
Những Bí Mật Về
Chiến Tranh Việt Nam
Chương 24
Kissinger
Tháng 8-1970, bạn tôi là Lloyd Shearer, chủ bút tạp chí Parade (Diễu hành), đã nói rằng
anh có cuộc hẹn phỏng vấn Kissinger ở San Clemente và hỏi tôi có muốn đi cùng không.
Tôi nói có. Tôi nghĩ mình có thể động viên Kissinger đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc, ít nhất là
vài phần, để ông ta có thể thấy được là những vụ leo thang như Campuchia gần đây thực
ra đã được nói tới từ nhiều năm trước chứ không phải giờ mới xuất hiện. Ông ta có thể
hiểu được rằng tất cả những hy vọng trước khi người ta đe doạ rồi tiến hành leo thang
chiến tranh đều đã sụp đổ. Và có lẽ ông ta rút ra được điều gì đó.
Tôi cũng tin rằng chính sách của ông ta, theo như tôi hiểu, phụ thuộc vào việc nó có thể
che mắt công chúng Mỹ hay không. Tôi muốn ông biết rằng đối với một số người, trong
đó có tôi, những nét chính của chính sách thực lế đã hiện hình khá rõ nét. Và tôi vẫn nói
với những người khác về chính sách này. (Ví dụ ít nhất thì ai đó ở Nhà Trắng cũng đã
phải nói cho tôi biết). Trên thực tế, tôi đã có ý tiết lộ với Nhà Trắng về những gì mà
người ngoài, như tôi chẳng hạn, có thể nhận thấy được. Tôi muốn Kissinger phải lo lắng
về việc người ta có thể "đọc vị" được chính sách của ông ta, vì thế nó sẽ trở nên ít hấp
dẫn hơn đối với ông ta. Đó cũng là điều tôi muốn làm đối với Tổng thống Johnson khi tôi
tiết lộ với báo giới năm 1968.
Chúng tôi lái xe tới San Clemente. Tôi nhớ rằng khi lái vào một bãi đỗ xe, chúng tôi nghe
một giọng nói vang vang đâu đó chỉ chỗ đỗ cho chúng tôi, nghe như tiếng Chúa vậy.
Hình như có một hệ thống quan sát bí mật theo dõi hoạt động của chúng tôi. Cuối cùng
tôi mới nhận ra đó là tiếng loa phát ra từ nóc phòng bảo vệ. Chúng tôi ngồi ở một phòng
chờ bên ngoài trông như phòng chờ nha sĩ, có vài bức ảnh màu về Nixon treo trên tường.
Người thợ chụp ảnh tán gẫu với chúng tôi ở sảnh cho tới khi anh ta lao ra ngoài cửa khi
nhìn thấy một chiếc xe golf màu hồng chạy qua. Có một người ngồi lái xe với tốc độ
khoảng bảy dặm một giờ giống như chiếc xe điện nhỏ ở công viên Disneyland. Đó chính
là Nixon. Ông ta đang quắc mắt lên, trông rất dữ tợn, hai vai khom khom trông như đang
lái một chiếc xe đua chạy điện vậy. Ngay đằng sau là một chiếc xe golf màu hồng khác
do Bebe Rebozo lái, sau nữa là chiếc xe hồng thứ ba với hai nhân viên an ninh. Một phái
đoàn hồng.
Cuối cùng chúng tôi được đưa tới sân trong và dùng bữa trưa với Kissinger. Cùng ăn với
chúng tôi còn có trợ lý của Kissinger là Alexander Haig, anh này giờ đang mang cấp
tướng. Khi chúng tôi chào, Kissinger quay về phía Lloyd và nói theo kiểu lấy lòng: "Anh
thấy đấy, tôi đã học được từ Dan Ellsberg nhiều hơn từ bất kỳ ai khác…". Tôi cho rằng

ông ta sẽ lặp lại điều đã nói với tôi ở Rand hai năm trước: "… ở Việt Nam". Nhưng hoá
ra là khác "… về đàm phán".
