YOMEDIA
ADSENSE
Bảo tồn lối sống nông nghiệp truyền thống và phát triển du lịch nông nghiệp ở làng Trà Quế (Hội An, Quảng Nam)
12
lượt xem 6
download
lượt xem 6
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Nghiên cứu này tập trung vào các đặc điểm và hoạt động của “lối sống nông nghiệp” vẫn hiện được bảo tồn khá nguyên vẹn trong cộng đồng cư dân làng Trà Quế (Hội An, Quảng Nam). Từ đó, nghiên cứu bước đầu đánh giá mức độ phát triển “du lịch nông nghiệp”, xác định mức độ tham gia của khách du lịch và mức độ hài lòng của họ đối với nông nghiệp truyền thống ở làng rau này.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Bảo tồn lối sống nông nghiệp truyền thống và phát triển du lịch nông nghiệp ở làng Trà Quế (Hội An, Quảng Nam)
- BẢO TỒN LỐI SỐNG NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH NÔNG NGHIỆP Ở LÀNG RAU TRÀ QUẾ (HỘI AN, QUẢNG NAM) Hà Văn Trung1, Nguyễn Thị Vĩnh Linh2 Tóm tắt: Nghiên cứu này tập trung vào các đặc điểm và hoạt động của “lối sống nông nghiệp” vẫn hiện được bảo tồn khá nguyên vẹn trong cộng đồng cư dân làng Trà Quế (Hội An, Quảng Nam). Từ đó, nghiên cứu bước đầu đánh giá mức độ phát triển “du lịch nông nghiệp”, xác định mức độ tham gia của khách du lịch và mức độ hài lòng của họ đối với nông nghiệp truyền thống ở làng rau này. Phương pháp chính được chúng tôi sử dụng trong nghiên cứu là phương pháp điền dã, phỏng vấn, khảo sát và xử lý số liệu. Bảng khảo sát được thực hiện trên 71 hộ gia đình và 100 khách du lịch tại làng rau Trà Quế (Hội An, Quảng Nam). Sau đó, tác giả đã tiến hành phỏng vấn sâu 20 hộ gia đình và 03 nhóm khách du lịch để xác thực dữ liệu. Kết quả cho thấy sự đa dạng và đặc điểm riêng biệt của lối sống nông dân Trà Quế đã ảnh hưởng đáng kể đến sự tham gia và sự hài lòng của khách du lịch. Vì thế, chính quyền và người dân địa phương nên quan tâm nhiều hơn đến việc bảo tồn và phát huy hơn nữa phương thức nông nghiệp truyền thống - yếu tố quan trọng đối với tiềm năng tăng trưởng du lịch nông nghiệp bền vững ở làng rau Trà Quế trong tương lai. Từ khoá: du lịch nông nghiệp, lối sống nông nghiệp, Trà Quế. 1. Mở đầu Du lịch nông nghiệp hiện đang là xu hướng phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng này không chỉ mang lại lợi ích về mặt kinh tế (đặc biệt là cho khu vực nông thôn) mà còn góp phần giữ gìn tốt môi trường sinh thái. Làng rau Trà Quế (Hội An) với lịch sử phát triển lâu đời, là một trong những điểm du lịch nông nghiệp tiêu biểu của tỉnh Quảng Nam. Tuy nhiên, dù có khá nhiều tiềm năng để khai thác du lịch nông nghiệp nhưng hiện tại phần lớn các chương trình ở Trà Quế chỉ dừng lại ở việc thiết lập các chương trình tham quan, quan sát các công đoạn sản xuất rau đơn thuần. Vì vậy, thông qua nghiên cứu này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích đặc trưng và cách thức bảo tồn lối sống nông nghiệp ở làng Trà Quế cũng như đánh giá mức độ khai thác du lịch nông nghiệp ở làng rau này. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sẽ đưa ra kết luận bước đầu về việc: Lối sống nông nghiệp truyền thống nên được bảo tồn và phát huy như thế nào để thu hút du khách đến với loại hình du lịch nông nghiệp ở Trà Quế trong thời gian tới. Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu đề ra, chúng tôi chủ yếu áp dụng phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính để thu thập dữ liệu sơ cấp, dữ liệu thứ cấp và quan sát trực tiếp. Thông tin định tính hỗ trợ cho dữ liệu định lượng được thu thập bằng 1. Thạc sĩ, Đại học Vũ Hán (Trung Quốc) 2. Tiến sĩ, Trường Đại học Quảng Nam 111
