BẮT GIỮ, XỬ LÝ VÀ TRÌNH DIỆN
KHÁNG NGUYÊN
(Kỳ 9)
Xcác kháng nguyên trong bào tương trình diện các peptide
của chúng bằng phân tử MHC lớp I
Các protein kháng nguyên xuất hiện trong bào tương có thể là sản phẩm của
các virus sống trong các tế bào bnhiễm, hoặc từ các vi sinh vật bị tế bào ăn vào
nhưng các vi sinh vật này đã pvỡ các bọng thực bào và thoát ra bào tương, hoặc
sản phẩm của các gene của chính túc chủ nhưng đã đột biến hay biến đổi như
trong các trường hợp ung thư. Tất cả các protein này cũng như các protein là thành
phần của chính bào tương nhưng đã tồn tại quá lâu không còn hữu ích nữa đều s
b phá huỷ bởi các enzyme thuỷ phân protein. Các protein này s mất cấu trúc
cuộn gấp rồi được gắn vào một peptide nhỏ tên ubiquitin sau đó được đưa
vào một bào quan làm nhim vụ thuỷ phân chúng là proteasome. Ti đây các
protein đã mất cấu trúc cuộn gấp sẽ bị các enzyme phân cắt chúng thành c
peptide (Hình 8.14). Một số loại proteasome phân cắt rất hiệu quả các protein của
bào tương thành các peptide kích thước và trình tacide amine phù hp với
việc gắn vào các phân tMHC lớp I. Tuy nhiên tế bào phải đối diện với một thử
thách khác đó các peptide này nằm trong bào tương trong khi đó các phân t
MHC lại được tổng hợp trong hệ thống lưới nội nguyên sinh và hai thành phần này
lại cần phải tiếp xúc với nhau. Trở ngại này được giải quyết nhờ một phân tử làm
nhiệm vụ vận chuyển chuyên nghiệp được gọi là phân tvận chuyển gắn với xử
kháng nguyên (transporter associated with antigen processing - viết tắt là
TAP). Phân tử này hoạt động như một chiếc bơm thu lượn các peptide trong bào
tương rồi vận chuyển chúng theo phương thức bơm chủ động qua màng của lưới
nội nguyên sinh vào bên trong h thống lưới này.
Đây quá trình vận chuyển tích cực ngược với chiều chuyển dịch thông
thường của protein là ti sinh tổng hợp trong lưới nội nguyên sinh ra o tương
hoặc tới màng nguyên sinh cht. c phân tMHC lớp I vừa được tổng hợp ra
bám nh vào mặt trong của m TAP để chờ đón các peptide thế khi các
peptide được đưa vào qua m TAP thì chúng s bị các phân tử MHC lớp I bắt giữ
ngay.
(Lưu ý các phân t MHC lớp II cũng được tổng hợp trong lưới nội
nguyên sinh nhưng chúng không gắn được với các peptide vì đã b “niêm phong”
bởi chuỗi cố định).
Nếu một phân tử MHC lớp I tìm được một peptide phù hợp với thì phức
hợp peptide-phân t MHC lớp I tính ổn định được chuyển ra phô bầy
màng tế bào.
Trong quá trình vận chuyển này, phức hợp peptide-phân tMHC lớp I
thđi vào một số endosome nhưng phân t MHC lớp I lúc này không còn kh
năng gắn peptide nữa và đã nh ổn định nên có thkháng lại được tác dụng
thuỷ phân của các enzyme protease của endosome.
Nếu phân tử MHC lớp I nào không tìn được peptide phù hợp trong lưới
nội nguyên sinh để gắn với thì phân tấy sẽ không tính ổn định và bphá
huỷ bởi các enzyme protease.
Cuộc chiến thường xuyên giữa các vi sinh vật và túc chcủa chúng được
thực hiện bằng số mánh khoé các virus dùng để ngăn cản sự trình diện
kháng nguyên theo con đường phân tử MHC lớp I.
Các mánh khoé của virus bao gm loại bỏ các phân tử MHC vừa mới được
tổng hợp ra khỏi lưới nội nguyên sinh, ức chế quá trình phiên của các gene mã
hoá các phân tMHC, ngăn cản quá trình vận chuyển các peptide bởi bơm TAP.
Bằng cách ức chế con đường trình diện kháng nguyên bởi phân tMHC
lớp I, các virus làm giảm sự trình diện các kháng nguyên của chúng cho các tế bào
TCD8+ thế chúng thể tránh được sự tấn công của hệ thống miễn dịch
thích ứng.
Các thđoạn lẩn tránh này của các virus phần nào bthất bại do các tế bào
NK khnăng nhận diện và tiêu diệt những tế bào của túc chủ nhiễm virus và
không bộc lộ phân tử MHC lớp I (xem chương miễn dịch bẩm sinh). Chi tiết và
các chế c virus tránh đáp ứng miễn dịch sẽ được trình bầy trong chương
miễn dịch trong các bệnh nhiễm rtrùng.
Hình 8.14: Con đường xử các kháng nguyên xut hiện trong bào tương
tế bào để đưa ra trình diện bởi phân tử MHC lớp I