
BỆNH HỌC THỰC HÀNH
HỒI HỘP
( Tâm Quý – Palpitation - Palpitation)
Hồi Hộp là một chứng trạng tự cảm thấy trong Tâm hồi hộp không
yên, tục gọi là Tâm Khiêu. Sách Hồng Lô Điểm Tuyết viết: “Chứng Quý là
chỉ vùng Tâm đột ngột rung động không yên, sợ sệt, trong Tâm trằn trọc
không yên, sợ sệt như có người muốn bắt...”. Sách ‘Y Học Chính Truyền’
viết: "Chứng Kinh quý là chỉ đột ngột như sợ hãi, hồi hộp, trong Tâm không
yên và có cơn từng lúc. Chứng Chinh xung là chỉ trong Tâm sợ sệt dao động
không yên, có cơn liên tục"...
Theo những quan điểm trên, nhân tố gây bệnh có khi do sợ hãi gây
nên, có khi không do sợ hãi gây ra.
Tâm hồi hộp lúc có lúc không, gọi là Kinh quý, bệnh tương đối nhẹ.
Không do hãi mà phát sinh, trong Tâm dao động không yên và cơn liên tục,
gọi là Chinh xung, bệnh tình khá nặng. Nhưng chứng trạng lâm sàng, đều
coi trong Tâm hồi hộp không yên là chính, gọi là Tâm quý.

Các loại rối loạn thần kinh thực vật và các loại bệnh tim dẫn đến nhịp
tim không đều trong y học hiện đại, đều có thể xuất hiện chứng trạng Tâm
quý.
Nguyên Nhân
1 . Tâm Thần Không Yên: Sợ hãi đột ngột có thể dẫn đến tâm thần
không yên. Thiên ‘Cử Thống Luận’ (Tố Vấn 39) viết: "Kinh thì Tâm không
nơi dựa, thần không chốn về, lo lắng không được yên cho nên khí loạn" và
"sợ thì khí nén xuống", "sợ thì thần khiếp".
Kinh thì khí loạn, thần chí không yên cho nên Tâm kinh, thần dao
động, hồi hộp không yên. Sợ (khủng) thì thương Thận, Thận hư yếu không
giao thông được với Tâm khiến cho Tâm hồi hộp không yên.
Ngoài ra, giận dữ đột ngột khí nghịch khiến cho Can mất chức năng
điều đạt. Bệnh Can liên lụy đến Tỳ, Tỳ mất chức năng vận hóa, thì tinh vi
thủy cốc tụ lại thành đờm. Khí uất lại có thể hóa hỏa, đờm hỏa quấy rối Tâm
thần cũng dẫn đến Tâm quý không yên.
2. Tâm Huyết Bất Túc: Bị bệnh lâu ngày thân thể suy yếu hoặc mất
máu quá nhiều, hao thương tâm huyết; Hoặc tư lự quá độ, mệt nhọc làm
thương Tỳ, Tỳ mất chức năng kiện vận làm cho nguồn tạo nên huyết dịch

bất túc, Tâm mất sự nuôi dưỡng, thần không tiềm tàng cho nên Tâm hồi hộp
không yên. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: "Chinh xung là do huyết hư,
chinh xung liên tục, phần nhiều là do thiếu huyết”.
3. Âm Hư Hỏa Vượng: Mắc bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược hoặc do
bệnh nhiệt làm thương âm... đều có thể dẫn đến Thận âm khuy tổn, tâm hỏa
vọng động gây nên Tâm hồi hộp không yên.
4. Phong Thấp Xâm Phạm: thiên ‘Tý Luận’ (Tố Vấn 43) viết: "Bị
chứng Mạch tý không khỏi lại bị nhiễm ngoại tà, ẩn náu trong Tâm" và
“Chứng Tâm tý làm cho mạch máu không thông". Nói lên tà khí phong hàn
thấp phạm huyết mạch ảnh hưởng tới Tâm ở trong, Tâm mạch bị nghẽn,
doanh huyết vận hành không thông cho nên hồi hộp không yên.
5. Dương Khí Suy Nhược: Sau khi bị bệnh lâu ngày, dương khí suy
không làm ấm áp Tâm mạch, Tâm dương không mạnh cho nên hồi hộp
không yên. Nếu dương hư nước ứ đọng thành chứng ẩm, ẩm tà phạm lên
trên cũng làm cho hồi hộp không yên. Sách ‘Thương Hàn Minh Lý Luận’
viết: "Nói khí hư dương là dương khí hư nhược, dưới Tâm rỗng không động
ở trong mà thành hồi hộp. Nếu ẩm ứ đọng là do thủy đọng ở dưới Tâm...
Tâm không được yên sẽ thành Tâm quý".

