghệ thuật suy đồi, phi đạo đức. Mọi hoạt động văn hóa
đều phải hướng về nhân dân, vừa góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mĩ cho nhân dân, vừa
phải lắng nghe nhân dân để tiếp tục có những sáng tạo văn hóa nghệ thuật mới.
Từ nhận thức tầm quan trọng và vị trí vai trò của văn hóa truyền thống của dân tộc
ta với tinh hoa văn hóa nhân loại, những sức mạnh tiềm tàng vô cùng to lớn có thể huy
động phục vụ hiệu quả cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nứớc. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng trong kháng chiến cũng như xây dựng đất nước, Bác Hồ, Đảng và
nhà nước ta luôn coi trọng và phát huy cao độ vai trò của văn hóa. Ngay từ năm 1943
đồng chí Trường Chinh- lúc đó là Tổng Bí thư của Đảng lúc đó đã viết đề cương văn hóa,
với phương châm “ dân tộc - khoa học - đại chúng”. Hiến pháp năm 1992 có tới 5 điều
nói về văn hóa, xác định một lần nữa nguyên tắc phát triển của nền văn hóa Việt Nam
“dân tộc - hiện đại - nhân văn”, nhằm phục vụ sự nghiệp cách mạng, bình yên cho dân
tộc.
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam trở thành nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc là mục tiêu cơ bản được đại hội VII của Đảng đề ra từ năm 1991. Mục
tiêu này tiếp tục được khẳng định và nhấn mạnh tại đại hội VIII năm 1996, tới tháng 7
năm 1998 lại được nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ V nêu lên như
một trong những quan điểm chỉ đạo cơ bản của sự nghiệp xây dựng sự nghiệp văn hóa
của đất nước ta suốt trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Nghị quyết Trung ương V
khóa VIII đã chỉ rõ phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như sau:
Một là, phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức
độc lập, tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại.
Hai là, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh
vực sinh hoạt và quan hệ con người.
Ba là, phương hướng chung chỉ rõ mục đích của xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm tạo ra.
Trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp.
Trình độ dân trí cao, khoa học phát triển.
Phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa , vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên Chủ nghĩa xã
hội.
Nghị quyết lần thứ 5 BCHTW Đảng khóa VIII cũng khẳng định 5 quan điểm chỉ
đạo của Đảng đối với văn hóa:
Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ta hiểu chăm lo phát triển văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã
hội, nếu thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không thể có sự phát triển bền
vững, dù tiện nghi vật chất dồi dào đến đâu thì xã hội cũng không thể tránh khỏi suy
thoái.
Phát triển kinh tế - xã hội là để đạt được độc lập, tự do, hạnh phúc, đời sống được
ấm no hạnh phúc. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội
trên mọi phương diện, chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương, biến thành nguồn nội sinh
quan trọng nhất của phát triển.
Hai là, nền Văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu
hiện, trong phương tiện chuyển tải nội dung.
Bảo vệ bản sắc dân tộc không có nghĩa là đóng cửa thu mình trong chủ nghĩa dân
tộc hẹp hòi, phải mở rộng giao lưu với thế giới, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái
tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc không có nghĩa là giữ
mãi, hoặc khôi phục những gì đã lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
Ba là, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
Việt Nam có 54 dân tộc anh em chung sống, mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa riêng
tạo nên tính đa dạng, phong phú của văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, một đặc điểm rất
quan trọng của quá trình phát triển các dân tộc Việt Nam là đoàn kết, thống nhất.
Sự thống nhất mà đa dạng của nền văn hóa Việt Nam còn bao gồm những sáng tạo
văn hóa của những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài luôn hướng về cội nguồn, cố
gắng gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của toàn dân mà nền tảng là khối đại
đoàn kết dân tộc và đó cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa.
Bất cứ chế độ nào cũng có đội ngũ tri thức của giai cấp cầm quyền. Trong nền văn
hóa của mỗi chế độ bao giờ cũng có một đội ngũ tri thức. Đội ngũ những nhà văn hóa.
Ông cha ta nói “Thiên tài là nguyên khí của quốc gia. Văn hóa là sự nghiệp của toàn dân,
trước hết là của nhân dân lao động, trong đó đội ngũ tri thức gắn bó với nhân dân có vai
trò quan trọng, nhất là trong việc sáng tạo ra nền văn hóa đỉnh cao.
Năm là, văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp
cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên
những giá trị văn hóa mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị văn hóa ấy
thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập
quán tiến bộ, văn minh là một quá trình đầy khó khăn [31, tr.58].
Người hoạt động văn hóa là chiến sỹ kiên cường trên mặt trận văn hóa, tư tưởng,
trong việc giữ gìn những di sản quí báu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế
giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh với các hủ
tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mưu toan lợi dụng văn hóa để
thực hiện “Diễn biến hòa bình”.
Nghị quyết chỉ rõ 10 nhiệm vụ cụ thể đó là:
Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới với những đức tính cao đẹp;
Xây dựng môi trường văn hóa trong sạch và lành mạnh; Phát triển sự nghiệp văn học
nghệ thuật; Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa; Phát triển sự nghiệp giáo dục -
đào tạo và khoa học -công nghệ; Phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại
chúng; Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; Thực hiện chính sách
văn hóa đối với tôn giáo; Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa; Củng cố, xây dựng và
hoàn thiện thể chế văn hóa; Nghị quyết còn chỉ rõ: Cùng với “Xây” phải “Chống”, điều
cần làm là kiên quyết loại bỏ những kẻ thoái hóa, biến chất về đạo đức ra khỏi tổ chức
Đảng và cơ quan nhà nước. Nghiêm trị bọn tội phạm, ngăn chặn và đẩy lùi những hoạt
động phản văn hóa, các sản phẩm văn hóa độc hại. Xây dựng nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, các tệ nạn cờ bạc, ma túy, mại dâm, bạo lực,
gây rối trật tự công cộng. Đảng ta luôn đề cao việc bảo tồn và phát huy những di sản tốt
đẹp của dân tộc. Văn kiện hội nghị V Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII nhấn mạnh:
Coi trọng và bảo tồn phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng,
phát triển những giá trị mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc
thiểu số. Bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, chữ viết của các dân tộc. Đi đôi với
việc sử dụng ngôn ngữ, chữ viết phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ thuộc đồng
bào các dân tộc thiểu số học tập, hiểu biết và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ
viết của dân tộc mình. Phát hiện bồi dưỡng, tổ chức lực lượng sáng tác, sưu
tầm, nghiên cứu văn hóa, văn học nghệ thuật là người dân tộc thiểu số [31,
tr.65-66].
Hiện nay việc thực hiện tốt nghị quyết Trung ương lần thứ 5 khóa VIII của Đảng,
và học tập triển khai thực hiên nghị quyết của đại hội khóa IX, khóa X, vấn đề văn hóa
các tộc người, nâng cao trình độ dân trí, trình độ văn hóa, cho cán bộ và nhân dân các dân
tộc thiểu số, xây dựng các thiết chế văn hóa phù hợp, phát triển văn hóa tộc người trong
mối quan hệ kết hợp truyền thống và hiện đại, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hoạt động trên
lĩnh vực văn hóa là người dân tộc thiểu số; đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, chống
“Diến biến hòa bình’’ dưới nhiều hình thức trong đó có hình thức “giao lưu” văn hóa,
đồng hóa văn hóa.
Mặc dù Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và có nhiều chủ trương chính sách
nhằm phát huy những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số song thực trạng đời sống
kinh tế - xã hội miền núi và vùng các dân tộc thiểu số sinh sống hiện nay còn gặp
nhiều khó khăn, các di sản văn hóa dân tộc, các di tích lịch sử văn hóa miền núi dần
dần xuống cấp và bị mai một, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu
số còn thấp. Bên cạnh đó, việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa dân tộc thiểu
số đang gặp nhiều trở ngại trước thách thức của quá trình toàn cầu hóa. Một bộ phận
dân tộc thiểu số, những giá trị văn hóa cũng đã chịu ảnh hưởng làm mất đi những nét
đẹp văn hóa riêng như trang phục, nhà ở, ngôn ngữ, cưới hỏi, ma chay đã bị “Kinh
hóa”...không còn hiếm hiện tượng thanh niên nam, nữ dân tộc không còn tha thiết với
những hình thức âm nhạc nghệ thuật của dân tộc mình.
Như vậy, vấn đề đặt ra là cùng lúc bảo tồn vốn cổ, kết hợp cũ, mới, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại và sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới cho dân tộc tức là thực
hiện sự định hướng về nhận thức cho đồng bào các dân tộc thiểu số hiểu được ý nghĩa,
vai trò của việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mình, tiếp thu, kế thừa và
truyền lại cho muôn đời sau những giá trị văn hóa tốt đẹp ấy. Chính những nhận thức ấy
là yếu tố quan trọng xây dựng lên những định hướng giá trị đúng đắn cho một nền văn
hóa mới hiện đại, dân tộc và nhân văn của Việt Nam.
1.4. VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC TUYÊN TRUYỀN NHỮNG
GIÁ TRỊ VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TÂY BẮC
1.4.1. Đặc điểm công chúng báo chí Tây Bắc
* Đặc điểm dân cư, dân số và quan hệ tộc người
Các dân tộc - tộc người ở Tây Bắc cư trú xen kẽ nhau và phân tán ở nhiều vùng
trong mỗi tỉnh. Tình trạng cư trú xen kẽ này tạo điều kiện để các dân tộc - tộc người xích
lại gần nhau, đẩy mạng giao lưu, giao tiếp trên các lĩnh vực, mặt khác cũng gây những
khó khăn trong quản lý xã hội - tộc người bởi sự khác nhau về phong tục, tập quán, lối
sống ...
Tình trạng cư trú xen kẽ và phân tán không đồng đều nhau trên từng địa bàn cụ thể
tạo nên sự đa dạng trong bức tranh phân bố tộc người và cũng tạo nên những khó khăn
phức tạp cần giải quyết trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội ...
nhất là trong quản lý kinh tế, văn hóa và quản lý xã hội tộc người. Có thể thấy
được số các dân tộc thiểu số cư trú trên những địa bàn chiếm trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, môi trường sinh thái.
Đặc điểm trong quan hệ dân tộc - tộc người ở Tây Bắc là có truyền thống đoàn kết
gắn bó từ lâu đời. Truyền thống đoàn kết, thống nhất trong cộng đồng các dân tộc ở Tây
Bắc đã được phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc thống
nhất tổ quốc và đang được phát huy trong công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, mà nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Tuy nhiên, hiện nay giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch lớn trên nhiều phương
diện. Về văn hóa: trình độ văn hóa, trình độ dân trí nói chung còn thấp, có sự chênh lệch
lớn giữa các vùng trong một tỉnh, nhất là đồng bào vùng cao, vùng sâu, xa còn hạn chế
nhiều. Phong tục tập quán, luật tục, tâm lý, lối sống của các tộc người ... bên cạnh những
yếu tố tích cực, còn chiếm giữ nhiều yếu tố tiêu cực, lạc hậu ở các mức độ khác nhau.
Những đặc điểm trên đây về dân số, dân cư và mối quan hệ dân tộc chưa phải là
tất cả, song đó là những đặc điểm nổi bật cần được xem xét, tính đến trong giải quyết các
vấn đề dân tộc, và quan hệ dân tộc, hoạch định và thực hiện tốt chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta trên con đường đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đó cũng là những vấn đề đòi hỏi các cơ quan thông tin đại chúng cần phải nắm vững và
hiểu sâu sắc, để có được cách thức, phương pháp, chiến lược tuyên truyền “trúng” “đúng”
theo định hướng của Đảng trong thời kỳ mới.
1.4.2. Đặc điểm tâm lý và nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
Cũng như miền núi phía Bắc, người dân miền núi Tây Bắc ngoài những đặc điểm
chung có những đặc điểm riêng. Về tính cách, lối sống, cư dân ở Tây Bắc là những người
thật thà, chất phác có lòng yêu quê hương đất nước nồng nàn, có tinh thần đoàn kết
tương thân, tương ái, sống cởi mở, thẳng thắn, chân thành, giản dị. Người dân Tây Bắc
cũng có tâm lý sùng bái các nhân vật thần thánh, những người có công với cộng đồng,
có tập tục thờ cúng gia tiên, có tư tưởng phong phú dệt lên những truyền thuyết đầy
màu sắc huyền thoại và sinh động. Nói như vậy, song đồng bào các dân tộc Tây Bắc
cũng có nhiều hạn chế do việc sử dụng ngôn ngữ riêng ở các tộc người khác nhau, nên
việc giao lưu học hỏi khó khăn, nhất là các dân tộc lạc hậu ở vùng sâu xa như H’Mông.
Một đặc điểm nữa là người dân thích hoạt động thực tiễn hơn tư duy và nhận thức, khả
năng tiếp nhận thông tin khoa học kỹ thuật, tiếp nhận thông tin báo chí còn nhiều khó
khăn. Bản tính bảo thủ, cố hữu, cục bộ dân tộc địa phương, tự do, lòng tự tôn dân tộc
thái quá đã khiến cho việc tiếp thu cái mới, tiến bộ diễn ra rất chậm, nhiều thủ tục,
nhiều thói quen lạc hậu không dễ dàng thay đổi. Tâm lý học hành không có chủ định
vẫn tồn tại không ít trong dân cư.
Nhằm nâng cao nhận thức, khả năng tư duy của người dân vùng núi Tây Bắc, nhất
là vùng sâu vùng xa, Đảng ta đã có nhiều chính sách ưu đãi, đẩy mạnh các hoạt động đưa
văn hóa về cơ sở, phát triển hoạt động báo chí, phát thanh truyền hình. Hiện nay miền núi
Tây Bắc cũng đang thực hiện có hiệu quả chương trình phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù
chữ, chống tái mù chữ, đây cũng là những yếu tố thúc đẩy việc tiếp nhận thông tin báo chí
của đông đảo các dân tộc, kể cả vùng sâu vùng xa. Phải khẳng định rằng từ những năm 90
trở lại đây đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc Tây Bắc đã được nâng lên rõ rệt,
ngoài việc được tiếp nhận món ăn tinh thần mới hấp dẫn là truyền hình, báo in ... đã được
chuyển đến vùng sâu xa một cách nhanh nhất....
Từ những việc làm cụ thể đẩy mạnh thông tin về cơ sở, đồng bào các dân tộc Tây
Bắc hiện nay đã được đón nhận món ăn tinh thần phong phú đa dạng hơn. Song thực tế
khách quan, trình độ nhận thức, tâm lý vẫn là những hạn chế trong tiếp nhận thông tin. Vì
vậy, nhu cầu của đồng bào hiện nay đòi hỏi nhiều và sâu về thông tin, cũng là đòi hỏi về
phương pháp chiến lược tuyên truyền đối với cơ quan báo chí như chủ trương quan điểm
của Đảng ta đã chỉ rõ: Các dân tộc “Cùng phát triển” bên nguyên tắc: “Bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ”.
Có thể nói báo chí là một phần không thể thiếu của xã hội, bản thân nó có vai trò
quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa xã hội. Với chức năng tuyên
truyền, định hướng dư luận xã hội, báo chí giúp nâng cao nhận thức văn hóa cho người
dân, khẳng định và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, hình thành và không ngừng
hoàn thiện lối sống tích cực trong xã hội. Báo chí chính là một trường học xã hội rộng rãi
cung cấp kiến thức mọi mặt cho đời sống con người dưới dạng vừa bao quát, vừa cụ thể
lại dễ dàng tiếp nhận. Xã hội ngày càng phát triển không ngừng và tất nhiên đời sống văn
hóa xã hội cũng không ngừng vận động đòi hỏi con người phải bổ sung và hoàn thiện vốn
hiểu biết của mình. Hơn thế nữa, tuyên truyền phổ biến về văn hóa cũng là mục đích và
nhiệm vụ của báo chí.
Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa VIII đã đánh giá
“Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và qui mô, về nội dung và hình thức,
về in, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống văn
hóa tinh thần của xã hội” [31, tr.44].
Đối với công tác tuyên truyền về bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa dân
tộc, nhất là bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số, báo chí Tây Bắc nói riêng, báo chí Việt
Nam nói chung giữ vai trò như là một chiếc cầu nối giữa nét đẹp của dân tộc này với dân
tộc khác, xóa bỏ đi khoảng cách, làm cho văn hóa các dân tộc ngày càng có điều kiện
giao lưu với nhau. Từ việc giao lưu đó, mỗi dân tộc ý thức về bản sắc văn hóa dân tộc
mình và tiếp thu được những nét đẹp, thuần phong mỹ tục, những nhân tố tích cực và
phê phán loại bỏ những gì đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Báo chí không chỉ phản ánh được những nguyên nhân cũng như thực trạng của
văn hóa, mà còn giới thiệu được những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu với bạn bè
quốc tế, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam, thông qua đó báo chí cũng đã giới thiệu
được đến độc giả của mình hiểu và nắm bắt được những nét tinh túy của văn hóa dân tộc.
Tuy nhiên hiện nay xuất hiện xu hướng đồng hóa tự nhiên về văn hóa làm mai một
văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc từ nghi thức, ăn,
mặc, ở, tập quán...tiếng nói đã bị pha trộn, âm nhạc dân tộc bị xem thường, những bộ trang
phục không còn hấp dẫn với thế hệ trẻ.
Để giữ vững và phát huy vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền giữ
gìn và bảo tồn văn hóa các dân tộc, tự thân mỗi cơ quan báo chí, mỗi cán bộ phóng
viên cần nâng cao chất lượng báo chí, nâng cao sự am hiểu về văn hóa dân tộc, luôn
đổi mới hình thức cũng như nội dung tuyên truyền phù hợp với thời cuộc, để giá trị
văn hóa các dân tộc Tây Bắc mãi trường tồn với thời gian.
Có thể nói, từ những đặc điểm kinh tế, xã hội, điều kiện địa lý tự nhiên, đặc điểm
truyền thống văn hóa, tâm lý nhu cầu, đặc điểm công chúng Tây Bắc, thời gian qua báo
chí trung ương và địa phương đã phát triển bề rộng, ngày càng nâng cao hiệu quả tuyên
truyền - đáp ứng nhu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng cao của đồng bào các dân tộc
miền núi phía Bắc nói chung và Tây Bắc nói riêng.
Chương 2
KHẢO SÁT BÁO CHÍ SƠN LA TRONG VIỆC TUYÊN TRUYỀN
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC
THIỂU SỐ VÙNG TÂY BẮC
2.1. KHẢO SÁT BÁO CHÍ SƠN LA
2.1.1. Đài Phát Thanh - Truyền Hình Sơn La
2.1.1.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển của Đài Phát thanh - Truyền
hình Sơn La
Ngµy 26/9/1977 §µi ph¸t thanh S¬n La chÝnh thøc ®-îc thµnh lËp trªn c¬ së mét
phÇn c¸n bé vµ kü thuËt cña §µi ph¸t thanh khu T©y B¾c. Nh÷ng n¨m ®Çu míi thµnh
lËp víi nhiÒu khã kh¨n vÒ c¬ së vËt chÊt, thiÕt bÞ kü thuËt vµ ®éi ngò c¸n bé, song víi
nç lùc to lín, c¸c ®ång chÝ l·nh ®¹o, c¸c thÕ hÖ c¸n bé qua c¸c thêi kú ®· v-ît qua nh÷ng
khã kh¨n ban ®Çu ®Ó ®-a sù nghiÖp cña ngµnh b-íc tiÕp nh÷ng n¨m ph¸t triÓn.
Ngay tõ ngµy ®Çu tiªn ph¸t sãng c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh (tiÕng phæ th«ng,
tiÕng Th¸i, tiÕng M«ng vµ ca nh¹c c¸c d©n téc), c¸c ch-¬ng tr×nh cña §µi ph¸t thanh
S¬n La lu«n lµ nhu cÇu kh«ng thÓ thiÕu, lµ nguån th«ng tin kÞp thêi nhÊt ®Õn víi
®ång bµo c¸c d©n téc c¸c b¶n, x· vïng s©u, vïng xa.
Néi dung, h×nh thøc c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh lu«n ®-îc c¶i tiÕn, n©ng cao
phï hîp víi ®Æc ®iÓm, yªu cÇu cña ng-êi nghe ®µi chñ yÕu lµ ®ång bµo c¸c d©n
téc Ýt ng-êi. Gãp phÇn ®Þnh h-íng trong c«ng t¸c t- t-ëng cña c¸n bé, đ¶ng viªn, nh©n
d©n trong qu¸ tr×nh chuyÓn tõ c¬ chÕ bao cÊp sang nh÷ng n¨m ®æi míi, t¹o kh«ng
khÝ phÊn khëi tin t-ëng cña nh©n d©n víi sù l·nh ®¹o cña §¶ng, ph¸t triÓn kinh tÕ
b»ng chÝnh tiÒm n¨ng vèn cã cña ®Þa ph-¬ng.
Liªn tôc tõ ngµy ®Çu tiªn ph¸t sãng ®Õn nay ®µi duy tr× ®Òu ®Æn mçi ngµy
120 phót 4 ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh vµ gÇn ®©y ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh tiÕng Th¸i,
tiÕng M«ng ®-îc ph¸t thªm trªn hÖ FM. §µi PT - TH S¬n La lu«n nhËn ®-îc th- cña
ng-êi nghe ®µi, nhÊt lµ bµ con d©n téc M«ng vïng cao yªu cÇu t¨ng thêi l-îng c¸c
ch-¬ng tr×nh.
Hßa chung víi b-íc ph¸t triÓn chung cña ngµnh Ph¸t thanh - truyÒn h×nh c¶ n-íc,
®óng vµo ngµy 26/8/1989 kû niÖm 37 n¨m ngµy gi¶i phãng S¬n La, nh÷ng thiÕt bÞ
truyÒn h×nh ®Çu tiªn ®· ®-îc l¾p ®Æt, tiÕp sãng vµ ph¸t l¹i thµnh c«ng t¹i trung t©m
thÞ x· S¬n La. Sau mét thêi gian ng¾n thö nghiÖm, víi sù quan t©m trùc tiÕp cña l·nh
®¹o TØnh ñy, UBND tØnh, sù n¨ng ®éng cña l·nh ®¹o ngµnh, th¸ng 3 n¨m 1992 ñy ban
nh©n d©n tØnh S¬n la ®· quyÕt ®Þnh ®æi tªn §µi ph¸t thanh S¬n la thµnh §µi ph¸t
thanh - truyÒn h×nh S¬n La. Tõ ®ã ngµnh b-íc vµo mét giai ®o¹n ph¸t triÓn míi lµ c¬
quan b¸o nãi, b¸o h×nh vµ thùc hiÖn chøc n¨ng qu¶n lý sù nghiÖp ph¸t thanh-truyÒn
h×nh tõ tØnh ®Õn c¸c ®µi huyÖn, tr¹m c¬ së.
LiÒn sau ®ã ë trung t©m 9 huyÖn thÞ trong tØnh ®Òu ®-îc l¾p ®Æt tr¹m thu,
ph¸t sãng truyÒn h×nh më réng diÖn phñ sãng ë c¸c vïng trung t©m ®«ng d©n sinh
sèng.
Nh- vËy tõ chç chØ cã c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh cña §µi ph¸t thanh - truyÒn
h×nh tØnh vµ §µi truyÒn thanh - truyÒn h×nh c¸c huyÖn thÞ, sau nh÷ng n¨m 90 m¹ng
l-íi c¸c ®µi truyÒn thanh, tr¹m ph¸t sãng FM, tr¹m thu ph¸t l¹i truyÒn h×nh ®· v-¬n ra
®Õn c¸c trung t©m x·, ®Õn nhiÒu x· vïng cao, biªn giíi.
Duy tr× ®Òu ®Æn mçi tuÇn 7 ch-¬ng tr×nh thêi sù truyÒn h×nh, ch-¬ng tr×nh
v¨n nghÖ vµ phim mçi ngµy. Néi dung ch-¬ng tr×nh truyÒn h×nh còng kh«ng ngõng
®-îc ®æi míi ®¸p øng yªu cÇu ngµy cµng cao cña kh¸n gi¶ truyÒn h×nh. HiÖn nay trong
c¸c ch-¬ng tr×nh truyÒn h×nh sau phÇn thêi sù vÒ c¸c ho¹t ®éng trong tØnh ®ang duy
tr× tèt c¸c chuyªn môc trong th¸ng. Kh¾c phôc t×nh tr¹ng thiÕu tin c¬ së, Phßng biªn tËp
§µi ph¸t thanh - truyÒn h×nh tØnh phèi hîp tèt víi c¸c §µi truyÒn thanh - truyÒn h×nh
c¸c huyÖn thÞ thùc hiÖn trang truyÒn h×nh tõ c¬ së, ®ång thêi mçi tuÇn ban biªn tËp
®µi tØnh x©y dùng ch-¬ng tr×nh chän läc göi b¨ng ph¸t ë c¸c huyÖn trong tØnh.
