
Bảy tuần, ông yêu bà.
Câu chuyện sau xin viết để tặng những người già neo đơn.
Tuần thứ nhất.
Ở quê,
ông chưa yêu bà.
Ông gặp bà từ hồi bà còn trẻ, trẻ măng. Hồi đó nhà ông cũng nghèo mà nhà bà cũng
chẳng giàu chi. Cả hai gặp nhau không một chút cảm giác yêu đương, cái mà người ta
vẫn gọi là tình yêu sét đánh. Sinh ra ở cái thời một sống chín chết, đám cưới của họ khổ
chưa từng thấy. Vậy mà họ cũng gặp nhau hoài, run rủi thế nào, họ lại cưới nhau. Họ trở
thành vợ chồng, vậy đấy.
Và, không sướt mướt như trên truyền hình, không ca cẩm như trong cải lương, không
lãng mạn như tiểu thuyết diễm tình, ông không có cảm giác yêu nồng cháy với bà. Đan
vào nhau, từng nhịp một của cuộc sống, họ cứ thế mà tiếp tục, tồn tại như những người
bạn đời, không hơn. Trải trên những cảm xúc nhạt nhẽo, ông và bà không thích những cái
cách mà người Tây hay làm, họ theo kiểu truyền thống, chồng dạy vợ nghe, vợ làm
chồng nghỉ. Chẳng bao giờ hai người hôn nhau, họ làm chuyện đó, nhưng đơn giản chỉ để
duy trì nòi giống hoặc giả làm thỏa mãn nhau. Ông, cũng như bà, chưa từng biết cái hôn
là gì. Hôn để biết tình yêu đẹp như thế nào, nhưng đó là với đám trẻ bây giờ, còn họ, họ
không hôn vì chẳng thiết tình yêu, chẳng thiết cái cảm xúc cháy bỏng, mãnh liệt, có khả
năng đốt chết hàng loạt con tim đó. Nhưng nói vậy, không có nghĩa họ không phải con
người. Họ là người 100 %, chỉ có điều, là những người không có tình yêu, hoặc chưa biết
đến tình yêu, hoặc hơn nữa, họ chưa thấu cái tình yêu họ có, có lẽ thế chăng ?
Tuần thứ hai.
Ở quê,
Ông mất bà.

Đến một ngày, ông buồn, một nỗi buồn khủng khiếp đến với ông, một nỗi mất mát ráo
hoẵng mà ông chưa bao giờ cảm thấy, đau hơn cả kim châm, nhức hơn cả lửa đốt. Bà đi
mất.
Không phải bà chết đâu, mà bà bị bắt, bị bắt với một tội danh lạ hoắc lạ huơ. Ông hối
hận, đến chết vẫn còn hối vì cái buổi sáng đó, tiếng gọi cửa vang lên, và ông đã chính tay
mở cửa cho họ vào. Đó là mấy anh, mấy chị cán bộ. Ông thường gọi họ như thế, họ trẻ
măng, và cầm những giấy má chìn chịt chữ, ông chẳng đọc được chữ nào, chỉ nghe họ nói
huyên thuyên, hẳn nhiên là ông cũng chẳng hiểu câu chi luôn. Chủ yếu, cái mà ông quan
tâm, sự việc mà ông nhận ra, là họ bắt vợ ông.
Bắt mất bà.
Ông chỉ biết có thế, và chỉ thế mà thôi, họ bắt vợ ông mất rồi.