Tôi đã rất sửng sốt. Đàm phán? Mất một lúc tôi vẫn không nghĩ ra ý ông ta nói tới điều
gì. Rồi tôi nhớ lại bài "Nghệ thuật ép buộc" tôi đã trình bày với nhóm nghiên cứu của ông
ta ở Harvard năm 1959, được trích từ loạt bài giảng Lowell của tôi. Đó là chuyện của
mười một năm trước. Tôi nói "Ông có trí nhớ thật tốt".
Ông ta nói giọng lè nhè từ trong cổ họng: "Đó là những bài giảng hay".
Thú vị đây, trừ việc sau đó khi nghĩ lại, tôi dựng hết cả tóc gáy. Những bài giảng của tôi
trước lớp của ông ta là về sự đe doạ của Hitler đối với Áo và Tiệp Khắc cuối thập kỷ
1930 mà nhờ đó, Hitler đã có thể chiếm những nước này mà chẳng tốn viên đạn nào. Một
trong những bài giảng mang tên "Đe doạ: Lý thuyết và thực hành", một bài khác là
"Những sự điên rồ mang mục đích chính trị". Hitler đã chủ ý gây dựng cho địch thủ của
mình ấn tượng về những hành động khó lường và phi lý của Hitler. Không thể trông đợi
hắn ta không đe doạ ai đó để rồi làm điều gì đó điên rồ và có hại cho cả hai phía. Ở một
mức độ nào đó thì làm vậy sẽ có lợi cho hắn ta, vì hắn điên rồ, hiếu chiến đến liều lĩnh và
táo bạo. Ít nhất là đã có lúc cả thế giới phải phục dưới chân hắn. Đó không phải là cách
mà tôi khuyến nghị nước Mỹ, cũng như bất kỳ nước nào khác, tiếp cận đối với vấn đề
này. Cách mà tôi muốn đề xuất hoàn toàn khác. Nếu như ai đó bắt chước Hitler làm vậy
thì chỉ gây nên sự điên cuồng và chuốc lấy tai hoạ.
Thông tin về việc xâm lược Campuchia, lọt ra vào tháng tư trước từ những quan chức
không rõ danh lính, khẳng định trên thực tế rằng động cơ chủ yếu của việc tấn công
Campuchia là để cho Liên Xô, Trung Quốc và Bắc Việt tin rằng việc hoạch định chính
sách cấp cao của chúng ta là không thể tiên đoán.
Đồng thời, do chúng ta có thể hành động bất thường và điên rồ như đã được chứng minh
bởi việc xâm lược Campuchia vào giai đoạn chiến tranh này, họ không thể tin vào sự tính
toán và thận trọng của chúng ta trong những tình hương khủng hoảng tương tự. Khi tôi
đọc những thông tin này, tôi băn khoăn liệu những nguồn thông tin từ các quan chức cao
cấp cũng như chiến lược sai lầm đó có phải bắt nguồn từ chính Nixon và Kissinger hay
không. Tôi hy vọng là không.
Việc Kissinger chẳng mấy tỏ ra khen ngợi đã trả lời cho thắc mắc của tôi. Thật rùng mình
khi nhận ra rằng ba tháng sau vụ xâm lược Campuchia, trong đầu Kissinger lại có những
gợi nhớ về những thủ thuật của Hitler.
Bốn chúng tôi ngồi ăn trưa bên hiên nhà. Ngay đầu bữa ăn, Lloyd đã tận dụng sự có mặt
của tôi để nêu lên chủ đề Việt Nam. Kissinger nói: "Này, chúng ta ngồi đây không phải
để nói về Việt Nam". Tôi nghĩ thế thì nói gì? Ông ta nhìn tôi lo lắng và lộ ý rằng ông ta
không muốn nói trước mặt tôi. Tôi cho rằng ông ta muốn nói dối Shearer về Việt Nam
nhưng điều đó sẽ chẳng dễ gì với sự hiện diện của tôi. Chính vì muốn buộc ông ta phải
nói thật về Việt Nam nên Lloyd đã mời tôi tham gia buổi nói chuyện này.