§Æc biÖt tõ ®Çu n¨m 2000 ®Õn nay, §µi ph¸t thanh truyÒn h×nh tØnh còng nh-
§µi truyÒn thanh-truyÒn h×nh c¸c huyÖn ®· thùc hiÖn kh¸ tèt c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t
thanh-truyÒn h×nh trùc tiÕp ph¶n ¸nh t¹i chç c¸c sù kiÖn chÝnh trÞ lín cña tØnh vµ cña
huyÖn nh-: C¸c kú häp cña H§ND, ®¹i héi §¶ng c¸c cÊp, c¸c cuéc kû niÖm, lÔ mÝt tinh
lín cña tØnh, huyÖn. §Õn nay, viÖc thùc hiÖn c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh-truyÒn h×nh
trùc tiÕp ®· trë thµnh viÖc lµm th-êng xuyªn cña toµn ngµnh.
§¸p øng yªu cÇu cña t×nh h×nh míi. Thùc hiÖn chØ ®¹o cña l·nh ®¹o §µi truyÒn
h×nh ViÖt Nam. Tõ th¸ng 1/2002, hµng th¸ng §µi ®· x©y dùng 2 ch-¬ng tr×nh truyÒn
h×nh tiÕng M«ng göi ph¸t th-êng xuyªn trªn VTV5 cña §µi THVN. B¾t ®Çu tõ th¸ng 3
n¨m 2002 §µi ph¸t thanh truyÒn h×nh S¬n La x©y dùng mçi th¸ng 2 ch-¬ng tr×nh
truyÒn h×nh tiÕng M«ng göi ph¸t ë 13 ®µi tr¹m truyÒn h×nh cã ®ång bµo M«ng trªn
®Þa bµn toµn tØnh.
§µi truyÒn thanh-truyÒn h×nh c¸c huyÖn, thÞ duy tr× tèt b¶n tin thêi sù tiÕng
phæ th«ng, tiÕng Th¸i, tiÕng M«ng. §¸p øng yªu cÇu cña ng-êi xem truyÒn h×nh, ®-îc
phÐp cña TØnh ñy, UBND tØnh §µi truyÒn thanh-truyÒn h×nh 11 huyÖn x©y dùng
mçi tuÇn mét b¶n tin thêi sù truyÒn h×nh ®-îc ®«ng ®¶o b¹n xem truyÒn h×nh ñng hé
hoan nghªnh.
Qua néi dung c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh, truyÒn thanh, truyÒn h×nh tõ §µi
tØnh ®Õn c¸c ®µi huyÖn, thÞ lu«n b¸m s¸t nhiÖm vô ph¸t triÓn kinh tÕ, x· héi, gi÷
v÷ng an ninh quèc phßng cña cÊp ñy, chÝnh quyÒn ®Þa ph-¬ng. Néi dung c¸c ch-¬ng
tr×nh ngµy cµng phong phó, b¸m s¸t c¬ së, nªu g-¬ng ®iÓn h×nh trªn nhiÒu lÜnh vùc,
®ång thêi còng ®¶m b¶o tÝnh §¶ng, tÝnh quÇn chóng phª ph¸n nh÷ng biÓu hiÖn tiªu
cùc, tÖ n¹n x· héi mµ §¶ng, Nhµ n-íc ta quan t©m, ®Êu tranh ®Èy lïi.
2.1.1.2. Cơ cấu tổ chức, đội ngũ phóng viên
Đài Phát thanh - truyền hình Sơn La có trụ sở chính tại 125 đường Nguyễn Lương
Bằng – Thành phố Sơn La tỉnh Sơn La, với cơ cấu tổ chức Giám đốc Đài phụ trách chung
công tác của toàn ngành, một phó giám đốc phụ trách nội dung và một phó giám đốc phụ
trách kỹ thuật, các phòng ban chuyên môn gồm có: Phòng Biên tập, Phòng phóng viên,
Ban Văn nghệ, Phòng hành chính, Phòng tài vụ. Và 12 Đài truyÒn thanh-truyÒn h×nh
huyện thị trực thuộc sự quản lý trực tiếp của ngành.
ĐÕn nay trªn 80% sè c¸n bé c«ng nh©n viªn toµn ngµnh ®· qua ®µo t¹o vµ ®µo
t¹o l¹i qua c¸c tr-êng chÝnh trÞ cao cÊp, trung cÊp lý luËn cña Trung -¬ng vµ cña tØnh;
Qua c¸c kho¸ nghiÖp vô b¸o chÝ , kü thuËt ph¸t thanh, truyÒn h×nh hoÆc theo häc t¹i
chøc mét sè tr-êng ®¹i häc chuyªn ngµnh kh¸c. Trong ®ã 41/261 cã tr×nh ®é ®¹i häc,
79/261 cã tr×nh ®é trung cÊp, cßn l¹i lµ c«ng nh©n kü thuËt vµ ngµnh nghÒ kh¸c. 7 c¸n
bé cã tr×nh ®é cao cÊp lý luËn. 35 trung cÊp lý luËn, phÊn ®Êu ®¸p øng yªu cÇu ph¸t
triÓn nhanh cña ngµnh ph¸t thanh-truyÒn h×nh c¶ n-íc.
2.1.1.3. Công tác sản xuất tổ chức chương trình
Duy tr× ®Òu ®Æn mçi tuÇn 7 ch-¬ng tr×nh thêi sù truyÒn h×nh, ch-¬ng tr×nh
v¨n nghÖ vµ phim mçi ngµy. Néi dung ch-¬ng tr×nh truyÒn h×nh còng kh«ng ngõng
®-îc ®æi míi ®¸p øng yªu cÇu ngµy cµng cao cña kh¸n gi¶ truyÒn h×nh. HiÖn nay trong
c¸c ch-¬ng tr×nh truyÒn h×nh sau phÇn thêi sù vÒ c¸c ho¹t ®éng trong tØnh ®ang duy
tr× tèt c¸c chuyªn môc trong th¸ng. Kh¾c phôc t×nh tr¹ng thiÕu tin c¬ së, Phßng biªn tËp
§µi PT - TH tØnh phèi hîp tèt víi c¸c §µi TT - TH c¸c huyÖn thÞ thùc hiÖn trang truyÒn
h×nh tõ c¬ së, ®ång thêi mçi tuÇn ban biªn tËp ®µi tØnh x©y dùng ch-¬ng tr×nh chän
läc göi b¨ng ph¸t ë c¸c huyÖn trong tØnh.
§Æc biÖt tõ ®Çu n¨m 2000 ®Õn nay, §µi ph¸t thanh - TruyÒn h×nh tØnh còng
nh- §µi truyÒn thanh-truyÒn h×nh c¸c huyÖn ®· thùc hiÖn kh¸ tèt c¸c ch-¬ng tr×nh Ph¸t
thanh - TruyÒn h×nh trùc tiÕp ph¶n ¸nh t¹i chç c¸c sù kiÖn chÝnh trÞ lín cña tØnh vµ
cña huyÖn nh-: C¸c kú häp cña H§ND, ®¹i héi §¶ng c¸c cÊp, c¸c cuéc kû niÖm, lÔ mÝt
tinh lín cña tØnh, huyÖn. §Õn nay, viÖc thùc hiÖn c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh-truyÒn
h×nh trùc tiÕp ®· trë thµnh viÖc lµm th-êng xuyªn cña toµn ngµnh.
§¸p øng yªu cÇu cña t×nh h×nh míi. Thùc hiÖn chØ ®¹o cña l·nh ®¹o §µi truyÒn
h×nh ViÖt Nam. Tõ th¸ng 1/2002, hµng th¸ng §µi ®· x©y dùng 2 ch-¬ng tr×nh truyÒn
h×nh tiÕng M«ng göi ph¸t th-êng xuyªn trªn VTV5 cña §µi THVN. B¾t ®Çu tõ th¸ng 3
n¨m 2002 §µi ph¸t thanh truyÒn h×nh S¬n La x©y dùng mçi th¸ng 2 ch-¬ng tr×nh
truyÒn h×nh tiÕng M«ng göi ph¸t ë 13 ®µi tr¹m truyÒn h×nh cã ®ång bµo M«ng trªn
®Þa bµn toµn tØnh.
§µi truyÒn thanh-truyÒn h×nh c¸c huyÖn, thÞ duy tr× tèt b¶n tin thêi sù tiÕng
phæ th«ng, tiÕng Th¸i, tiÕng M«ng. §¸p øng yªu cÇu cña ng-êi xem truyÒn h×nh, ®-îc
phÐp cña TØnh Uû, UBND tØnh §µi truyÒn thanh - truyÒn h×nh 11 huyÖn x©y dùng
mçi tuÇn mét b¶n tin thêi sù truyÒn h×nh ®-îc ®«ng ®¶o b¹n xem truyÒn h×nh ñng hé
hoan nghªnh.
Néi dung c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh, truyÒn thanh, truyÒn h×nh tõ §µi tØnh
®Õn c¸c ®µi huyÖn, thÞ lu«n b¸m s¸t nhiÖm vô ph¸t triÓn kinh tÕ, x· héi, gi÷ v÷ng an
ninh quèc phßng cña cÊp uû, chÝnh quyÒn ®Þa ph-¬ng. Néi dung c¸c ch-¬ng tr×nh
ngµy cµng phong phó, b¸m s¸t c¬ së, nªu g-¬ng ®iÓn h×nh trªn nhiÒu lÜnh vùc, ®ång
thêi còng ®¶m b¶o tÝnh §¶ng, tÝnh quÇn chóng phª ph¸n nh÷ng biÓu hiÖn tiªu cùc, tÖ
n¹n x· héi mµ §¶ng, Nhµ n-íc ta quan t©m, ®Êu tranh ®Èy lïi.
§i ®«i víi chó träng ®æi míi néi dung tuyªn truyÒn trªn sãng ph¸t thanh -truyÒn
thanh - truyÒn h×nh ®¶m b¶o ®óng quan ®iÓm ®-êng lèi, chÝnh s¸ch cña §¶ng, Nhµ
n-íc; c«ng t¸c kü thuËt cña ngµnh còng ®· cã b-íc ph¸t triÓn kh¸ nhanh. Nh÷ng n¨m ®Çu
míi thµnh lËp cßn dïng m¸y ph¸t sãng c«ng suÊt víi 2KW cña §µi ph¸t thanh khu T©y
B¾c ®Ó l¹i. C¸c thiÕt bÞ thu, in ch-¬ng tr×nh ®Òu ®· qua qu¸ nhiÒu n¨m sö dông, ®Õn
nay ®· ®-îc n©ng c«ng suÊt 11Kw trªn 2 sãng 63m vµ 305m.
VÒ m¸y ph¸t h×nh hiÖn nay ë §µi tØnh cã 3 m¸y ph¸t ®ång thêi 3 kªnh, gåm 1
m¸y ph¸t h×nh Ha Rit c«ng suÊt 1KW - 1 m¸y ph¸t VTC c«ng suÊt 2 KW - 1 m¸y ph¸t
VTC c«ng suÊt 1KW. §¶m b¶o chÊt l-îng tiÕp ph¸t l¹i mçi ngµy 22 giê/ngµy c¸c ch-¬ng
tr×nh cña VTV1-VTV2-VTV3-VTV5 vµ ch-¬ng tr×nh truyÒn h×nh ®Þa ph-¬ng. Trªn
th¸p truyÒn h×nh cao 100 m ®Æt trªn ®åi Khau C¶ cßn thu ph¸t l¹i ch-¬ng tr×nh ph¸t
thanh cña §µi tiÕng nãi ViÖt Nam trªn kªnh sãng FM vµ ph¸t ®ång thêi ch-¬ng tr×nh
ph¸t thanh tiÕng Th¸i, tiÕng M«ng cña §µi S¬n La.
Ở trung t©m 9 huyÖn ®Òu ®-îc l¾p ®Æt m¸y ph¸t h×nh c«ng suÊt tõ 20 ®Õn 1000
w. TÝnh ®Õn hÕt 6 th¸ng ®Çu n¨m 2002 nµy toµn tØnh cã 41 tr¹m thu ph¸t sãng truyÒn
h×nh víi m¸y ph¸t h×nh c«ng suÊt tõ 20 ®Õn 1000w, 8 tr¹m TVRO víi kho¶ng trªn 68%
sè hé d©n ®-îc xem truyÒn h×nh; Trong ®ã tr¹m ph¸t h×nh Khau Tó (ThuËn Ch©u) ®é
cao 1100 m so víi mÆt biÓn vµ tr¹m ph¸t h×nh ®-îc ®Æt trªn ®åi cao trªn vïng th¶o
nguyªn Méc Ch©u, ®é cao 1020 m ®· ph¸t huy ®-îc lîi thÕ n©ng diÖn phñ sãng cho 2
vïng ®«ng d©n c- nhÊt tØnh.
Tõng b-íc ®æi míi thiÕt bÞ kü thuËt theo h-íng hiÖn ®¹i, nh÷ng n¨m gÇn ®©y
c«ng t¸c qu¶n lý khai th¸c thiÕt bÞ, dµn dùng c¸c ch-¬ng tr×nh ph¸t thanh -truyÒn h×nh
truyÒn dÉn ph¸t sãng lu«n ®¶m b¶o chÊt l-îng, h¹n chÕ tèi ®a thêi gian mÊt sãng, kh¾c
phôc kÞp thêi sù cè kü thuËt.
2.1.2. Báo Sơn La
2.1.2.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển của Báo Sơn La
Cách đây 45 năm, ngày 3.1.1964, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra quyết định chuyển
tờ Tin thành tờ báo Đảng với tên gọi “ Sơn La đổi mới”. Ngày 3.2/1964 báo: Sơn La Đổi
Mới xuất bản số đầu tiên. Tên gọi “Sơn La đổi mới” có từ năm 1964 đến năm 1976 đây
là thời kỳ tờ báo gắn liền với cuộc kháng chiến chống chiến tranh phá hoại bằng không
quân của giặc Mỹ, vì sự nghiệp giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước.
Những ngày đầu chống chiến tranh leo thang phá hoại của giặc Mỹ (6-1965), Tòa
soạn sơ tán cách thành phố 10 km, phải đi qua nhiều trọng điểm đánh phá ác liệt của máy
bay Mỹ. Khi đó toàn cơ quan có 6 người, kể từ cấp dưỡng đến Tổng Biên tập, chưa một
ai được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ báo chí, phóng viên vừa bám sát trận địa chụp ảnh,
viết tin bài nêu các gương sáng, thông báo kịp thời tin thắng trận - bắn rơi máy bay Mỹ -
cho mỗi số báo, vừa kiêm cả biên tập, sửa mo rát tại nhà in. Thời gian này, cùng với tờ
Sơn La đổi mới có thêm một tờ được dịch và viết bằng chữa Thái cổ in theo phương pháp
Paraphin trên bàn đá (một vài năm sau được đúc bằng bản chì để in) tờ báo song ngữ
được phát hành tuần 1 kỳ - số lượng hạn hẹp từ 400-600 tờ/kỳ, đây thực sự là nguồn động
viên kịp thời phong trào thi đua sản xuất, chiến đấu của chiến sĩ, nhân dân các dân tộc
trong tỉnh.
Năm 1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, cả đất nước thống nhất và đi lên
chủ nghĩa xã hội. Tòa soạn Báo Sơn La được chuyển từ nơi sơ tán (bản Sàng, Hát Lót,
huyện Mai Sơn) về thành phố. Cùng với thời gian này, “Sơn La đổi mới” đổi tên thành
Báo Sơn La tuần ra hai kỳ thứ ba và thứ sáu với số lượng phát hành 800 tờ/kỳ.
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức, đội ngũ phóng viên
Trụ sở chính của báo Sơn La được đặt tại 190-192 đường Tô Hiệu thành phố Sơn
La Ban Biên tập gồm có Tổng Biên tập và 3 phó Tổng biên tập phụ trách thư ký tòa soạn
và phụ trách phóng viên. Đến nay tuyệt đại đa số cán bộ phóng viên - biên tập viên của
cơ quan Báo đã qua đào tạo theo tiêu chuẩn và phát huy tốt vai trò trong công tác. Hiện
nay 28/29 cán bộ phóng viên - biên tập viên chính thức của tòa soạn có trình độ đại học;
1 đ/c có trình độ cao đẳng đang theo học đại học; 8 đ/c có trình độ Cao cấp lý luận chính
trị; 14 đ/c có trình độ trung cấp lý luận và tương đương, đó là con số nói lên nhiều cố
gắng của tòa soạn. Hàng năm Báo Sơn La có hàng trăm cộng tác viên, trong đó 30% là
cộng tác viên tích cực thường xuyên cộng tác với Báo.
Để nâng cao chất lượng, hình thức của các ấn phẩm, Báo Sơn La luôn coi công tác
giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ
phóng viên là điều kiện số một. Nét nổi bật những năm qua là tinh thần đoàn kết, chung
sức, chung lòng xây dựng tờ báo. Từ Ban Biên tập đến các bộ phận đều đề cao ý thức tổ
chức kỷ luật, ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức
nghề nghiệp trong sáng, đáp ứng nhiệm vụ chính trị trên mặt trận tuyên truyền.
Đến nay, tòa soạn vẫn tiếp tục chủ trương về công tác đào tạo, đào tạo lại cán bộ,
thường xuyên củng cố tổ chức, thực hiện tốt quy chế hoạt động, quy chế dân chủ trong cơ
quan. Nhiều đồng chí có 2 bằng đại học (Đại học báo chí và Cử nhân chính trị hoặc
chuyên ngành khác).
2.1.2.3. Công tác xuất bản
Trước đây việc chế bản phải thông qua Nhà in, chất lượng công nghệ cũ, nay việc
thiết kế ma két, trình bày đều được chủ động làm trên máy vi tính tại tòa soạn. Đặc biệt
việc đưa vào sử dụng quét ảnh đã nâng cao chất lượng ảnh in và tính thời sự trên báo lên
rất nhiều lần. Trong những năm gần đây tờ báo có nhiều đổi mới, nội dung hình thức
được cải tiến, chất lượng thông tin nhanh, nhạy, kịp thời, đáp ứng yêu cầu của cấp ủy,
của nhân dân và bạn đọc.
- Năm 1997, báo chủ động làm ảnh dương bản tại cơ quan.
- Năm 1998, xuất bản thêm tờ Tin ảnh Sơn La, tháng 1 số với 2.500 tờ/kỳ
- Năm 1999, hoàn thành việc chế bản vi tính tại tòa soạn.
- Năm 2000, báo tăng 8 trang/kỳ, khổ 29 x 42 cm. Nâng kỳ phát hành tờ Tin ảnh
Sơn La 1 tháng 2 số 3.200 tờ/kỳ. Tháng 8 năm 2008 nâng lên 3.700 tờ/kỳ.
- Năm 2001, hoàn thành việc nối mạng LAN.
- Năm 2003, báo tăng 3 kỳ/tuần, với 4/8 trang, in 2 màu và đến nay 8/8 trang in 2
màu.
- Năm 2006, báo Điện tử Sơn La chính thức hòa mạng.
Đến hết năm 1999: Báo Sơn La có số lượng phát hành 3.000 tờ/kỳ 8 trang, khổ 29
x 42 cm. Được sự chỉ đạo của tỉnh tòa soạn xuất bản tờ Tin ảnh Sơn La, 3 tháng một số in
4 màu, với số lượng 2.500 tờ phát hành đến các xã, bản vùng sâu trong tỉnh. Các khâu,
bình chế bản đã được thực hiện qua vi tính tại tòa soạn. Tháng 1.2003, Báo Sơn La phát
hành 3 kỳ/tuần với số lượng 5.000 tờ/kỳ, tờ Tin ảnh phát hành tháng 2 số với 3.200 tờ/kỳ.
Hàng năm Báo Sơn La có hàng trăm cộng tác viên, trong đó 30% là cộng tác viên tích
cực thường xuyên cộng tác với Báo.
2.1.3 Tạp chí văn nghệ Suối Reo
2.1.3.1. Vài nét về sự hình thành và phát triển của tạp chí văn nghệ “Suối Reo”
Trong thời thực dân Pháp xâm lược với dã tâm, muốn dùng nơi “Rừng thiêng,
nước độc” để khuất phục những người tù Cộng sản, làm nhụt ý chí giành độc lập của
nhân dân các dân tộc Việt Nam, ngay từ những ngày đầu của thế kỷ XX thực dân Pháp đã
tiến hành xây dựng một nhà tù tại trung tâm hành chính Sơn La. Năm 1930, chúng mở
rộng nhà tù lên gấp ba lần so với kế hoạch ban đầu và đưa những tù nhân chính trị đầu
tiên lên tù đầy tại đây. Theo con số thống kê, có 1.007 lượt chiến sỹ cách mạng bị thực
dân Pháp giam cầm trong nhà tù Sơn La. Trong số đó, nhiều đồng chí sau khi thoát khỏi
nhà tù, cống hiến trí tuệ sức lực cho cách mạng, trở thành những đảng viên cộng sản
trung kiên, cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước. Nêu cao tinh thần cách mạng, ý chí
đấu tranh kiên cường vì sự nghiệp giải phóng đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam XHCN.
Một trong những sự kiện lớn lao ở nhà ngục Sơn La những năm 40-45 là việc ra
đời Chi bộ nhà tù, đánh dấu bước ngoặt quan trọng đối với phong trào cách mạng Sơn
La- chuyển từ đấu tranh tự phát- sang đấu tranh tự giác, có sự lãnh đạo thường xuyên liên
tục của Đảng. Anh hùng liệt sỹ Lò Văn Giá là tấm gương tiêu biểu. Trong ngục tù tăm tối
ấy, dưới gông xiềng, đòn roi, hình phạt dã man, ngặt nghèo của kẻ thù, ánh sáng của
Đảng vẫn được nhen lên lớn mạnh và tỏa sáng. Trong hoàn cảnh ấy báo Suối Reo- cơ
quan ngôn luận của Chi bộ nhà tù ra đời, trở thành cẩm nang lãnh đạo, là lời cổ vũ, động
viên, củng cố niềm tin lãnh đạo đối với các tổ chức cơ sở Đảng, với phong trào cách
mạng Sơn La. Cuối năm 1943, Chi bộ nhà tù đã tổ chức thành lập Hội người Thái cứu
quốc (Côn tay chât mương) mà nòng cốt là các tổ thanh niên cứu quốc được thành lập đã
tập hợp đông đảo quần chúng tham gia Việt Minh. Hội người Thái cứu quốc đã sử dụng
mọi hình thức tuyên truyền để vạch tội ác của phát xít Nhật – Pháp. Thời gian này, Hội
người Thái cứu quốc đã xuất bản tờ báo “Lắc Mương” ( dịch tiếng Thái: Trụ cột của đất
nước) bằng hai thứ chữ Thái và Quốc ngữ. Tuy hình thức thô sơ viết tay, in thạch, nhưng
báo “Lắc mương” đã nêu cao tính chiến đấu, vạch rõ tội ác của đế quốc và tay sai, kêu
gọi đoàn kết dân tộc, chống giặc cứu nước.
Có thể khẳng định “ Suối Reo” và “ Lắc Mương” là những tờ báo cách mạng đầu
tiên ở Sơn La, chính là những mạch nguồn, khơi thủy - cho dòng chảy báo chí Đảng bộ
Sơn La.
Kế thừa và phát huy tinh thần của báo “ Suối Reo” năm xưa, tạp chí văn nghệ “Suối
Reo” được đổi tên từ tạp chí Văn nghệ Sơn La từ tháng 02 năm 2003 đến nay hiện là cơ quan
ngôn luận của Hội Văn học- Nghệ thuật tỉnh Sơn La, là nơi giới thiệu hoạt động sáng tạo của
văn nghệ sỹ, là nơi để anh, chị, em hội viên rèn luyện, nâng cao chất lượng hoạt động sáng
tạo, là tấm gương phản ánh chân thực nhất hoạt động của Hội Văn học- Nghệ thuật và hội
viên.
Sau những bước tiến có tính lịch sử. Hội Văn học – Nghệ Thuật tỉnh Sơn La đã có
bước bộ tiến trưởng thành cả về số lượng và chất lượng. Tạp chí “Suối Reo” luôn giữ
vững định hướng hoạt động, bám sát các nhiệm vụ chính trị của tỉnh, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân các dân tộc, giữ gìn phẩm chất của người làm công tác văn học nghệ
thuật trước những biến động và khó khăn của cuộc sống. Văn nghệ sỹ tỉnh nhà luôn
hướng về cơ sở, thực tiễn công cuộc đổi mới của đất nước, của tỉnh để sáng tạo ra những
tác phẩm văn học nghệ thuật phản ánh sự tiến bộ, thay đổi của cuộc sống mới, mang đậm
đà bản sắc văn hóa của các dân tộc góp phần giữ gìn, kế thừa và phát huy tinh hoa văn
hóa các dân tộc Sơn La. Tạp chí “Suối Reo” được đánh giá là tạp chí có chất lượng của
các hội văn học địa phương.