Trấn tĩnh lại, ông mới nhận ra, vợ mình đã đi khỏi cùng với những người lạ mặt. Bà gói
ghém đồ đạc nhanh chóng, khóc lóc ỏm tỏi, nước mắt nước mũi tèm hem, bà níu ông, tìm
chỗ dựa nơi ông, nhờ ông bênh vực. Và, chắc chắn ông đã làm vậy. Đàn ông Việt Nam,
được cái gì không được, được nhất là biết bảo vệ gia đình mình. Đó như bản năng, ông
che chắn bà, làm cái việc mà người chồng phải làm, ông quát mắng và chống chọi lại cái
bọn “vô duyên, khả ố”, từ ngữ mà ông hay dùng. Nhưng không được, cái tội của bà đã
rành rành như thế, họ bắt bà đi vì: bà có nghi can đến một vụ án giết người, hung khí tìm
được trong ruộng dưa của nhà bà, có cả nhân chứng đàng hoàng. Họ bắt bà, vì đã khẳng
định và hoàn toàn được sự ủng hộ của công lý.
Thế là ông với bà chưng hửng, chẳng biết làm sao. Họ đưa ra một con dao bầu còn đỏ
máu, ông rùng mình và bà thì ngất xỉu. Bà đã cao tuổi rồi, gần sáu mươi rồi còn gì, tóc
bạc trắng cả.
Tuần thứ ba.
Trên đường đi, ở ngoại ô thành phố,
Ông nhớ bà.

Ông không tin, không tin vợ mình có tội, nhất định thế, nhất định là bà bị oan. Ông, một
người hay coi và cập nhật tin tức trên kênh thời sự, từ khi xóm ông được tổ dân phố bắt
điện và cáp truyền hình. Dĩ nhiên không phải là cáp kỹ thuật số rồi, cái tivi màu cổ lỗ sỉ
nhà ông, chỉ bật được có mấy kênh ít xì xì. Hồi đó gắng lắm ông mới bán heo mua được,
cả xóm có mỗi nhà ông xem được tivi đầu tiên, tự hào lắm chứ bộ. Nhưng thôi, quay lại
chuyện của ông. Ông không tin vào cái tội mà họ đặt cho bà, ông nghĩ họ đã vu oan cho
ông. Cái tên gì gì… họ nói, cái người gì đã vu cho bà cái tội giết người, ông ghim trong
bụng, ông quyết định lên thành phố, kiện cái người đó, đem vợ mình về.
Nhà ông có một ruộng dưa, hằng ngày đem trồng ra chợ bán. Ông lấy cuốc ra xem còn
bao nhiêu, đào hết bỏ vào bị, bán luôn một lần. Trong nhà còn bao nhiêu tiền để dành,
ông vét hết bỏ vào bị, chuẩn bị hành trình lên thành phố, cái chốn lạ lẫm ông chỉ lên đó
một lần. Ông dắt theo một con heo nái để phòng hờ, con heo ú ụ làm phiền ông nhiều
lắm. Nó khiến ông phải cuốc bằng chân lên huyện, chứ không phải bằng xe buýt hay xe
lửa. Không có xe nào chịu nổi con heo, hay cả ông già quê mùa chủ của nó nữa. Lục đục
cái lưng khỏe như vâm, một tay ông cắp giỏ, một tay ông dắt heo, lết thết một ngày trời,
vừa đi vừa nghĩ cũng tới được bến đò. Thế là từ đò, ông và con heo cũng tới được ngoại ô
thành phố. Nhìn cái dáng ông lê dép xềnh xệch, dắt heo như dắt con, đến là khổ. Người ta
nhìn vào chỉ trỏ quá trời, lần đầu tiên họ thấy một ông già ăn bận quê xệ dắt heo đi chơi.
Ai hỏi ông đi đâu, ông bảo lên phố. Nhiều người không hỏi kỹ cứ tưởng lão này già mà
còn học làm sang, lên phố chưng diện. Nhưng mà ông không có để ý, ông câm như hến,
hỏi thì nói, không thì thôi, tính ông nó thế. Bởi vậy mà suốt ngày cứ ra ra vào vào, ông
với bà chẳng nói với nhau đến dăm câu. Trừ lúc bà gọi ông ăn cơm, hay bà bảo ông nhắm
rượu ít thôi, còn thì chỉ có ông vẫy bà vào buồng nói nhỏ…
Đường đi đò làm ông mệt lử, ngay cả con heo cũng chóng mặt lằm xệ cả ra. Đường đò
lâu ơi là lâu khiến ông buồn chân buồn tay. Thường ông không trồng dưa thì cũng chạy
qua chạy lại kiếm việc gì đó làm, chứ ít khi ông chịu ngồi không. Bây giờ, giữa miền
sông nước lềnh bềnh, ông chợt hít vào những suy nghĩ về vợ mình.