Nhưng hoá ra, theo như sau đó Lloyd kể lại, điều mà Kissinger muốn thảo luận với anh
lại là đời sống vợ chồng của ông ta và cái cách mà báo chí đưa tin về vấn đề này. Lloyd
viết mục "Nhân vật" với bút danh là Walter Scott cho phụ trương chủ nhật của tạp chí
Parade. Lloyd tự hào nói đó là trang thu hút nhiều độc giả nhất trong giới báo chí Mỹ.
Thực tế anh là cây bút bình luận những chuyện bên lề hàng đầu nước Mỹ. Anh thường
xuyên có các bài viết được xem là theo yêu cầu của độc giả về cuộc sống độc thân của
Kissinger và những cuộc hẹn hò với cô đào Jill St. John và các ngôi sao đang lên khác.
Nhìn chung chính quyền chấp thuận cách thức quan hệ công chúng như thế này vì nó góp
phần làm cho Nhà Trắng thời Nixon trở nên gần gũi hơn, nhưng rõ ràng nó cũng chứa
đựng những nguy cơ. Kissinger muốn khuyến khích quan hệ kiểu này để có được những
lời khuyên của Lloyd và để lái dư luận về vấn đề này theo hướng mong muốn.
Đấy là điều ông ta không muốn làm trước mặt tôi. Gõ gõ tay trên mặt bàn, đột nhiên ông
ta nói: "Này Dan, sao anh và tướng Haig không ăn cùng nhau trong lúc chúng tôi nói
chuyện khác nhỉ? Rồi chúng ta sẽ ngồi lại với nhau". Cuối cùng thì ông ta cũng gạt tôi đi.
Haig và tôi sang phía bên kia ngôi nhà và cùng dùng bữa. Haig rất nhã nhặn và tôi quyết
định thử thông qua anh ta đưa thông tin về chiến lược của Nixon lọt vào Nhà Trắng. Anh
ta nghe và gật gật đầu. Tôi chỉ có thể coi điệu bộ này thể hiện anh ta đang lắng nghe lập
luận của tôi, chứ không phải là anh ta đang khẳng định nó, mà tôi cũng chẳng mong đợi
anh ta làm vậy. Tất nhiên là anh ta chẳng phản bác hay đính chính tôi, cho dù cách tôi mô
tả về chính sách này đi ngược lại niềm tin của công chúng.
Một giờ sau Kissinger đến với chúng tôi. Tôi rất ngạc nhiên nghe ông ta nói muốn nói
chuyện với tôi, và chúng tôi đã hẹn gặp vào chuyến đi tới đây của ông ta tới California.
Patricia và tôi đã định ngày cưới vào tháng tám, nên thời điểm ông ta muốn gặp tôi lại rơi
đúng vào tuần trăng mật của chúng tôi ở Maui. Đến giờ tôi vẫn lấy làm lạ là tại sao tôi lại
đồng ý.
Chắc lúc đó tôi bị ám ảnh. Tôi đã không bỏ qua một cơ hội nào để gặp Nixon, có lẽ là để
tránh những Campuchia mới và giúp chiến tranh sớm kết thúc. Tôi chắc là Patricia sẽ
đồng ý (và đúng như vậy). Chúng tôi rút ngắn kỳ trăng mật để tôi có thể đúng hẹn.
Trên đường trở về Santa Monica, Lloyd kể về buổi nói chuyện với Kissinger. Anh đã hỏi
câu mà tôi gợi ý: ông có nghĩ đến trường hợp ông rời khỏi cương vị và phản đối chính
sách của Tổng thống? Đầu tiên Kissinger trả lời không, hoàn toàn không. Nhưng khi
Lloyd hỏi dồn, ông ta nói: "Tôi nghĩ có thể, nếu có kế hoạch dùng phòng hơi độc…"
Tôi nói: "Đương nhiên là không thể tính tới kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân". Đó là
một thứ vũ khí hiểm hoạ, có thể giết chóc bừa bãi; nhưng tôi đã không biết rằng
Kissinger lại đang chỉ suy tính về những kế hoạch nhằm gây ra những hoạt động bất
thường như vậy. "Này Lloyd, đối với Kissinger, chỉ có một thứ mà ông ta coi là tội ác
chống nhân loại, và nó đã xảy ra, xảy ra trong quá khứ. Đó là tội ác người Đức gây ra cho
người Do Thái. Đó là hành vi chính trị duy nhất mà ông ta coi là vô đạo đức, Lloyd hơi bị
sốc. Anh nói: "Dan, tôi hỏi hơi khó nghe một chút. Anh có thực sự tin vào điều đó
không?" Tôi nói có, và tôi không nghĩ nó chỉ áp dụng cho mỗi Kissinger.