2.1.3.2. Cơ cấu tổ chức, đội ngũ hội viên
Tòa soạn của tạp chí Văn nghệ “ Suối Reo”, Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Sơn
La có trụ sở chính tại đường Nguyễn Lương Bằng - Phường Quyết Thắng - Thành phố
Sơn La. Văn phòng Hội gồm có 9 thành viên, Chủ tịch Hội, 1 phó chủ tịch chịu trách
nhiệm nội dung, 1 đồng chí ủy viên thường trực kiêm chánh văn phòng, 4 chuyên viên, 2
nhân viên phục vụ , được chia làm 2 bộ phận: Văn phòng Hội có 3 đồng chí, chuyên trách
tạp chí có 3 đồng chí.
Hiện nay, Hội có trên 200 hội viên thuộc 5 chi hội cơ sở với nhiều trình độ học
vấn khác nhau; Chi hội Văn học-Nghệ Thuật, Mộc Châu, Sông Mã- Sốp Cộp, Phù Yên,
Quỳnh Nhai, Yên Châu và các Chi hội chuyên ngành; Chi hội Văn nghệ dân gian; Nghệ
sỹ nhiếp ảnh; sân khấu biểu diễn; Chi hội mỹ thuật, kiến trúc sư; Chi hội văn nghệ dân
gian các dân tộc thiểu số.
2.1.3.3. Công tác xuất bản
Hiện nay, tạp chí văn nghệ Suối Reo là một trong 4 cơ quan báo chí của tỉnh Sơn
La, xuất bản định kỳ hai tháng 1 số, khổ 16 x 24cm, có số lượng xuất bản là 600 cuốn,
được phát hành tới 53 tỉnh thành trong cả nước và 11 huyện, thị, tới các xã, bản và đồn
biên phòng trong tỉnh.
2.2. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ SỐ LƯỢNG
2.2.1 Kết quả khảo sát về số lượng trên sóng Phát thanh
Khảo sát từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009, 18 tháng, với 6 buổi phát
sóng / tuần (số 2, 3, 4, 5, 6, và 7). Cụ thể được thể hiện qua bảng tổng hợp dưới đây:
Bảng 2.1: Khảo sát số lượng tin bài trên sóng phát thanh (2008-2009)
N¨m th¸ng N¨m 2008 N¨m 2009 TC ThÓ lo¹i 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 6
1. Tin 0 1 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 3 5 2 3 1 0 16
2. Bµi ph¶n ¸nh 2 10 3 3 4 3 2 1 3 2 4 1 2 1 1 1 0 1 44
3. Pháng vÊn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
4. Ghi chÐp 0 0 0 1 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 2
5. Chuyªn luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
6. X· luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
7. B×nh luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 1 1 0 3
Tæng céng 2 11 3 4 4 3 2 2 4 2 1 5 7 3 4 2 2 65 4
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
2.2.2. Kết quả khảo sát trên sóng Truyền hình, khảo sát từ tháng 1 năm 2008
đến tháng 6 năm 2009, 18 tháng với 6 buổi phát sóng/ tuần (số 2, 3, 4, 5, 6, và 7 ). Cụ thể
được tổng hợp dưới bảng sau đây.
Bảng 2.2: Khảo sát số lượng tin bài trên sóng truyền hình (2008-2009)
N¨m th¸ng N¨m 2008 N¨m 2009 TC ThÓ lo¹i 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 6
1. Tin 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1
2. Bµi ph¶n ¸nh 0 1 0 1 1 1 0 1 3 1 1 1 0 1 1 0 0 1 14
3. Pháng vÊn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
4. Ghi chÐp 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
5. Chuyªn luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
6. X· luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
7. B×nh luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tæng céng 0 1 0 1 1 1 0 2 3 1 1 0 1 1 0 0 1 15 1
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
2.2.3. Khảo sát trên Báo Sơn La, từ tháng 1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009, 18
tháng, 3 kỳ /tuần (số thứ 2, 4, 6 ). Cụ thể được thể hiện dưới bảng tổng hợp sau đây.
Bảng 2.3: Khảo sát số lượng tin bài trên Báo Sơn La (2008-2009)
N¨m th¸ng N¨m 2008 N¨m 2009 TC ThÓ lo¹i 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1 2 3 4 5 6
1. Tin 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
2. Bµi ph¶n ¸nh 10 1 0 1 4 0 1 0 4 6 1 2 4 2 3 3 3 2 47
3. Pháng vÊn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
4. Ghi chÐp 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
5. Chuyªn luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
6. X· luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
7. B×nh luËn 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tæng céng 10 1 0 1 4 0 1 0 4 6 2 4 2 3 3 3 2 47 1
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
* Nhận xét chung:
Qua thực tế khảo sát trên hệ thống báo chí tỉnh Sơn La gồm: Đài Phát thanh -
Truyền Hình Sơn La, Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo người viết thấy tin, bài gìn
giữ và phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số có số lượng trung bình và
tăng, giảm theo từng tháng. Riêng đối với tạp chí văn nghệ Suối Reo, bài viết tuyên
truyền về văn hóa dân tộc gần như bị bỏ ngỏ nên tác giả không đủ căn cứ lập bảng so
sánh. Đây cũng là vấn đề đặt ra cho tạp chí Suối Reo về thực hiện tốt nghị quyết trung
ương 5 khóa VIII của Đảng. Là một tỉnh các dân tộc thiểu số chiếm tới gần 90% dân số
nên việc cố định thời lượng phát sóng và in báo của mỗi loại hình đã được ban biên
tập các báo quan tâm cả trên hệ thống báo chí; Phát thanh -Truyền hình, Báo Sơn La.
Các chương trình và số báo đều đã đăng tải đề cập đến vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa
các dân tộc trên cả hai mảng di sản vật thể và phi vật thể tập trung vào các đề tài: Bảo
tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa nói chung, di tích lịch sử, danh lam
thắng cảnh, cổ vật, kiến trúc lịch sử, âm nhạc dân gian, lễ hội truyền thống, phong tục
tập quán, nghệ nhân. Những nội dung này được thể hiện ở nhiều góc độ, góc cạnh
khác nhau, bằng nhiều chủ đề cụ thể phản ánh sự đa dạng, phong phú của những biểu
hiện sinh động của văn hóa các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, cũng phải
nhìn nhận rằng những bài viết về giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số chưa sâu, nhiều
bài viết còn sơ sài, chạy theo định hướng tin, bài hàng tháng, số lượng bài tuyên
truyền giữa các tháng không có sự cân đối, các bài viết thường tập trung vào những
ngày lễ, tết. Có những tháng không có bài viết nào đề cập đến giá trị văn hóa truyền
thống dân tộc thiểu số. Đối với tạp chí Suối Reo mặc dù có chuyên trang thơ được
dịch bằng hai thứ tiếng, đó là chữ viết phổ thông và chữ Thái song những bài viết về
gìn giữ phát huy những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số được đề cập còn mỏng. Số
lượng bài viết tuyên truyền liên quan đến vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trên
Báo Sơn La. Đài Phát thanh- truyền hình Sơn La, tạp chí Văn Nghệ Suối Reo từ tháng
1 năm 2008 đến tháng 6 năm 2009 thể hiện như ở các bảng thống kê trên, cụ thể:
Năm 2008: Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La, đều đặn phát sóng một tuần 6
chương trình Phát thanh - truyền hình. Như vậy, trong năm 2008 cả phát thanh truyền
hình có tổng số 642 chương trình. Với 80 tin, bài, phóng sự viết tuyên truyền về phát huy
những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số, trong đó, truyền hình có 12 bài phóng sự
được phát chủ yếu trong chuyên mục “Di sản văn Hóa” và một số chương trình sự kiện,
chuyên đề.
Báo Sơn La, trong năm 2008 với một tuần xuất bản đều đặn 3 số báo. Trong năm
2008, báo đã xuất bản 145 số báo với một số báo đặc biệt chào xuân năm 2008. Báo Sơn
La cũng có tổng cộng 57 bài viết.
Tạp chí Văn Nghệ Suối Reo với số định kỳ hai tháng một số, trong năm 2008 có 6
số tạp chí văn nghệ Suối Reo đã xuất bản. Tuy nhiên, ngoài trang thơ định kỳ được in
bằng chữ phổ thông dịch sang chữ phần viết dân tộc Thái, các bài viết về giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc gần như không có. Qua khảo sát hơn hai năm tác
giả chỉ thấy có hai bài viết liên quan đến vấn đề này. Đây là một con số quá khiêm tốn,
nếu như không nói đây là một mảng mà tạp chí văn Nghệ Suối Reo còn bỏ ngỏ.
Năm 2009, mặc dù thời lượng và số lượng của báo Sơn La, Đài Phát thanh Truyền
hình Sơn La vẫn được giữ nguyên nhưng qua khảo sát, số lượng bài viết tuyên truyền về
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trên Báo Sơn La đã tăng lên cả về số lượng cũng như
chất lượng nội dung và hình thức, [Thứ 6 ngày 06/2/2009, “Tưng bừng lễ hội Xên
Mường” ] [Thứ 6 ngày 13/2/2009, “Giữ gìn phát huy truyền thống bản sắc văn hóa dân
tộc tây Bắc”. Đăng trong mục văn hóa – văn nghệ cuối tuần, ] thứ 6 ngày 13/3/2009, Bài:
“Chi Đảy : Thắng cảnh hấp dẫn”. Trong nhiều bài viết phóng viên báo Sơn La đã đề cập
vấn đề được rộng và sâu hơn, như phóng sự dài kỳ; “ Sơn La điểm đến của du khách:
được đăng trong mục văn hóa văn nghệ cuối tuần trong các ngày, thứ 6 ngày 20/3/2009,
thứ 6 ngày 27/3/2009, ngày 03/4/2009, ngày 10/4/2009, ngày 17/4/2009. Số lượng bài
viết trong 6 tháng năm 2009, Phát thanh và truyền hình với tổng số lượng 155 chương
trình với tổng bài viết trên sóng phát thanh: 24 tin, Bài, Truyền hình: 3 Phóng sự. Báo
Sơn La; 27 bài. Những thống kê về tin bài trên đây cho thấy, bài viết tuyên truyền giá trị
văn hóa các dân tộc thiểu số thiếu sự cân bằng rõ rệt giữa các chương trình, các cơ quan
báo chí.
* Đối với Đài phát thanh - truyền hình, Báo Sơn La, tạp chí văn Nghệ Suối Reo,
tuy đã có kế hoạch tuyên truyền trọng tâm là chuyên mục di sản văn hóa , song việc
thực hiện công tác này chưa được thường xuyên, liên tục, cơ cấu chương trình mặc dù
đã có kế hoạch từng tháng, từng tuần cho chương trình phát sóng, nhưng mới chỉ là
hình thức, đối với công tác tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống chưa có sự phân
mảng, phân công phóng viên phụ trách cụ thể, dẫn đến vấn đề này luôn trong tình
trạng tuyên truyền kiểu“ cầm chừng” chưa có mạch nguồn cụ thể, các phóng viên
thực hiện đều mang tính tự phát. Điều đó dẫn đến tình trạng, có tháng không có một
bài phóng sự nào đề cập về vấn đề này.Trên hệ thống báo chí các bài viết về giá trị
văn hóa dân tộc thiểu số còn sơ sài về nội dung, nhiều bài viết phát do biên tập viên
chương trình sưu tầm trên báo chí và các nguồn như báo cáo tổng kết đưa vào chương
trình. Đây cũng là một điểm yếu, một hạn chế sóng phát thanh - truyền hình địa
phương không thu hút được khán, thính giả. Các chương trình trên sóng phát thanh -
truyền hình cũng như trên các báo luôn rơi vào tình trạng mất cân đối, không phù hợp
giữa các đề tài tuyên truyền. Điều này chính là vấn đề đặt ra cho những nhà quản lý
báo chí ở địa phương cần có kế hoạch cụ thể, chi tiết mang tính chiến lược lâu dài, có
như vậy hiệu quả tuyên truyền mới đạt được như mong muốn.
2.3. NỘI DUNG TUYÊN TRUYỀN
2.3.1. Phản ánh ngày tết cổ truyền về các tín ngưỡng, lễ hội của các dân tộc
thiểu số
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tinh thần của nhiều tộc người. Tổ chức lễ hội có
nhiều hình thức và nội dung khác nhau, tùy vào điều kiện sống của từng người dân, từng
cơ sở, từng tộc người, sự biến đổi và phát triển xã hội ở từng thời kỳ. Hàng năm nhiều lễ
hội truyền thống đặc sắc của các dân tộc Sơn La tưởng chừng như đã bị thất truyền hoặc
đang có nguy cơ thất truyền và biến dạng, đã và đang được sưu tầm, phục dựng, gìn giữ
và phát huy. Tuy nhiên, khôi phục các lễ hội truyền thống nhưng phải biết lựa chọn để
nâng niu, bảo tồn những giá trị tinh thần, những nét đẹp văn hóa trong các lễ nghi, sửa
đổi những yếu tố không còn phù hợp, mở rộng quy mô các lễ hội để cho các lễ hội trở
thành điểm hội tụ văn hóa của cộng đồng. Cho đến nay, Sơn La đã có 01 lễ hội với quy
mô Khu vực, đó là Ngày hội Văn hóa các dân tộc Tây Bắc. Nhiều lễ hội truyền thống đặc
sắc, tiêu biểu như các lễ hội: Lễ hội Hoa Ban, Lễ hội Cầu mưa của dân tộc Thái; Lễ hội
Pang A Nụn Pan của dân tộc La Ha; Lễ hội Mương A Ma của dân tộc Xinh Mun; Lễ hội
Xen Pang Ả của dân tộc Kháng…
Lễ hội Hoa Ban dân tộc Thái
Lễ hội của các dân tộc thiểu số Sơn La rất đa dạng và phong phú nó không chỉ
diễn ra vào mùa xuân như các tỉnh miền xuôi mà được tổ chức diễn ra vào các mùa trong
năm và được báo chí luôn cập nhật, truyên truyền hiệu quả. Các lễ hội được khôi phục
không chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tinh thần của cộng đồng dân tộc, mà còn
góp phần to lớn trong việc giáo dục truyền thống của dân tộc. Truyền thống đạo lý “
Uống nước nhớ nguồn, đối với người có công bảo vệ, xây dựng quê hương, đối với tổ
tiên họ tộc và các nghề nghiệp cổ truyền, niềm tự hào dân tộc gắn bó cộng đồng. Các lễ
hội qua báo chí đã được nâng tầm lên một hình thức mới không chỉ còn bó hẹp trong
cộng đồng chính dân tộc đó nữa như lễ hội “Tết độc lập của đồng bào dân tộc Mông”ở
Mộc Châu. Lễ hội đã được nâng lên tầm quốc gia. Đây là mảng đề tài được phản ánh
khá nhiều trên báo chí Sơn La. Từ báo chí, công chúng đã có cái nhìn khá toàn diện về
lễ hội của các dân tộc thiểu số, những nét đẹp truyền thống, ý nghĩa phần lễ và phần hội
của lễ hội truyền thống, bài; “Hương sắc Sơn La”, phát sóng tối thứ 5, ngày 5.9, đã
giúp cho khán giả nhận biết được sự đa dạng, phong phú của truyền hình trong tuyên
truyền lễ hội, mà từ đó công chúng đã cảm nhận được rõ tinh thần lễ hội, văn hóa các
dân tộc Tây Bắc được thường xuyên tổ chức vào dịp tết độc lập tại địa bàn huyện Mộc
Châu, đây là lễ hội không của riêng một tộc người nào mà là lễ hội của đoàn kết của
toàn thể đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc. Lễ hội của tình đoàn kết keo sơn
giữa các dân tộc thiểu số cùng sống chung trên dải biên cương của tổ quốc. Trong
phóng sự tác giả đã nêu bật được phần lễ trong lễ hội là mời thần thánh, hồn của ông bà
ngày xưa có công khai phá lập bản, lập mường, các thế lực siêu nhiên về ăn cỗ phù hộ
cho con người ngày một phát triển gặp điều may mắn, mùa màng tốt tươi, tai qua nạn
khỏi...Tiếp đến là phần hội trong ngày hội sau lễ cúng tổ tiên, thần linh..., người ta tổ
chức nhiều trò chơi hấp dẫn như bắn nỏ chọi chim, chọi gà, đánh quay, thổi sáo, múa
Khèn....
Phỏng vấn Cứ A Tráng- bản Tà Phềnh xã Tân Lập Mộc Châu: Mình được tập
Khèn từ năm 14 tuổi, đối với đồng bào Mông chúng mình, tiếng Khèn không thể thiếu
trong các dịp lễ, tết, ngày vui của họ tộc anh em bản làng, được tham gia múa Khèn trong
lễ hội lớn có nhiều anh em các dân tộc như thế này mình thấy cuộc sống thêm nhiều ý
nghĩa.
Cũng trong bài viết này tác giả còn chuyển đến công chúng những cuộc so tài thi
đấu trò chơi dân gian như thi bắn Nỏ, ném Còn, thi đánh Tu Lu, thi nấu cơm nhanh.
Trong các lán trại của đại diện từng tộc người là phần trưng bày những vật dụng, những
sản phẩm thủ công đặc sắc tinh tế được đúc kết và truyền lại từ bao đời nay như ; Khăn
Piêu, váy áo dân tộc, Sáo, Khèn, đồ thủ công mỹ nghệ.
Trò chơi dân gian truyền thống dân tộc thiểu số
Hoặc như bài viết “Lễ hội Kin Pang Then- Lễ hội Thái trắng" - Quỳnh Nhai, phát
trên sóng phát thanh, thứ 5,ngày 14.2.2008 và trên sóng truyền hình Thứ 3, ngày
10.6.2009 trong Chuyên mục di sản văn hóa hoặc trên số báo xuân Mậu tý 2009, ở trang
19, tòa soạn đã dành hẳn một trang báo giới thiệu về nét đẹp lễ hội Sơn La với lời tựa:
Đến Sơn La, ta được chứng kiến những nét đặc trưng của văn hóa nhà sàn, đắm mình
trong những điệu múa nón, múa chuông, múa Cống tốp, âu eo...và các làn điệu dân ca trữ
tình, đằm thắm, hòa quyện cùng tiếng đàn Tính, đàn Môi, Khèn bè, Pí Thiu, Pí ót...Đêm
đêm bên bếp lửa nhà sàn, trong hương vị rượu cần ngất ngây, sẽ được nghe những bản
trường ca, tình ca bất hủ, giàu chất sử thi và thấm đẫm tính nhân văn...Sơn La rất nhiều lễ
hội truyền thống. Xin được giới thiệu một trong số rất nhiều lễ hội truyền thống của dân
tộc thiểu số Sơn La.
Từ lời tựa mượt mà hấp dẫn trên số báo đã giới thiệu đến công chúng các lễ hội
như: Lễ hội Xen Pang Ả; Lễ hội Mương A Ma; Lễ hội Kim Pang Then. Qua khảo sát trên
báo chí Sơn La cho thấy, lượng bài viết về các lễ hội truyền thống các dân tộc thiểu số là
rất cao, trong tổng số tin, bài qua hai năm tác giả khảo sát, Nhiều bài viết trên báo Sơn La
phóng viên đã tận dụng lợi thế lời tựa, ngay từ đầu đã dẫn dắt độc giả bằng những tích
chuyện rất hấp dẫn và minh họa bằng ảnh chụp. Ví dụ như Bài: Lễ hội mừng cơm mới
của người Thái đen Yên Châu: Với lời tựa; Chuyện xưa kể rằng: Cứ vào vụ là chim
muông, thú rừng hay đến phá hoại, thêm vào đó là thiên tai, hạn hán thường xuyên xảy
ra, mùa màng bị thất thu, đời sống của dân bản gặp nhiều khó khăn. Năm đó được mùa
lớn, nhà nọ có 9 người con trai, để tỏ lòng hiếu thảo với bố, mẹ, 9 người con đã thay nhau
làm cơm, mổ lợn, trâu, bò, dê...để dâng lên bố, mẹ...cứ như vậy, thức ăn thừa thì bỏ phí,
người ta liền cho thức ăn thừa vào lá dong xôi lên, đổ vào ống đun ăn trong nhiều ngày,
lễ hội “Xim Khảu máu’ Mừng cơm mới được bắt nguồn từ đó.
Trong bài viết phóng viên thể hiện sự hiểu biết của mình về lễ hội “Mừng cơm
mới" qua từng câu, chữ. Phóng viên miêu tả chi tiết lễ hội diễn ra cần những hình thức,
thủ tục gì, từ đó phóng viên cũng đã phát huy được lợi thế báo in để viết những câu từ
tiếng dân tộc Thái để tăng thêm hiệu quả bài viết như: “Phả ma nơ, lâm ma nơ, phốn ma
nơ”. Mây khắp nơi bay về đây, gió cũng theo mây về đây, hãy mưa đi để mùa màng tốt
đẹp, để mùa sau chúng con được mùa bội thu sẽ dâng lên thần linh lễ to hơn năm nay..”
hoặc như: Già làng bắt đầu làm lễ bằng những lời: “Xó phẹp pảu pú, phí Pa, phí bản phí
hươn” có nghĩa là: xin phép ông, bà tổ tiên, các vị thần linh. Mí nứ bươn đả, phá đi, mứ
tam khằm đi, xó phẹp bảu pú, phi pa, phí bản, phí hươn... (hôm nay là ngày lành tháng
tốt, chúng con xin phép tổ tiên cùng các vị thần linh được tổ chức làm lễ mừng cơm mới
để các vị thần linh và tổ tiên thưởng thức, mong tổ tiên và các vị thần linh phù hộ để cho
cuộc sống của bản ngày càng giàu có, ai ai cũng khỏe mạnh....
Quả thực những bài viết như thế này giúp cho công chúng cảm nhận về lễ hội của
các dân tộc thiểu số sâu hơn, hiểu và nắm bắt được ý nghĩa của lễ hội các dân tộc một
cách nghiêm túc nhất- Một phương thức tuyên truyền hiệu quả cho việc giữ gìn những
giá trị văn hóa các dân tộc.
Lễ hội của dân tộc thiểu số là sợi dây vô hình là tình cảm nối con người với con
người, giữa con người với thiên nhiên, với bản làng, quê hương xứ sở của mình. Qua các
lễ hội họ tin nhau, yêu nhau hơn, họ gửi gắm cho nhau mối tình cảm đằm thắm, thân thiết
và chân thực. Họ giúp đỡ nhau trong khó khăn hoạn nạn cùng nhau xây dựng cuộc sống
vui vẻ, thoải mái.
