HOÀNG LĂNG NGOÀI THẬP TAM LĂNG<br />
Triều Minh (1368 – 1644) tổng cộng có mười sáu vị hoàng đế, ngoài Minh Thái Tổ<br />
Chu Nguyên Chương (1328 – 1398) nhập táng ở Hiếu Lăng thuộc phía nam chân núi<br />
Chung Sơn, Nam Kinh ra, còn có mười ba vị hoàng đế sau khi chết nhập táng ở mười ba<br />
ngôi hoàng lăng thuộc huyện Xương Bình, Bắc Kinh. Thế thì còn lăng mộ của hai vị<br />
hoàng đế tức Kiến Văn đế (tại vị năm 1399 – 1402) và Đại Tông (Cảnh Thái đế, tại vị năm<br />
1450 – 1457) nằm ở đâu, tại sao không nhập táng vào hoàng lăng? Có lẽ độc giả cũng cảm<br />
thấy kỳ quặc, ở đây có một câu chuyện rất mực thú vị.<br />
Chu Nguyên Chương sau khi khai sáng giang sơn Đại Minh, vào năm Hồng Vũ thứ<br />
nhất (năm 1368) đã lập con trưởng Chu Tiêu làm hoàng tử, đó chính là thái tử Ý Văn<br />
không may mất sớm. Chu Nguyên Chương tuổi đã 65 bèn lập con thứ của Chu Tiêu (vì<br />
con trưởng đã chết yểu) là Chu Doãn Văn làm hoàng thái tôn, lúc đó mới có 15 tuổi. Năm<br />
Hồng Vũ thứ ba mươi mốt (năm 1398), Chu Nguyên Chương bệnh rồi chết, căn cứ theo di<br />
chiếu, Chu Doãn Văn kế ngôi hoàng đế, năm đó mới 21 tuổi, đổi niên hiệu là Kiến Văn,<br />
đó chính là hoàng đế thứ hai của triều Minh.<br />
Chu Nguyên Chương có tất cả hai mươi sáu nguời con trai. Sau khi xây dựng triều<br />
Minh, ngoài hoàng thái tử ra những người còn lại đều được phong vương, sắp xếp ở các<br />
vùng yếu địa trên toàn quốc. Những thân vương này tuy không được phép can dự vào<br />
chính sự địa phương, chỉ có số ít quân đội hộ vệ nhưng do họ thường tham gia các hoạt<br />
động luyện binh và chinh chiến của triều đình nên cũng có thế lực tương đối lớn. Những<br />
thân vương hùng mạnh này đều là chú của Chu Doãn Văn. Năm Hồng Vũ cuối cùng, các<br />
công thần dũng tướng bên cạnh Chu Nguyên Chương đa số đã bị cắt giảm nên địa vị của<br />
những thân vương càng trở nên nổi trội. Sau khi Kiến Văn đế kế vị, giữa trung ương và<br />
các vị vương đã “gươm tuốt vỏ, nỏ giương dây”, các vương phủ không ngừng xuất hiện<br />
dấu hiệu mưu phản. Lúc đó con trai thứ hai Tần vương, con trai thứ ba Tấn vương của<br />
Chu Nguyên Chương đều đã chết, người có thực lực mạnh nhất là con trai thứ tư Yên<br />
vương Chu Đệ. Kiến Văn đế trao quyền Thái thường tự khanh cho hoàng tử Trừng (1350<br />
– 1402). Thượng thư bộ binh Tề Thái (1402) bí mật bàn việc tiêu diệt Chu vương. Sau đó<br />
phái Tào quốc công Lý Cảnh Long điều binh đến Hà Nam, đột kích phủ Chu vương, bắt<br />