Rồi cũng tới nơi, việc đầu tiên là đi tìm chỗ trọ. Trời đất, tìm chỗ ở được cũng là một
chuyện khó lắm chứ chẳng chơi. Thật ra chỉ khó với mỗi ông, tiền thì kiết, lúc nào cũng
mặc cả, lại còn dắt theo con heo hôi thối kêu eng éc nhức bưng cả đầu. Ai thấy ông cũng
tránh xa, còn thì dễ với người lắm tiền, vung ra vài chục hay vài trăm thì được ở chỗ sang
ngay. Nhưng mà ông đâu có dám, ở thì ở đâu chẳng được, tiền phải dành để cứu vợ.
Thế là ông ở trong một cái chòi nhỏ, giá thuê rẻ bèo. Nhìn sơ thì chỗ đó giống cái chuồng
hơi cái chòi, y chang luôn, đến cả con heo vừa vào thì rú lên như phải gió, trông nó mừng
quýnh vì tưởng được về nhà. Ấy thế mà ông mừng hơn cả con heo, có chỗ thuê như vầy
tốt quá, cứ tưởng phải tìm gốc nào trên con đường đất mà chui vào ngủ đỡ. Bụng ông đói
meo, trong cái chòi ánh điện mập mờ như chớm tắt, ông móc một củ khoai từ trong giỏ ra
nhai. Ngon tuyệt, trời lạnh ngắt cắt ra, tháng một tây rồi còn gì, ấy thế mà ông quên bê
theo cái chăn. Nhưng mà chiếc áo ông khoác trên người, giờ thì ông cảm thấy ấm lạ lùng.
Chắc là vì đó là cái áo vợ ông may, áo mới đàng hoàng. Mùa nào bà cũng may áo mới
cho chồng mặc đông. Nói thế mà ngẫm lại mới hiểu, áo mới của ông khâu lại từ áo cũ của
bà năm ngoái, hai vợ chồng đổi nhau mặc cho khác màu.
Tối đó ông ngủ sớm lắm, có con heo nằm bên cạnh cũng đỡ lạnh. Buồn quá, ngồi làm
chi. Ông nằm xuống ngáy khì khì, cả ngày đi bộ tê rần cả chân, giá mà có bà ở đây vuốt
dầu cho ông nhỉ ! Sau hôm đó, ông ốm luôn. Nằm một chỗ mà rên hừ hừ, có lẽ ông bị
cảm vì mái chòi hở dữ quá, lại còn mặc áo mỏng và thiếu ăn. Ông xanh xao và chỉ nằm
một chỗ, ước gì có bà ở đây, bà sẽ lo cho ông. Nhưng bà không có, mà chỉ có con heo trơ
tráo nhìn ông, trông nó có vẻ lo lắng khi thấy điệu bộ của ông. Mỗi khi ông ốm, có thói
quen rên dài lên: “bà ơi, bà”. Đó, lạ, nằm không cũng kêu, buồn cũng kêu mà vui cũng
kêu. Thức cũng kêu mà ngủ cũng réo. Mỗi lần ông ốm là mỗi lầm bà mất ngủ, nhưng mà
bà lại thấy vui vui, chỉ có mình ông hay kêu bà chứ ai, mà mỗi lần ông ốm, bà thấy ông
dễ thương đến lạ. Nói nào ngay, bà thấy ông đẹp trai và hiền hẳn ra. Cái câu “bà ơi, bà”
nó âm ấm và dễ chịu làm sao…
Và giờ cũng vậy, ông cũng kêu như thế, mà chẳng có bà nào chạy tới, trừ “bà heo”.