- BẢO TỒN LỐI SỐNG NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN... bảng câu hỏi, trong khi dữ liệu định tính được thu thập bằng các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc (SSI) và quan sát. 2. Nội dung 2.1. Bảo tồn lối sống nông nghiệp truyền thống ở làng Trà Quế (Hội An, Quảng Nam) Là một làng rau nổi tiếng ở Hội An, đến nay, người Trà Quế vẫn lưu giữ các tri thức truyền thống liên quan đến hoạt động canh tác nông nghiệp. Về phân bón, người Trà Quế chủ yếu sử dụng phân hữu cơ được làm từ phân của động vật (trâu, bò, lợn, gà, v.v.). Họ dùng rơm, rạ, cỏ khô, lá cây, bỏ vào chuồng gia súc (chuồng lợn, chuồng bò), lâu ngày để gia súc giẫm đạp. Sau đó, họ trộn chúng với bột vôi, ủ càng lâu càng tốt. Ngoài ra, bánh dầu lạc (phần còn lại của hạt lạc sau khi khai thác dầu) cũng được dùng làm phân hữu cơ quý cho cây trồng. Bên cạnh đó, dân làng còn tận dụng lượng tảo và rong dồi dào từ sông Cổ Cò như một loại phân hữu cơ để giúp tăng chất dinh dưỡng và mùi thơm cho rau, giảm sâu bệnh, giữ độ phì nhiêu của đất... Để thích ứng với hạn hán và lũ lụt, người dân địa phương đã học cách đắp rãnh thủy lợi, làm bàn đạp nước để bơm nước lên vùng thượng nguồn. Đáng chú ý, địa phương đã xây dựng hệ thống ao chứa nước ngầm và nước mưa để giải quyết tình trạng thiếu nước vào mùa khô. Công cụ sản xuất nông nghiệp của người Trà Quế cũng khá đa dạng gồm: Công cụ làm đất như trâu, bò kéo cày; trâu, bò kéo bừa, cào, cuốc, ...; Dụng cụ cắt và, dụng cụ thu hoạch: liềm cầm tay, cưa liềm cầm tay; móc gặt v.v ...; Dụng cụ tưới nước: bình tưới tre, vòi tưới, thùng nước, v.v ...; và một số nông cụ khác như: nông cụ nĩa dài, nĩa cầm tay, rổ tre, xe cút kít, v.v. Dụng cụ làm rau hầu hết do nông dân địa phương sản xuất vì đặc thù riêng và rất khó tìm mua ở chợ. Có khoảng 20 công cụ trồng rau khác nhau và được phân thành 4 nhóm: Nhóm công cụ xới đất: cuốc, cào, rựa, liềm cầm tay v.v ...; Nhóm công cụ gieo trồng: cuốc chĩa, gióng, rổ tuyến, đón gánh, rổ dày, thau; Nhóm công cụ chăm bón: đôi gàu nan, đôi gàu xoa, đòn gánh, cặp bàu, mê rảy/mê tưới, gáo, rê, cường cỏ/bồ cào, liềm, cào mâu, cản rong, ghe nan, ghe săn; Nhóm công cụ thu hoạch: dao xếp, dao nhọn, rổ, gióng, đòn gánh, nia. [8; tr.230- 231] Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, trong khi các nông cụ như: rỗ, giỏ, đòn gánh, cuốc, gàu xoa, cào mâu, nia, cào cào, rựa, liềm, sàng vẫn đang được sử dụng thì gàu nan, đôi bàu, gáo dừa, mê rảy (mê tưới), rổ xổ, ghe nan hiện tại đã không còn. Điểm đặc biệt của sản xuất rau ở làng Trà Quế là sử dụng phương pháp sản xuất rau hữu cơ kết hợp giữa thực hành truyền thống và hiện đại (hệ thống tưới nước tự động); việc sử dụng phân bón hữu cơ (cỏ sông, phân cỏ), không chứa các chất hóa học; và hương 112
- HÀ VĂN TRUNG - NGUYỄN THỊ VĨNH LINH vị rau có đặc trưng riêng. Có 5 vị được dùng để nấu: chua (bạc hà cá), cay (húng thái, húng chanh, rau răm), đắng (rau kinh giới hoặc rau đắng), chát (chuối xanh), ngọt dịu (đậu). Bên cạnh đó, một số loại rau Trà Quế cũng được sử dụng như một phương thuốc chữa bệnh truyền thống như: sả, tỏi, hẹ, hành, nén, rau tần, rau húng, ngò, diếp cá, rau má, rau đắng, …. Lối sống canh tác nông nghiệp đã góp phần hình thành cho cư dân nơi đây những phong tục, tín ngưỡng, tập quán đặc thù. Ví dụ, họ thường chọn thân tre có đủ 6 lóng và 7 nút để làm “đòn gánh” vì