intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Nghệ An

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

65
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, kinh tế trang trại Nghệ An đã phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đạt được những thành tựu nhất định: giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thay đổi phương thức sản xuất, giảm thiểu sự chênh lệch vùng...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Nghệ An

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 10, pp. 147-154<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ<br /> TRANG TRẠI Ở TỈNH NGHỆ AN<br /> Nguyễn Thị Trang Thanh<br /> <br /> Khoa Địa lí - Quản lí tài nguyên, Trường Đại học Vinh<br /> Tóm tắt. Trong tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, kinh tế<br /> trang trại Nghệ An đã phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng và chất lượng, đạt được<br /> những thành tựu nhất định: giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người dân, thay đổi<br /> phương thức sản xuất, giảm thiểu sự chênh lệch vùng... Tuy nhiên, phát triển kinh tế trang<br /> trại ở Nghệ An đang bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt vấn đề bảo vệ môi trường chưa được<br /> chú trọng ảnh hưởng xấu đến phát triển trang trại theo hướng bền vững. Vì vậy, trên cơ sở<br /> đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường theo các loại hình trang trại, bài báo đề xuất một<br /> số giải pháp bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển kinh tế trang trại theo hướng bền<br /> vững ở tỉnh Nghệ An.<br /> Từ khóa: Kinh tế trang trại, bảo vệ môi trường, tỉnh Nghệ An.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Nghệ An có diện tích đất rộng, tiềm năng đất nông nghiệp lớn, thuận lợi để phát triển kinh<br /> tế trang trại [1, 2, 5]. Trong những năm qua, kinh tế trang trại ở Nghệ An đã phát triển nhanh với<br /> nhiều loại hình trang trại khác nhau và đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân: tăng thu<br /> nhập, giải quyết việc làm,. . . Một số loại hình trang trại, nhất là các trang trại lâm nghiệp, trang<br /> trại trồng trọt có tác động tích cực đến vấn đề bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, một số loại hình trang<br /> trại chăn nuôi đang có tác động xấu đến môi trường, ảnh hưởng đến phát triển bền vững kinh tế<br /> trang trại trong những năm tới [5].<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Vai trò của trang trại trong phát triển kinh tế - xã hội ở Nghệ An<br /> <br /> Với lợi thế sẵn có về quỹ đất rộng và đa dạng, số lượng trang trại của Nghệ An, tăng nhanh<br /> trong thời gian qua. Tính đến năm 2010, toàn tỉnh có 1.859 trang trại, chiếm 18,0% tổng số trang<br /> trại của vùng Bắc Trung Bộ và chiếm 1,3% tổng số trang trại của cả nước (cả nước năm 2010 có<br /> 145.880 trang trại).<br /> Kinh tế trang trại phát triển góp phần đưa nền nông nghiệp Nghệ An phát triển theo hướng<br /> sản xuất hàng hoá.<br /> Ngày nhận bài 2/5/2014. Ngày nhận đăng 25/11/2014.<br /> Liên lạc Nguyễn Thị Trang Thanh, e-mail: trangthanhdl@gmail.com<br /> <br /> 147<br /> <br /> Nguyễn Thị Trang Thanh<br /> <br /> - Phát triển trang trại đã khai thác những tiềm năng lợi thế của địa phương, khai thác diện<br /> tích đất hoang hoá, đất trống, đồi núi trọc... đưa vào sản xuất, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo<br /> ra những vùng sản xuất tập trung với khối lượng hàng hoá lớn, thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ<br /> cấu cây trồng, vật nuôi.<br /> - Phát triển trang trại tạo điều kiện công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, áp dụng các<br /> tiến bộ khoa học kĩ thuật và công nghệ cũng như đưa cơ giới vào sản xuất. Từ đó, nâng cao chất<br /> lượng sản phẩm hàng hoá, tạo sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.