cả nhà Chu vương đến Nam Kinh, phế làm thứ dân, đồng thời áp giải Chu vương đến Vân<br />
Nam. Tiếp đó lại tiêu trừ quân hộ vệ của Mân vương, phế Mân vương làm thứ dân, ra<br />
nghiêm chỉ phê bình Tương vương, Tương vương đóng cung tụ thiêu, phế Tề vương làm<br />
thứ dân. Chưa đầy một năm, lần lượt tiêu trừ năm vị vương Chu, Mân, Tường, Tề, Đại.<br />
Yên vương từ lâu đã thèm muốn ngôi hoàng đế không cam tâm tuân theo sự chi phối.<br />
Năm Kiến Văn thứ nhất (năm 1439), cuộc chiến tranh giữa Yên vương Chu Đệ và trung<br />
ương cuối cùng đã nổ ra. Để làm cho việc tạo phản được danh chính ngôn thuận, Yên<br />
vương đã gọi nó là “dẹp nạn”, nói rằng: “Triều đình do gian thần cầm quyền, hoàng đế gặp<br />
nạn, quân Yên vương xuất binh đến kinh sư (Nam Kinh) là để diệt bỏ gian thần, giải trừ<br />
nguy nan cho hoàng đế”. Qua bốn năm khổ chiến, vào năm Kiến Văn thứ tư (năm 1402)<br />
quân Yên vương đã đánh vào Nam Kinh. Chu Đệ phế bỏ niên hiệu Kiến Văn, gọi năm đó<br />
là năm Hồng Vũ thứ ba mươi lăm. Yên Vương cầm đầu binh mã đánh vào trong cung, liên<br />
tục thanh trừ các cung trong ba ngày. Cung nhân, nữ quan, nội quan hầu như đều bị sát<br />
<br />
hại, chỉ có những người đắc tội lớn với Kiến Văn đế là ngoại trừ. Điều Chu Đệ quan tâm<br />
nhất là phải tìm ra Kiến Văn đế, nhưng Kiến Văn đế rốt cục đã đi đâu thì không ai biết rõ<br />
được. Người thì nói Kiến Văn đế bị thiêu chết trong đám lửa, người thì nói kẻ bị thiêu chết<br />
không phải là Kiến Văn đế mà là hoàng hậu, một số cung nhân, nội thị cố ý đem thi thể<br />
của hoàng hậu trong đống than tro nói thành thi thể của Kiến Văn đế. Cũng có người nói<br />
Kiến Văn đế đã trốn đi. Nếu thực sự Kiến Văn đế đã trốn thoát thì quả là một mối đe dọa<br />
canh cánh đối với Chu Đệ. Vì Kiến Văn đế là hoàng đế hợp pháp, vẫn sẽ có lời hiệu triệu<br />
tương đối thuyết phục. Thế là, Chu Đệ phái hết đoàn này đến nhóm kia đi thăm dò, truy<br />
tìm Kiến Văn đế. Năm Vĩnh Lạc thứ năm (năm 1407), Chu Đệ sai Hồ Huỳnh mượn cớ đi<br />
tìm tiên nhân Trương Tam Phong, thực ra là đi tìm Kiến Văn đế. Trương Tam Phong,<br />
ngoại hiệu là Trương Lạp Thạp (họ Trương lôi thôi), là một đạo sĩ nổi tiếng. Họ Hồ đi dò<br />
là mất đến mười sáu, mười bảy năm, mãi đến khi Chu Đê sắp chết mới bẩm báo được một<br />
vài chi tiết. Thậm chí người triều Minh cho rằng, mục đích của Trịnh Hoài đi Tây Dương,<br />
Trần Thành đi sứ Tây Vực cũng chỉ là nhằm tìm kiếm nơi ở của Kiến Văn đế. Vậy thì, rốt<br />
cuộc Kiến Văn đế đã đi đâu vậy?<br />
Nghe nói, khi Kim Xuyên môn Nam Kinh thất thủ, Kiến Văn đế thấy tình hình nguy<br />