điều đó được tin là mang lại nhiều may mắn; họ không bao giờ sử dụng từ "cắt rau" vì nó đồng nghĩa với từ bỏ, dừng lại, từ bỏ, bỏ việc. Khi phụ nữ xách hàng đi chợ, họ ước mình gặp được người may mắn (nhẹ vía) để bán hết hàng nhanh chóng; hoặc khi người dân đến thăm vườn của họ thì không nên khen rau tốt hay đẹp. Ngoài ra, vào mỗi dịp Tết cổ truyền (Tết Nguyên đán), mỗi gia đình ở Trà Quế đều làm lễ cúng vườn rau hoặc ruộng rau của mình để cầu mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với gia đình và công việc như mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, thu nhập khá, ... Bên cạnh đó, lễ cúng lớn đã được tổ chức tại đình làng mỗi năm hai lần để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống bình yên. Trà Quế còn là nơi lưu giữ những di tích lịch sử - văn hóa lâu đời. Mộ cổ Nguyễn Văn Điển, giếng nước cổ Chămpa, đình làng, miếu thờ... là những minh chứng cho quá trình phát triển hàng trăm năm qua của làng. Hiện nay một số di tích đã và đang được khai thác trong các tour, đó là giếng nước cổ Chămpa - một trong những giếng cổ có tuổi đời hàng ngàn năm còn sót lại trên mảnh đất miền Trung; mộ ông Nguyễn Văn Điển - là minh chứng cho sự phát triển của một thế hệ dân cư Trà Quế hoặc miếu Ngũ Hành - Thổ thần, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa tín ngưỡng rất riêng của vùng đất Hội An. Trà Quế bảo tồn, duy trì rất tốt văn hóa truyền thống địa phương và đời sống tinh thần phong phú của cư dân trong làng. Ngoài việc thờ cúng gia tiên, dân làng còn thờ cúng ruộng vườn, thờ các vị thần có ảnh hưởng đến đời sống của cư dân ở nhiều ngôi đền miếu trong làng. Những ngôi đền miếu cổ kính mà hiện tại du khách có thể đến thăm hiện nay là đền thờ công chúa Ngọc, nhà thờ dòng họ Nguyễn Văn, miếu Ngũ Hành, đình làng và đền thờ Thổ thần... Trong đó, miếu Ngũ Hành, đền thờ Thổ thần và đình làng Trà Quế là những di tích quan trọng trong tín ngưỡng thờ các vị thần nông nghiệp và những bậc hiền nhân khai sáng mảnh đất này. Lễ hội Cầu Bông là một trong những lễ hội nông nghiệp quan trọng nhất của làng Trà Quế, thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương tham dự. Lễ hội được tổ chức hằng năm vào ngày mồng 7 tháng Giêng âm lịch, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no, bình yên, hạnh phúc. Các lễ hội và phong tục thờ cúng liên quan đến các vị thần này minh chứng cho một đời sống tín ngưỡng giàu bản sắc văn hóa của cư dân làm nông nghiệp. Chính lối sống nông nghiệp đặc thù được bảo tồn trong cộng đồng cư dân làng đã tạo nên cho Trà Quế nhiều thuận lợi để tiếp tục phát triển loại hình du lịch nông nghiệp. 113
- BẢO TỒN LỐI SỐNG NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN... 2.2. Phát triển du lịch nông nghiệp ở làng rau Trà Quế Hiện nay, khái niệm du lịch nông nghiệp được đề cập trên nhiều phương diện với nhiều cách hiểu khác nhau: Barbieri và Mshenga (2008) xác định rằng du lịch nông nghiệp là bất kỳ hoạt động nào nhằm thu hút khách du lịch được phát triển tại trang trại với mục đích rõ ràng; Maruti (2009) định nghĩa rằng du lịch nông nghiệp là một hoạt động liên quan đến nông nghiệp từ cả hai phía du lịch và nông nghiệp có thể tạo cơ hội việc làm và tạo nguồn thu nhập bổ sung cho người dân trong cộng đồng; Marques (2006) thì cho rằng du lịch nông nghiệp có thể là một phần của du lịch nông thôn trong đó các hộ gia đình địa phương phải kết hợp với một khu đất nông nghiệp, cho phép du khách tham gia vào các hoạt động nông nghiệp trên trang trại của họ. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam, du lịch nông nghiệp có thể được định nghĩa là một hoạt động du lịch liên quan đến các hoạt động sản xuất nông nghiệp tại địa phương như hoạt động trồng trọt, thu hoạch cây trồng và chăn nuôi. Đặc biệt, người dân địa phương khai thác các hoạt động sản xuất nông nghiệp sẵn có, kết hợp với các dịch vụ khác như lưu trú, ăn uống, dịch vụ vận chuyển... nhằm khai thác các giá trị văn hóa, thiên nhiên đặc sắc của cộng đồng nông thôn phục vụ nhu cầu tham quan, trải nghiệm của du khách. Sự hiểu biết này gần gũi với ThS. Nhận thức của Bùi Thị Lan Hương về khái niệm du lịch nông nghiệp (2010). Theo đó, “du lịch nông nghiệp là loại hình du lịch đơn lẻ dựa trên việc khai thác tài nguyên sản xuất nông nghiệp, đối tượng tham gia du lịch là nông dân, không gian du lịch là trang trại trên đồng ruộng, có thể gây xung đột lợi ích với cộng đồng” [6]. Trên cơ sở những khái niệm về du lịch nông nghiệp ở trên, để tìm hiểu về thực trạng phát triển du lịch nông nghiệp tại làng rau Trà Quế (Hội An), chúng tôi đã tiến hành khảo sát hai đối tượng: dân làng Trà Quế và du khách đến làng rau Trà Quế. Cụ thể như sau: Về khảo sát người dân địa phương, theo báo cáo của UBND xã Cẩm Hà, tổng dân số của thôn Trà Quế là 273 hộ nhưng chỉ có 202 hộ làm nông nghiệp với 374 lao động. Đối tượng khảo sát của chúng tôi là tất cả 202 hộ gia đình tham gia hoạt động du lịch nông nghiệp. Chúng tôi đã sử dụng phương pháp định lượng bằng công thức Taro Yamane (N > 200). Về mặt lý thuyết, cỡ mẫu được tính toán xấp xỉ bằng 67 người Việt, dưới dạng công thức = 67 (trong đó, n: kích cỡ mẫu, N: Số lượng cư dân, e: Mức độ chính xác). Nhưng kích cỡ mẫu thực tế để nghiên cứu phải là 73 + 73 x 10% = 74 hộ, đã cộng thêm 10% cỡ mẫu (Do cần loại trừ trường hợp không liên hệ được với hộ, người được phỏng vấn hoặc một số người không trả lời câu hỏi). Trên thực tế có 71 hộ gia đình địa phương tham gia nghiên cứu. 114
- HÀ VĂN TRUNG - NGUYỄN THỊ VĨNH LINH Bảng 1. Đặc điểm lao động trong du lịch nông nghiệp ở làng rau Trà Quế Đặc điểm đối tượng được phỏng vấn Số lượng Phần trăm Số lao động/hộ gia đình làm 1 11 15.5 nông nghiệp 2 44 62.0 3 10 14.1 4 3 4.2 5 1 1.4 6 2 2.8 Tổng cộng 71 100.0 Số lượng lao động nông nghiệp 1 - 2 lao động 55 77.5 theo nhóm 3 - 4 lao động 13 18.3 3 - 6 lao động 3 4.2 Tổng cộng 71 100.0 Thu nhập từ du lịch nông 0% 42 59.2 nghiệp < 10% 3 4.2 10 - 20% 7 9.9 21 - 30% 6 8.5 31 - 40% 8 11.3 > 50% 5 7.0 Tổng cộng 71 100.0 (Nguồn: Tư liệu điền dã tại làng Trà Quế (7/2020)) Theo kết quả khảo sát, số lao động tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp dao động từ 1 đến 5 lao động/hộ. Thấp nhất là một lao động, tối đa là 6 lao động. Có 44 trường hợp trả lời mỗi hộ có hai lao động, chiếm 62% tổng số hộ được khảo sát. Một lao động và ba lao động/hộ tương ứng là 15,5% và 14,1%. Chỉ có 2 gia đình có 6 lao động, đều làm nông nghiệp, chiếm 2,8%. Hơn 3/4 dân số khảo sát thuộc nhóm từ 1 đến 2 lao động (77,5%). Tuy nhiên, tỉ lệ người được hỏi không có thu nhập từ du lịch nông nghiệp vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất, ở mức 59,2%. Điều đó có nghĩa là phần lớn thu nhập của các hộ gia đình là từ trồng rau và các loại cây trồng khác hơn là tham gia vào du lịch. Chỉ 2/5 số người được hỏi có thu nhập phi nông nghiệp (29 hộ) và thu nhập của họ đóng góp từ 10% đến 40% thu nhập của gia đình (21 hộ). Chỉ có 5 gia đình có thu nhập cao từ kinh doanh du lịch cộng vào 50% trên tổng thu nhập của gia đình (7%) và 3 gia đình có thu nhập từ du lịch dưới 10% tổng thu nhập gia đình (4,2%) 115