<br /> - Phần lớn sản phẩm của các trang trại là sản phẩm hàng hóa (tỉ suất hàng hóa của các trang<br /> trại đạt 96%). Vì vậy, kinh tế trang trại đã tạo ra nhiều sản phẩm xuất khẩu chủ lực của tỉnh, cũng<br /> như thu hút đầu tư về công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản như: công nghiệp chế biến chè, cà<br /> phê, tinh bột sắn, mía đường, thủy sản...<br /> - Kinh tế trang trại đã huy động các nguồn lực trong dân (vốn, lao động, kinh nghiệm sản<br /> xuất,. . . ), mở ra hướng đi cho việc huy động vốn trong dân cho đầu tư phát triển, từ đó thúc đẩy<br /> tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, các trang trại đã có đóng góp nhất định trong việc xây dựng cơ sở<br /> hạ tầng, kết cấu hạ tầng cho vùng nông thôn khó khăn, góp phần xây dựng nông thôn mới.<br /> Tăng thu nhập cho người nông dân và tạo việc làm cho hàng vạn lao động địa phương. Thu<br /> nhập của lao động trong trang trại thường xuyên khoảng 3 triệu đồng/tháng cao hơn nhiều so với<br /> thu nhập chung của nông dân trên toàn huyện.<br /> - Các trang trại phát triển sẽ thúc đẩy kinh tế khu vực trung du miền núi của Nghệ An phát<br /> triển (do có lợi thế về đất đai), góp phần xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi, giảm thiểu sự<br /> chênh lệch vùng trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội.<br /> - Phát triển kinh tế trang trại tạo điều kiện cho người nông dân tiếp cận nhanh hơn với nền<br /> kinh tế thị trường, người nông dân tự biết không chỉ sản xuất những cái họ có mà phải sản xuất<br /> những cái thị trường cần, góp phần tạo lập mô hình sản xuất kinh doanh mới trong nông, nông<br /> thôn. Nhiều chủ trang trại đã có kinh nghiệm trong quản lí kinh tế và sản xuất kinh doanh, có ý chí<br /> vươn lên làm giàu chính đáng trong cơ chế thị trường.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Vấn đề bảo vệ môi trường ở các trang trại tỉnh Nghệ An<br /> <br /> 2.2.1. Chính sách, giải pháp của tỉnh Nghệ An liên quan đến bảo vệ môi trường<br /> trong nông nghiệp, nông thôn nói chung và trang trại nói riêng<br /> Cho đến nay, Nghệ An chưa có chính sách bảo vệ môi trường riêng cho trang trại. Các chính<br /> sách bảo vệ môi trường chủ yếu liên quan đến nông thôn. Ngày 20/01/2009, UBND tỉnh Nghệ An<br /> có Quyết định số 265/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch nước sinh hoạt<br /> và vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Nghệ An đến năm 2015, có tính đến 2020. Mục tiêu chủ yếu<br /> của quy hoạch là tăng nhanh tỉ lệ dân được sử dụng nước sạch và trong đó có mục tiêu đến năm<br /> 2015, tỉ lệ chuồng trại chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường đạt 80% và đến năm 2020 đạt 100%<br /> chuồng trại chăn nuôi có công trình cấp nước và vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn.<br /> Các giải pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại<br /> nói riêng được lồng ghép trong các quy hoạch phát triển nông nghiệp, trong các chính sách hỗ trợ<br /> sản xuất nông nghiệp, phát triển nông thôn của tỉnh và của huyện. Một số huyện có chính sách hỗ<br /> trợ các trang trại chăn nuôi xây bể biogas với kinh phí từ 1,2 – 1,5 triệu đồng/1 bể biogas.<br /> <br /> 148<br /> <br /> Bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế trang trại ở tỉnh Nghệ An<br /> <br /> 2.2.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường của trang trại<br /> Đề tài đã điều tra, khảo sát các trang trại ở các huyện Yên Thành, Nghi Lộc, Đô Lương,<br /> Nam Đàn, Quỳnh Lưu, Quỳ Hợp và Quỳ Châu. Theo kết quả điều tra, phần lớn các chủ trang trại<br /> chưa quan tâm đến bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Các chủ trang trại chỉ<br /> chú trọng đến khối lượng sản phẩm, nhằm đem lại doanh thu lớn. Một số chủ trang trại cũng nhận<br /> thức được vấn đề bảo vệ môi trường, nhưng do vốn không nhiều, không có kinh phí đầu tư cho<br /> việc bảo vệ môi trường, nên chưa có biện pháp thực hiện.