Những nghi lễ, tín ngưỡng trong lễ hội là nhưng giá trị văn hóa đặc sắc của các
dân tộc thiểu số. Ngày nay, do khoa học kỹ thuật phát triển nhận thức của người nông
dân được nâng cao, nên việc tổ chức lễ hội cũng có phần khác đi, nhưng vẫn giữ được
hình thức lễ hội truyền thống dân tộc, vẫn còn có giá trị tập quán sản xuất và sinh hoạt
riêng biệt văn hóa của mỗi vùng, mỗi dân tộc. Do đó việc giữ gìn và phát huy những giá
trị văn hóa đặc sắc của lễ hội là một việc làm cần thiết, nó thực sự góp phần tìm hiểu về
văn hóa và con người các dân tộc trong tổng hòa các mối quan hệ với thế giới tự nhiên và
xã hội. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế nhiều bài viết trên báo chí về lễ hội còn mang
tính hình thức, bài viết sơ sài, cùng một bài phản ánh nhưng mỗi phóng viên lại có những
cách tiếp cận khác nhau, nhiều bài viết của phóng viên như chỉ giới thiệu về lễ hội chứ
chưa lột tả được ý nghĩa thực của lễ hội, cụ thể như trong chương trình phát thanh, Thứ 6,
ngày 9.1.2009 có các bài viết.-Lễ hội dâng hoa Măng của dân tộc La Ha. Chương trình
phát thanh thứ 5, ngày 12.2.2009-Phát sóng trong Chuyên mục: Di sản văn hóa- -Lễ hội
Mah Grợ và điệu múa Velr Guông của dân tộc Khơ Mú. Chương trình phát thanh.Thứ 6,
ngày 20.2.-Chuyên mục văn hóa- xã hội. với bài- Lễ hội Gầu Tào của dân tộc Mông. -
Hội sắc bùa của dân tộc Mường .-Lễ hội Mương A Ma của dân tộc Sinh Mun, -Tết
nguyên tiêu của dân tộc Hoa
2.3.2. Hương sắc các dân tộc thiểu số Sơn La trong văn hóa văn nghệ dân
gian
Sơn La được sở hữu sông suối, núi non hùng vĩ tuy hiểm trở nhưng đẹp bởi sự đa
dạng của địa hình và thảm thực vật phong phú của rừng nhiệt đới. Đất và con người Sơn
La thơ mộng đầy cảm hứng để các nghệ sĩ sáng tác nên những tác phẩm giàu chất thơ, âm
nhạc, điệu múa, lời ca làm nên một vườn hoa muôn sắc, ngát hương mang bản sắc văn
hóa dân tộc độc đáo vẻ đẹp tâm hồn trong sang và thấm đẫm tình người. Trong bài viết
dài kỳ “Sơn La điểm đến của du khách” của phóng viên Anh Đức đăng trên mục, Văn
hóa văn nghệ cuối tuần, Báo Sơn La số 4383, thứ sáu, ngày 3 tháng 4 năm 2009 rất nhiều
loại hình văn hóa nghệ thuật của các dân tộc Sơn La qua tác phẩm tác giả đã tự trả lời cho
độc giả của mình qua câu hỏi “Điệu xòe có từ bao giờ”. “ Mỗi khi âm thanh trầm bổng
nhịp điệu của trống xòe nổi lên lại thôi thúc mọi người đến với vòng xòe…” rồi tác giả
đưa ta đến điệu nhảy Khèn múa Ô của các chàng trai, cô gái H’Mông, “ Không kém phần
nhộn nhịp là điệu múa Chuông của đồng bào Dao trong dịp tết thanh minh hoặc lễ đặt
tên con. Những chiếc Chuông được đúc bằng đồng thau, âm hưởng vang vọng..” …
Trong mục “ Có thể bạn chưa biết” chương trình Phát thanh- thứ 5 ngày 6.11 năm 2008
cũng đã đề cập đến sức lôi cuốn, quyến rũ của điệu xòe dân tộc Thái; “ Tay trong tay, vai
kề vai, chân người nọ dịch theo chân người kia trong không khí tình cảm say sưa, đầm
ấm của vòng xòe, đêm xòe …Âm nhạc và dàn nhạc của xòe thông thường gồm 1 chiếc
trống, hoặc hai, ba chiéc Chiêng, một đôi chũm chọe và mấy ống tre dỗ trên mặt gỗ. Có
khi còn dung cả Pí, Khèn Pè, Tính tẩu…Có thể khẳng định, Sơn La là một kho tàng quí
báu về văn hóa văn nghệ dân gian trong âm sắc của núi rừng Tây Bắc. Xưa kia, bên cạnh
những điệu múa, vòng xòe, âm nhạc là thứ không thể thiếu được trong đời sống tinh thần
của mỗi con người ở vùng núi rừng này. Âm nhạc gắn bó với từng giai đoạn của từng
con người. Bên cạnh những làn điệu dân ca hát ru dành cho trẻ mới lọt lòng, lời dân
ca dành cho trẻ đầy tháng, những bài hát đồng dao khi trẻ lớn lên một chút. Khi trẻ
đến tuổi trưởng thành là những bài hát giao duyên đối đáp, lúc về già có bài hát chúc
thọ, khi qua đời là những bài tế. Ngoài những làn điệu dân ca, dân tộc thiểu số ít
người Sơn La còn có rất nhiều nhạc cụ dân tộc. Đây là phương tiện để chuyển tải tư
tưởng, tình cảm của con người. Các nhạc cụ này chủ yếu lấy chất liệu, nguyên liệu ở
địa phương và tự chế tác. Nhiều nhạc cụ dùng để đệm cho hát hay hòa tấu. Nhưng
cũng có những nhạc cụ chỉ dùng để độc tấu như: Sáo, Khèn của người H’Mông; Khèn
Pè, Pí thiu, Pí tam lay, Pí Pặp, Pí tót, Pí đôi của tộc người Thái; Cò ke, ống ôi, dàn
Cồng của người Mường. Trong bài viết Giai điệu trữ tình trong tiếng Pí cổ truyền dân
tộc Thái của tác giả Lò Chiêng, phát trên sóng phát thanh thứ 7, ngày 14. 4, năm 2008
đã viết: … “Pí pặp quả thực có sức cảm hóa rất lớn bởi chất trong vắt của âm hưởng,
khả năng diễn tấu những giai điệu mềm mại và uyển chuyển, nhất là khi hòa nhịp
cùng giọng hát tiếng Pí pặp lại phát huy hết khả năng và tôn thêm vẻ đẹp của giọng
hát…”, tiếp đó tác giả đã phát huy thế mạnh phát thanh minh họa trực tiếp bằng tiếng
hát và sử dụng nhạc cụ dân tộc do các nghệ nhân trình bày. Bằng những minh họa
sống động là âm thanh và những miêu tả tác giả đã gửi tới thính giả của mình không
chỉ là âm điệu quyến rũ, nguồn gốc ra đời của chiếc Pí… “Người Thái từ xa xưa đã
dùng vật này để lừa thú khi săn bắn…” mà tác giả còn gửi tới thính giả của mình hồn
dân tộc trong vẻ đẹp và âm hưởng của Pí pặp. Ý kiến của anh Tòng Văn Xôm Biên tập
viên chương trình văn nghệ, Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La: Hiện nay chương
trình văn nghệ tiếng dân tộc Thái Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La vẫn thường xuyên
sử dụng những nhạc cụ cổ truyền dân tộc Thái, phổ biến nhất là Pí Pặp, Pí tam lay, Xì xo
lo…mỗi loại nhạc cụ đệm cho bài hát ở những vùng người Thái. Đây là loại cụ cổ
truyền được bà con rất yêu thích vì rất đi vào lòng người. Tuy nhiên, qua bài viết tác
giả cũng đã chỉ ra được một thực trạng. “Điệu xòe, lời Khắp, tiếng Pí những sinh hoạt
văn hóa cổ truyền của dân tộc Thái vẫn được bảo tồn và duy trì đến ngày nay. Song
dường như người biết sử dụng những nhạc cụ dân tộc Thái đã ít dần. Ý kiến của ông
Lèo Văn Chom, một nghệ nhân ở xã Chiềng Ban huyện Mai Sơn chuyên làm và sử
dụng nhạc cụ này cho biết. “Trong những năm qua người mua Pí đến nhà tôi chủ yếu
là người trung niên do những đối tượng này biết sử dụng khá thành thạo Pí, cũng có
thanh niên đến tìm mua, nhưng đối tượng này rất ít, thỉnh thoảng mới có. Nhìn chung
phong trào mua Pí và sử dụng các nhạc cụ dân tộc ở Sơn La đang ngày càng ít đi”.
Hoặc như, Trong bài viết: “Tiếng khèn gọi xuân” số báo Sơn La Xuân năm 2009
Phóng viên Anh Đức đã khẳng định thêm giá trị của âm nhạc dân gian là tiếng Khèn
trong đời sống tinh thần của người H’Mông, “ Chiếc Khèn đã gắn liền với đời sống
đồng bào H’ Mông. Khi buồn, khi vui họ đều mang khèn ra thổi, gửi cả tâm tư, tình
cảm của mình vào tiếng Khèn. Đối với các chàng trai người H’Mông, thổi khèn và
múa Khèn còn thể hiện sức mạnh, dẻo dai và dùng để tỏ tình…”, qua tác phẩm tác giả
cũng đem đến cho độc giả thực trạng của nền âm nhạc dân tộc thiểu số, qua cảm nhận
mộc mạc từ một con người bài viết có đoạn “Đang lâng lâng trong men rượu Ngô
bỗng có tiếng Khèn “ Xuân về trên bản H‘Mông. Ông Mùa A Di bản Co Chàm ngơ
ngác đảo mắt tìm. Một lần nữa cảm giác hụt hẫng lại đến với ông, từ sang đến giờ ông
Di chỉ thấy tiếng Khèn từ đài cát sét, điện thoại di động của người đi chợ…Nhớ lúc
còn trẻ, ông cùng trai bản say sưa múa Khèn bên đám con gái, mặt đỏ ửng vì rượu, vì
thẹn trong phiên chợ xuân.
Văn hóa, văn nghệ truyền thống của dân tộc thiểu số
Như vậy, nền văn hóa, văn nghệ, âm nhạc dân gian truyền thống của các dân tộc
Tây Bắc không phải không có chỗ để “sống”, để phát triển mà do chúng ta một thời gian
dài chưa có cách nhìn đúng về việc giáo dục văn hóa, văn nghệ, âm nhạc truyền thống
các dân tộc thiểu số cho thế hệ trẻ. Điều này cũng cho thấy báo chí cũng chưa phát huy
được các thế mạnh của mình về truyên truyền giá trị văn hóa âm nhạc đặc sắc của các dân
tộc thiểu số miền núi. Cụ thể qua khảo sát trên hệ thống báo chí Sơn La qua hơn một
năm rưỡi, những bài viết tuyên truyền về văn hóa âm nhạc dân gian dân tộc thiểu số là rất
khiêm tốn nếu không nói là bị bỏ ngỏ, hoặc dừng lại ở qui mô tuyên truyền nhỏ. Việc
tuyên truyền về âm nhạc truyền thống cần có sự thay đổi tư duy khoa học, những người
làm báo và viết về giá trị văn hóa dân tộc tộc phải là một trong những nhân tố tích cực
trong việc khơi dậy và duy trì những gì còn hiện hữu trong nhân dân. Trên báo in, báo
Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo ngoài việc tăng số lượng bài viết về giá trị âm nhạc
dân tộc trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, Đài phát thanh - Truyền hình tăng
cường mật độ phát sóng những bài dân ca, dân nhạc của các dân tộc thiểu số. Qua những
tác phẩm báo chí, những bài dân ca, làn múa, điệu nhạc giúp cho nhân dân, nhất là tầng
lớp thanh niên, biết quí trọng nâng niu âm nhạc truyền thống của họ và để thực hiện được
công tác đó đòi hỏi phóng viên của các loại hình báo chí Sơn La ngoài nhiệt huyết về
việc góp phần gìn giữ những giá trị văn hoá tinh hoa, đặc sắc của dân tộc cần phải tiếp
cận và tìm hiểu sâu hơn vấn đề như thế mới đưa ra những biện pháp kịp thời và hữu hiệu
cho hiệu quả công tác tuyên truyền.
2.3.3. Giá trị bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số thể hiện qua ẩm
thực
Nói đến ẩm thực truyền thống dân tộc không thể không nhắc đến món Bánh Dầy,
món Thắng cố, rượu Ngô của tộc người H‘Mông, món cá Pỉnh tộp, cơm Lam, nhứa
dảng ( thịt hun khói) của dân tộc Thái, món canh mọ của dân tộc Khơ mú được chế biến
từ các loại thịt chim, chuột, sóc sấy khô…
Trong bài viết: Sơn La điểm đến của du khách” đăng trên mục văn hóa, văn nghệ
cuối tuần, Báo Sơn La số 4386 thứ 6 ngày 20.tháng 4 năm 2009, đề cập đến thưởng thức
món ăn dân tộc, tác giả đã khéo léo miêu tả những món ăn dân tộc. Khác với món ăn
thường thấy ở khách sạn, nhà hàng hay những món ăn mới được chuyên mục “Sức sống
mới” được giới thiệu trên VTV1, các món ăn dân tộc Sơn La, hầu hết chế biến từ sản vật
của địa phương do những bàn tay khéo léo của những bà nội trợ “ thổi hồn” thành món
ăn đặc sản thơm ngon, gợi mời và khó quên.
Đối với đa phần các dân tộc thiểu số Sơn La lương thực chủ yếu là gạo nếp. Có
nhiều loại gạo nếp ngon và nhiều cách chế biến khác nhau. Cách chế biến cổ xưa nhất đó
là nướng cơm bằng ống tre (lam), hình thức chế biến thông thường nhất là xôi đồ. Ngoài
ra, người ta còn dùng xôi để chế biến một số món ăn khác như: xôi nướng, xôi nắm lại
và trộn thêm một số thức ăn vào trong gọi là bái. Trong bài viết dài kỳ “Sơn La điểm đến
của du khách” số thứ 6 ngày 10 tháng 4 năm 2009 tác giả viết “ Trước hết phải kể đến
cơm Lam, đây là món ăn thường được thấy trong tiệc tùng, lễ hội của nhiều dân tộc ở
Sơn La. Được làm từ gạo nếp, cơm lam là loại cơm đặc biệt ngon vì nó được đốt trên bếp
củi bằng những ống tre rừng còn xanh non…” Bài viết còn miêu tả tỉ mỉ cách chế biến
cơm lam cũng như hương vị thơm ngon của nó, hoặc như món cháo “Mắc nhung” từ
khâu các bà nội trợ thu nhặt quả Mắc nhung cho đến khi thành sản phẩm cháo Mắc
nhung. “Đối với đồng bào H’Mông, chiếc bánh Dày được làm trong ngày tết đã trở
thành biểu tượng của tình yêu chung thủy lứa đôi nay đã đi vào lễ hội, trở thành nét đẹp
văn hóa của đồng bào H’Mông…Để có được chiếc bánh dày vừa thơm, vừa dẻo phải
chuẩn bị tốt các vật cụ như: Cũi, chõ xôi, gạo nếp, chày, cối giã, lá chuối và các chất
phụ gia chống dính” Hoặc như “ Ngày tết của người Khơ mú không thể thiếu được món
canh mọ, được chế biến từ thịt chuột , thịt chim, sóc sấy khô, băm nhỏ trộn hoa chuối các
loại rau thơm, ớt chỉ thiên, mắc khén, tẩm gạo nếp cho vào ống tre, bương bánh tẻ đổ
nước vào đem đốt…” chỉ với dung lượng rất ngắn của bài viết, tác giả đã gửi đến độc giả
những hương vị đặc sắc nhất của ẩm thực Sơn La. Trong bài viết “Cá, biểu tượng ấm
no, hạnh phúc của người Thái” đăng trên báo Sơn La số thứ 6 ngày 22 tháng 2 năm 2008.
“ Bản làng người Thái đều được xây dựng bên các dòng suối lớn hay khu vực nước. Các
con suối vừa tưới ruộng, phục vụ sinh hoạt hàng ngày, vừa là các “Noong Pa” (ao cá)
của các bản Thái. Cá trở thành khẩu phần ăn hàng ngày và quen thuộc của bà con được
khái quát thành câu tục ngữ khá vần điệu “ Pay kin Pa, ma kin lẩu, tẩu nòn sứa hốm pha
(đi ăn cá, về uống rượu, đến ngủ đệm, đắp chăn bông)…” Tác giả cũng đã dung đến ngôn
ngữ của dân tộc Thái bằng câu tục ngữ quen thuộc để miêu tả thức ăn là món Cá trong
đời sống ẩm thực của đồng bào dân tộc Thái, bởi văn hóa ẩm thực dân tộc Thái gần như
chiếm ưu thế hơn cả so với ẩm thực của cộng đồng các dân tộc thiểu số, người viết đã thể
hiện được sự am hiểu của mình về ẩm thực dân tộc Thái, bởi quả thực người Thái rất
thích ăn cá, cá là món ăn quí được ví sánh ngang bằng với lúa gạo. Cá được chế biến
thành nhiều món nhưng đặc trưng nhất vẫn là cá nướng (pỉnh), cá hun khói (giảng), cá
nấu canh măng chua (xổm), cá làm mẳm để ăn dần (mẳm)... Người Thái thường dùng
nhiều thịt trong các dịp tế lễ, cưới gả, lên nhà mới. Thịt cũng được chế biến theo nhiều
phương thức như: Nướng trực tiếp trên lửa (pỉnh), gói lá nướng (pho), trộn bột gạo nếp
và gia vị gói lá đồ cách thủy (mọk), hun khói (giảng), thịt luộc... người Thái còn làm thịt
lợn chua hoặc ăn thịt lạp, cá gỏi…
Ngoài thịt gia súc, gia cầm và các loại cá thì người Thái còn sử dụng rất nhiều loại
côn trùng để chế biến món ăn như: Nhộng tằm, nhộng ong, dế mèn, bọ xít, niềng niễng,
bọ nước... Các loại côn trùng này có thể chế biến bằng nhiều cách nhưng chủ yếu là rang
và làm mắm.
Đồ chấm cũng là một thành phần quan trọng trong ẩm thực Thái. Đồ chấm được
chế biến đơn giản nhất là muối và ớt (chéo ướt cưa), còn tùy theo từng loại thức ăn mà người
ta thêm các loại gia vị khác vào cho phù hợp. Người Thái còn dùng nước măng chua, đậu
tương ủ (mák thua ố), các loại mắm, nước đắng lấy từ ruột non của các loại động vật ăn cỏ
(pịa) để làm đồ chấm.
Có thể nói cách chế biến món ăn của người Thái rất đặc trưng, họ biết lấy cái nóng
để trung hòa cái lạnh, lấy vị chát ngọt làm giảm vị đắng cay, các món ăn đều giữ được
hương vị, gia vị sử dụng nhiều loại nhưng vừa đủ để làm cho món ăn thêm hấp dẫn. Đồ
chấm như một thứ thuốc nam tạo sự lành bụng và nâng tầm của việc thưởng thức các
món ăn Thái.
Các bài viết như “món ăn hoa ban” Anh Đức,“Túm hoa chuối rừng” của Quốc
Tuấn đăng trên Báo xuân Sơn La năm 2008 đề cập những món ăn dân tộc được chế biến
từ hoa Chuối và hoa Ban, trong bài “Món ăn hoa ban”“ Mỗi độ xuân về, khắp các cánh
rừng Tây Bắc lại ngập tràn màu trắng tinh khôi của hoa ban. Sắc hoa của mùa xuân ấy
không chỉ là biểu tượng của núi rừng Tây Bắc mà còn là món ăn mới lạ và hấp dẫn qua
bàn tay khéo léo của các chàng trai, cô gái miền Tây Bắc”. Tác giả còn giới thiệu về
cách chế biến món ăn hoa ban với hương vị đi kèm theo nó, hoặc như trong bài “Túm hoa
chuối rừng” tác giả giới thiệu về món “Túm hoa chuối rừng” của dân tộc Mường, “ Theo
những người già dân tộc Mường gọi ‘Túm” vì quá trình chuẩn bị cho đến cách chế biến
này cầu kỳ và khác lạ” bởi tất cả nguyên liệu sau khi chế biến song đều được “túm” lại
trong một chiếc lá dong được chuẩn bị trước tết vài tháng, gồm lòng, hay phèo non của
các con vật, thậm chí còn nguyên cả bộ lòng của các con thú hoang trong rừng, hoa chuối
rừng được tước đem về trộn băm nhỏ cùng với các nguyên liệu rồi bỏ vào trõ đề đồ. “
Món hoa chuối rừng” là món đặc trưng trong ngày tết, một nét đẹp của đồng bào Mường,
nét văn hóa ẩm thực độc đáo của dân tộc Việt Nam”.
Từ nguồn thức ăn sẵn có trong thiên nhiên đến nguồn lương thực, thực phẩm do
bàn tay cần cù, trí óc sáng tạo nên, ngày nay người dân tộc thiểu số Sơn La đã có cuộc
sống khá ổn định, có nơi đã trở nên sung túc. Do đó nguồn thức ăn dồi dào hơn, bởi thị
trường đã mở rộng đến tận thôn, bản, len lỏi vào các vùng sâu, vùng xa, nên cách chế
biến đã đa dạng hơn nhiều. Nhưng không vì thế mà làm mất đi tính phong phú của ẩm
thực các dân tộc thiểu số, ngược lại món ăn các dân tộc lại trở thành đặc sản độc đáo chỉ
xuất hiện khi có khách quí, hay những dịp hội hè, tín ngưỡng.
Món Thắng Cố của dân tộc Mông
Văn hóa ẩm thực của đồng bào các dân tộc Sơn La là rất phong phú, các bài viết
tuyên truyền trên báo chí Sơn La đã cố gắng đề cập đến những nét độc đáo trong chọn lựa
nguyên liệu, món ăn của người dân tộc không đòi hỏi kỹ thuật pha chế phức tạp, nhưng
không vì thế không để lại dư vị đậm đà của nó. Tuy nhiên, qua khảo sát các bài viết về
ẩm thực các dân tộc thiểu số còn ít về số lượng, một số bài viết còn sơ sài, tác giả chỉ đưa
ra những thông tin đơn giản như cách làm, cách chế biến một món ăn dân tộc, chứ chưa
chỉ ra được ý nghĩa văn hóa thực sự của món ăn đó trong đời sống tinh thần cũng như
sinh hoạt của đồng bào như thế nào, bởi người dân tộc tính cộng đồng rất cao. Trong một
bản, một mường của người dân tộc có những mối quan hệ họ hàng chằng chịt, phức tạp,
đan xen, đó là mối thân tộc khá chặt chẽ. Vì thế, nhà có việc vui là một dịp họp mặt đông
đủ, nhà có việc buồn là cả bản chia buồn, và khi đến họ đều góp gạo, góp rượu, thậm chí
con gà, quả trứng …và sau đó tạo ngay thành bữa cơm thân tình, đây là những mảng còn
thiếu trong các bài viết về văn hóa ẩm thực của người dân tộc thiểu số trên báo chí Sơn
La.
2.3.4. Giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số được thể hiện
qua tiếng nói, chữ viết
Một quốc gia đa dân tộc, bao giờ cũng là quốc gia đa ngôn ngữ và cùng với ngôn
ngữ là sự đa dạng văn hóa truyền thống. Vì thế, việc đảm bảo quyền thiêng liêng trong sử
dụng và học tập tiếng mẹ đẻ và chữ viết của dân tộc thiểu số, chính là tiền đề cho việc
đảm bảo sự bình đẳng giữa các dân tộc khác nhau trong một quốc gia đa dân tộc.
Bài viết “Mấy suy nghĩ về dạy và học tiếng chữ dân tộc Thái, H’Mông tỉnh Sơn
La hiện nay” phát trên sóng Phát thanh thứ 6 ngày 20 tháng 3 năm 2009 tác giả viết
“Riêng về chữ viết; dân tộc Kinh (Việt) có chữ viết như hiện nay (Quốc ngữ) khoảng 200
năm. Dân tộc H’ Mông có chữ viết gần 200 năm, dân tộc Thái có chữ viết hàng ngàn
năm. Đó là niềm tự hào, tài sản vô giá của dân tộc và của nhân loại. Chữ và tiếng các dân
tộc là hành trang là nguồn sức mạnh nội sinh to lớn của đại gia đình các dân tộc Việt
Nam…” ngay mở đầu tác phẩm, tác giả đã khẳng định sự trường tồn của chữ viết, tiếng
nói của các dân tộc thiểu số. Qua tác phẩm tác giả đã đưa ra được thực trạng học tiếng và
chữ dân tộc thiểu số ở Sơn La, tác giả khẳng định chữ viết và tiếng dân tộc thiểu số đã
được Đảng và Nhà nước ta quan tâm và đã được tỉnh Sơn La thực hiện từ những năm
1960- 1975, nhưng “do nhiều lý do khác nhau, việc học chữ Thái, chữ Mông tạm dừng
lại để rút kinh nghiệm”.
Ý kiến của ông Cầm Trọng- Nhà trí thức dân tộc Thái phải thốt lên “Người Thái
cho tới nay có tới 5 thứ chữ mà người Thái vẫn mù chữ Thái.”
Bài viết cũng đã đưa ra thực trạng học tiếng và chữ viết dân tộc trên địa bàn tỉnh.
Với những nỗ lực của chính quyền địa phương, hệ thống phát thanh - truyền hình, báo chí
bằng tiếng dân tộc đang được đẩy mạnh.
Tác giả cũng đưa ra suy nghĩ của mình “Nhiều cán bộ kể cả con, cháu là người
dân tộc lại không biết hoặc biết rất ít tiếng, chữ viết của dân tộc mình. Việc tổ chức học
chữ, tiếng dân tộc chưa có tính hệ thống đồng bộ. Sự cụ thể hóa của cơ quan chức năng ở
Trung ương, ở tỉnh còn chậm trễ. Nhiều cán bộ đến công tác và làm việc với dân lại
không biết tiếng của dân …Trong khi đó thế lực xấu luôn lợi dụng xuyên tạc chủ trương
của ta. Hệ thống phát thanh tuyên truyền bằng tiếng dân tộc mà chúng sử dụng khá mạnh.
Một số nơi kẻ xấu còn lợi dụng “Xóa chữ H’Mông” để làm một số việc trái phép ở vùng
dân tộc H’Mông.
Tác giả đã tổng quát được bức tranh toàn cảnh về việc học và dạy tiếng và chữ dân
tộc Thái, H’Mông trên địa bàn Sơn La, thực trạng cũng như ý nghĩa của việc dạy, học
tiếng và chữ viết các dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó tác giả cũng đã đưa ra những ý kiến,
kiến nghị của riêng bản thân mình. Tuy nhiên tác phẩm cũng mới chỉ dừng lại ở việc nêu
ra thực trạng và ý kiến của cá nhân tác giả, bài viết chưa đi sâu tìm hiểu chữ viết và tiếng
nói dân tộc thiểu số có thực sự cần thiết đối với chính chủ nhân của nó không.
Trong tác phẩm “Bảo tồn và phát triển chữ Thái cổ” Báo Sơn La số 4228, thứ 6,
ngày 4-4-2008, tác giả ngay từ đầu tác phẩm đã lấy điểm nhấn cho bài viết của mình
bằng ý kiến của nhà chuyên môn: “Khi hỏi về vai trò tiếng nói, chữ viết trong bản sắc văn
hóa dân tộc, Ông Lò Văn Hặc- phó giám đốc Sở văn hóa thông tin cho biết: “Tiếng nói,
chữ viết là một trong những đặc trưng văn hóa quan trọng của một dân tộc. Nó là phương
tiện giao lưu, giao tiếp ghi chép lại lịch sử, quá trình hình thành, phát triển của dân tộc từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếng nói, chữ viết là phương tiện để bảo tồn, phát huy,
phát triển văn hóa truyền thống của dân tộc và cũng là yếu tố đặc trưng nhất để phân biệt
dân tộc này với dân tộc khác”.