Nhưng mà bả thì chỉ biết nằm kêu ẹc ẹc thôi chứ biết làm gì. Cũng may làm sao, ông biết

từ chăm mình. Cố vực dậy, ông lôi mấy đồ trong giỏ ra, có chai dầu gió bự, ông xức lấy
xức để lên trán lên cổ. Rồi ông quay qua con heo, bôi lên hai thái dương của nó nữa.
Gớm, heo mà ốm thì mấy bữa nữa ông biết bán thế nào. Ông lại moi hết đống khoai ra,
ních cho no bụng. Ông sợ ông cứ ốm hoài, vợ ông sẽ khổ, vì thế cứ ăn cho no đã, khỏe lại
thì đi tìm cái khác mà nuốt. Người nhà quê sợ nhất là bị ốm, ốm rồi là bãi hoải, chẳng
làm được gì, có mà đói. Tuần đó ông cứ ở lại nhà ngủ với con heo, chờ cho khỏe. Ấy thế
mà cử ốm của ông dai phết. Ông thở hắt ra rồi quay sang ôm heo ngủ cho ấm, ngày qua
ngày, đến gần cuối tuần ông mới đỡ dần.
Tuần này, ông khỏe rồi. Ông khỏe thì ông bắt đầu công việc ngay. Ông hỏi đường. Đừng
tưởng thế mà dễ, trong cái hỏi đường tiềm ẩn biết bao nhiêu là chuyện vặt, mà chuyện
nào đối với ông cũng khó hơn lên trời. Chuyện thứ nhất, quan trọng nhất, ông phải vô
trung tâm thành phố, ở đó mới có luật sư. Chứ thành phố rộng lớn quá, ngoại ô thì cũng
gần như chốn quê, làm gì có ai. Thế là ông khóa cửa, bỏ con heo lại trong chòi, lấy tiền
mua vé xe lên phố. “Chu choa” lần thứ hai lên phố, ông đã thốt lên như vậy đấy. “Phố
đẹp quá, cái gì cũng đẹp, người cũng đẹp, ai cũng đẹp hết” Ông trầm trồ nhìn ngắm. Hồi
xưa lên phố tham gia chiến tranh, ông chỉ thấy đây đó mìn nổ lụp xụp, bụi cát vù vù. Giờ
đây nhìn đâu cũng thấy kính lắp bóng lộn, trông mà lóa cả mắt mũi. Lại còn ồn nữa, ông
lấy cục bông gòn xé ra nhét bớt vào hai lỗ tai mình cho đỡ ồn. Ở nhà quê yên tịnh quen
rồi, lên đây ồn quá, nhạc nhẽo xập xình, ông váng cả đầu.
Hỏi người này người kia, rốt cục ông cũng đến được phòng luật sư. Miệng ông móm
mém, khiến cho ông luật sư khổ sở ngồi vừa nghe vừa… suy đoán. Ông vừa ngồi vào là
nói tràn lan đại hải, nói búa lua xua, phần lớn để mô tả vợ mình như thế nào, rồi bị bắt ra
làm sao. Ông luật sư ráng ngồi nghe, nghe xong rồi mới tóm tắt lại câu chuyện giùm ông.
Chủ yếu là ông muốn kiện tên người đó, người đã bắt vợ ông, rồi phải cứu cho được vợ
ông ra. Cuối cùng luật sư hỏi, phần quan trọng nhất, chứ ông có bao nhiêu tiền ?
Ông lủi thủi ra về, trời lạnh, lòng ông cũng lạnh toát. Nhìn ông già lủi thủi đi ngang qua
cái cầu phao, người ta ai thấy cũng liếc lại buồn buồn. Ông lạch bạch bước bộ cùng với
cái bóng dần in đậm trên đất của mình. Trên đường nhạt thết, trống trãi. Phải rồi, gần tết