Triệu Chứng Lâm Sàng
+ Tâm Thần Không Yên: Tiâm hồi hộp, dễ kinh sợ, nằm ngồi không
yên, ít ngủ hay mê, nói chung lưỡi và mạch bình thường hoặc mạch thấy Hư
Sắc.
Biện chứng: Hãi thì khí loạn, sợ thì khí hạ, đến nỗi Tâm không thể
chứa thần, phát sinh chứng tim hồi hộp, ít ngủ hay mê. Mạch Hư Sắc là dấu
hiệu tâm thần không yên. Bệnh nhẹ thì lúc phát lúc ngừng; Loại nặng thì
Tâm sợ sệt, thần rối loạn, hồi hộp không yên, không tự chủ được.
Điều trị: Trấn kinh an thần. Dùng bài An Thần Định Chí Hoàn gia
giảm.
(Trong bài có Nhân sâm, Long xỉ để bổ khí trấn kinh; Phục thần, Viễn
chí, Xương bồ an thần hóa đờm làm thuốc hỗ trợ).
Cũng có thể dùng các vị như Từ thạch, Mẫu lệ, Táo nhân, Bá tử nhân
để trấn kinh an thần. Nếu Tâm hồi hộp mà phiền, ăn kém, muốn nôn, rêu
lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sắc là bệnh kiêm có đờm nhiệt quấy rối ở trong,
Vị mất chức năng hòa giáng, có thể thêm Bán hạ, Trần bì, Trúc nhự. Nếu sắc
mặt kém tươi, mệt mỏi, chất lưỡi nhạt, có thể luận trị theo thể Tâm huyết bất
túc.

2) Tâm Huyết Bất Túc: Tim hồi hộp, choáng váng, sắc mặt kém tươi,
móng chân tay nhạt, tay chân không có sức, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế.
Biện chứng: Tâm chủ huyết mạch, vinh nhuận ra mặt, huyết hư không
nuôi được Tâm gây nên chứng Tâm quý, không tưới nhuận lên đầu mặt gây
ra chóng mặt và sắc mặt không tươi. Huyết hư không làm ấm áp tay chân
cho nên móng chân xanh nhợt, tay chân không có sức. Chất lưỡi đỏ nhạt,
mạch Tế... đều là dấu hiệu khí huyết bất túc.
Điều trị: Ích khí bổ huyết, dưỡng tâm an thần. Dùng bài Quy Tỳ
Thang gia giảm.
(Trong bài có Sâm, Kỳ, Truật, Thảo để ích khí kiện Tỳ, tăng cường
nguồn sinh ra huyết; Đương quy, Long nhãn nhục để dưỡng huyết, Táo nhân,
Viễn chí để an thần, Mộc hương hành khí, khiến cho bổ mà không bị trệ).
Nếu tâm động hồi hộp mà mạch Kết Đại là huyết không nuôi Tâm,
kèm theo Tâm dương mạnh, huyết dịch tuần hành không thư sướng gây nên,
cho uống Chích Cam Thảo Thang gia giảm để dưỡng Tâm thông mạch theo
phép song bổ cả khí và huyết.
3) Âm hư hỏa vượng: Hồi hộp không yên, tâm phiền, ít ngủ, chóng
mặt, hoa mắt, tai ù mỏi lưng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác.