ngập, bèn ngẩng mặt nhìn trời kêu than, chạy cuống lên, định Từ sát. Lúc này quan biện tu<br />
viện Hàn lâm Trình Tế nói: “Chẳng thà trốn chạy còn hơn tự sát”. Thiếu giám Vương<br />
Thành đi đến, dâng lên Kiến Văn đế một chiếc hộp nhỏ. Ông ta nói: “Cao hoàng đế (Chu<br />
Nguyên Chương) khi lâm chung đã để lại chiếc hộp này tại mé đông điện Phong Hiền”.<br />
Chỉ thấy một chiếc hộp đỏ thẫm, xung quanh bọc sắt rất chắc chắn, hai chiếc khóa cũng<br />
bọc sắt. Kiến Văn đế vừa nhìn thấy đồ vật ông nội để lại, òa khóc thảm thương, vội sai<br />
người đốt hủy cung điện. Mã hoàng hậu nhảy vào đám lửa tự sát. Trình Tế đập vỡ hộp sắt,<br />
bên trong có ba tờ đồ diệp (loại giấy chứng nhận mà bộ phận quản lý tôn giáo cấp cho<br />
người ta), lần lượt viết ba cái tên Ứng Văn, Ứng Năng, Ứng Hiền và cả áo cà sa, mũ, giày,<br />
dao cạo… thứ gì cần đều có cả, còn có mười đĩnh bạc trắng, “Ứng Văn” chính là chỉ Chu<br />
Doãn Văn, bấy gì có mặt tại đó còn có Ngô vương phủ là Dương Ứng Năng, giám sát ngự<br />
sử Diệp Hi Hiền, nghĩa là “Ứng Năng, Ứng Hiền” rồi còn gì. Trong hộp còn có hai hàng<br />
chữ viết bằng màu đỏ: “Ứng Văn đi ra từ Quỷ Môn, rồi theo thủy quan ngự câu (sông<br />
nước kênh rạch) mà đi. Hoàng hôn sẽ họp nhau tại phòng tây Thần Lạc quán”.<br />
Kiến Văn đế nói: “Đây đúng là số trời! Thế là, Trình Tế xuống tóc cho Kiến Văn đế<br />
(còn có cách nói khác rằng tăng nhân Bạc Hiệp xuống tóc cho Kiến Văn đế), Dương Ứng<br />
Năng, Diệp Hi Hiền cũng đều cạo đầu, mặc áo cà sa chuẩn bị ra đi. Kiến Văn đế lặng lẽ ra<br />
khỏi cung từ Quỷ Môn, lúc đó vừa có một chiếc thuyền đang đợi ở bên bờ, người chèo<br />
thuyền là đạo sĩ Vương Thăng của Thần Lạc quán, ông nhìn thấy Kiến Văn đế bước lại<br />
bèn khấu đầu tung hô vạn tuế, nói:<br />
– Thần vốn biết bệ hạ sẽ tới. Cao hoàng đế đã thác mộng cho thần, để thần hôm nay<br />
đợi ở đây.<br />
Họ lên thuyền đi tới Thái Bình môn, Vương Thăng lại dẫn họ vào Thần Lạc quán lúc<br />
này đang là hoàng hôn, lát sau Dương Ứng Năng, Diệp Hi Hiền cũng tới. Kiến Văn đế nói<br />
với mọi người:<br />
– Từ nay về sau chúng ta chỉ xưng hô với nhau là sư phụ, đồ đệ, không cần phải câu nệ<br />
lễ tiết vua tôi nữa.<br />
<br />
Vốn có rất nhiều người đều muốn đi theo Kiến Văn đế, Thị lang bộ binh Liêu Bình<br />
nói:<br />
– Người đi theo không cần nhiều, càng không thể cần nhiều, chỉ cần những người<br />
không vướng bận gia thất, có sức khỏe có thể đảm nhiệm được việc hộ vệ, chỉ năm người<br />