Từ xa xưa vùng Tây Bắc nơi cư trú chủ yếu là dân tộc Thái, chữ Thái cổ truyền có
vai trò rất lớn trong đời sống sinh hoạt của tộc người này. Bài viết cũng khẳng định: “Nhờ có
chữ viết người Thái đã để lại một kho tàng văn học dân gian phong phú như truyện thơ,
trường ca, truyện cổ, thơ dịch…”, tác giả cũng đã đưa những chi tiết niềm tự hào của người
Thái về vốn chữ và tiếng của dân tộc, song tác giả cũng đã nêu lên một thực trạng chữ Thái
đang bị cuộc sống hiện đại, sự giao thoa giữa các nền văn hóa làm phai nhạt đi niềm đam mê
với việc sử dụng tiếng và chữ Thái của dân tộc mình, nhất là lớp trẻ.
“Để bảo tồn và giữ gìn chữ Thái cổ, ngày 7 tháng 11 năm 2007, Sở Văn hóa -
Thông tin đã mở lớp học chữ Thái cổ… Theo đánh giá của ông Lò Văn Hặc, Phó giám
đốc sở Văn hóa - Thông tin, kiêm giáo viên chủ nhiệm lớp học chữ Thái: “ Lớp học chữ
Thái lần này đạt được kết quả như mong muốn, sức học của học viên khá cao. Đến nay,
các học viên đều biết đọc và biết viết chữ Thái. Sau khóa học này, nếu thành công sẽ
thành lập câu lạc bộ chữ Thái,…” Ý kiến của chị Lò Thị Vui, học viên lớp học: “Mình
muốn học chữ Thái để có thể đọc, hiểu được những áng văn chương của dân tộc mình và
để phục vụ cho công việc được tốt hơn”. Hoặc như trong phóng sự Truyền hình: “Sư
Táy” chúng ta đừng quên” phát sóng ngày 6 tháng 11 năm 2008, ý kiến của cháu Lò Văn
Dương ở bản Ban xã Chiềng Mai huyện Mai Sơn - Tỉnh Sơn La: “Khi ông cháu dạy chữ
Thái cháu rất thích, cháu mong ước một ngày nào đó chữ Thái sẽ đi vào trường học để
chúng cháu biết về cội nguồn dân tộc”.
Qua ý kiến của chị Lò Thị Vui và cháu Lò Văn Dương cho thấy, nhu cầu học chữ
dân tộc Thái ở Sơn La là rất cao. Với nội dung bài học được chọn lọc từ kho tàng ca dao,
thành ngữ, tục ngữ, đồng dao, quan niệm về đạo đức, lối sống tốt đẹp, phong tục tập quán
của dân tộc Thái. Việc dạy và học chữ Thái hiện nay nhằm bảo tồn và phát huy ngôn ngữ
chữ viết các dân tộc, đi đôi với việc sử dụng tiếng phổ thông, khuyến khích thế hệ trẻ hiểu
biết và sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Hiện nay, Thư viện tổng hợp và Bảo
tàng tỉnh Sơn La đang lưu giữ trên 700 phiên bản sách chữ Thái cổ. Ngoài ra, còn hàng trăm
cuốn sách chữ Thái cổ được đồng bào ở Tây Bắc lưu giữ, nhưng rất ít người biết đọc và hiểu
nghĩa về nội dung những loại sách này. Việc dạy và học chữ Thái một phần để bảo tồn, khai
thác những sản phẩm văn hóa tinh hoa qua kho tàng sách cổ. Hiện nay, Sơn La đã mở thêm
nhiều lớp học tiếng và chữ các dân tộc thiểu số ở Sơn La cho cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ
trang làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa và vùng cao biên giới.
Việc dạy, học tiếng và chữ dân tộc được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm,
không chỉ có ý nghĩa về giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số mà nó có tầm quan
trọng trong việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy
nhiên, việc tuyên truyền về học tiếng và chữ các dân tộc trên báo chí Sơn La còn rất
khiêm tốn, không thường xuyên, không tạo mạch cho độc giả hiểu thấu được ý nghĩa của
việc gìn giữ và phát huy tiếng và chữ viết của dân tộc thiểu số. Trong khi đó những di sản
văn hóa của các dân tộc thiểu số như truyện thơ, trường ca, truyện cổ, thơ dịch…của
người dân Sơn La nói riêng Tây Bắc nói chung đang dần bị mai một dần, nếu không có
sự quan tâm đúng mức thì sự mất mát, tổn thất về di sản văn hóa quí báu này không thể
cứu vãn nổi. Với trách nhiệm là cơ quan tuyên truyền của tỉnh các cơ quan báo chí Sơn
La cần đẩy mạnh tuyên truyền lĩnh vực này hơn nữa vì thực tế khảo sát các báo mới chỉ
dừng lại ở qui mô tuyên truyền nhỏ, chưa đi nhiều, đi sâu vào vấn đề cần tuyên truyền.
Nhiều bài viết đã chọn đúng đề tài, nhưng bài viết thể hiện dàn trải, chung chung, đó là
điểm yếu mà các phóng viên báo cần khắc phục.
2.3.5 Giá trị bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số được phản
ánh qua công tác gìn giữ , bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
Hiện nay, Bảo tàng tỉnh Sơn La đang lưu giữ hàng nghìn cổ vật biểu hiện giá trị
vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc Sơn La trong lịch sử đấu tranh, xây dựng quê
hương của mình. Bàn về vấn đề bảo quản và lưu giữ những hiện vật này, bài phản ánh
“Bảo Tàng Sơn La góp phần giữ gìn giá trị văn hóa” đăng trên báo Sơn La số 4195- thứ
6 ngày 18 tháng 1-năm 2008 viết về công việc của những người làm công tác bảo tồn
những giá trị văn hóa dân tộc của Sơn La, bài phản ánh “Công tác bảo tồn, giữ gìn và
phát huy những giá trị văn hóa luôn được các cấp, các ngành- nhất là bảo tàng tỉnh quan
tâm, chú trọng và chủ động xây dựng kế hoạch, vận dụng linh hoạt các phương thức hoạt
động hiệu quả”. Bài viết cũng đã đi sâu vào giới thiệu về giá trị của di sản văn hóa dân
tộc thiểu số “ Góp phần nâng cao nhận thức cho nhân dân các dân tộc hiểu rõ hơn về
con người và phong tục tập quán của nhân dân các dân tộc Sơn La. Bài viết là một bức
tranh tổng quát về những cố gắng, nỗ lực trong công tác gìn giữ và bảo tồn những giá trị
văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số của cán bộ làm công tác bảo tàng Sơn La. Tác
giả cũng đã đề cập được đến vấn đề đó là làm tốt chức năng bảo tàng, lưu giữ, bảo quản
các hiện vật nhưng vẫn phát triển giá trị những hiện vật đó. Gìn giữ bảo quản không phải
là cứ cất giữ hiện vật trong kho mà phải được thường xuyên trưng bày, giới thiệu giá trị
cho mọi tầng lớp nhân dân trong tỉnh và các du khách đến tham quan. Bảo tàng tỉnh
“Đón trên 920.000 lượt khách tham quan, tìm hiểu di tích lịch sử và danh thắng Sơn La;
phục vụ hàng nghìn lượt học sinh, nhân dân các huyện thị đến tham quan, tìm hiểu lịch
sử truyền thống…). Bên cạnh đó còn có những bài viết đề cập về công tác bảo vệ hang
động, di tích danh lam thắng cảnh. Bài: “ Cần sớm có biện pháp bảo vệ một hang động
mới phát hiện ở Yên Châu” Đây là di tích mới được phát hiện ở địa bàn huyện Yên Châu
. Vẻ đẹp hoang sơ, mới lạ của hang đã thu hút rất nhiều khách tham quan, thưởng ngoạn.
Tuy nhiên, do chưa có sự quản lý chặt chẽ nên du khách tham quan là tự phát, dẫn đến
tình trạng lộn xộn trong bảo vệ cảnh quan, môi trường. Bên cạnh đó còn có những bài
viết về “Cần quan tâm lưu giữ hang bản Mỏ”, tác giả đã đề cập vấn đề một danh tích
thắng cảnh đẹp đang bị tàn phá do chính bàn tay của con người “ Cũng chính bởi vẻ
đẹp cùng với những câu chuyện kỳ bí về hang bản Mỏ, cộng với nằm gần tỉnh lộ 114
nên hang bản Mỏ được khá nhiều du khách thập phương biết tới. Cũng bởi chưa có
qui hoạch, giải pháp lưu giữ cụ thể nên chính quyền xã Tân Lang chưa khai thác
thành điểm du lịch sinh thái phục vụ du khách. Hiện tại, bà con vào chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của hang tự do. Vì thế một số người thiếu ý thức đã viết vẽ lên thành hang, đập
lấy những khối nhũ đá, xả rác bừa bãi…”. Tuy nhiên những bài viết đề cập về vấn đề
này trên báo chí Sơn La còn ít.
2.4. KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ HÌNH THỨC TUYÊN TRUYỀN
2.4.1. Thể loại tác phẩm
Việc sử dụng các thể loại báo chí khác nhau sẽ tạo ra sự phong phú và linh hoạt
trong hình thức chuyển tải cho từng nội dung phù hợp giúp các phóng viên thể hiện sự
tinh tế trong nghiệp vụ, giúp công chúng tuỳ theo cách chuyển tải cảm nhận tác phẩm
một cách sâu sắc hơn. Qua khảo sát trên Báo Sơn La, chương trình Phát thanh, Truyền
hình, tạp chí văn nghệ Suối Reo, những hình thức thể loại báo chí được sử dụng là thể
loại thông tấn như: Tin, phóng sự, bài báo được sử dụng với tần xuất cao. Nhất là thể loại
phóng sự và bài báo, tin tức cũng được dung những chủ yếu mang tính chất thông báo sự
kiện đơn thuần như: Khai mạc lễ hội các dân tộc Tây Bắc tại Mộc Châu, chuẩn bị phục
dựng lễ hội “ Xên Bản” của dân tộc Thái Quỳnh Nhai…ít có tính bình luận hay ý kiến
của phóng viên. Các tin được dùng cũng không được sắp xếp theo tầm quan trọng, ít tạo
được sự hấp dẫn của công chúng.
Thể loại phóng sự, bài báo được sử dụng tương đối nhiều ở trên các hình thức báo
chí, với cách viết linh hoạt nhiều tác phẩm báo chí, không chỉ đơn thuần chạy theo sự
kiện mà đã khai thác vấn đề sao cho công chúng dễ tiếp nhận, cảm nhận sâu sắc vấn đề.
Như phóng sự: Lễ hội Xen Păng Ả dân tộc Kháng Quỳnh Nhai. Phóng sự; (“Sư Táy”
chúng ta đừng quên) viết về một hang núi có tên là “Thẳm mu” tức là “Hang Lợn”, ngoài
cảnh vật, hình thù do thiên nhiên tạo nên là những dòng chữ Thái cổ do một nghệ nhân
khắc lên vách đá để nhắc nhở con, cháu biết trân trọng giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Bài viết có tác động không chỉ đối với thế hệ trẻ dân tộc Thái mà còn giúp cho nhà quản
lý ở địa phương có kế hoạch cụ thể hơn trong việc gìn giữ vốn chữ viết độc đáo của dân
tộc mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó có nhiều bài viết còn mang tính chung chung, không có ý
kiến riêng của phóng viên về vấn đề đang bàn, nhiều bài viết sơ sài nội dung hình thức thể
hiện. Việc dùng quá nhiều bài tuyên truyền về vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số cũng khiến cho hiệu quả tuyên truyền không cao. Trong khi đó yêu cầu là
cần phải tìm ra những phương thức sinh động, hấp dẫn để chuyển tải những tinh hoa văn hóa
của từng tộc người là đồng bào các dân tộc thiểu số. Và vấn đề này không chỉ còn trong
tuyên truyền, phát động nữa mà phải trở thành suy nghĩ, hành động của mỗi con người trong
cộng đồng các dân tộc, những thể loại khác như điều tra, ghi chép ít được sử dụng, thậm chí
những hình thức mang tính chất giao thoa như văn học báo chí như: bút ký, tản văn chưa
thấy sử dụng. Các thể loại tác phẩm có vai trò xung kích trong lĩnh vực định hướng thông tin
như; Xã luận, bình luận, chuyên luận trên các loại hình báo chí Sơn La chưa có. Đây cũng
chính là điểm còn tồn tại trên báo chí Sơn La, nó phản ánh vừa là nhận thức vừa là trình độ
của đội ngũ những người làm báo ở vùng Tây Bắc.
2.4.2. Về sử dụng ngôn ngữ
Qua khảo sát những tác phẩm tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số trên các loại hình báo chí Sơn La cho thấy, có một điều đáng ghi nhận là
phóng viên sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt. Mặc dù đối tượng tuyên truyền là đồng bào
dân tộc thiểu số có văn hóa, tập tục, ngôn ngữ, chữ viết…khác nhau, nhưng với các
chuyển tải gần gũi với văn hóa tộc người, tạo ra hiệu quả cao khi tiếp cận với công
chúng. Ví dụ như: “Thiết nghĩ các ngành chức năng cần nghiên cứu đưa chữ Thái cổ nói
riêng, ngôn ngữ Thái nói chung vào bảo tồn, lưu truyền và phát triển như lời khắc ghi
trên vách hang “ Thẳm Mu” kia. “Sư cha hụ lai đới chiến nối; Hảu lai pang lan, luk nhá
lứm..” “ Chữ thời xưa cha ông truyền lại; cho muôn đời con cháu đừng quên”. (Sư Táy
chúng ta đừng quên). Chương trình phát thanh thứ 5, ngày 6 tháng 11 năm 2008. Hoặc
như trong bài Sơn La điểm đến của du khách số 4383- thứ 6, ngày 3 tháng 4 năm 2009,
tác giả viết. “Điệu xòe có từ bao giờ” câu hỏi ấy chưa có câu trả lời. Bởi điệu xòe của
đồng bào dân tộc Thái có xa xưa lắm rồi” phóng viên đã mượn lời của một bài hát để
dẫn dắt tác phẩm của mình từ giới thiệu điệu xòe dân tộc Thái, điệu “ Nhảy Khèn” của
chàng trai H’Mông, điệu Cống Tốp của dân tộc Khơ Mú, múa Chuông của dân tộc Dao,
câu Đang, câu Ví chứa chan tình người của dân tộc Mường… Ngôn ngữ thể hiện gần gũi
với tộc người, trong bài viết “Tiếng Khèn gọi xuân” Báo Sơn La số xuân Kỷ Sửu năm
2009 “Khi những cánh đào đã hé nở; khi lợn nuôi đã béo; đã nấu được vài vò rượu; ngô,
sắn, thóc đã mang về nhà cũng là lúc các chàng trai người H’Mông xã Lóng Luông (Mộc
Châu) đi “Bắt vợ”. Tiếng Khèn, tiếng sáo gọi bạn tình lại dìu dặt trên dốc núi, đầu
bản…báo hiệu mùa xuân đã đến…”.
Tuy nhiên phóng viên cũng vấp phải những lỗi ngữ pháp, câu từ gây phản cảm
cho người được tiếp nhận. Ví dụ như: “ Huyện Quỳnh Nhai có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc
có một phong tục, tập quán riêng trong việc cưới, việc tang lễ hội” (Báo Sơn La thứ 6,
ngày 16 tháng 5 năm 2008). “ Nước được dùng trong té nước có thể là nước thường,
nước mưa…” (Bun Pi Mày - Lễ hội đoàn kết của nhân dân các dân tộc Lào). “Trong kho
tàng văn hóa ẩm thực, có một món ăn rất hiếm thấy vào ngày thường, chỉ những ngày tết
nguyên đán mới xuất hiện. Đó chính là món “ Túm hoa chuối rừng” của dân tộc Mường.
( Báo Sơn La xuân năm 2008) Hoặc “ Lật dở con cá rô phi to bằng bàn tay trên bếp
than hồng, chị Lò Thị Xuân bản Lầu, phường Tô Hiệu Thành phố Sơn La), khoe: Ngoài
hình thức thì ngọt, thơm, béo, mặn, cay nồng là 5 vị cần có trong món cá nướng của bà
con người Thái. Nếu chưa làm được như thế thì chưa phải là Pa Pỉnh Tộp” ( Phụ trương
báo Sơn La ) tháng 10 năm 2008. Hoặc ở phóng sự. ( Lễ hội Kin Pang Then) phát trên
sóng truyền hình tối thứ 3, ngày 10 tháng 6 năm 2008, trong chuyên mục di sản văn hóa
“… Việc thay đổi chỗ ở, thay đổi tập quán truyền thống dẫn đến một số nét văn hóa dân
tộc thay đổi, mai một…)hoặc như trong bài “Món ăn Hoa Ban” (Báo Sơn La xuân 2008)
“Sắc hoa của mùa xuân ấy không những là biểu tượng của vùng Tây Bắc mà còn là món
ăn mới lạ và hấp dẫn qua bàn tay nội trợ khéo léo của các chàng trai, cô gái miền Tây
Bắc”
Những hạt sạn ngôn ngữ, lỗi ngữ pháp như thế này làm giảm hiệu quả thông tin đi đáng
kể, những câu sử dụng từ ngữ tùy tiện khiến người đọc không hiểu rõ ý nghĩa của nội
dung câu văn theo nghĩa không mấy tốt đẹp. Tuyên truyền văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số, là một công việc đòi hỏi mỗi phóng viên phải luôn tự tìm tòi, trau dồi hiểu
biết về văn hóa dân tộc thiểu số, hiểu được tâm lý tiếp nhận thông tin từ từng tộc người từ
đó có hình thức, ngôn ngữ thể hiện sao cho phù hợp với từng dân tộc, từ đó hiệu quả
thông tin đạt được sẽ cao hơn rất nhiều.
2.4.3. Bố trí chuyên trang, chuyên mục
Tuy đề tài tuyên truyền về giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số là một
nhiệm vụ thường xuyên của các loại hình báo chí Sơn La, song bài viết về vấn đề này
chiếm một lượng không cao so với tổng số tin bài được tuyên truyền khác trong năm,
thực tế chỉ có Chuyên mục di sản văn hóa được phát trên sóng Đài Phát thanh - Truyền
hình Sơn La là mang tính chất tuyên truyền những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc
thiểu số, nhưng chuyên mục cũng chỉ được phát trên sóng hai tháng một lần, còn lại
không có một trang hoặc chuyên mục nào về giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc thiểu số mà tùy theo tính chất, chủ đề của vấn đề mà nó được đặt ở
trang mục phù hợp. Ví dụ như qua khảo sát Đài Phát thanh- truyền hình Sơn La, ngoài
chuyên mục định kỳ phát trong chuyên mục di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, còn có
thể tìm thấy những bài viết về văn hóa các dân tộc ở bản tin thời sự, chuyên mục “khoa
học công nghệ”, chuyên mục “chuyện đường phố, bản làng”, chuyên mục “nét đẹp trong
cuộc sống” chuyên đề “văn hóa xã hội”. Ở Báo Sơn La, những bài viết, tuyên truyền về
giá trị văn hóa dân tộc thiểu số thường được đặt trong Chuyên mục Văn hóa- Văn Nghệ
cuối tuần,nhưng cũng không phải là thường xuyên ngoài ra tùy sự kiện chính trị thời sự,
những bài viết về vấn đề này lại được đặt ở những trang khác như tin tức, thời sự, trên tạp
chí văn nghệ Suối Reo mặc dù đã có trang thơ được dịch bằng hai thứ tiếng đó là bằng
chữ viết phổ thông và chữ viết dân tộc Thái nhưng mảng đề tài viết về giữ gìn bản sắc
văn hóa các dân tộc gần như không có. Qua khảo sát trong hai năm từ tháng 1 năm 2008
đến tháng 6 năm 2009 Tạp chí Suối reo chỉ có 2 bài viết liên quan đến việc giữ gìn bản
sắc văn hóa các dân tộc. Như vậy, có thể khẳng định việc tuyên truyền giá trị văn hóa các
dân tộc của Sơn La chủ yếu tập trung ở hai ngành đó là Báo Sơn La và Đài Phát thanh -
Truyền hình Sơn La.
Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La hiện có những chuyên mục, mục thường
xuyên phát trong một tháng gồm:
- Thời sự. Chuyên mục: “Đảng trong cuộc sống”; Chuyên mục: Quốc Phòng; “An
Ninh Sơn La”; “Giải đáp chính sách Thuế.”; “An toàn Giao thông”; “ Tập thể điển hình
cá nhân tiên tiến”; “Khoa học công nghệ”; Chuyên mục: Môi trường Sơn La; “Sách với
cuộc sống”; “Vì dòng điện ngày mai của tổ quốc”; Mục : “Có thể bạn chưa biết”; “ Hộp
thư bạn nghe đài, xem truyền hình”; mục: “Nét đẹp trong cuộc sống”; mục: “Chuyện
đường phố bản làng”;Chuyên đề: Văn hóa- xã hội”. Chuyên mục: “ Nước sạch môi
trường nông thôn”.
* Báo Sơn La có các mục tuyên truyền:
- Tin tức thời sự (gồm tin, bài các bài viết theo chuyên đề tuyên truyền).
- Mục: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Chuyên đề văn hóa- văn nghệ cuối tuần.
- Bản tin Ảnh.
*Tạp chí văn nghệ Suối Reo
- Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; trang Văn xuôi; Trang
thơ hội viên.;Trang thơ thiếu nhi.;Trang thơ các tác giả tỉnh bạn. Trang thơ song ngữ;
Trang thơ Câu lạc bộ;Văn học dịch;Lý luận phê bình; Âm nhạc; Tranh ảnh.
Qua cơ cấu các chương trình, mục, chuyên mục trên báo chí Sơn La cho thấy đã
có sự quan tâm đến công tác tuyên truyền những giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc ở địa
phương, các bài viết về giữ gìn giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc đã được dàn trải trên
nhiều chuyên mục, mục, điều đó cũng thể hiện sự phản ánh khá nhiều khía cạnh về công
tác gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa dân tộc của báo chí Sơn La, khẳng định sự
phong phú về chủ đề đối tượng đề cập, tuy nhiên sự dàn trải này cũng dẫn tới sự manh
mún, rời rạc trong chuyển tải, công chúng báo chí còn khó khăn trong sự tiếp nhận cũng
như nhận biết rõ các vấn đề được phản ánh.
Tuy mỗi cơ quan báo chí đã có kế hoạch tuyên truyền trọng tâm, nhưng đấy mới
chỉ là dự định, định hướng kế hoạch thực hiện cho từng tháng.Việc lập kế hoạch tuyên
truyền cho mỗi tháng là một việc hết sức cần thiết cho kế hoạch tuyên truyền của mỗi tờ
báo, nhỏ hơn nữa là với các phòng, ban chuyên môn. Nó định hướng cho mỗi phóng viên,
biên tập viên cần tập trung tuyên truyền và vấn đề gì trong tháng. Song, bên cạnh đó một
số cơ quan báo chí vì chưa có kế hoạch tuyên truyền thường xuyên, không có chuyên đề,
chuyên mục định kỳ cho công tác tuyên truyền giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc, như
Báo Sơn La, tạp chí văn nghệ Suối Reo, nhiều bài viết không có sự chuẩn bị, đào sâu vấn
đề cần thực hiện, nên hiệu quả bài viết chưa cao. Quá trình sáng tạo một tác phẩm báo chí
về vấn đề giữ gìn giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, người phóng viên phải chủ động sáng
tạo tác phẩm ngay từ giai đoạn tiền kỳ, chủ động thực hiện vấn đề đó. Khi thực hiện công
tác tổ chức sản xuất đòi hỏi người phóng viên phải có sự hiểu biết nhất định về vấn đề
mình làm, để từ đó chủ động trong quá trình thực hiện nội dung. Khi phóng viên không
am hiểu sâu về đối tượng thì việc thực hiện sẽ gặp nhiều khó khăn, sẽ không chủ động
trong quá trình sáng tạo tác phẩm, thậm chí đôi khi có nhìn nhận sai về sự việc. Đây cũng
là một thực trạng, bất cập của phóng viên báo chí Sơn La trong công tác tuyên truyền giá
trị văn hóa các dân tộc thiếu số. Như vậy, việc thực hiện quá trình sáng tạo một tác phẩm
báo chí về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đòi hỏi người phóng viên phải thực sự nhạy
bén và có khả năng tổ chức tốt.
Ví dụ: Khi phóng viên truyền hình thực hiện phóng sự ăn tết “Xíp xí” tết của
người dân tộc Mường- Phù Yên thì họ phải dàn dựng, tái hiện lại một cách trung thực về
cái tết mang nét riêng biệt của họ, để thực hiện được điều đó cần phải có một kinh phí
nhất định. Chính điều này cũng gây ra cho phóng viên và đối tượng những khó khăn
trong phối hợp thực hiện chương trình. Không những thế khi thực hiện một chương trình
về văn hóa dân tộc đòi hỏi phải có sự chuẩn bị về không gian, thời gian, bối cảnh, con
người một cách công phu cẩn thận. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự đầu tư thì hiệu quả công
việc mới đạt được như mong muốn.