- BẢO TỒN LỐI SỐNG NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN... Về khảo sát số liệu khách du lịch, theo số liệu của Cục Thống kê Hội An (SOHA) năm 2019, lượng du khách Việt Nam đến thăm làng rau Trà Quế là 850 du khách. Áp dụng công thức Taro Yamane (N>200), về mặt lý thuyết, cỡ mẫu được tính toán xấp xỉ bằng 89 du khách Việt Nam theo công thức = = 89 (n: cỡ mẫu, N: số lượng mẫu, e: mức độ chính xác). Tuy nhiên, khi cộng thêm 10% quy mô mẫu vào thì quy mô thực tế lên tới 98 khách du lịch. Nhưng trên thực tế, có tới 100 du khách Việt Nam tham gia khảo sát. Những người được hỏi sẽ được lựa chọn dựa trên hai tiêu chí: thứ nhất là họ đã từng trải nghiệm tất cả các dịch vụ du lịch nông nghiệp tại Trà Quế; và thứ hai là khách du lịch đến thăm làng từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 7 năm 2020. Kết quả như sau: Thứ nhất, mức độ tham gia của khách du lịch vào các hoạt động du lịch nông nghiệp tại làng rau Trà Quế được biểu hiện trong bảng 2. Bảng 2. Mức độ tham gia của du khách vào các hoạt động du lịch nông nghiệp ở Trà Quế Mức độ Không tham Tham gia một Tham gia hoàn tham gia gia phần toàn Tổng số (1) (2) (3) Phản hồi Phản hồi Phản hồi Số Số người Số Phần Số Phần Số Phần người không trả lượng trăm lượng trăm lượng trăm đồng ý lời Hoạt động trả lời Trồng rau 19 9.4% 48 18.3% 27 9.0% 94 6 Dệt chiếu 24 11.8% 26 9.9% 24 8.0% 74 26 Nấu rượu 28 13.8% 20 7.6% 26 8.7% 74 26 Làm bánh 14 6.9% 28 10.6% 36 12.0% 78 22 tráng/bánh đa nem Cấy/gặt lúa 28 13.8% 22 8.4% 26 8.7% 76 24 Đan lát 25 12.3% 20 7.6% 27 9.0% 72 28 Nấu ăn 15 7.4% 26 9.9% 42 14.0% 83 17 Tour đạp xe 14 6.9% 26 9.9% 48 16.1% 88 12 quanh làng Trà Quế Cưỡi trâu 23 11.3% 27 10.3% 31 10.4% 81 19 116
- HÀ VĂN TRUNG - NGUYỄN THỊ VĨNH LINH Những hoạt 13 6.4% 20 7.6% 12 4.0% 45 55 động khác Tổng cộng 203 100.0% 263 100.0% 299 100.0% (Nguồn: Tư liệu điền dã tại làng Trà Quế (7/2020)) Từ bảng số liệu thống kê trên có thể nhận thấy, Trà Quế có khá nhiều hoạt động du lịch nông nghiệp tạo điều kiện cho du khách tham gia trải nghiệm. Tuy nhiên, vẫn có một số hoạt động gặp khá nhiều khó khăn trong việc tiếp cận được với khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài (nấu rượu, cấy/gặt lúa). Hầu hết toàn bộ số người được hỏi (48/94 câu trả lời) đã từng tham gia trải nghiệm một phần hoạt động trồng rau, làm bún/bánh đa nem, cưỡi trâu, học nấu ăn, đạp xe quanh làng, v.v. Về phương diện tham gia toàn thời gian, lớp học nấu ăn (42/83 câu trả lời) và đi xe đạp vòng quanh làng Trà Quế (48/88 câu trả lời) là những hoạt động mà khách du lịch muốn tham gia toàn thời gian nhất, sau đó làm bún/bánh tráng và cưỡi trâu nước. Bên cạnh đó, có nhiều hoạt động vẫn chưa thu hút được sự quan tâm của du khách như dệt chiếu, nấu rượu gạo, cấy/gặt lúa, đan các vật dụng từ tre, nứa. Đó là những hoạt động không phổ biến vì chỉ được tổ chức trong một thời kỳ nhất định (chẳng hạn như cấy lúa) hoặc chỉ ở một số hộ gia đình cụ thể (rất ít hộ gia đình sản xuất rượu gạo truyền thống bằng tre đan). Thứ hai, chất lượng các dịch vụ du lịch nông nghiệp tại làng Trà Quế được thể hiện trong bảng 3. Bảng 3. Chất lượng dịch vụ du lịch nông nghiệp tại làng Trà Quế (1: Rất tệ, 2: Tệ, 3: Bình thường, 4: Tốt, 5: Rất tốt) Sự đánh 1 2 3 4 5 Số người Tổng cộng giá không trả lời Đơn vị SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL % Dịch vụ 0 0% 0 0% 32 32% 39 39% 26 26% 3 3% 100 100% (HDV, …) Hoạt động 0 0% 0 0% 18 18% 52 52% 27 27% 3 3% 100 100% nông nghiệp Cơ sở vật 0 0% 1 1% 32 32% 43 43% 21 21% 3 3% 100 100% chất Giao 0 0% 1 1% 20 20% 48 48% 27 27% 4 4% 100 100% tiếp và kĩ năng ngôn ngữ 117