là đủ, những người còn lại ở lại các nơi ứng viện.<br />
Thế là hẹn định ba người không rời bên cạnh Kiến Văn đế, Dương Ứng Năng, Diệp Hi<br />
Hiền đều được gọi là tì khâu (chỉ nam tăng xuất gia tu hành), Trình Tế là đạo nhân, sáu<br />
người qua lại trên đường cung cấp vận chuyển quần áo lương thực. Từ đó Kiến Văn đế bắt<br />
đầu cuộc sống lưu vong. Lúc này kinh thành tuy thất thủ nhưng đa số đất đai vẫn là của<br />
Kiến Văn đế, ông không tính kế hoạch phản kích, chỉ một đi không trở lại, vì vậy người ta<br />
còn gọi việc đào tẩu của Kiến Văn đế là “nhường nước”.<br />
Đoàn Kiến Văn đế đi qua các vùng Vân Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quý<br />
Châu, Chiết Giang, mai danh ẩn tích, dựng am mà ở, hóa duyên mà ăn, vừa phải trốn tránh<br />
sự truy đuổi của quân triều đình, vừa phải phòng bị bọn cường đạo cướp bóc, tình hình hết<br />
sức thê thảm. Năm Vĩnh Lạc thứ mười (năm 1412), Dương Ứng Năng, Diệp Hi Hiền lần<br />
lượt qua đời, ở bên Kiến Văn đế chỉ còn Trình Tế. Kiến Văn đế lại thu thập một đệ tử gọi<br />
là Ứng Tuệ. Mùa đông năm Vĩnh Lạc thứ mười tám (năm 1420), họ đến Tứ Xuyên, du<br />
lãm khắp danh lam thắng cảnh ở khắp nơi. Khi lên núi Nga Mi, Kiến Văn có viết câu thơ:<br />
Đăng cao bất đãi đông kiều thủ <br />
Đản kiến vân tòng cô quốc phi. <br />
Tạm dịch:<br />
Lên cao không ngóng về đông nữa <br />
Vẫn thấy mây từ cố quốc bay. <br />
Năm Vĩnh Lạc thứ hai mươi mốt (năm 1423), họ đến Hồ Bắc, lên núi Chương Đài,<br />
Kiến Văn làm thơ điếu cổ, có câu:<br />
Sở ca Triệu vũ kim hà tại? <br />
Duy kiến hàn nhà nhiễu thụ đề. <br />
Tạm dịch:<br />
Sở lời, triệu điệu giờ đâu tá? <br />
Chỉ thấy chuyền cây qua rét gào. <br />
Họ du ngoạn Tinh Xuyên các ở Lạc Dương, Kiến Văn đế lại viết rằng:<br />
Giang ba do dũng hám <br />
Lâm ái dục phiến sầu. <br />
Tạm dịch:<br />
Dưới sông sóng ngầm rú <br />
Rừng bốc khói thêm sầu. <br />
Đến nơi nào Kiến Văn đế đều để lại dấu tích ở nơi đó. Trong hơn hai chục năm của<br />
<br />
niên hiệu Vĩnh Lạc, Chu Đế không ngừng truy đuổi Kiến Văn đế. Hồ Huỳnh thường mật<br />
báo hành tích của Kiến Văn đế với hoàng đế. Năm Vĩnh Lạc thứ hai mươi mốt, Chu Đệ<br />
dẫn binh Bắc chinh Mông Cổ, đóng trại ở Tuyên Phủ (nay là huyện Tuyên Hóa, Hà Bắc),<br />
một buổi tối Chu Đệ đã đi ngủ, nghe nói có Hồ Huỳnh từ phía nam tới, liền lập tức khêu<br />
đèn vời ông ta vào. Đêm đó Hồ Huỳnh và Chu Đệ nói chuyện đến tận canh bốn. Chu Đệ<br />
được biết ý định không hề muốn khôi phục của Kiến Văn đế nên cũng yên tâm.<br />