Ngày 8-8-1970, Patricia và tôi làm lễ cưới cùng gia đình và bạn bè. Chúng tôi cùng hứa
hôn. Tôi thề: "Patricia, anh sẽ yêu em, che chở em, tôn trọng em suốt đời".
Tôi đã giữ lời thề đó, và cô ấy cũng vậy.
Cuối tháng tám, sau khi buổi gặp của tôi với Kissinger bị hoãn lần thứ nhất, tôi gặp ông
ta ở văn phòng ở San Clemente.
Ông ta nói chỉ có nửa giờ, nhưng lại bắt đầu "tôi rất lo lắng về tình hình Trung Đông".
Gần đây có nhiều thông tin tiết lộ trên báo chí, có lẽ là từ Kissinger, về những phê phán
của ông ta đối với cách Ngoại trưởng William Rogers xử lý các cuộc đàm phán về Trung
Đông mà hiện Kissinger không được tham gia.
"Tôi e rằng tình hình sẽ sôi lên mất".
Tôi chỉ có nửa giờ để thực hiện ý muốn, nên nói luôn: "Henry này, tôi muốn nói với ông
về chính sách đối với Đông Dương. Tôi nghĩ chính nó mới sôi lên đấy". Đêm hôm trước
tôi đã rút gọn tóm tắt của tôi về chiến lược của Nixon thành một trang kín, trong đó tôi
nói rõ: những mục tiêu đầy tham vọng (không được công khai tuyên bố), ý đồ của "hoà
bình trong danh dự"; việc rút quân khỏi Việt Nam một cách chậm chạp và kéo dài nhưng
vẫn để lại một số lượng quân khá lớn; những đe doạ về việc leo thang chiến tranh, điều
mà tôi chắc chắn rằng sẽ không thể răn đe hoặc ép buộc được ai, cho dù có những cuộc
diễu võ giương oai như ở Campuchia; những cuộc xâm lược tiềm năng trong tương lai, ở
Lào, có thể ở phía Nam miền Bắc Việt Nam, và ném bom trở lại; việc phong toả cảng Hải
Phòng; và xuyên suốt là việc cố tình lừa bịp dư luận. Theo tôi, phía trước đang là một
cuộc chiến không ngày tháng và ngày càng lan rộng.
Khi tôi thuật lại tất cả những điều này, ông ta nheo mắt, cau mày, bĩu môi nhìn tôi, theo
cái cách mà tôi hiểu là muốn nói tôi đang sai hướng rồi. Nhưng ông ta chẳng nói lại gì cả.
Gõ gõ tay trên bàn, đột nhiên ông nói: "Này, tôi không muốn thảo luận về chính sách của
chúng tôi. Nói cái khác đi".
Tôi hỏi ông có biết đến Bản nghiên cứu McNamara về Việt Nam không, ông ta đáp có.
(Lúc đó tôi không biết rằng ông ta đã từng là một cố vấn cho nghiên cứu này trong một
tháng đầu) "Ông có bản sao của nó ở Nhà Trắng không?". Ông ta nói ông có một bản.
Tôi thấy phấn khởi khi nghe thế. Tôi hỏi tiếp: "Ông đã đọc chưa?"
"Chưa, có cần không?"
Tôi nói ông rất nên đọc, ít nhất là phần tóm tắt, thường là vài trang nằm ở đầu mỗi tập.
Ông có thể nói một trợ lý đọc toàn bộ rồi nhặt ra giúp ông ta những đoạn có vẻ trúng tâm
điểm của vấn đề. Nhưng chỉ tóm tắt thôi cũng đã lên đến khoảng sáu mươi trang. "Họ
viết được đấy. Thực sự là anh nên cố gắng đọc nó".