* Đối với Đài Phát thanh - truyền hình Sơn La mặc dù đã có chuyên mục định
kỳ tuyên truyền về di sản văn hóa dân tộc nhưng tần số xuất hiện là rất thấp, hai tháng
một số, các phóng sự thường rơi vào lễ tết cổ truyền người dân tộc, còn tin bài phục vụ
cho lễ hội cổ truyền hàng năm được diễn ra ở vùng đồng bào dân tộc sinh sống.
Tình trạng tuyên truyền những giá trị văn hóa các dân tộc trên báo chí Sơn La là
sự mất cân đối, không phù hợp với giữa các đề tài tuyên truyền, đề tài tuyên truyền không
tập trung, liên tục. Trong khi đó, đối với vấn đề gìn giữ phát huy những giá trị bản sắc
văn hóa dân tộc thiểu số lại đòi hỏi có kế hoạch lâu dài, ổn định thường xuyên thì mới có
tác động vào công chúng,mới hình thành nhận thức trong người dân, để từ đó họ có được
hành vi,việc làm cụ thể thiết thực đối với công tác gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số. Vì vậy, thiết nghĩ hệ thống báo chí Sơn La cần xây dựng chuyên trang,
chuyên mục mang tính định kỳ và phân chia đối tượng rõ ràng để truyền đạt, chắc chắn sẽ
tạo hiệu quả tuyên truyền và tiếp nhận cao hơn.
Khi khảo sát vấn đề tuyên truyền các giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số trên báo chí Sơn La, người viết không tập trung vào một trang, mục nào cụ
thể mà chủ yếu đi sâu vào khảo sát những bài viết đề cập đến công tác tuyên truyền
giá trị bản sắc văn hóa dân tộc ở địa phương. Vì thế những tiêu chí khảo sát chủ yếu
nhằm vào tính hiệu quả của phương pháp tuyên truyền, đối tượng tuyên truyền, nội
dung tuyên truyền phù hợp với yêu cầu của vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc. Từ đó thỏa mãn các câu hỏi như: Vấn đề tuyên truyền về giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên báo chí Sơn La được quan tâm
như thế nào? Dung lượng tuyên truyền, phạm vi, cách thức, nội dung tuyên truyền
đã phù hợp với điều kiện địa lý, trình độ hiểu biết của địa phương chưa.
2.4.4. Tiếng dân tộc
Sơn La có địa hình hiểm trở, giao thông đi lại giữa các vùng đi lại khó khăn có
những nơi báo chí muốn đến được phải đi mất 5 - 7 ngày đường, chính vì vậy các chương
trình phát thanh - truyền hình bằng tiếng dân tộc là một binh chủng tinh nhuệ, có hiệu quả
nhất trong mặt trận tư tưởng - văn hóa đáp ứng nhu cầu thông tin và nhận thức của đồng
bào.
Chương trình phát thanh - truyền hình tiếng dân tộc đã đem đến sự hiểu biết cho
đồng bào truyền thống của ông cha để lại, về cách thức tổ chức trồng trọt, chăn nuôi, giữ
gìn sức khỏe, tổ chức tốt cuộc sống gia đình, giáo dục pháp luật, đạo đức cho con người.
Đồng thời các chương trình cũng phê phán các thói hư tật xấu của những kẻ siêng ăn,
nhác làm, nghiện rượu, nghiện hút thuốc phiện, phá hoại hạnh phúc gia đình, bản, làng.
Nhìn chung các chương trình phát thanh- truyền hình tiếng dân tộc, đã dành thời
lượng đáng kể để thông tin kịp thời nhiều vấn đề thời sự của xã hội, cổ vũ động viên
phong trào nhân dân thi đua thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh - quốc phòng,
tuyên truyền, giáo dục sâu rộng các chủ đề chính trị, những đợt sinh hoạt chính trị lớn có
tính toàn quốc; như phong trào “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
góp phần làm lành mạnh xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào sự lãnh đạo
của Đảng.
Trong hơn 1400 lá thư của bạn nghe đài, xem truyền hình gửi về cho Đài Phát
thanh - Truyền hình Sơn La năm 2008 có đến hơn 1000 lá thư của bà con dân tộc
H’Mông, gần 200 lá thư là của bà con dân tộc Thái, yêu cầu tăng thời lượng chương trình
thời sự, chương trình ca nhạc tiếng H’Mông, tiếng Thái, yêu cầu đài giải thích, phổ biến
một số vấn đề trong lĩnh vực nông nghiệp, khoa học đời sống. Điều đấy cho thấy các
chương trình phát thanh truyền hình của Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La đã được
đông đảo người dân quan tâm, đặc biệt có tác động không nhỏ tới một bộ phận không
nhỏ người dân tộc thiểu số.
Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La, cơ quan thông tin đại chúng, diễn đàn ngôn
luận của nhân dân các dân tộc, với cố gắng nỗ lực của mỗi cá nhân trong, cố gắng luôn xây
dựng những chương trình phát thanh, truyền hình có nội dung và hình thức phong phú, thể
hiện gần gũi sinh động, phù hợp với trình độ tiếp nhận của khán, thính giả, luôn nêu cao tinh
thần chiến đấu cách mạng trong nhân dân, chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế
lực, lợi dụng địa hình hiểm trở, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp để chống phá Đảng,
cách mạng của dân tộc Việt Nam. Thực tế đã xảy ra tình trạng một số làng, bản đồng bào
H’Mông, những nơi xa xôi hẻo lánh chưa bỏ được những hủ tục lạc hậu, đã bị kẻ xấu tuyên
truyền bằng nhiều hình thức như chúng cũng tổ chức phát sóng chương trình phát thanh bằng
tiếng H’Mông, tuyên truyền các loại đạo lạ, khuyên bà con “bỏ bàn thờ tổ tiên để thờ Chúa,
thờ những đấng thiêng liêng xa lạ”, mục đích của chúng là tách đồng bào ra khỏi những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của chính họ, quay lưng lại với bản sắc văn hóa của cả dân tộc
Việt Nam.
Có thể nói chương trình phát thanh - Truyền hình tiếng dân tộc dành cho đồng bào
thiểu số của Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La đều dành chủ đề cao để nói về văn hóa
tinh thần dân tộc. Mỗi dân tộc có nét đẹp riêng, trong sinh hoạt văn hóa trong lễ hội,
trong ăn ở, trong cách cư xử với ông, bà, bố, mẹ, vợ, chồng, con cái, giữa quan hệ họ tộc,
láng giềng đều được phản ánh trong chương trình.
Tuy nhiên, có một thực trạng hiện nay người dân tộc thiểu số nói tiếng mẹ đẻ
ngày càng ít đi, đây cũng là vấn đề đáng lưu tâm.
Một thực trạng nữa mặc dù luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo sát sao của
tỉnh và lãnh đạo ngành, nhưng do còn hạn chế về biên chế nên số người đảm nhiệm thực
hiện chương trình phát thanh- truyền hình tiếng dân tộc còn rất mỏng, không có phóng viên
phụ trách mảng tuyên truyền tiếng dân tộc, nguồn tin bài chủ yếu dịch từ chương trình tiếng
phổ thông, đây là một hạn chế trong nội dung tuyên truyền bằng tiếng dân tộc thiểu số. Do
đó, muốn đạt yêu cầu về nội thức, hình thức bổ ích hấp dẫn đòi hỏi phải có một đội ngũ làm
chương trình tiếng dân tộc đủ mạnh cả về số lượng, năng lực nhất là khả năng ngôn ngữ.
Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ phóng
viên, biên tập viên, tạo sức đề kháng mạnh để cho đồng bào các dân tộc chống lại những luận
điệu tuyên truyền, xuyên tạc của kẻ thù.
2.5. NHỮNG HẠN CHẾ TRONG TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ TRUYỀN
THỐNG VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
2.5.1. Hạn chế về mặt nội dung
Thực tế khảo sát các bài viết về lĩnh vực giữ gìn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc
trên báo chí Sơn La cho thấy, về mặt nội dung thể hiện, các bài viết đã cố gắng đề cập
tương đối rộng và đa dạng các mảng đề tài liên quan đến việc giữ gìn bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số đã tạo nên hiệu quả nhất định trong nhận thức, tư tưởng , ý thức
về giữ gìn bảo vệ di sản đặc sắc trong xã hội. Tuy nhiên, chưa phải đã thật đầy đủ.
Một số mảng quen thuộc, dễ làm và dễ tiếp cận thì được báo đề cập nhiều trong khi đó
có những lĩnh vực hầu như không được quan tâm hoặc có đề cập nhưng quá sơ lược,
giản đơn. Ví dụ như mảng về di sản văn hóa nghệ thuật, bảo tồn bảo tàng, tinh thần
đoàn kết dân tộc ý thức cộng đồng, đời sống tâm linh của con người… hầu như chưa
được quan tâm ; đề tài về giữ gìn làng nghề thủ công truyền thống; bảo tồn văn hóa,
trang phục các dân tộc thiểu số, bài trừ mê tín dị đoan… đề cập chưa sâu.
Đặc biệt, các phóng viên của các báo còn quan niệm giản đơn về di sản, về tiếp
thu cái mới trong công tác bảo tồn di sản, thậm chí còn chưa định hình được thế nào là
những biểu hiện của phát huy di sản văn hóa dân tộc để có thái độ ủng hộ, biểu dương.
Chính vì vậy, phóng viên chưa thực hiện được chức năng hướng dẫn, định hướng cho
công chúng trong việc nhận thức về tinh hoa văn hóa dân tộc thiểu số trong cộng đồng
phát huy như thế nào cho phù hợp với điều kiện và tình hình mới. Trong rất nhiều bài
viết mới chỉ dừng lại ở việc kêu gọi bảo tồn vốn cổ , lưu giữ những giá trị truyền thống .
Điều này thể hiện sự lúng túng trong hoạt động tuyên truyền nhằm cụ thể hóa chủ trương,
đường lối của Đảng về bảo tồn phải đi đôi với phát huy, các bài viết mới chỉ nghiêng về
bảo tồn di sản văn hóa dân tộc, tức là mới thực hiện được một nửa phương hướng, đây là
một hạn chế lớn.
2.5.2. Hạn chế về hình thức thể hiện
Về hình thức thể hiện và phương pháp tuyên truyền còn nhiều hạn chế kể cả trong
kỹ năng nghiệp vụ của phóng viên để đạt tới hiệu quả thông tin. Đó là sự lặp lại hình
thức kết cấu bài viết, thiếu sự sáng tạo và đổi mới, sự đơn điệu, cũ mòn trong hình thức
thể hiện.Việc thể hiện thiên quá nhiều về thể loại bài báo, phóng sự cũng phần nào làm
mất đi sự phong phú, đa dạng trong cách thức tuyên truyền.
Một hạn chế nữa là phóng viên của báo nhiều khi còn lệ thuộc quá nhiều vào sự
chỉ đạo, thiếu tính chủ động sáng tạo khi tác nghiệp và xây dựng tác phẩm . Thêm vào đó
là sự thiếu hiểu biết sâu sắc về vấn đề tuyên truyền : di sản văn hóa dân tộc, sự tự bằng
lòng, dễ dãi của phóng viên , biên tập đã dẫn đến việc một số bài viết có chất lượng thấp,
nội dung thông tin chung chung, lan man, dàn trải, gây nhàm chán và khó tiếp nhận trong
độc giả, và tất nhiên hiệu quả tuyên truyền không đạt được.
Chương 3
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TUYÊN TRUYỀN GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
3.1. ĐỐI VỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ, LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
SƠN LA
3.1.1. Xây dựng kế hoạch bền vững trong công tác tuyên truyền giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số
Sự nghiệp đổi mới đất nước đang bước vào giai đoạn cam go, thử thách nhưng
cũng mở ra cho đất nước những cơ hội phát triển, việc tuyên truyền giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đòi hỏi những con người có nhận thức và phẩm chất
mới. Trước hết phải tăng cường tuyên truyền giới thiệu về con người mới trong giai đoạn
cách mạng mới. Con người là trung tâm của mọi vấn đề. Cổ vũ phong trào thi đua lao
động sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng. Phê phán tính bảo thủ những
thói quen tập tục lạc hậu, dựa dẫm, trông chờ ỷ lại. Tuyên truyền nêu gương người tốt
việc tốt, đơn vị điển hình tiến tiến, gia đình văn hóa mới, phong trào ông, bà mẫu mực
con cháu thảo hiền...trong đó coi trọng việc cưới, việc tang.Tuyên truyền cho việc giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc thiểu số, các phong tục tập quán mới, lành mạnh.
Giới thiệu kho tàng dân ca, trường ca, sử thi dân tộc. Phối hợp với ngành giáo dục- đào
tạo, ngành khoa học công nghệ môi trường tuyên truyền cho việc nâng cao chất lượng
dạy và học, giáo dục đạo lý làm người, ý thức, trách nhiệm nghĩa vụ công dân cho học
sinh, thanh niên trong tỉnh từ đó nâng cao ý thức, bồi dưỡng lòng yêu nước, yêu chế độ
xã hội chủ nghĩa, xây dựng lối sống văn hóa cho tuổi trẻ.
Tuyên truyền giá trị bản sắc văn hóa dân tộc cần phải làm thay đổi, làm mới mẻ
nhận thức của cả cộng đồng dân tộc, phải được cả cộng đồng nhận biết và giữ gìn thì
mới có khả năng vận hành và hiện thực giá trị của nó trong đời sống, trong bước đi lên
của đất nước, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, đờin đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cũng chính vì thế, trách nhiệm của các
phương tiện thông tin đại chúng trong việc chuyển tải những giá trị văn hóa trên mọi mặt
cuộc sống là một nhiệm vụ cấp thiết. đặc biệt là đối với các cơ quan báo chí tuyên truyền
về văn hóa, đối tượng độc giả ngày càng khắt khe, tầm hiểu biết, trí tuệ, trình độ thẩm mỹ
trong hưởng thụ văn hóa ngày càng tăng lên... Do vậy, Tỉnh Sơn La cần có một chiến
lược đầu tư lâu dài cho sự nghiệp tuyên truyền và đặc biệt quan tâm đầu tư kinh phí cho
hoạt động tuyên truyền giá trị bản sắc dân tộc thiểu số trong tỉnh, tưng cường đầu tư kinh
phí cho hoạt động tuyên truyền về vấn đề văn hóa dân tộc. Việc không ngừng đổi mới nội
dung chương trình là một nhiệm vụ đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên liên tục, bởi nếu
báo chí Sơn La vẫn giữ nguyên cách tuyên truyền cũ về giá trị văn hóa thì báo chí Sơn La
khó đáp ứng yêu cầu của thời đại, sẽ bị tụt hậu ngày càng xa so với các phương tiện
thông tin đại chúng khác. Sự tụt hậu này không chỉ thể hiện ở vị trí sắp xếp mức độ quan
trọng của cơ quan thông tin, mà thậm chí còn đi tới đánh mất một số lượng lớn độc giả vì
hiện nay hầu như tất cả các phương tiện thông tin đại chúng đều khai thác mảng văn hóa
trong đó có lĩnh vực di sản với nhiều cách tiếp cận rất hay. Do vậy, nếu không ngay từ
bây giờ xây dựng một chiến lược tuyên truyền về vấn đề văn hóa trên một phạm vi quan
tâm rộng lớn thì công tác tuyên truyền về lĩnh vực này vẫn trong tình trạng tùy tiện, tản
mạn, chắp vá, cũ kỹ, sáo mòn như trước.....Chiến lược về việc tuyên truyền giá trị văn
hóa trên báo chí sẽ gồm:
Bám sát chương trình xây dựng nếp sống văn hóa trong gia đình cộng đồng, tuyên
truyền về nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội, chương trình bảo tồn các di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Chương trình bảo tồn văn hóa của dân tộc thiểu số.
Hoạch định lại về phạm vi, lĩnh vực đề cập, về phương pháp tác động, về cách thức tổ
chức trang, chuyên mục, không chỉ riêng truyền hình mà các báo khác như báo Sơn La,
tạp chí văn nghệ Suối Reo cần xây dựng chuyên mục riêng về tuyên truyền giá trị bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số. Tức là những hoạch định tổng thể bao gồm cả mặt nhân sự,
chính sách tài chính phục vụ công tác tuyên truyền. Nếu xây dựng được một chiến lược
thông tin tuyên truyền tốt và từng bước thực thi chiến lược đó, chắc chắn báo chí Sơn La
sẽ thu được những thành công hơn nữa trong công tác tuyên truyền xã hội hóa hoạt động
gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số, khi điều này được thực hiện tốt, sẽ
nâng dần vị thế quan trọng của báo chí Sơn La trong đời sống xã hội, khẳng định sự
không thể thiếu của cơ quan thông tin văn hóa chính thống.
3.1.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa
truyền thống dân tộc thiểu số
Để giữ gìn phát huy những giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc, bên cạnh việc xây
dựng chiến lược tuyên truyền về lâu dài và chuẩn bị những điều kiện cơ bản để thực thi
chiến lược ấy, thì nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là cải tiến công tác tuyên truyền về vấn
đề giữ gìn phát huy những giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc trên báo chí Sơn La. Công
tác quản lý, lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La về vấn đề tuyên truyền bảo tồn bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số tuy đã có sự quan tâm nhưng vẫn còn những hạn chế. Để
nâng cao hiệu quả tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên địa bàn
tỉnh, Đảng bộ tỉnh cần phải có các quyết định, chỉ thị cụ thể về việc thực hiện vấn đề bảo
tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số và phải tổ chức tốt việc phối hợp giữa các cơ
quan báo chí trên địa bàn với các cấp ủy, chính quyền ở cơ sở.
Thực tế hiện nay, một số các cấp ủy Đảng, chính quyền nhất là ở cơ sở chưa nhận
thức đúng vai trò quan trọng của việc bảo tồn những bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số,
chưa coi đó là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần xây dựng
phẩm chất đạo đức người dân. Các hoạt động văn hóa còn thụ động, chưa được đầu tư
đúng mức. Việc khai thác và phối hợp tuyên truyền trên hệ thống báo chí những tiềm
năng văn hóa của dân tộc chưa được coi trọng, làm cho nét đẹp trong văn hóa cổ truyền
của các dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một, các hoạt động văn hóa - nghệ thuật chưa trở
thành phong trào sâu rộng, chưa thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Trước tình trạng trình độ và khả năng còn hạn chế của đội ngũ phóng viên, đặc
biệt là đối với đội ngũ phóng viên thực hiện các chương trình về văn hóa dân tộc thiểu số,
chính quyền địa phương cũng như lãnh đạo các cơ quan báo chí cần khuyến khích, ưu
tiên trong công tác đào tạo, có một cơ chế chính sách thuận lợi tạo điều kiện cho phóng
viên, biên tập viên có thể học tập, nghiên cứu nâng cao trình độ và sự hiểu biết về vấn đề
văn hóa dân tộc thiểu số. Không được chỉ đạo thường xuyên sẽ dẫn đến những hạn chế
đáng tiếc trong nội dung tuyên truyền, trong thủ pháp nghiệp vụ, mà nhiều khi sửa chữa
nó đòi hỏi công sức và thời gian, bởi sự tác động của phương tiện thông tin đại chúng
trên một diện rộng nhất là trên lĩnh vực di sản văn hóa trừu tượng vừa sâu sắc, không dễ
gì thay đổi được. Do vậy phóng viên chuyên về văn hóa, di sản văn hóa phải thường
xuyên bồi đắp kiến thức về mình phụ trách tuyên truyền để đưa thông tin đến độc giả một
cách sâu sắc và chính xác. Nếu phóng viên có quan điểm hoặc nhìn nhận không đúng
bản chất về vấn đề sẽ xảy ra sự thiếu hụt kiến thức của phóng viên, từ đó sẽ thiếu tin
tưởng vào những gì mà người truyền đạt thông tin muốn gửi gắm....
Cụ thể công tác tuyên truyên về di sản văn hóa mà Báo chí Sơn La cần tập trung
giai đoạn hiện nay:
Báo cần phải được phủ sóng (đối với Phát thanh –Truyền hình) và phát hành báo
chí trên diện rộng, cung cấp thông tin nhanh nhằm tuyên truyền đường lối, chủ trương
chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước đối với việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn
hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số.
Giới thiệu những vẻ đẹp truyền thống dân tộc, của các danh thắng, những cái hay
cái đẹp trong dân ca và nghệ thuật truyền thống,.
Tham gia vào việc đấu tranh, ngăn chặn những hành vi xâm hại dến di sản văn hóa
đồng thời chú trọng tuyên truyền: giữ gìn đi đôi với phát triển phát huy di sản trong đời
sống xã hội bằng những đường hướng và giải pháp cụ thể.
Ngoài ra, báo chí Sơn La còn phải luôn quán triệt về nhiệm vụ thường xuyên của
mình trong công tác tuyên truyền giá trị văn hóa văn hóa dân tộc: tuyên truyền sâu rộng
hơn các đường lối, chính sách về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Và càng phải nắm vững : bảo vệ di sản văn hóa dân tộc là trách nhiệm của cả
hệ thống chính trị, của mọi công dân, trong đó các cơ quan báo chí có trách nhiệm lớn
trong việc huy động đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia vào sự nghiệp to lớn này....
Hiện nay tình hình quốc tế đang có những diễn biến phức tạp. Với cơ chế mở cửa
và quan hệ đa dạng hóa, đa phương hóa với tất cả các nước trên thế giới của Đảng và Nhà
nước ta, Sơn La đã chịu sự tác động sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội v.v... Với cơ chế thị trường, bên cạnh những tác động tích cực to lớn cũng đã
bộc lộ những mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng, đạo đức, lối sống và nhận
thức thẩm mỹ của nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên.
Trước tình hình đó Đảng bộ tỉnh Sơn La cần phải quán triệt sâu sắc hơn nữa nhiệm
vụ và các giải pháp lớn của Nghị quyết Trung ương 5, đưa Nghị quyết vào cuộc sống đến
với từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi
lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội.
Vai trò của báo chí trong công tác tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc là
hết sức to lớn, không thể thiếu được trong tiến trình phát triển và hội nhập. Chính vì thế,
Đảng bộ tỉnh Sơn La cần phải có chủ trương, chính sách để đầu tư thích đáng cho công
tác tuyên truyền trên hệ thống báo chí - đầu tư kinh phí hoạt động, cơ sở vật chất, kỹ
thuật, máy móc và yếu tố con người phải được quan tâm đúng mức.
3.2. TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ CHO CÁC HOẠT ĐỘNG TUYÊN TRUYỀN
BẢN SẮC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC THIỂU SỐ
3.2.1. Về thời lượng
Đối với công tác tuyên truyền để bảo tồn những bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu
số của các loại hình báo chí ở Sơn La cần phải được tăng cường đầu tư một cách thích
đáng. Trước hết cần phải tăng thời lượng phát sóng chương trình Phát thanh- truyền hình,
và trên báo in, từ đó xây dựng lịch phát sóng và xây dựng các chuyên đề, chuyên mục về
vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc mang tính định kỳ. Cần xây dựng một
cơ cấu phát sóng chương trình văn hóa dân tộc trong tổng thể chương trình của tỉnh.
Từ cơ sở trên lập kế hoạch cụ thể thực hiện sản xuất các phóng sự, chuyên đề,
chuyên mục riêng để tuyên truyền về bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số, từ đó mới có thể
định hướng cụ thể cho phóng viên trong công tác tuyên truyền của mình, mới tập trung
được vào những nội dung sát thực và phù hợp với đặc thù của tỉnh miền núi.
Qua kết quả thăm dò ý kiến công chúng báo chí Sơn La cho thấy những ý kiến và nhu
cầu từ phía công chúng đối với thời lượng phát sóng, phát hành báo chí hiện nay, phần lớn cho
rằng việc tăng cường đầu tư cho thời lượng mở thêm các chuyên trang, chuyên mục tuyên
truyền về giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số là cần thiết. Số liệu tỉ lệ phần trăm được thể hiện
qua bảng biểu sau:
Bảng 3.1: Theo quí vị báo chí Sơn La có cần phải mở những chuyên trang, chuyên
mục định kỳ dành cho vấn đề tuyên truyền những giá trị văn hóa truyền thống của
các dân tộc thiểu số không ?
Mức độ Tăng Giữ nguyên Giảm
Số phiếu 254/475 184/457 28/457
Tỉ lệ (%) 53,61% 40,26% 6,12%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Như vậy việc mở rộng những chuyên trang, chuyên mục định kỳ sẽ giúp cho công
tác tuyên truyền về vấn đề văn hóa dân tộc mới có thể đề cập hết được các lĩnh vực trong
đời sống, từ những nét ăn - ở - mặc một cách toàn diện, có chiều sâu, trong khi đó ở Sơn
La chủ yếu là các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc lại có một nét văn hóa riêng và rất phong
phú. Để đi sâu tìm hiểu những nét văn hóa đó và tuyên truyền một cách đầy đủ thì việc
đầu tiên là phải tăng thời lượng.
Khi số lượng, thời lượng tăng và cơ cấu chương trình được xây dựng cụ thể, tính thời
điểm cũng phải được tính toán sao cho đạt kết quả tiếp nhận thông tin lớn nhất cho công
chúng. Vấn đề thời lượng ở đây được tăng lên là tăng trong tổng thể chương trình báo chí nói
chung, tăng bằng cách mở các chuyên đề, chuyên mục để phát sóng định kỳ thường xuyên từ
đó mới tạo cho công chúng một thói quen tiếp nhận thông tin về vấn đề văn hóa dân tộc và có
được nhận thức đúng về vấn đề cần thiết phải bảo tồn những bản sắc văn hóa của dân tộc
mình.
Mục đích của việc tăng thời lượng là để chuyển tải các nội dung nhiều hơn, phong
phú hơn và có thể tác động vào công chúng một cách thường xuyên, liên tục, từ đó mới có
được nhận thức và hành vi cụ thể, tích cực và đúng đắn về vấn đề bảo tồn những bản sắc văn
hóa dân tộc trong quần chúng nhân dân.
Bảng 3.2: Theo quí vị báo chí Sơn La có cần mở thêm các chương trình, chuyên
mục sử dụng chữ viết và tiếng dân tộc không?
Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết
Số phiếu 198/457 205/457 63/457
Tỉ lệ (%) 41,35% 44,85% 13,58%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Qua bảng biểu cho thấy phần lớn các ý kiến cho rằng việc sử dụng thứ tiếng của
các dân tộc thiểu số khác cần được Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh, Báo Sơn La, tạp chí
Suối Reo quan tâm thực hiện. Qua chương trình tiếng dân tộc, bài viết bằng chữ dân tộc
không những giúp cho vốn chữ viết và tiếng nói của dân tộc luôn được gìn giữ, phát triển
mà từ ngôn ngữ dân tộc mình nội dung chuyển tải của báo chí đến người dân sẽ tận tường
và dễ hiểu hơn bản chất của vấn đề.
Ngoài việc tăng thời lượng và sắp xếp cơ cấu trong một chương trình sao cho hợp
lý, đồng thời phải nghiên cứu nhu cầu và thói quen tiếp nhận thông tin của quần chúng,
từ đó những người làm báo mới có thể cung cấp được những gì công chúng cần.
3.2.2. Tăng cường số lượng bài viết về văn hóa dân tộc thiểu số trên báo chí
Sơn La
Số lượng bài viết về vấn đề giữ gìn giá trị bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số cũng
phần nào phản ánh, đánh giá được định hướng tuyên truyền cùng như chất lượng của báo
chí dành cho công tác tuyên truyền bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Thực tế
khảo sát hơn một năm báo chí Sơn La (1/2008 – 6/2009) có hơn 200 tin bài ở các thể loại
về vấn đề di sản - một số lượng cũng chưa phải là nhiều
Qua kết quả thăm dò ý kiến công chúng báo chí Sơn La, cho thấy ý kiến và nhu
cầu của công chúng đối với số lượng bài viết về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
thiểu số hiện nay, phần lớn cho rằng để đảm bảo cho công tác tuyên truyền xã hội hóa
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc dân gian các dân tộc thiểu số cần phải tăng
thêm số lượng bài viết về vấn đề này. Cụ thể được thể hiện dưới bảng sau:
Bảng 3.3: Để nâng cao chất lượng nội dung và hiệu quả thông tin của công chúng về
vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số báo chí Sơn La có cần tăng số lượng
các bài viết không?
Mức độ Rất cần thiết cần thiết không cần thiết
Số phiếu 198/457 205/457 63/257
Tỉ lệ (%) 41, 35 44,85 13,58
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Tăng số lượng bài viết về giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số là điều kiện để đề
cập đến mọi khía cạnh, loại hình di sản trong công tác bảo tồn và phát huy nó trong đời
sống xã hội một cách toàn diện, có chiều sâu. Chúng ta đều biết kho tàng giá trị văn hóa
của các dân tộc thiểu số là vô cùng phong phú, để đi sâu tìm hiểu kho tàng quý giá đó và
tuyên truyền một cách đầy đủ thì việc đầu tiên là phải tăng số lượng bài viết tất nhiên sẽ
dẫn đến phóng viên phải tìm hiểu và viết nhiều hơn, đó cũng là điều kiện đánh giá trình
độ, khả năng tác nghiệp - lao động phóng viên rất hiệu quả.
Thực tế khảo sát báo chí có thể thấy rằng, báo chí Sơn la đã có sự quan tâm nhất
định đối với mảng đề tài này thể hiện ít nhiều ở số lượng bài viết, các vấn đề đề cập... .
Nên khi lấy ý kiến của công chúng về mức độ thể hiện vấn đề tuyên truyền giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số trên báo chí, công chúng có nhận xét chung:
Bảng 3.4: Vấn đề tuyên truyền những giá trị văn hóa truyền thống trên báo chí Sơn
La được thể hiện như thế nào?
Mức độ Thường xuyên Vừa phải Còn ít
Số phiếu 123/457 188/457 137/457
Tỷ lệ % 28,88% 41, 13% 29,97%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Nhìn vào kết quả cho thấy công tác tuyên truyền về gìn giữ và phát huy giá trị bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên báo chí Sơn La chưa được thường xuyên liên tục,
chưa thật sự trở thành một nhiệm vụ cấp bách của mỗi cơ quan báo chí. Tuy nhiên, ta
cũng phải xét về nhiều nguyên nhân ví dụ như kinh phí tuyên truyền còn hạn chế, thời
lượng, dung lượng.
Một vấn đề khác đặt ra hiện nay đối với báo chí Sơn La là có cần thiết phải xây
dựng chuyên trang, chuyên mục dành riêng cho di sản hay không, bởi như đã trình bày ở
phần trên hiện nay chỉ riêng Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La mặc dù có chuyên
mục: “ Di sản văn hóa” song cũng mới chỉ hai tháng có một số, báo Sơn La không tổ
chức một trang mục nào riêng về vấn đề , mà bài viết về di sản thuộc lĩnh vực nào tùy
theo mức độ quan trọng khác nhau của báo. Đặc biệt hơn qua khảo sát thấy mảng đề tài
viết tuyên truyền về văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi của tạp chí văn nghệ Suối Reo
còn có ít, Qua thăm dò công chúng báo chí Sơn La về vấn đề này cho thấy:
Bảng 3.5: Theo quí vị báo chí Sơn La có cần phải xây dựng các chuyên mục, chuyên
trang định kỳ dành cho vấn đề tuyên truyền giá trị văn hóa dân tộc trên báo chí
không?
Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết
Số phiếu 184/457 245/457 28/457
Tỷ lệ % 40,26% 53, 61% 6,12%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Như vậy đa phần công chúng báo chí Sơn La cho rằng cần thiết phải xây dựng
trang, mục riêng cho vấn đề tuyên truyền giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc, thiết nghĩ
đây cũng là một nhận định đúng, bởi số lượng bài viết có nhiều nhưng lại quá dàn trải ở
các trang, chuyên mục, chuyên đề, trên cả sóng Phát thanh - Truyền hình gây tâm lý khó
tiếp nhận cho công chúng. Nên chuyển hình thức chuyển tải bằng cách xây dựng trang
riêng cho việc tuyên truyền, công chúng có thể tiếp cận trang văn hóa dân tộc một cách
thuận lợi nhất, trực tiếp nhất. Như vậy hiệu quả tuyên truyền sẽ thu được kết quả khả
quan hơn...
Khi tăng số lượng bài viết và xây dựng được trang dành riêng để tuyên truyền về
di sản văn hóa dân tộc thiểu số, đồng thời phải chú ý tăng cường chất lượng bài viết,
trang mục, có thế thì việc tăng số lượng bài và xây dựng trang riêng về giữ gìn văn hóa
dân tộc thiểu số mới có ý nghĩa...mục đích cuối cùng là phải chuyển tải được nhiều nội
dung hơn, phong phú hơn và có thể tác động vào công chúng một cách thường xuyên,
liên tục, từ đó mới có nhận thức và hành vi cụ thể, tích cực và đúng đắn về vấn đề phát
huy những giá trị văn hóa dân tộc thiểu số đặc sắc – tài sản quý giá mà bao thế hệ cha
ông truyền lại.
Song hành với việc tăng số lượng tổ chức chuyên trang, chuyên mục về tuyên
truyền giá trị văn hóa đặc sắc các dân tộc thiểu số sao cho hợp lý, báo chí Sơn La cũng
cần phải nghiên cứu nhu cầu và thói quen tiếp nhận thông tin của công chúng, từ đó xây
dựng định hướng và phương pháp tuyên truyền. Không khi nào được quan niệm, những
đề tài, bài viết về di sản văn hóa là vấn đề không mang tính thời sự mà chỉ mang tính
chuyên ngành mà những giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc thiểu số và công cuộc bảo
tồn, phát huy nó là vấn đề hết sức thời sự. Do vậy phóng viên của báo một mặt phải đi
sâu nghiên cứu lĩnh vực mình tuyên truyền là gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa
dân tộc thiểu số vùng là một nhiệm vụ trong tâm và luôn cấp bách.
3.2.3. Tổ chức sản xuất chương trình
Hiện nay công tác tổ chức sản xuất những chương trình về vấn đề bảo tồn bản sắc
văn hóa các dân tộc thiểu số trên hệ thống báo chí tỉnh Sơn La còn nhiều hạn chế, khó
khăn. Dường như mọi cái vẫn chỉ là tự phát, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan
báo chí với các ban ngành.
Vậy, để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa dân
tộc, Báo chí Sơn La cần phải có kế hoạch cụ thể, dài hạn với Sở văn hóa – thông tin để
thực hiện các phóng sự và mở các chuyên đề, chuyên mục để phát sóng định kỳ. Điều
này sẽ tạo điều kiện cho phóng viên chủ động hơn trong quá trình tác nghiệp.
Ngoài ra cũng cần phải có sự phối hợp giữa đơn vị báo chí và cơ quan chức năng
trong toàn tỉnh , làm cho cơ sở thấy được việc phối hợp với Báo chí để thực hiện tốt công
tác tuyên truyền giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số là trách nhiệm và nghĩa vụ của họ.
Trong quá sáng tạo các tác phẩm báo chí về văn hóa các dân tộc thiểu số, phóng viên
phải có sự chuẩn bị tư liệu kỹ càng, phải tự phát hiện các đề tài, tạo sự sinh động và
phong phú của nội dung chương trình. Trong quá trình dàn dựng và xây dựng chương
trình, cần phải chú ý đi sâu vào bản chất của vấn đề từ đó phát hiện những giá trị, những
nét đẹp riêng của mỗi dân tộc và phải làm cho nó có ý nghĩa trong đời sống văn hóa tinh
thần chung trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó cũng phải chỉ ra những thứ
ngoại lai, độc hại, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc ta.
Ngoài ra các cơ quan báo chí ở Sơn La cũng cần phải có các chương trình tọa
đàm, trao đổi bàn luận về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, tổ chức các chương trình giao
lưu văn hóa, văn nghệ, hoặc các cuộc thi tìm hiểu về những giá trị văn hóa dân tộc mà
mọi người dân đều có thể tham gia với tư cách là một chủ thể sáng tạo ra những giá trị
văn hóa đó. Qua bảng biểu sau có thể thấy rõ hơn.
Bảng 3.6: Vấn đề tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
được thể hiện trên các loại hình báo chí như thế nào?
Mức độ Thường xuyên Vừa phải ít
Số phiếu 132/457 188/457 137/457
Tỉ lệ (%) 28,88% 41,13% 29,97%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Để cải thiện những yếu kém, cần phải xây dựng một mạng lưới cộng tác viên
người dân tộc thiểu số. Để cho mạng lưới cộng tác viên hoạt động có hiệu quả, chú trọng
đến những cộng tác viên là người dân tộc thiểu số, cần có định hướng cụ thể cho đối
tượng này. Bên cạnh đó cần phải có một chế độ cụ thể, cũng như phải đầu tư về phương
tiện kỹ thuật thực hiện chương trình, tạo sự chỉ đạo chặt chẽ thống nhất trong chiến lược
tuyên truyền về lĩnh vực văn hóa dân tộc, không chỉ trong mỗi phóng viên báo chí Sơn
La, mà sự hiệp đồng trong các cơ quan báo chí trong công tác tuyên truyền. Từ đó tạo ra
ý thức, trách nhiệm của mỗi cá nhân quan tâm, tăng cường hơn nữa trong việc tuyên
truyền những giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số.
Bảng 3.7: Quí vị cho rằng các loại hình báo chí Sơn La có cần phải
quan tâm hơn nữa vấn đề tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số không?
Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết
Số phiếu 167/457 223/457 65/457
Tỉ lệ (%) 36,54% 48,79% 14,22%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
3.2.3.1. Đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền
Thực trạng vấn đề tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
báo chí Sơn La còn nhiều hạn chế, về cả nội dung và hình thức. Để nâng cao chất lượng
cần thay đổi cách tiếp cận, lựa chọn và nhận thức vấn đề. Trong quá trình thực hiện các
tác phẩm, phóng viên cần quan tâm đến việc lựa chọn các sự kiện, vấn đề, đề tài, chi tiết
... để đưa vào nội dung tác phẩm. Phóng viên trực tiếp thực hiện chương trình về văn hóa
cần có những chính kiến, thái độ của mình để phân biệt đâu là những giá trị cần phải
được phát huy, đâu là cái đi ngược lại với thuận phong mỹ tục của nhân dân ta.
Đối với việc tuyên truyền về bản sắc văn hóa dân tộc, phóng viên cần lựa chọn
những sự kiện nào hay, được nhiều người quan tâm để phản ánh, chứ không phải gặp bất
cứ cái gì cũng phản ánh. Phóng viên phải nhận thức được rằng các sự kiện luôn gắn bó
liên hệ với nhau, sự kiện này là nguyên nhân của sự kiện kia. Phóng viên phải biết xâu
chuỗi các sự kiện đó và xác định đâu là các sự kiện chính được nhiều người quan tâm.
Qua thăm dò ý kiến bạn xem truyền hình cho thấy:
Bảng 3.8: Quí vị nhận xét nội dung và hình thức tuyên truyền
về vấn đề giữ gìn giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên
các loại hình báo chí ở Sơn La?
Mức độ Hay Bình thường Nhàm chán
Số phiếu 86/457 248/457 123/457
Tỉ lệ (%) 18,81% 54,26% 26,91%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Nhìn số liệu từ bảng trên ta thấy rằng, đa phần công chúng báo chí Sơn La đánh
giá nội dung tuyên truyền về gìn giữ và phát huy những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc là
bình thường và nhàm chán – đây là những đánh giá và nhận xét hết sức công bằng. Vậy
nên, đổi mới về nội dung tuyên truyền trên báo chí về đề tài gìn giữ những giá trị tốt đẹp
của văn hóa dân tộc thiểu số là nhiệm vụ cấp thiết.
Trong quá trình khảo sát người viết nhận thấy, báo chí Sơn La mới chỉ chú trọng
đến tuyên truyền về bảo tồn di sản văn hóa còn vế kia của vấn đề là phát huy di sản văn
hóa trong đời sống thì ít đề cập tới. Vì vậy báo cũng nên cân bằng hai nội dung này trong
hoạt động tuyên truyền , bới thiếu một trong hai về thì không thể có một định hướng cho
công tác di sản một cách toàn diện, và sẽ khiến cho người công chúng nhận thức lệch vấn
đề.
Để nâng cao chất lượng, nội dung và hình thức tuyên truyền báo cần phát huy
thêm các thể loại thế mạnh như: để tăng thêm nhiều giọng điệu cần phải mở thêm các
chuyên mục để các thể loại chính luận báo chí đóng vai trò góp tiếng nói định hướng của
mình trong lĩnh vực di sản văn hóa quan trọng này; tổ chức thêm các cuộc tọa đàm, trao đổi,
thi tìm hiều về di sản văn hóa dân tộc - là một cách thức tuyên truyền hiệu quả góp phần xã
hội hóa công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước.
Vấn đề hình thức thể hiện nội dung vấn đề văn hóa dân tộc phải đa dạng và phong
phú về thể loại. Không nên chỉ đơn thuần sử dụng các phóng sự, tin, bài mà trong các
chuyên đề, chuyên mục cần tổ chức thêm các cuộc tọa đàm, trao đổi, thậm chí tổ chức
các sân chơi dành cho đối tượng là đồng bào dân tộc thiểu số, để họ có điều kiện giao lưu
giữa các vùng với nhau, từ đó học hỏi trao đổi và phát huy những nét đẹp vốn có, làm
giàu thêm những giá trị văn hóa của dân tộc. Ngôn ngữ trong các chương trình cần phải
được thể hiện sinh động ,dễ hiểu, tránh dùng các câu quá phức tạp hay có quá nhiều thuật
ngữ khoa học làm cho công chúng khó hiểu. Những chương trình dành cho dân tộc nào
thì nên dùng thứ ngôn ngữ của dân tộc đó, để tạo cho khán giả một khả năng tiếp nhận dễ
dàng.
Trong các tin, bài, phóng sự bàn về văn hóa trên báo chí Sơn La chủ yếu dựa vào
các báo cáo còn hình ảnh thì nghèo nàn. Qua việc thăm dò ý kiến khán giả xem truyền
hình, và trên báo chí có 59,08%% người cho rằng hình thức tuyên truyền là đơn điệu.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số,
trước hết người thực hiện chương trình phải chủ động có những sáng tạo mới, cái nhìn
mới và cách thể hiện vấn đề, từ đó mới có thể nâng cao và đổi mới cả về nội dung và hình
thức tuyên truyền.
Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số,
trước hết người thực hiện chương trình phải chủ động, có những sáng tạo mới, cái nhìn
mới và cách thể hiện vấn đề, từ đó mới có thể nâng cao và đổi mới cả về nội dung và hình
thức tuyên truyền.
3.2.4. Đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ phóng viên tuyên truyền về giá trị
bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số
3.2.4.1. Sắp xếp, đào tạo đội ngũ phóng viên, biên tập viên
Để nâng cao hiệu quả chất lượng của việc tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số, ngoài việc sắp xếp lại những phóng viên, biên tập viên có chuyên sâu về
lĩnh vực văn hóa dân tộc, báo chí tỉnh Sơn La cần phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ
phóng viên, biên tập viên thực hiện các chương trình về vấn đề văn hóa dân tộc nói riêng.
Việc đào tạo và đào tạo lại cho các phóng viên, biên tập viên phải được diễn ra thường
xuyên, đó là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng chương trình và hiệu quả
của việc tuyên truyền bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Hàng năm các cơ quan báo chí ở Sơn La nên tổ chức mở các lớp tập huấn, bồi
dưỡng cho phóng viên, biên tập viên những kiến thức về văn hóa các dân tộc thiểu số. Để
quá trình đào tạo nâng cao trình độ, hiểu biết của phóng viên, biên tập viên về lĩnh vực
văn hóa dân tộc thực sự có hiệu quả đòi hỏi bản thân mỗi phóng viên, biên tập viên phải
có nhận thức đúng đắn về vấn đề văn hóa dân tộc từ đó tìm tòi và trang bị cho mình
những kiến thức cơ bản phục vụ cho quá trình hoạt động chuyên môn.
Bảng 3.9: Phóng viên có cần phải đi nâng cao kiến thức và tìm hiểu sâu về giá trị
truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số không?
Mức độ Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết
Số phiếu 184/457 236/457 37/457
Tỉ lệ (%) 40,26% 51,64% 8,09%
Nguồn: Tác giả tự thống kê.
Vấn đề đào tạo đội ngũ phóng viên có ý nghĩa quan trọng. Có trình độ chuyên môn
vững, ý thức chính trị cách mạng đúng đắn họ mới có thể thực hiện các nhiệm vụ tuyên
truyền một cách có hiệu quả theo quan điểm của Đảng.
Tuyên truyền về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số là một mảng đề tài lớn
mà Đảng bộ tỉnh Sơn La coi trọng và xác định rõ ràng. Điều đó đòi hỏi phải có đội ngũ
phóng viên, biên tập viên những người làm báo chuyên trách phản ánh về mảng đề tài
này luôn phải nâng cao trình độ, sự hiểu biết về văn hóa dân tộc. Đào tạo đội ngũ phóng
viên, biên tập viên thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền phản ánh vấn đề văn hóa truyền
thống của các dân tộc thiểu số là việc làm cần thiết, nhất là trong thời kỳ mở cửa giao lưu
như hiện nay.
Trong tác nghiệp, không phải lĩnh vực nào phóng viên cũng có thể hiểu biết sâu tất
cả các khía cạnh, nhất là đối với vấn đề văn hóa dân tộc. Thực tế đòi hỏi cần phải có
những chuyên gia tư vấn về lĩnh vực này, mới có thể đáp ứng được chiều sâu của tác
phẩm.
Đào tạo và đào tạo thường xuyên cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên chuyên về
văn hóa dân tộc, từ đó có thể nắm bắt các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách cụ
thể của Nhà nước đối với vấn đề văn hóa dân tộc ở miền núi. Đó là những điều kiện cơ
bản cần thiết để đội ngũ phóng viên thực hiện việc xây dựng các phóng sự về mặt bản sắc
dân tộc một cách sâu rộng, sát thực tế.
3.2.4.2. Có chế độ chính sách hợp lý đối với phóng viên
Cùng với công tác đào tạo nâng cao trình độ phóng viên, báo cũng cần có những
chế độ, chính sách hợp lý dành cho phóng viên để khuyến khích, động viên họ sáng tạo
những tác phẩm có chất lượng và chiều sâu văn hóa, cơ quan chủ quản cũng cần tạo môi
trường hoạt động cho phóng viên của báo chí, được tham gia vào mọi hoạt động văn hóa,
giao lưu văn hóa, đó là điều kiện để phóng viên mở mang tầm nhìn và kiến thức về văn
hóa để từ đó cái nhìn tổng quát hơn về công cuộc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Trong quá trình thực hiện các phóng sự, chuyên đề, chuyên mục, các chương trình
về vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc, phóng viên gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình
thực hiện, như kinh phí để chi cho việc dàn dựng chương trình, điều kiện về phương tiện
làm nghề còn hạn chế. Để tuyên truyền vấn đề văn hóa dân tộc đạt hiệu quả cao, các cơ
quan báo chí cần phải có một chế độ chính sách phù hợp. Trước hết nâng chế độ nhuận
bút cho các phóng viên vì chi phí cho loại tác phẩm này thường rất cao, phóng viên phải
đi xa trong nhiều ngày.
Ví dụ: Trong quá trình thực hiện tổ chức sản xuất các chương trình truyền hình
phần lớn phóng viên chuyên về văn hóa của Đài phát thanh - Truyền hình Sơn La phải tự
túc toàn bộ từ phương tiện đi lại, cho đến việc thuê các diễn viên trong quá trình thực
hiện tổ chức dàn dựng tái hiện các hoạt động văn hóa tại địa phương. Những tác phẩm
hay, hoặc rất vất vả để thực hiện được trong khi điều kiện còn hạn chế, thì phải được xem
xét và có một chế độ khen thưởng thích đáng, kịp thời động viên những người thực hiện
chương trình.
Khi lên kế hoạch phát sóng thường xuyên về các vấn đề bản sắc văn dân tộc thì
cần phải chi tiết và có dự toán cụ thể về kinh phí để phục vụ cho việc thực hiện sản xuất
chương trình trong cả năm. Từ đó phóng viên mới có thể chủ động tính toán, không bị lệ
thuộc quá nhiều vào cơ sở trong quá trình thực hiện cũng như việc chi phí trong quá trình
dàn dựng và tái hiện lại các chi tiết khi thực hiện xây dựng tác phẩm.
Việc đầu tư cho công tác tuyên truyền vấn đề văn hóa dân tộc cần phải được tăng
cường và đẩy mạnh hơn nữa về chế độ cho phóng viên. Cụ thể, từ việc khoán công tác
phí hàng tháng phải được nâng lên sao cho phù hợp với số lượng tác phẩm thực hiện.
Ngoài chế độ cho phóng viên, cần phải định mức cho mỗi phóng sự, chuyên đề về mảng
đề tài bản sắc văn hóa dân tộc được thực hiện ở vùng xa, vùng sâu.
Thực tế hiện nay là chi phí cho những phóng sự còn hạn chế, cho nên phóng viên
không có điều kiện khảo sát thực tế trước khi thực hiện. Do đó khi đến cơ sở để ghi hình
họ không thể chủ động trong công việc, thậm chí phải thay đổi nội dung chương trình do
nhiều yếu tố khách quan.
3.2.5. Giải pháp cụ thể đối với từng cơ quan Báo
3.2.5.1. Đối với Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La: Do có đặc tính ưu việt là
chuyển tải thông tin nhanh, gọn đến với khán thính giả dù là ở những vùng sâu, vùng xa,
giao thông đi lại khó khăn nhất nên trong nhiều năm qua, phát thanh - truyền hình Sơn La
đã nhận được sự tin yêu của không ít khán, thính giả. Tuy nhiên, để thu hút bà con hàng
ngày nghe đài, xem truyền hình và hiểu được đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước cũng như nhiều thông tin bổ ích khác, việc nâng cao chất lượng các chương trình
phát thanh truyền hình là một yêu cầu cấp bách đề ra. Đây là một khó khăn lớn đối với
Đài phát thanh - truyền hình một tỉnh miền núi trong trước mắt cũng như lâu dài, để đạt
được hiệu quả tuyên truyền như mong muốn, nhất là tuyên truyền về vấn đề văn hóa, giữ
gìn bản sắc văn hóa các dân tộc, ngay từ bây giờ nhà nước cần ưu tiên kinh phí và có kế
hoạch chiến lược ưu tiên đào tạo con em là người địa phương, nhất là con em các dân tộc
thiểu số thành thạo cả hai loại ngôn ngữ tiếng Phổ thông (tiếng Việt) và tiếng dân tộc.
Trước tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi. Điều kiện của cuộc đấu tranh
chống âm mưu “diễn biến hòa bình” có nhiều diễn biến mới hết sức phức tạp. Công cuộc
đổi mới đã tạo điều kiện cho văn hóa các dân tộc thiểu số giao lưu với các vùng trong
nước và thế giới đã tạo nên cho văn hóa dân tộc thiểu số được tiếp thu nhiều nét đẹp mới
của nhân loại. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng đã kéo theo một số mặt tiêu cực, tác động
xấu đên văn hóa dân tộc thiểu số, sự phân cách giàu nghèo trong xã hội xuất hiện, tệ nạn
xã hội gia tăng từ đó nhiệm vụ tư tưởng của báo chí phát thanh hết sức nặng nề. Do đó,
để đáp ứng kịp thời với xu hướng và tình hình mới, công việc quan trọng hàng đầu là xây
dựng kế hoạch tuyển chọn, đội ngũ phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên có đủ năng
lực, phẩm chất chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cách mạng đảm trách chương trình
phát thanh - truyền hình. Đảng, Nhà nước và tập thể lãnh đạo Đài phát thanh - truyền
hình cần quan tâm tới chính sách cụ thể đối với phóng viên, biên tập viên, kỹ thuật viên
nhằm giúp mọi người có thu nhập ổn định tạo điều kiện tốt cho hoạt động chuyên môn.
Bên cạnh đó lấy hoạt động chuyên môn để khuyến khích mỗi cán bộ của Đài nâng cao
nhận thức nghề nghiệp, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp phục vụ sự nghiệp phát thanh
truyền hình của tỉnh, nhất là trong công tác tuyên truyền về giữ gìn bản sắc văn hóa các
dân tộc thiểu số. Đảng, Nhà nước cần có chính sách cụ thể, phù hợp đối với đội ngũ cán
bộ, phóng viên để động viên khích lệ bằng lợi ích vật chất, tinh thần một cách công bằng,
dân chủ để họ có thu nhập bằng chính hoạt động nghiệp vụ của mình. Đối với cán bộ
quản lý trực tiếp cần bố trí công tác trong nội bộ hợp lý, phát huy tài năng sang tạo của
mỗi cá nhân. Giữa các đài phát thanh - truyền hình trong khu vực nên có mối quan hệ
khăng khít trong tuyên truyền nói chung, vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc thiểu số nói riêng trên sóng phát thanh - truyền hình. Bên cạnh đó tăng cường diện
phủ sóng, chất lượng phủ sóng phát thanh, truyền hình đây cũng là yếu tố quan trọng
trong thu hút khán , thính giả của Đài Phát thanh - Truyền hình Sơn La.
3.2.5.2. Đối với Báo Sơn La: Là tờ báo trực thuộc sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của
Tỉnh ủy Sơn La. Để thực hiện tốt công tác tuyên truyền giá trị văn hóa truyền thống các
dân tộc thiểu số, trên cơ sở bám chắc tư tưởng chỉ đạo của Trung ương, của tỉnh ủy, Báo
Sơn La cần phải triển khai tổ chức tuyên truyền làm rõ các chương trình; Xây dựng nếp
sống văn hóa trong gia đình và cộng đồng; xây dựng nếp sống trong việc cưới, việc tang,
lễ hội, xây dựng các thiết chế văn hóa, bảo tồn và phát huy các di sản vật thể và phi vật
thể, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa của các dân tộc ít người. Tuyên truyền phát
huy bản sắc văn hóa, trước hết phải tăng cường tuyên truyền giới thiệu về con người mới
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Con người là trung tâm của mọi vấn đề. Cổ vũ
phong trào thi đua lao động, sản xuất, xóa đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng, không
cam chịu cuộc sống nghèo khổ. Phê phán bảo thủ, trì trệ, những thói quen tập tục lạc hậu,
dựa dẫm, trông chờ, ỷ lại. Tuyên truyền nêu gương “ Người tốt, việc tốt”, đơn vị điển
hình tiên tiến, gia đình văn hóa mới, truyền thống tốt đẹp của văn hóa các dân tộc thiểu
số Sơn La…Đẩy mạnh cho phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới ở
khu dân cư” trong đó có việc cưới, việc tang. Tuyên truyền cho việc gìn giữ, bảo tồn các
di sản văn hóa, các phong tục tập quán. Giới thiệu kho tàng dân ca, trường ca, sử thi dân
tộc để góp phần xây dựng cuộc sống mới. Phối hợp với các ngành chức năng của tỉnh
nâng cao ý thức trách nhiệm của người dân và học sinh, sinh viên về văn hóa dân tộc, từ
đó xây dựng lối sống văn hóa trẻ. Để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
thiểu số Sơn La cần phải nghiên cứu, thông tin làm rõ thế mạnh và hạn chế của văn hóa
cộng đồng các dân tộc thiểu số Sơn La, bởi mỗi dân tộc đều có giá trị và sắc thái văn hóa
riêng. Đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu giá trị văn hóa các dân tộc: Lễ hội, văn học,
nghệ thuật ( nhất là văn học nghệ thuật dân gian các dân tộc thiểu số) tục lệ, tôn giáo tín
ngưỡng. Từ đó tuyên truyền có chọn lọc những tinh hoa của giá trị văn hóa ấy để công
chúng hưởng thụ, hưởng ứng cùng giữ gìn, phát huy. Báo Sơn La cũng cần chủ động tăng
cường các hoạt động giao lưu, trao đổi nghiệp vụ với phóng viên, trong tuyên truyền về
văn hóa các dân tộc thiểu số với báo chí các tỉnh trong vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, để làm
tốt được công tác này, bên cạnh những cố gắng trong việc nâng cao chất lượng tin, bài,
hình thức nội dung tuyên truyền, nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa dân tộc, trình độ
nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên thì việc quan tâm
đầu tư về vật chất và tinh thần từ Trung ương, Tỉnh ủy Sơn La vẫn là một vấn đề quan
trọng.
3.2.5.3. Đối với Tạp chí văn nghệ Suối Reo. Việc tuyên truyền giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số trên tạp chí Suối Reo cần phải có kế hoạch cụ thể mang tầm chiến lược
lâu dài. Với thế mạnh là tạp chí hội tụ rất nhiều anh chị em hội viên là những nhà báo,
nhà văn tâm huyết yêu nghề, lại là những người am hiểu về địa phương, văn hóa các dân
tộc, nhiều hội viên là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở mọi vùng văn hóa khác nhau
trên địa bàn tỉnh. Điều đó đặt ra cho lãnh đạo Hội văn học- nghệ thuật, cần có kế hoạch
cụ thể phát động trong hội viên hưởng ứng tham gia viết tuyên truyền về giá trị văn hóa
dân tộc, mảng đề tài này trong những năm qua chưa được tạp chí chú trọng, quan tâm.
sắp xếp lại các chuyên trang, chuyên mục phù hợp để nâng cao hiệu quả tuyên truyền,
phối hợp chặt chẽ với các kênh thông tin, giữa các phương tiện thông tin báo chí, nhằm
thực hiện tốt nghị quyết Trung ương lần thứ 5, khóa VIII của Đảng. Bên cạnh đó, lãnh
đạo tỉnh cũng cần có sự quan tâm hơn nữa về kinh phí, vật chất khuyến khích anh chị em
là hội viên hội văn học nghệ thuật sáng tác, sưu tầm những giá trị văn hóa dân tộc để khai
thác hiệu quả vấn đề này trên tạp chí. Giới thiệu có chọn lọc cái hay, cái đẹp trong bản
sắc văn hóa các dân tộc, đóng góp tiếng nói chung chống lại các lỗi thời trong tập quán,
lề thói lạc hậu hướng nhận thức nhân dân các dân tộc Sơn La đến chân, thiện, mỹ dưới sự
lãnh đạo của Đảng.
KẾT LUẬN
Vấn đề giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống dân tộc thiểu số đã được báo chí
Sơn La đề cập với số lượng lớn, những thông tin trong những tác phẩm báo chí đã có tác
dụng định hướng dư luận xã hội góp phần cụ thể hóa đường lối, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Tuy nhiên, quá trình chuyển tải dung
lượng thông tin này đã nảy sinh một số yêu cầu phải có sự nhìn nhận lại để đánh giá cho
đúng về tình hình thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền trên lĩnh vực giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc vùng Tây Bắc. Đối với vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số, Luận văn
đã cố gắng chỉ ra những khái niệm về văn hóa, từ đó thấy được giá trị của văn hóa các
dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc thiểu số không những phải phát
triển, tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại, đồng thời loại bỏ những gì
không phù hợp. như vậy, quá trình hội nhập của chúng ta mới không bị hòa tan, từ đó
mới có thể khẳng định vị trí, vai trò của mình trên trường quốc tế. Luận văn không chỉ
đưa ra những khái niệm cơ bản về văn hóa mà còn nêu bật được mục đích, ý nghĩa của
việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số thông qua các quan điểm của
Đảng, Nhà nước và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Sơn La về vấn đề này. Trước những vấn
đề đặt ra với việc tuyên truyền bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số đòi hỏi các cấp,
ngành có liên quan và đồng bào các dân tộc phải có sự nhìn nhận và giải pháp cụ thể để
khắc phục tình trạng những nét đẹp văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Bắc đang dần bị mai
một.
Được coi là trung tâm của vùng núi Tây Bắc, lịch sử phát triển của Sơn La đã hình
thành lên nền văn hóa đa dạng, đặc trưng đòi hỏi báo chí Sơn La trong công tác tuyên
truyền phải có những bước đi hợp lý như tăng số lượng, chất lượng các chuyên đề,
chuyên mục.
Chương 2, thực tế khảo sát cho thấy, Báo chí Sơn La có vai trò to lớn trong việc
tuyên truyền phổ biến và nâng cao nhận thức về việc gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống các dân tộc thiểu số. Đó là một cách thức xã hội hóa hoạt động giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc nhưng hiệu quả tuyên truyền không chỉ phụ thuộc vào nội dung mà
còn phụ thuộc vào hình thức chuyển tải. Một nội dung phong phú, đa dạng được đề cập
mới chỉ là một nửa của ưu điểm, những nội dung ấy nếu không tìm được những phương
pháp thích hợp để đi sâu vào nhận thức, tình cảm của người dân thì sẽ không thể tác động
tới hành vi của người tiếp nhận. Đối với nhiệm vụ tuyên truyền về giá trị bản sắc văn hóa
dân tộc, báo chí Sơn La đã đề cập một cách tương đối toàn diện đến lĩnh vực giữ gìn bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số: Di tích, danh lam thắng cảnh, lễ hội văn hóa văn nghệ
dân gian…Báo chí Sơn La cũng đã cố gắng sử dụng nhiều thể loại, hình thức trong nội
dung tuyên truyền để chuyển tải hết sức linh hoạt, mềm mại nội dung về giá trị văn hóa
các dân tộc thiểu số đến công chúng giúp cho công chúng tiếp nhận dễ dàng. Tuy nhiên,
vẫn có những hạn chế nhất định về cả nội dung và hình thức thể hiện đã làm giảm đáng
kể hiệu quả của công tác tuyên truyền. Việc nghiên cứu các bài viết cụ thể chỉ ra rằng,
phóng viên của các báo mới chỉ tập trung vào một số đề tài cơ bản tuyên truyền theo thời
sự mà bỏ qua rất nhiều mảng, nhiều khía cạnh. Chất lượng một số tác phẩm chưa cao,
nên không để lại dấu ấn nào trong lòng công chúng. Các bài viết mới chỉ dừng lại ở việc
mô tả, phản ánh đơn thuần, mà chưa đạt tới khả năng khái quát tổng hợp thành những mô
hình thông tin có hiệu quả lâu dài và mạnh mẽ với công chúng. Các tác động hời hợt ấy
không đủ sức lay động, không thể làm thay đổi thái độ dẫn tới thay đổi hành vi của họ.
Trong chương 3 của luận văn, tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tuyên truyền về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số trên báo chí
Sơn La, cụ thể là cần tăng cường công tác quản lý, lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La
nhằm có sự phối hợp chặt chẽ với báo chí với các cơ quan chức năng nâng cao nhận thức
cho cán bộ báo chí về giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, tăng cường đầu tư hơn nữa cho
hoạt động tuyên truyền, cụ thể tăng số lượng, thời lượng từ đó xây dựng các chuyên đề,
chuyên mục trên các loại hình báo chí. Lãnh đạo các cơ quan báo chí Sơn La cần phải sắp
xếp lại đội ngũ phóng viên, biên tập viên có chuyên môn, hiểu biết sâu về văn hóa, cần
phải tăng cường đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ phóng viên để họ có thể nắm bắt
được chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với vấn đề giữ gìn, phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, cần tăng cường kinh phí cho việc thực hiện các
chương trình về văn hóa các dân tộc.
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu khảo sát về vấn đề tuyên truyền việc giữ gìn,
phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số, tác giả luận văn thấy rằng, các phương tiện
thông tin đại chúng nói chung, báo chí Sơn La nói riêng khi tuyên truyền về vấn đề này
cần có sự hỗ trợ, phối hợp với các cơ quan hoạt động trong các lĩnh vực khác để tạo ra
một sức mạnh có tính tổng hợp. Có như vậy, vấn đề giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc thiểu số mới đạt hiệu quả cao.
tài liệu tham khảo
1. Đinh Văn Ân (sưu tầm và dịch) (2005), Mo kể chuyện đẻ đất, đẻ nước, Nxb Văn hóa
dân tộc, Hà Nội.
2. Ban Tuyên giáo Trung ương (1999), Tăng cường lãnh đạo, quản lý tạo điều kiện để
báo chí nước ta phát triển mạnh mẽ, vững chắc trong thời gian tới, Nxb Lý
luận - chính trị, Hà Nội.
3. Bác Hồ với đồng bào dân tộc (2006), Nxb Thông tấn, Hà Nội.
4. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (2002), Trang phục các tộc người thiểu số
nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày - Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
5. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam (2003), Trang phục các tộc người thiểu số
nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày - Thái.
6. Báo Khoa học và Đời sống (2008), Báo cáo thực hiện nội dung công tác xuất bản
chuyên đề Nông thôn - Dân tộc thiểu số và miền núi.
7. Báo Lao động và Xã hội (2008), Báo cáo số 49/BC-LĐXH về kết quả thực hiện
Quyết định 975/TTg.
8. Báo Nông nghiệp Việt Nam (2008), Báo cáo số 253/NNVN-BC về kết quả thực hiện
Chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi theo Quyết định 975/TTg năm 2008.
9. Báo Nông thôn ngày nay (2008), Báo cáo số 91/BC-NTNN về Đánh giá kết quả thực
hiện Quyết định 975/TTg.
10. Báo Sức khoẻ và Đời sống (2008), Báo cáo số 63/BC-SKĐS về tình hình hoạt động
của chuyên đề Dân tộc thiểu số và miền núi.
11. Báo Thiếu niên Tiền Phong (2008), Báo cáo số 315 CV/TNTP về việc báo cáo kết
quả thực hiện Quyết định 975/TTg.
12. GS.TS, Trần Văn Bính (chủ biên) (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc thực trạng
và những vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Bộ Giáo dục – Đào tạo (2005), Giỏo trỡnh tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
14. Bộ Thông tin và Truyền thông (2007), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành luật báo
chí; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí.
15. Bộ Văn hóa - Thông tin (2002), Tăng cường và đổi mới công tác thông tin phục vụ
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Công ty in và văn hóa phẩm, Hà
Nội.
16. Bộ Văn hóa - Thông tin (2003), Văn bản của Đảng và Nhà nước về công tác văn
hóa - thông tin vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Nxb Công ty in và văn hóa
phẩm, Hà Nội.
17. Bộ Văn hóa - Thông tin (2004), Tiếp tục đẩy mạnh công tác văn hóa - thông tin ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Kỷ yếu Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ
thị 39/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
18. Bộ Văn hoá Thông tin (2004), Kỷ yếu báo Đảng địa phương, góp phần tuyên truyền
và tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương V khóa VIII về
"xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”.
19. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Báo cáo đánh giá về sự chỉ đạo, quản lý của các cơ
quan chủ quản báo chí.
20. Nông Quốc Chấn (1993), Dân tộc và văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
21. Nông Quốc Chấn, Hoàng Tuấn Cư, Vi Hồng Nhân (1996), Giữ gìn và bảo vệ bản
sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
22. Nông Quốc Chấn (chủ biên), Phan Đăng Nhật, Lâm Tiến, Dương Thuấn (1997),
Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
23. Bùi Chỉ (2000), Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, Nxb Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
24. TS. Hoàng Đình Cúc, TS. Đức Dũng (2007), Những vấn đề của báo chí hiện đại,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
25. Hoàng Sơn Cường (1998), Lược sử văn hóa ở Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
26. Phan Hữu Dật (2004), Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
27. Đức Dũng (2003), Lý luận báo Phát thanh, Nxb Văn hóa - Thông tin.
28. PGS.TS Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
29. TS. Nguyễn Văn Dững (chủ biên) (2001), Báo chí những điểm nhìn thực tiễn, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
30. Đảng bộ tỉnh Sơn La (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu tỉnh Sơn La lần thứ XII, Sơn
La.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung
ương khóa X.
33. TS. Đinh Thị Thúy Hằng (2007), Truyền hình trong xã hội hiện đại, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
34. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền (2001),
Cơ sở lý luận báo chí, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
35. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa (2005),
Giáo trình lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Lý luận chính
trị, Hà Nội.
36. Vũ Đình Hòe (chủ biên) (2000), Truyền thông đại chúng trong công tác lãnh đạo
quản lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Sơn La (2008), Văn kiện Đại hội Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Sơn La nhiệm kỳ V (2008 - 2013).
38. Kỷ yếu báo chí năm 1989.
39. Nguyễn Thu Liên (1997), Vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong các chương
trình phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ báo chí, Phân viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
40. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hóa tộc người, văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
41. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
42. TS. Lê Thị Nhã (chủ biên) (2006), Lao động nhà báo (giáo trình lưu hành nội bộ),
Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
43. Nhiều tác giả (2001), Giữ gìn phát huy di sản văn hóa các dân tộc Tây Bắc, Nxb
Văn hóa dân tộc, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
44. Nhiều tác giả (2005), Người Mông ở Việt Nam, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
45. Nhiều tác giả (2007), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam,
Nxb Viện Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
46. Nguyễn Tri Niên (chủ biên) (2003), Ngôn ngữ báo chí, Nxb Đồng Nai.
47. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Khoa Tuyên truyền (2004), Quản lý hoạt động
tư tưởng - văn hóa.
48. Đỗ Thanh Phúc (2005), Vấn đề bảo tồn bản sắc các dân tộc thiểu số trên sóng
truyền hình của Đài Phát thanh - truyền hình Hòa Bình, Luận văn Thạc sĩ
truyền thông đại chúng, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật báo chí năm 1999.
50. Trịnh Liên Hà Quyên (2006), Báo Văn hóa với vấn đề bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sĩ báo chí, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
51. PGS. Nguyễn Huy Quý, Lê Tư Vinh, Nguyễn Đăng Thành, Bùi Phương Dung
(1993), Bàn về vấn đề chống diễn biến hòa bình, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
52. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Sơn La (2000), Văn hóa thông tin Sơn La ở ngưỡng cửa
chuyển giao thế kỷ.
53. PTS. Thào Xuân Sùng (2008), Đảng bộ và nhân dân các tỉnh Tây Bắc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
54. Tạp chí Dân tộc (2008), Báo cáo số 37/TCDT về kết quả thực hiện xuất bản và phát
hành.
55. Tạp chí Uỷ ban Dân tộc (2008), Báo cáo số 932/UBDT-TT về việc thông báo đối
tượng, cấp báo, tạp chí thực hiện theo Quyết định 975/TTg.
56. Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Cao Ngọc Thắng (2000), Hồ Chí Minh - Nhà báo cách mạng, Nxb Thanh niên, Hà
Nội.
58. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm hiểu về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh.
59. Nguyễn Vũ Tiến (2005), Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trong thời kỳ
đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
60. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La (2005), Sơn La đất nước con
người và tiềm năng, Nxb Văn hóa - Thông tấn, Hà Nội.
61. GS.TS Đỗ Hoàng Toàn, TS. Phan Kim Chiến (2000), Giáo trình quản lý xã hội,
Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
62. Trang báo điện tử: Diễn đàn nghiệp vụ báo chí Việt Nam.
63. Trần Thị Trâm (chủ biên) (2008), Phát huy những thế mạnh của văn học trong sáng
tạo tác phẩm báo chí, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
64. Nguyễn Xuyên An Việt (2001), Thông tin về miền núi và dân tộc trên sóng VTV1 -
Đài Truyền hình Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Khoa học xã hội và nhân văn,
chuyên ngành Báo chí, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội.
65. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa các dân
tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học, Hà
Nội.
67. Trần Ngọc Vượng (chủ biên) (2003), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
Mục lục
68.
Trang
1 Mở đầu
Chương 1: những lý luận chung về vấn đề tuyên truyền giá trị văn hoá
9 truyền thống các dân tộc thiểu số tây bắc
1.1. Một số khái niệm 9
1.2. Tây Bắc - Một vùng đất giàu giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc
thiểu số 14
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong chiến lược phát triển Tây
Bắc 23
1.4. Vai trò của báo chí trong việc tuyên truyền những giá trị văn hoá các
dân tộc thiểu số Tây Bắc 30
Chương 2: khảo sát báo chí sơn la trong việc tuyên truyền giá trị văn hóa
35 truyền thống của các dân tộc thiểu số vùng tây bắc
2.1. Khảo sát báo chí Sơn La 35
2.2. Kết quả khảo sát về số lượng 45
2.3. Nội dung tuyên truyền 50
2.4. Kết quả khảo sát về hình thức tuyên truyền 68
2.5. Những hạn chế trong tuyên truyền giá trị truyền thống văn hoá các
dân tộc thiểu số 78
Chương 3: kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tuyên
truyền giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc thiểu
80 số
3.1. Đối với công tác quản lý, lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Sơn La 80
3.2. Tăng cường đầu tư cho các hoạt động tuyên truyền bản sắc văn hoá
truyền thống dân tộc thiểu số 85
101 kết luận
104 tài liệu tham khảo
phụ lục
69.
70. Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Khảo sát số lượng tin bài trên sóng phát thanh (2008-2009) 45
Bảng 2.2: Khảo sát số lượng tin bài trên sóng truyền hình (2008-2009) 46
Bảng 2.3: Khảo sát số lượng tin bài trên Báo Sơn La (2008-2009) 46
Bảng 3.1: Theo quý vị báo chí Sơn La có cần phải mở những chuyên trang,
chuyên mục định kỳ dành cho vấn đề tuyên truyền những giá trị văn 85
hoá truyền thống của các dân tộc thiểu số không?
Bảng 3.2: Theo quý vị báo chí Sơn La có cần mở thêm các chương trình, 86 chuyên mục sử dụng chữ viết và tiếng dân tộc không?
Bảng 3.3: Để nâng cao chất lượng nội dung và hiệu quả thông tin của công
chúng về vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số báo chí 87
Sơn La có cần tăng số lượng các bài viết không?
Bảng 3.4: Vấn đề tuyên truyền những giá trị văn hoá truyền thống trên báo 88 chí Sơn La được thể hiện như thế nào?
Bảng 3.5: Theo quý vị báo chí Sơn La có cần phải xây dựng các chuyên
mục, chuyên trang định kỳ dành cho vấn đề tuyên truyền giá trị 89
văn hoá dân tộc trên báo chí không?
Bảng 3.6: Vấn đề tuyên truyền giá trị văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu 91 số được thể hiện trên các loại hình báo chí như thế nào?
Bảng 3.7: Quý vị cho rằng các loại hình báo chí Sơn La có cần phải quan
tâm hơn nữa vấn đề tuyên truyền giá trị văn hoá truyền thống các 92
dân tộc thiểu số không?
Bảng 3.8: Quý vị nhận xét nội dung và hình thức tuyên truyền về vấn đề giữ
gìn giá trị bản sắc văn hoá các dân tộc thiểu số trên các loại hình 92
báo chí ở Sơn La?
Bảng 3.9: Phóng viên có cần phải đi nâng cao kiến thức và tìm hiểu sâu về giá 95 trị truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số không?
71.