Năm Vĩnh Lạc thứ hai mươi hai (năm 1424), Chu Đệ qua đời. Năm sau con trai Chu<br />
Đệ là Nhân Tông cũng qua đời. Kiến Văn đê nói:<br />
– Từ nay về sau chúng ta có thể tùy ý một chút rồi.<br />
Mùa đông năm Tuyên Đức thứ hai (năm 1427), họ lại đến Tứ Xuyên. Kiến Văn đế đề<br />
thơ ở chùa Vĩnh Khánh:<br />
Tích trượng lai du tuế nguyệt thâm, <br />
Sơn vân thủy nguyệt bạn nhàn ngâm. <br />
Trần tâm tiêu tận vô gia tử, <br />
Bất thụ nhân gian vât sắc xâm. <br />
Tạm dịch:<br />
Gậy tích trượng chơi cùng tháng năm <br />
Mây ngàn trăng nước nhàn tản ngâm <br />
Lòng này xóa sạch không vướng nữa. <br />
Chẳng muốn cùng ai nhuốm bụi trần. <br />
Tháng ba năm Chính Thống thứ năm (năm 1440), Kiến Văn đế nói với Trình Tế:<br />
– Ta quyết ý đi về phía đông, ngươi sao không xem cho ta một quẻ?<br />
Trình Tế vừa tính toán đã không kìm được vỗ án kêu lớn:<br />
– Đại hung! Hiện nay can chi của Thái tuế đều thuộc kim, hỏa tất khắc nó. Đến mùa hè<br />
đại khái là sẽ rất nguy hiểm.<br />
Lúc này Kiến Văn đế lưu vong đã tròn ba mươi chín năm.<br />
Về sau đoàn của họ đến phủ Tứ Ân của Quảng Tây, trú tại một ngôi miếu vắng vẻ.<br />
Một hôm, một tăng nhân ở cùng ông đã ăn cắp một số bản thảo của ông, đi thẳng tới đại<br />
đường phủ Từ Ân, nói với tri phủ Sầm Anh:<br />
– Ta là Kiến Văn đế!<br />
Tri phu Sầm Anh thấy một lão tăng râu tóc bạc phơ tự xưng là hoàng đế Kiến Văn thì<br />
không khỏi thất kinh.<br />
Bốn chục năm nay đâu đâu cũng có những truyền thuyết về Kiến Văn đế. Người thì<br />
nói Vĩnh Lạc đế dẫn binh vào Nam Kinh, trong cung bốc cháy, Kiến Văn đế đã bị chết<br />
thiêu. Người thì nói, thật ra Kiến Văn đế còn chưa chết, bốn chục năm nay vẫn du ở vùng<br />
Vân Nam, Quý Châu, Ba Thục, nào ngờ hôm nay lại xuất hiện trước mặt, bất luận người<br />
này thật hay giả cung đều phải báo cáo triều đình.<br />
<br />
Triều đình nhận được tấu báo của phu Tứ Ân, hạ chiếu tống giải vị tăng nhân nọ cùng<br />
những người đồng hành về kinh sư (nay là Bắc Kinh), tất nhiên Kiến Văn đế cũng ở trong<br />
đó, Trình Tê đi tháp tùng. Lúc này đang là giữa mùa hạ, ứng với quẻ xem lúc trước. Tháng<br />
chín năm ấy họ bị đưa đến Bắc Kinh. Triều đình phái Ngự sử tiến hành thẩm vấn. Vị tăng<br />
nhân kia nói:<br />
– Ta đã ngoài chín mươi tuổi, sắp chết rồi, chẳng qua ta muốn được táng bên cạnh ông<br />
nội mà thôi.<br />
Các ngự sử suy đoán, Kiến Văn đế sinh vào năm Hồng Vũ thứ mười, đến nay mới chỉ<br />
có sáu mươi tư tuổi, làm gì đã đến chín mươi? Vị tăng nhân cùng đường đành nói ra sự<br />