"Nhưng nghiên cứu này thực sự có cái gì để chúng ta học hỏi không?"
Tim tôi như ngừng đập. Chúa ơi? Đầu óc ông ta cũng chỉ dạng như những người khác mà
thôi. Họ đều chỉ nghĩ rằng lịch sử bắt đầu cùng chính quyền của mình và chẳng có gì phải
học từ những chính quyền khác cả. Nhưng thực tế lại là mỗi chính quyền, kể cả chính
quyền hiện nay, không hề biết mình đều đi vào vết xe đổ trong hoạch định chính sách
cùng những chính sách vô vọng)giống hệt nhau. Đó là điều có thể rút ra từ Nghiên cứu
McNamara, và rõ ràng là Kissinger cần phải biết.
Hồ sơ Lầu Năm Góc mang đến cơ hội phá bỏ vết xe đổ này, nhưng chỉ sự tồn tại của nó
thôi thì không thể làm được.
Tôi đã thực sự thấy chán nản, nhưng vẫn cố trả lời: "Tôi nghĩ là có. Đó là lịch sử hai
mươi năm, và có nhiều điều có thể rút ra từ đây".
Ông ta nói: "Nhưng rốt cục giờ đây chúng ta đã quyết sách theo một cách rất khác mà".
Tôi lại càng buồn nản: "Campuchia thì chẳng có vẻ gì là khác cả Kissinger trông vẻ khó
chịu, nhấp nhổm trên ghế. Ông ta nói: "Anh phải hiểu là vụ Campuchia bắt đầu từ những
nguyên nhân hết sức phức tạp".
Tôi nói: "Henry, ở nơi này chẳng có quyết định sai lầm nào mà lại không xuất phát từ
những nguyên nhân hết sức phức tạp cả Và thường là cùng một loại nguyên nhân phức
tạp đấy".
Đó không phải là cách mà bạn nói chuyện với một quan chức cấp cao khi bạn vẫn muốn
gặp ông ta lần nữa. Nhưng lúc này tôi đã mất một năm sao chép tài liệu, và tôi chẳng tốn
mấy sức để giữ cầu quan hệ với Kissinger. Tôi đã làm điều tôi muốn làm với ông ta, dù
cho chẳng mấy thành công. Tôi sẽ rất vui lòng nói rõ ý tôi là gì nếu ông ta chịu đọc tài
liệu này, nhưng ông ta đã không làm vậy. Tuy nhiên, giọng tôi đã không đến mức làm
cho buổi nói chuyện phải chấm dứt tại đây cũng như chẳng khiến ông ta muốn tôi quay
lại thêm. Thay vào đó ông ta nói tới việc bực mình với nhóm học giả Đại học Harvard,
hầu hết trong số đó từng là.đồng nghiệp của cả hai chúng tôi, kể cả Tom Schelling, những
người đã đến gặp ông ta để từ chức tập thể, không làm cố vấn nữa để phản đối vụ
Campuchia. (Theo tôi đó là giờ khắc đúng đắn nhất của họ). Ông ta tỏ vẻ coi khinh
những người này do họ cho rằng có thể đánh giá một chính sách mà không biết gì mấy về
quá trình nội bộ hoạch định chính sách. Ông ta nói đầy coi thường: "Họ chẳng bao giờ
được biết những thông tin mật".
Đó là câu ông ta nói. Hẳn ông ta ương tuý luý thuốc độc của Circe rồi (Circe: tên mụ phủ
thuỷ trong tác phẩm Odyssey của Homer, kẻ biến người thành lợn - ND). Kinh nghiệm
hai năm trước đã quá đủ để tôi có thể giải độc cho ông ta. Không muốn bị đánh đồng và
để nhắc ông ta nhớ tới lần nói chuyện với tôi hai năm trước, tôi nói: "Nhưng điều đó
không đúng với tôi".
Ông ta vội nhấn mạnh: "Không, đương nhiên là không rồi. Tôi không có ý nói tới anh