<br /> Trong các loại hình trang trại, trang trại trồng trọt và trang trại lâm nghiệp tương đối đảm<br /> bảo về mặt môi trường. Đặc biệt các trang trại trồng cây lâu năm và trang trại lâm nghiệp có tác<br /> dụng tốt trong việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, chống xói mòn đất ở vùng trung du miền núi.<br /> Nhiều mô hình trang trại mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường khỏ cao ở vùng đồi núi. Tiêu<br /> biểu như mô hình gia đình ông Lê Văn Oanh, bản Hoa Hải, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu. Trên<br /> diện tích đất lâm nghiệp trồng keo lai, trồng xen cây rễ hương (một loại cây lấy rễ làm hương trầm<br /> ở Quỳ Châu) dưới tán keo vừa tăng độ che phủ trên đất đồi, vừa tăng thu nhập cho hộ gia đình.<br /> Thu nhập từ rễ hương năm 2012 là 76 triệu đồng/ha. Trong khi đó, thu nhập từ keo lai là 80 triệu<br /> đồng/ha. Như vậy, nếu trồng kết hợp cả 2 loại cây thì doanh thu sẽ gần gấp đôi so với các hộ chỉ<br /> trồng keo, ngoài ra còn chống được xói mòn đất khi keo chưa khép tán. Mô hình chăn nuôi bò kết<br /> hợp với trồng rừng cũng đem lại hiệu quả cao, như 2 trang trại của gia đình anh Trần Xuân Hợp<br /> và gia đình anh Trần Xuân Hiền. Với 50 ha diện tích đất khai hoang ở khu vực núi đá vôi, gia đình<br /> anh Hợp trồng xoan, keo lai và nuôi 168 con bò. Năm 2012, thu nhập mô hình này đạt gần 500<br /> triệu đồng [1].<br /> Trang trại trồng cây hàng năm kết hợp với lâm nghiệp (keo, xoan) tiêu biểu như trang trại<br /> anh Nguyễn Hữu Toàn ở xã Châu Bính, huyện Quỳ Châu. Cây lâm nghiệp được trồng ở phần đỉnh,<br /> thân sườn dốc tạo mũ chắn phía trên sườn (rừng), mía trồng ở chân đồi gần nhà (vườn) hạn chế<br /> được xói mòn vào mùa mưa. Với 30 ha đất đồi trồng keo và mía, 5 lao động thuê thường xuyên,<br /> 20 lao động thuê thời vụ, thu nhập của mô hình này từ 800 - 900 triệu đồng/năm. Đây là mô hình<br /> được thiết kế đảm bảo yêu cầu của cả kinh tế lẫn sinh thái [1].<br /> Mô hình trồng nấm ở xã Nam Thành, huyện Yên Thành cũng là một mô hình tiêu biểu cho<br /> hiệu quả cao cả về kinh tế và môi trường. Hiện tại xã Nam Thành có 16 hộ tham gia trồng nấm,<br /> trong đó đạt quy mô trang trại là 5 hộ. Nguyên liệu trồng nấm sử dụng các nguyên liệu thừa như<br /> mùn cưa, rơm, bã thải, giảm ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, các bã thải từ trồng nấm dùng để làm<br /> phân cho cây trồng rất tốt. Sản phẩm nấm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và có đầu ra tốt, chủ<br /> yếu tiêu thụ nội tỉnh, chưa có hàng xuất khẩu. Tiêu biểu là trang trại trồng nấm của anh Nguyễn<br /> Thọ Hạnh diện tích trang trại là 1600 m2 , với tổng số lao động thường xuyên là 5 người, lao động<br /> thuê thời vụ cao nhất khoảng 10 người. Trang trại hiện đang sản xuất 4 loại nấm: mộc nhĩ, nấm<br /> sò, nấm rơm, nấm mỡ và đang trồng thử nghiệm nấm linh chi. Sản phẩm nấm chủ yếu tiêu thụ nội<br /> tỉnh. Năm 2012, doanh thu của trang trại nấm khoảng 500 triệu đồng [1].<br /> Bên cạnh những mô hình trang trại đảm bảo về mặt môi trường, các trang trại trồng trọt nói<br /> riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung sử dụng đất nông nghiệp không hợp lí, làm cho diện tích<br /> đất xấu do bị rửa trôi, bạc màu có chiều hướng tăng lên đe dọa đến sự phát triển nông nghiệp bền<br /> vững ở Nghệ An. Theo “Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Nghệ An giai đoạn 2005 – 2009” của<br /> Sở Tài nguyên và Môi trường Nghệ An [5], chất lượng đất ở Nghệ An như sau:<br /> - Đất vùng đồi núi của Nghệ An nghèo mùn, hàm lượng lân dễ tiêu thấp, lân tổng số ở mức<br /> 149<br /> <br /> Nguyễn Thị Trang Thanh<br /> <br /> trung bình, tổng số cation trao đổi thấp. Do đặc điểm của nền sản xuất du canh, nên khu vực đất<br /> trống, núi trọc lớn nên quá trình rửa trôi, xói mòn và thoái hóa đất diễn ra nhanh, đất nhanh chóng<br /> trở nên chua hơn (HKCL: 4,25 – 4,70); Cation kiềm trao đổi và dung tính hấp thụ thấp (tương ứng<br /> là
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0