thực, ông ta vốn là Dương Ưng Tường, người Bách Sa, Quân Châu, Hà Nam. Triều đình<br />
phán xử ông ta tội chết, mười hai vị tùy tùng đều bị phán xử đi trấn giữ biên giới. Lúc này<br />
Kiến Văn đế rất muốn trở về miền Nam bèn tiết lộ thực tình với ngự sử. Các ngự sử mật<br />
báo tình hình với hoàng đế, thế là họ phái viên thái giám giả Ngô Lượng vốn ở trong cung<br />
Kiến Văn trước đây đến thăm do thực hư. Vừa nhìn thấy Ngô Lượng, Kiến Văn đế nói<br />
ngay:<br />
– Ngươi chẳng phải là Ngô Lượng hay sao?<br />
Ngô Lượng nói:<br />
– Không phai. Kiến Văn đế nói:<br />
– Năm đó ta ở tiện điện, ngươi tới dâng cơm, lần đó là ăn thịt ngỗng, ta vứt một miếng<br />
thịt xuống đất, ngươi tay cầm binh, ăn miếng thịt như con chó. Còn nói không phải là Ngô<br />
Lượng à?<br />
Ngô Lượng nghe thế phục xuống đất khóc lớn. Trên ngón chân trái của Kiến Văn đế<br />
có một cái nốt ruồi, Ngô Lượng tiến đến gần ôm lấy chân xem hồi lâu rồi lại khóc đến<br />
mức không ngẩng đầu dậy nổi. Ngô Lượng tự thấy đã phản bội Kiến Văn đế, vô cùng hối<br />
hận, sau khi lui về đã treo cổ tự sát.<br />
Kiến Văn đế được đón vào trong Tây cung. Trình Tế nghe tin cảm thán nói:<br />
– Đến đây ta coi như đã làm hết chức trách của thần tử rồi.<br />
Thế là ông trở về miền Nam, thiêu hủy những am chùa mà Kiến Văn đế từng ở, giải<br />
tán mọi người, người trong cung đều gọi ông là lão Phật. Về sau ông hưởng hết tuổi thọ<br />
trong cung, được chôn ở Tây Sơn, Bắc Kinh. Mộ địa của ông vừa không có phong thô vừa<br />
không trồng cây, cái gọi là “bất phong bất thụ” chính là lễ táng đối với thứ dân thời cổ đại.<br />
Nghe nói Tây Sơn, Bắc Kinh có mộ Kiến Văn đế, ở tại vùng Hồng Sơn khẩu đằng sau<br />
Di Hòa viên. Trên tấm bia trước mộ khắc dòng chữ “Tiền Minh thiên hạ đại sư chi mộ”.<br />
Ngoài ra tại một nơi cách Phụ Thành môn của Bắc Kinh năm dặm về phía Tây Bắc còn có<br />
tháp Y Bát của Kiến Văn đế, bên cạnh tháp có cái am (trong Viện nghiên cứu tranh Trung<br />
Quốc hiện nay tháp Y Bát vẫn còn, am không còn nữa). Lại truyền rằng trong chùa Sư Sơn<br />
Phất ở Vũ Định, Vân Nam có một pho tượng “Minh thiên hạ đại sư” pháp tướng cao cổ,<br />
thần khí thanh tao, chính là chân dung của Kiến Văn đế. Còn có một cách nói khác là Kiến<br />
Văn đế sau khi trốn khỏi Nam Kinh đã làm sư ở chùa Phổ Cứu thuộc Quy Sơn, huyện<br />
Ngô, Tô Châu, sau khi chết được chôn trên sườn núi sau am Hoàng Gia ở núi Khung<br />
Long, huyện Ngô. Ngoài ra người Tây Vực tương truyền, Đại Hô Đồ Khắc Đồ của Sát<br />
<br />