- BẢO TỒN LỐI SỐNG NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN... Thái độ 0 0% 1 1% 15 15% 51 51% 29 29% 4 4% 100 100% và cách cư xử của dân làng Tính 0 0% 2 2% 24 24% 48 48% 22 22% 4 4% 100 100% chuyên môn hoá trong tổ chức (Nguồn: Tư liệu điền dã tại làng Trà Quế (7/2020)) Bảng 3 cho thấy hầu hết du khách đều đồng ý rằng chất lượng sản phẩm và dịch vụ ở Trà Quế là tốt. Đáng chú ý, rất nhiều người được hỏi khẳng định rằng hoạt động nông nghiệp và thái độ của người nông dân đối với khách du lịch là khá tốt. Du khách cũng đánh giá cao về dịch vụ hướng dẫn du lịch và kĩ năng của hướng dẫn viên, thái độ của dân làng và nhân viên phục vụ du lịch nông nghiệp. Tuy nhiên, một số ít du khách cảm thấy chưa được hài lòng lắm về chất lượng cơ sở hạ tầng, kĩ năng giao tiếp và ngôn ngữ của hướng dẫn viên trong việc tổ chức các tour du lịch. Nhìn chung, du lịch nông nghiệp ở Trà Quế được đánh giá cao bởi chất lượng tốt của các hoạt động và dịch vụ mà họ mang đến cho du khách. Người dân và các hoạt động của họ cùng với việc tổ chức tốt các hoạt động trải nghiệm nông nghiệp là những yếu tố góp phần tạo nên chất lượng du lịch nông nghiệp của làng. Thứ ba, mức độ hài lòng của du khách đối với dịch vụ du lịch nông nghiệp tại làng Trà Quế được thể hiện thông qua bảng 4. Bảng 4. Mức độ hài lòng của khách nội địa đối với dịch vụ du lịch nông nghiệp tại làng Trà Quế (1-Rất không hài lòng, 2-Không hài lòng, 3-Bình thường, 4-Hài lòng, 5-Rất hài lòng) Mức độ hài 1 2 3 4 5 lòng Phản hồi Phản hồi Phản hồi Phản hồi Phản hồi Dịch vụ/ Phần Phần Phần Phần Phần hoạt động SL trăm SL trăm SL trăm SL trăm SL trăm Dịch vụ Massage 2 25.0% 1 6.3% 16 14.2% 25 9.2% 5 8.5% Homestay 1 12.5% 1 6.3% 9 8.0% 32 11.8% 8 13.6% Nhà hàng 1 12.5% 1 6.3% 11 9.7% 45 16.6% 8 13.6% Hoạt động nông 2 25.0% 1 6.3% 14 12.4% 37 13.7% 12 20.3% nghiệp/Tour 118
- HÀ VĂN TRUNG - NGUYỄN THỊ VĨNH LINH Dịch vụ HDV 1 12.5% 2 12.5% 22 19.5% 45 16.6% 8 13.6% Dịch vụ hỗ trợ du 1 12.5% 5 31.3% 17 15.0% 46 17.0% 9 15.3% khách Cơ sở vật chất 0 0% 5 31.3% 24 21.2% 41 15.1% 9 15.3% Tổng cộng 8 100% 16 100% 113 100% 271 100% 59 100% Qua bảng số liệu thống kê trên (bảng 4) cho thấy: Trong số những khách du lịch đã từng sử dụng dịch vụ du lịch nông nghiệp tại làng Trà Quế, hầu hết họ đều khá hài lòng với những gì họ được trải nghiệm. Khoảng ½ du khách cho rằng họ khá hài lòng với các hoạt động nông nghiệp, dịch vụ và homestay. Ngoài ra, hơn một nửa trong số du khách cảm thấy rất hài lòng về chất lượng của nhà hàng, hướng dẫn viên du lịch, các dịch vụ hỗ trợ khách du lịch và cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng dịch vụ hướng dẫn viên du lịch và dịch vụ hỗ trợ khách du lịch chưa đáp ứng được sự kỳ vọng của họ. Sử dụng cách T-Test (mẫu ghép đôi) để xác minh sự khác biệt về giá trị trung bình (giá trị trung bình) giữa hai nhóm V1 - Chất lượng hoạt động nông nghiệp (thang điểm từ 1 đến 5) và V2 - Mức độ hài lòng của hoạt động nông nghiệp và tham quan (thang điểm từ 1 đến 5) trong cùng một nhóm tổng số 100 người đã trả lời. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về ý kiến giữa chất lượng hoạt động nông nghiệp và mức độ hài lòng của du khách về hoạt động nông nghiệp và tham quan (p = 0,003> 0,001) ở mức có ý nghĩa 0,001. Do đó, không có sự khác biệt về giá trị trung bình (trung bình) giữa chất lượng của các hoạt động nông nghiệp và mức độ hài lòng của khách du lịch đối với các hoạt động nông nghiệp và các tour du lịch. Theo đó, hầu hết những người được hỏi đều cho rằng chất lượng dịch vụ của các hoạt động trải nghiệm nông nghiệp ở mức khá (trung bình là 4,21) và mức độ hài lòng của họ ở mức trung bình (trung bình là 3,79). Tóm lại, qua khảo sát này, hơn một nửa số người được hỏi (57%) hài lòng với những gì họ đã được trải nhiệm, và trên 17% du khách cảm thấy rất hài lòng. Mặt khác, vẫn còn 1/4 (26%) cho rằng dịch vụ của Trà Quế chưa đáp ứng được yêu cầu của họ. 3. Kết luận Từ trong lịch sử, do sự chi phối của lối sống nông nghiệp nên mọi sinh hoạt hàng ngày của người dân Trà Quế đều gắn với các hoạt động canh tác ruộng vườn. Phần lớn những hoạt động này đều tiến hành thủ công nên ngay từ sáng sớm đến chiều tà, người dân Trà Quế luôn tất bật với những công việc như: tưới nước, phủ râm che mát cho rau, làm cỏ, xới đất, trồng rau, thu hoạch rau. Du khách đến với Trà Quế sẽ không thể nào quên được bầu không khí nhộn nhịp của làng rau vào lúc xế chiều khi các nông hộ cắt rau trên luống và vận chuyển đến địa điểm tiêu thụ tại Hội An hoặc các vùng lân cận. Do đặc trưng của hoạt động canh tác nông nghiệp, người dân Trà Quế duy trì lối sống với tính cộng đồng rất cao. Vì thế, trong ứng xử, giao tiếp hàng ngày họ thường 119
- BẢO TỒN LỐI SỐNG NÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN... giữ thái độ hòa nhã, giải quyết các mâu thuẫn tranh chấp thông qua vai trò của các bậc cao niên trong làng. Nụ cười, sự gần gũi, nét chất phác và thân thiện của người dân làng rau Trà Quế là một trong những yếu tố cốt lõi tạo ấn tượng sâu sắc cho du khách, thu hút khách du lịch đến tham quan và trải nghiệm. Những đặc điểm khác biệt trong lối sống và tập quán của cư dân làng rau Trà Quế đã góp phần thu hút du khách đến với du lịch nông nghiệp. Theo kết quả điều tra, nhiều du khách tham gia toàn thời gian hoặc bán thời gian vào các hoạt động du lịch nông nghiệp tại làng rau Trà Quế. Điều này chứng tỏ sức hấp dẫn của du lịch nông nghiệp và khả năng ứng dụng lối sống nông nghiệp vào sản xuất du lịch nông nghiệp của địa phương. Bên cạnh đó, phần lớn đánh giá của khách du lịch về lối sống nông nghiệp và các hoạt động liên quan đến lối sống nông nghiệp và hoạt động du lịch địa phương là tốt hoặc rất tốt. Văn hóa nông nghiệp, thái độ và hành động của người dân, tập quán văn hóa và cảnh quan là những điểm nổi bật nhất góp phần taọ dựng thương hiệu của Trà Quế. Do đó, trong thời gian tới, để thu hút nhiều du khách hơn nữa đến và trải nghiệm du lịch nông nghiệp tại làng Trà Quế, chúng tôi cho rằng Trà Quế cần đa dạng của các hoạt động du lịch dựa vào nông nghiệp gắn với các cơ sở và hoạt động du lịch nông nghiệp chất lượng cao có tác động đến sự hài lòng của du khách. Song song với đó, Trà Quế cần bảo tồn lối sống thuần nông - một trong những yếu tố quan trọng quyết định việc thu hút khách du lịch đến với làng rau Trà Quế. Chính quyền địa phương và người dân nên tập trung vào trải nghiệm của du khách để tăng cường các dịch vụ du lịch nông nghiệp dựa trên lối sống nông nghiệp. Đây là yếu tố quyết định đến sự phát triển du lịch nông nghiệp bền vững của làng rau Trà Quế trong tương lai. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Abrudan, I., Turnock, D. A.(1998). Rural development strategy for the Apuseni Moun- tains, Romania. GeoJournal (46), 319-336 https://doi.org/10.1023/A:1006937023451 [2] Ammirato, S.; Felicetti, A.(2014). The agritourism as a Means of Sustainable Development for Rural communities: A Research from the Field. International Journal of Interdiscipli- nary Environmental Studies 8(1), 17-29 17–29. 10.18848/2329-1621/CGP/v08i01/53305 [3] Barbieri, C.(2010). An importance-performance analysis of the motivations behind agri- tourism and other farm enterprise developments in Canada. Journal of Rural Community Development. 5, 1-20. [4] Canovi, M.; Lyon, A. (2019). Family-Centred Motivations for Agritourism Diversification: The Case of the Langhe Region, Italy. Tourism planning and development, (16) , 1-20. https://doi.org/10.1080/21568316.2019.1650104 [5] Nguyễn Danh Cường (2017). Thực trạng và giải pháp khai thác sản phẩm du lịch 120
- HÀ VĂN TRUNG - NGUYỄN THỊ VĨNH LINH văn hoá ở làng rau Trà Quế, thành phố Hội An hiện nay, Tạp chí KHXH miền Trung, số 6 (50), tr.29 [6] Bùi Thị Lan Hương (2010), Du lịch nông nghiệp và du lịch nông thôn - Nội san Nghiên cứu khoa học, Trường Cán bộ quản lý nông nghiệp và phát triển nông thôn 2, thành phố Hồ Chí Minh. [7] Trung, H. V., & Mohanty, P. P. (2020). Exploring the level of tourist satisfaction in agri- tourism: A reflection of Tra Que village, Vietnam. Journal of Gastronomy and Tourism, 5(2),107 -116 https://doi.org/10.3727/216929721X16105303036481 [8] Trung tâm quản lý bảo tồn di tích Hội An (2008), Nghề truyền thống Hội An, Cty cổ phần In và Dịch vụ Quảng Nam, Tam Kỳ. [9] Nguyễn Chí Trung (2005), Cư dân Faifo - Hội An trong lịch sử, Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An, Cty cổ phần In và Dịch vụ Quảng Nam, Tam Kỳ. [10] Tư liệu điền dã và khảo sát được thực hiện tại làng rau Trà Quế từ tháng 1/2020 đến 7/2020. PRESERVATION OF TRADITIONAL AGRICULTURAL WAY OF LIFE AND AGRO-TOURISM DEVELOPMENT IN TRA QUE VEGETABLE VILLAGE (HOI AN, QUANG NAM) HA VAN TRUNG Wuhan University (China) NGUYEN THI VINH LINH Quang Nam University Abstract: This research focuses on the characteristics and activities of the "agricultural way of life" that have been largely preserved in Tra Que village (Hoi An, Quang Nam). The study then assesses the level of development of "agricultural tourism," as well as the level of participation and satisfaction of tourists with traditional agricultural activities in the village. Our primary research methods include fieldwork, interviews, surveys, and data processing. In Tra Que vegetable village, the survey was conducted on 71 households and 100 tourists (Hoi An, Quang Nam). Following that, the author conducted in-depth interviews with 20 households and three tourist groups to validate the data. The findings show that the diversity and distinctive characteristics of Tra Que farmers' way of life have had a significant impact on tourist participation and satisfaction. As a result, local governments and citizens should pay more attention to the preservation and promotion of traditional agricultural methods, which will be an important factor in the future growth of sustainable agritourism in Tra Que vegetable village. Key words: agricultural tourism, agricultural way of life, Tra Que vegetable villages. 121
ADSENSE
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn