BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SUY THOÁI CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
lượt xem 167
download
Môi trường là nơi con người khai thác nguồn vật liệu và năng lượng cần thiết cho hoạt động sản xuất và cuộc sống như đất, nước, không khí, khoáng sản và các dạng năng lượng như gỗ, củi, nắng, gió,... Các sản phẩm công, nông, lâm, ngư nghiệp và văn hoá, du lịch của con người đều bắt nguồn từ các dạng vật chất tồn tại trên trái đất và không gian bao quanh trái đất.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SUY THOÁI CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM
- BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU VÀ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SUY THOÁI CÁC NGUỒN TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN VÀ ĐÓI NGHÈO Ở VIỆT NAM Môi trường là nơi con người khai thác nguồn vật liệu và năng lượng c ần thi ết cho hoạt động sản xuất và cuộc sống như đất, nước, không khí, khoáng s ản và các dạng năng lượng như gỗ, củi, nắng, gió,... Các sản phẩm công, nông, lâm, ng ư nghiệp và văn hoá, du lịch của con ng ười đều bắt ngu ồn từ các d ạng v ật ch ất t ồn tại trên trái đất và không gian bao quanh trái đất. Các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin sau mỗi lần s ử d ụng đ ược tu ần hoàn quay trở lại dạng ban đầu được gọi là tài nguyên tái tạo. Ví d ụ nh ư nước ng ọt, đ ất, sinh vật, v.v... là loại tài nguyên mà sau một chu trình s ử d ụng s ẽ tr ở l ại d ạng ban đầu. Trái lại, các nguồn năng lượng, vật liệu, thông tin bị mất mát, biến đ ổi ho ặc suy thoái không trở lại dạng ban đầu thì được gọi là tài nguyên không tái t ạo. Ví d ụ nh ư tài nguyên khoáng sản, gien di truyền. Tài nguyên khoáng s ản sau khi khai thác t ừ mỏ, sẽ được chế biến thành các vật liệu của con người, do đó s ẽ c ạn kiệt theo thời gian. Tài nguyên gen di truyền của các loài sinh v ật quý hi ếm, có th ể m ất đi cùng với sự khai thác quá mức và các thay đổi về môi trường sống. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người ngày càng tăng c ường khai thác các dạng tài nguyên mới và gia tăng số lượng khai thác, tạo ra các d ạng s ản ph ẩm mới có tác động mạnh mẽ tới chất lượng môi trường s ống và biến đổi khí hậu toàn cầu. I. BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: 1. Biến đổi khí hậu là gì? Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu Trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá m ức các b ể h ấp t hụ khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đ ất li ền khác. Nhằm hạn chế sự biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto nhằm h ạn ch ế và ổn định sáu loại khí nhà kính chủ yếu bao gồm: CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs và SF6. CO2 phát thải khi đốt cháy nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và là nguồn khí nhà kính chủ yếu do con người gây ra trong khí quyển. CO2 cũng sinh ra từ các hoạt động công nghiệp như sản xuất xi măng và cán thép. CH4 sinh ra từ các bãi rác, lên men thức ăn trong ruột động vật nhai lại, hệ thống khí, dầu tự nhiên và khai thác than. N2O phát thải từ phân bón và các hoạt động công nghiệp. HFCs được sử dụng thay cho các chất phá hủy ôzôn (ODS) và HFC-23 là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất HCFC-22. PFCs sinh ra từ quá trình sản xuất nhôm.
- SF6 sử dụng trong vật liệu cách điện và trong quá trình sản xuất magiê. “Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo”. 2. Biểu hiện của thay đổi khí hậu: - Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung. - Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất. - Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển. - Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người. - Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác. - Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển. - Các quốc gia trên thế giới đã họp tại New York ngày 9/5/1992 và đã thông qua Công ước Khung về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc. Công ước này đặt ra mục tiêu ổn định các nồng độ khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp của con người đối với hệ thống khí hậu. Mức phải đạt nằm trong một khung thời gian đủ để các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với sự thay đổi khí hậu, bảo đảm việc sản xuất lương thực không bị đe doạ và tạo khả năng cho sự phát triển kinh tế tiến triển một cách bền vững. 3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu: Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay, tiêu bi ểu là sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là chủ yếu do hoạt động của con người. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con ng ười đã s ử d ụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hi ệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng đ ược khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và tan băng (kho ảng 18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 -200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con s ố 300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với th ời kỳ ti ền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua. Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghi ệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn c ầu l ớn g ấp nhi ều l ần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển. Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho th ấy, vi ệc tiêu th ụ năng
- lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào s ự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, s ản xu ất nông nghi ệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn l ại (3%) là từ các hoạt động khác. Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 t ấn, g ấp kho ảng 17 l ần ở Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ. Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn c ầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800 triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn c ầu so v ới 7 t ỷ t ấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua. Một số n ước phát tri ển dựa vào đó để yêu cầu các nước đang phát triển cũng ph ải cam k ết theo Công ước Biến đổi khí hậu. Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát th ải 98,6 tri ệu tấn CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình c ủa th ế gi ới là 4,5 tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 t ấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 t ấn, Lào 0,2 t ấn). Nh ư vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. D ự tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 tri ệu t ấn CO2 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế giới, nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng phát thải toàn c ầu; các nước châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu. Đó là điều mà các nước đang phát triển nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto. Chính vì thế, một nguyên tắc cơ bản, đầu tiên được ghi trong Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH là: “Các bên phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng, phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có phân biệt và bên các nước phát triển phải đi đầu trong việc đấu tranh chống BĐKH và những ảnh hưởng có hại của chúng”. Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm 78% kh ối lượng, khí oxy chiếm 21%, còn lại khoảng 1% các khí khác như argon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêon, hêli, hyđrô, ôzôn,… và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc biệt là khí CO2, CH4, NOx, và CFCs - m ột lo ại khí m ới ch ỉ có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát triển, là những khí có vai trò r ất quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Trước hết, đó là vì các ch ất khí nói trên hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một ph ần l ượng bức x ạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó h ạn ch ế l ượng b ức x ạ
- hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho m ặt đ ất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời chiếu tới mặt đất. Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quy ển và đ ược g ọi là các khí nhà kính tự nhiên. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đ ất c ủa chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 33oC, tức là nhiệt độ trung bình trái đất s ẽ khoảng 18oC. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là “Hiệu ứng nhà kính”. Ngoài ra, khí ôzôn tập trung thành một lớp mỏng trên tầng bình lưu của khí quy ển có tác dụng h ấp th ụ các b ức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái đất và thông qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10.000 năm, nồng độ các chất khí nhà kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa th ạch đã tăng hàng năm trung bình tỷ lệ từ 6,4 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 23,5 tỷ tấn CO2) trong nh ững năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ từ 2000 – 2005. Các nhân tố khác, trong đó có các sol khí (b ụi, cacbon h ữu c ơ, sulphat, nitrat…) gây ra hiệu ứng âm (lạnh đi) với lượng bức xạ cưỡng b ức t ổng c ộng tr ực tiếp là 0,5W/m2 và gián tiếp phản xạ của mây là 0,7W/m2; thay đổi s ử d ụng đ ất làm thay đổi suất phản xạ bề mặt, tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng được xác định bằng 0,02W/m2; trái lại, sự gia tăng khí ôzôn trong t ầng đ ối lưu do s ản xuất và phát thải các hóa chất và sự thay đổi trong hoạt động của mặt trời trong thời kỳ từ năm 1750 đến nay được xác định là tạo ra hi ệu ứng d ương đ ối v ới t ổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 và 0,12W/m2. Như vậy, tác động tổng cộng của các nhân tố khác, ngoài khí nhà kính, đã tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức âm. Vì thế, trên thực tế, sự tăng lên của nhi ệt độ trung bình toàn c ầu quan tr ắc được trong thời gian qua đã bị triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên c ủa riêng hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhi ều hơn so với những gì đã quan trắc được, và điều đó càng kh ẳng định sự bi ến đổi khí
- hậu hiện nay là do các hoạt động của con người ch ứ không ph ải do quá trình t ự nhiên. Nguyên nhân của nước biển dâng Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao gồm triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có th ể cao hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của đại dương và các yếu tố khác. Mực nước biển được đo thông qua h ệ th ống thi ết b ị đo triều ký đặt tại các trạm hải văn hoặc các máy đo độ cao vệ tinh. Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ không khí và nhi ệt đ ộ n ước bi ển trung bình toàn cầu, sự tan chảy nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu. Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn n ở nhi ệt c ủa các đại dương, các sông băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các ngu ồn chứa nước trên đất liền. Các kết quả nghiên cứu gần đây đưa ra dự báo mực nước biển sẽ cao hơn từ 0,5 – 1,4m vào cuối thế kỷ XXI. Hiểm họa biến đổi khí hậu toàn cầu đã được Liên hiệp quốc quan tâm, thể hiện ở việc đưa ra Nghị định thư Kyoto (1997) nhằm giảm khí thải gây ra hiệu ứng nhà kính, đẩy nhanh tốc độ nóng lên của khí hậu, mà nguyên thủ 165 nước, trong đó có Việt Nam, đã phê chuẩn. Hiện tượng lạnh đi và nóng lên của khí hậu Trái đất dẫn đến sự hình thành các thời kỳ băng hà và gian băng trong lịch sử Trái đất kỷ Đệ tứ, đã được các nhà khoa học trên thế giới và Việt Nam ghi nhận với nhiều bằng chứng cụ thể. Nếu con người không hạn chế các tác động xấu đến môi trường, không quan tâm nghiên cứu nhằm đề ra các biện pháp phòng tránh hữu hiệu cho dân tộc mình, thì hệ lụy có thể nói là khôn lường. Trong mấy thập kỷ qua, nhân loại đã và đang trải qua các bi ến đ ộng b ất th ường của khí hậu toàn cầu. Trên bề mặt Trái đất, khí quy ển và th ủy quy ển không ng ừng nóng lên làm xáo động môi trường sinh thái, đã và đang gây ra nhi ều h ệ l ụy v ới đ ời sống loài người. Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện tượng này đã được các nhà khoa học ở những trung tâm nổi tiếng trên thế giới tiến hành từ đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc tri ệu tập t ại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định khung và Chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi” nhanh chóng của bầu khí quy ển Trái đ ất, v ốn được coi là nguyên nhân chủ yếu của sự gia tăng hiểm họa. Tổ chức nghiên cứu liên chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành l ập, thu hút sự tham gia của hàng ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội ngh ị Kyoto năm 1997, Nghị định thư Kyoto đã được thông qua và đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ 165 quốc gia phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực t ừ 10/2/2005. Việt Nam đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto ngày 25/9/2005. Mới đây, h ội ngh ị l ần thứ 12 của 159 nước tham gia hiệp định khung về khí hậu, phiên h ọp th ứ 2 c ủa các bên tham gia Nghị định thư Kyoto đã được Liên hiệp quốc t ổ ch ức t ại Nairobi, th ủ đô Kenya.
- 4. Hiện tượng và bản chất tăng nhiệt độ bề mặt trái đất: Các báo cáo của IPCC và nhiều trung tâm nghiên cứu có uy tín hàng đ ầu trên th ế giới công bố trong thời gian gần đây cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin và d ự báo quan trọng. Theo đó, nhiệt độ trung bình trên bề mặt địa cầu ấm lên gần 1°C trong vòng 80 năm (từ 1920 đến 2005) và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005). Mới đây, ông Mark Lowcok, quan chức của Bộ Phát triển Quốc tế Anh đã đến thăm Việt Nam và có buổi thuyết trình về “ Báo cáo Stern” do các nhà khoa học Anh xây dựng, được chính phủ Anh công bố về vấn đ ề bi ến đ ổi khí h ậu toàn cầu. Báo cáo cho rằng nếu không thực hiện được chương trình hành động giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định th ư Kyoto, đ ến năm 2035 nhi ệt độ bề mặt địa cầu sẽ tăng thêm 2°C. Về dài hạn, có hơn 50% kh ả năng nhiệt độ tăng thêm 5°C. Hiện tại, Trái đất đang từng ngày từng giờ nóng lên với tốc độ như vậy với chiều hướng có thể còn nhanh hơn nữa. Vậy, nguyên nhân nào đã gây ra hiện tượng vỏ Trái đất ấm lên ? Dưới đây tổng hợp những kiến giải chính rút ra từ các công trình nghiên cứu và kết quả thảo luận ở các hội nghị quốc tế. Loại ý kiến thứ nhất được đại đa số các nhà khoa học nhất trí, đó là việc tăng hàm lượng khí CO2 và các loại khí thải tạo hiệu ứng nhà kính do hoạt động con người gây ra trong bầu khí quyển Trái đất. Nguyên nhân này chi ếm 90, th ậm chí 99% mức gia tăng của nhiệt độ bề mặt Trái đất hiện đang được báo đ ộng. Rõ ràng mối liên quan giữa quá trình gia tăng hàm lượng CO 2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính do con người gây ra với sự gia tăng nhiệt độ bề m ặt Trái đ ất đã đ ược minh chứng qua các số liệu mấy thế kỷ và nhất là trong vài thập k ỷ gần đây. Nhi ệt độ bề mặt Trái đất có được là nhờ hấp thụ nhiệt từ Mặt trời và nh ận dòng nhiệt của chính mình tỏa ra từ bên trong lòng đất. Sự có mặt c ủa m ột hàm l ượng khí CO 2 cần thiết trong bầu khí quyển vốn là tấm áo giáp ngăn chặn bức x ạ nhi ệt (b ức x ạ hồng ngoại) từ Trái đất thoát vào vũ trụ mênh mông lạnh l ẽo. Thi ếu nó thì m ặt đ ất sẽ không có được một nhiệt độ điều hòa cho sự sinh sôi phát triển s ự sống. Các công trình nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại cho chúng ta bi ết su ốt thiên niên kỷ trước khi có cuộc cách mạng công nghiệp, hàm lượng khí CO 2 trong khí quyển dao động ở mức 280 phần triệu (ppm). Tuy nhiên, tính từ đ ầu th ế k ỷ XIX đ ến nay hàm lượng đó đã tăng liên tục đến 360 ppm. Số li ệu quan tr ắc trong 4 th ập k ỷ g ần đây cho thấy, cứ mỗi thập kỷ hàm lượng CO2 trong khí quyển lại tăng 4%. Nói cách khác, hiệu ứng nhà kính do khí CO 2 gây ra là quá mức cần thiết, gây tăng nhanh nhiệt độ bề mặt địa cầu kéo theo nhiều hệ lụy như đã nêu trên. Tôi cho rằng những cứ liệu và luận giải đã được nêu ra là đầy sức thuyết phục. Điều đáng tiếc là cho đến nay, Hoa Kỳ là nước xả khí thải gây hiệu ứng nhà kính nhiều nhất vào khí quyển (trên 30% tổng khí thải công nghiệp) vẫn chưa phê chuẩn Ngh ị định thư Kyoto. Loại ý kiến thứ hai tuy thừa nhận vấn đề gia tăng nhiệt độ do hiệu ứng nhà kính, song cho rằng cần nhấn mạnh hơn đến chu kỳ nóng lên c ủa Trái đ ất do ho ạt đ ộng nội tại. Hiện tượng nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên và lạnh đi vốn là hiện tượng tự nhiên xảy ra có tính chu kỳ trong lịch sử hình thành và phát tri ển của Trái đ ất. Không phải chỉ bây giờ, lịch sử Trái đất hàng triệu triệu năm đã tr ải qua nhi ều l ần nóng lên rồi lại lạnh đi kéo theo những biến động to lớn trong đời sống sinh v ật
- trên Trái đất, làm thay đổi cả diện mạo địa hình lục địa và đại dương. Tính từ 1,6 triệu năm đến nay đã có 5-6 chu kỳ biến động lớn. Đó là các th ời kỳ băng hà kéo theo mực nước biển hạ thấp (biển lùi) và các thời kỳ gian băng (băng tan) kéo theo mực nước biển dâng cao (biển tiến). Vào các thời kỳ băng hà, nhi ệt đ ộ b ề mặt Trái đất khô lạnh. Vào thời kỳ gian băng nhiệt độ bề mặt Trái đất đan xen giữa nóng ẩm và khô hạn. Vào các thời kỳ đó, biên độ dao động của nước bi ển (dâng, h ạ) lên đ ến hàng chục, hàng trăm mét. Mỗi chu kỳ kéo dài hàng vạn, ch ục vạn năm. M ỗi chu kỳ như vậy còn được chia ra các chu kỳ ngắn hơn với thời gian kéo dài nhiều trăm năm đến nghìn năm với biên độ dao động mực nước biển 2-3 m ho ặc h ơn. Khí th ải CO 2 làm tăng hiệu ứng nhà kính là hiện tượng do con người gây ra trong m ấy trăm năm gần đây. Vì vậy, theo tôi cả hai nguyên nhân trên đều có c ơ sở th ực t ế và chúng cùng tác động gây ra tình trạng Trái đất nóng lên một cách bất th ường nh ư hi ện nay. Do đó, cần phải nhìn nhận hiện tượng nóng lên của Trái đất hiện nay b ằng quan điểm biện chứng: chu kỳ nóng ấm của Trái đất mang tính nội sinh và ngoại sinh tự nhiên được đẩy nhanh và trở nên nghiêm trọng hơn do nh ững tác đ ộng c ủa khí thải công nghiệp và hiệu ứng nhà kính. 5. Hiện tượng và bản chất dâng cao mực nước đại dương: Hệ quả đồng hành với việc bề mặt Trái đất nóng lên luôn luôn là sự tan những khối băng vĩnh cửu ở hai đầu địa cực và trên đỉnh những dãy núi cao. Nhưng có lẽ chưa bao giờ tốc độ tan băng lại diễn ra với tốc độ nhanh và quy mô l ớn nh ư ngày nay. Thử điểm một vài tin chính: ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa h ọc tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở B ắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m 2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Các sông băng s ẽ h ầu nh ư bi ến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050 (nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay). Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 tri ệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990). Băng tan và nhiệt độ tăng làm nở thể tích trung bình của n ước được coi như hai nguyên nhân chính dẫn đến mực nước đại dương cao dần lên, làm tràn ng ập các đồng bằng thấp ven biển. Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy mức tăng trung bình trong vòng 50-100 năm qua là 1,8 mm/năm. Nh ưng ch ỉ trong 12 năm gần đây, các số liệu đo đạc của vệ tinh NASA cho thấy xu th ế bi ển dâng đang gia tăng rất nhanh, với tốc độ trung bình là 3 mm/năm. Báo cáo của IPCC, do hàng chục nhà khoa học soạn thảo và hơn 2000 nhà khoa học từ 130 quốc gia tham gia đóng góp ý kiến, đưa ra dự báo: đến cuối th ế kỷ XXI, nhi ệt độ b ề mặt Trái đ ất s ẽ tăng thêm từ 1,4 đến 4°C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28-43 cm. Nhi ều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước biển đang dâng nhanh h ơn nhi ều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra với tốc độ đáng kinh ngạc trong th ời gian gần đây. Nhà địa lý học Richard Alley ở Đại h ọc Pennsylvania, Hoa Kỳ nói: Chỉ cần 15% lớp băng ở Greenland bị tan cũng tạo ra một kh ối nước m ới trong các đại dương đủ để làm ngập tiểu bang Florida của Hoa Kỳ và nhi ều vùng duyên h ải khác trên thế giới.
- II. ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐỐI VỚI VIỆT NAM Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia trên th ế gi ới bị ảnh hưởng n ặng n ề nh ất do biến đổi khí hậu. Riêng năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra trên toàn quốc ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng. 73% dân số bị ảnh hưởng. Tại hội thảo liên quan đến vấn đề biến đổi khí hậu do Bộ Nông nghi ệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) tổ chức, Bộ trưởng Cao Đức Phát nh ận đ ịnh: 73% dân số, chủ yếu là người nghèo (liên quan đến 6 lĩnh v ực chính trong ngành NN&PTNT là: nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, thuỷ sản thu ỷ lợi và phát triển nông), là đối tượng chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu nhiều nhất. Hiện tượng El Nino đã gây ra hạn hán nghiêm trọng tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Bộ với thiệt hại 312 triệu USD. Ở Trung Bộ, những năm có La Nina, số lượng trận lũ tăng 1,4 lần, hạn hán đông xuân thường xảy ra nghiêm trọng. Trong 5 năm gần đây, các tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng liên tục phải đối phó với h ạn hán gay g ắt do m ực nước sông Hồng liên tục xuống thấp đến mức lịch sử. 10 năm qua, nhiều đợt hạn hán đã hoành hành gây thiệt hại nặng nề đối với s ản xuất nông lâm nghi ệp. Trong khi đó, bão lũ lại liên tiếp xảy ra ở các địa phương khác. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ riêng trong năm 2007, tổng thiệt hại do thiên tai gây ra ở 50 t ỉnh thành phố trên cả nước ước tính lên tới 11.600 tỷ đồng. Cùng với đó là gần 440 người chết, mất tích; hàng trăm nghìn ha lúa bị hư hại; hàng ch ục nghìn công trình dân sinh, thủy lợi bị phá hủy; tình trạng thiếu đói xảy ra liên miên;... Bộ Tài nguyên - Môi trường chính thức thông báo: trong thập kỷ tới, khoảng từ năm 2010-2020, nhiệt độ trung bình của Việt Nam sẽ tăng không dưới 1,5 độ C; số trận lũ lụt trên cả nước sẽ tăng khoảng 20%. TS Nguyễn Hữu Ninh cảnh báo: Việt Nam có hai thành phố ven biển lớn nhất là Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi biến đổi khí hậu trong vòng 20-50 năm tới. Như những trận triều cường lịch sử ở TPHCM cuối năm qua, chủ yếu là do ảnh hưởng của nước biển dâng và gia tăng nhiệt độ toàn cầu. 1. Biến đổi khí hậu và những ảnh hưởng đến đời sống của con người: Khí hậu là yếu tố sống còn cho sự sinh tồn trên trái đất vì nó ảnh hưởng đến sự an toàn thực phẩm, cuộc sống, tài sản, nguồn nước và sự phát triển bền vững. Ngoài ra, trong một phạm vi nhất định, khí hậu còn có tác động đến tâm trạng, tính cách, thậm chí cả tư duy và văn hóa của con người. Tuy nhiên, đã có những bằng chứng ngày càng rõ nét là con người đã và đang làm thay đổi những đặc tính của lớp khí quyển mỏng manh bao quanh trái đất có liên quan đến khí hậu mà nó tạo ra. Chúng ta đã biết đến những biến đổi khí hậu đã xảy ra trong quá khứ. Tuy nhiên, những biến đổi đó là do những nguyên nhân tự nhiên. Những biến đổi gần đây theo số liệu đo đạc được trong hơn một thế kỷ qua cho thấy nhiệt độ trên toàn cầu tăng lên 0,60C. Sự nóng lên này được ghi nhận có mối liên quan với sự tăng nồng độ khí CO2 lên 32% về thể tích tính từ năm 1750 đến cuối năm 2001. Cùng thời gian đó nồng độ khí Mê-tan trong khí quyển tăng 151%, Ô-xít-ni-tơ tăng 170%. Kết quả là
- độ dày lớp băng ở Bắc Băng Dương và ở Nam Cực giảm 40% làm cho mực nước biển trên toàn cầu được nâng lên 10-20 cm. Hơn 30 năm qua, những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lụt, hạn hán,... đã xảy ra nhiều nơi trên thế giới mà điển hình là thập niên 90 của thế kỷ 20, đe dọa nghiêm trọng đến đời sống của 1,2 tỉ người dân sống dựa vào đất đai, kèm theo đó là những biến đổi nghiêm trọng của hệ động, thực vật trên khắp hành tinh của chúng ta. Sự biến đổi khí hậu cũng làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người bằng nhiều đường bởi các loại truyền bệnh trung gian (vi trùng, côn trùng), các tác nhân gây bệnh, chất lượng nước và không khí,... Các nhà khoa học đã tính được rằng, trong tương lai nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu sẽ tăng 1,4 – 5,80C, mực nước biển sẽ dâng từ 9 – 88 cm trong thời kỳ từ năm 1990-2100, làm ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế, xã hội ở những vùng đất thấp duyên hải, các hải cảng, một số vùng đất nông nghiệp, nguồn nước ngọt và các khu du lịch. Cũng trong thế kỷ 21 mưa sẽ tăng mạnh mẽ hơn ở vùng vĩ độ vừa và cao, ngược lại ở vùng có vĩ độ thấp mưa sẽ giảm ở một số khu vực này nhưng lại tăng mạnh ở một số khu vực khác, làm cho tình hình hạn hán, lũ lụt ngày càng trở nên phức tạp hơn. Tỉnh Bình Định cũng nằm trong xu thế biến đổi khí hậu như trên. Theo các tài liệu thống kê có được ở Bình Định từ những năm 60 của thế kỷ trước trở lại đây đã cho thấy sự tăng trưởng nhiệt độ trung bình tháng giêng là 0,50C, trong tháng 7 là 0,70C. Những hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, lụt, hạn hán, diễn biến phức tạp và khốc liệt hơn, mức độ thảm họa gây ra cho nhân dân trong tỉnh nhiều hơn; điển hình là các trận lụt trong các năm 1996, 1999, các trận bão ở các năm 1995, 2001 đã gây thiệt hại cho nền kinh tế của tỉnh hàng nghìn tỉ đồng và hàng trăm người thiệt mạng. Tình trạng ít mưa kéo dài trong những năm 1993, 1997, 1998, 2001 gây hạn hán, ảnh hưởng lớn đến nền sản xuất của nhân dân. Sự ô nhiễm nguồn nước đưa đến sự biến đổi hệ sinh thái của vật nuôi, cây trồng và sức khỏe của nhân dân ngày càng thể hiện rõ nét ở Bình Định. Trong tương lai, tốc độ phát triển công nghệ tiên tiến sẽ dẫn đến giảm độ bất định của khí hậu và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của chúng ta. Các nhà khoa học đang nghiên cứu các giải pháp công nghệ để giải quyết mối quan hệ giữa hoạt động kinh tế của con người với các yếu tố môi trường, ví dụ sử dụng năng lượng sạch trong đời sống. 2. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp: Với mục tiêu phát triển kinh tế bằng mọi giá, từ hàng thế kỷ nay, loài người đã và đang khai thác kiệt quệ, tàn phá nguồn tài nguyên sinh thái dẫn đến hậu quả là môi trường sống của chính con người đang bị đe doạ nghiêm trọng và khí hậu đang ngày càng bị biến đổi nhanh. Đồng thời với các hành động tàn phá trực tiếp thiên nhiên, hàng ngày con người đã trực tiếp và gián tiếp thải vào môi trường hàng chục triệu tấn chất thải rắn, lỏng và khí, mà trong số đó có nhiều chất gây biến đổi hiệu ứng nhà kính. Bão tố, động đất, lũ lụt với sức tàn phá ghê gớm là hậu quả tất yếu do cách đối xử tàn bạo của con người đối với thiên nhiên. Theo dự báo của các nhà khoa học, hậu quả của biến đổi khí hậu (BĐKH) sẽ không dừng lại ở đó mà sẽ gây
- ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến nhiều lĩnh vực kinh tế và đời sống, trong đó có sản xuất nông nghiệp. BĐKH sẽ khiến nhiệt độ trái đất tăng và băng ở bắc cực tan d ẫn đ ến n ước biển dâng cao và lúc đó một phần diện tích vùng đồng bằng c ủa n ước ta s ẽ b ị ng ập trong nước biển. Dự báo diên tich rông lớn cua đông băng sông Mê Công, sông Hông ̣́ ̣ ̉ ̀ ̀ ̀ và ven biên Miên Trung sẽ bị ngâp lut. Trước hết là các khu vực rừng ngập mặn ̉ ̀ ̣ ̣ của Cà Mau, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nam Định sẽ bị nhấn chìm trong nước biển. Thay đôi chế độ mưa có thể gây lũ nghiêm trong vao mua mưa và han han ̉ ̣ ̀ ̀ ̣ ́ vao mua khô; gia tăng về cường độ và tân suât cac cơn bao, giông tố gây lũ lớn và ̀ ̀ ̀ ́́ ̃ ngâp lut, lũ quet, trượt lở đât và xoi mon; gia tăng thiêu hut nước và tăng nhu câu ̣ ̣ ́ ́ ́ ̀ ́ ̣ ̀ dung nước, đoi hoi đap ứng câp nước và mâu thuân trong sử dung nước. Năng suất ̀ ̀ ̉ ́ ́ ̃ ̣ và sản lượng cây trồng và vật nuôi có thể bị giảm do biên độ giao động của nhiệt độ, độ ẩm và các yếu tố ngoại cảnh khác tăng lên. Nguồn cung cấp thức ăn chăn nuôi giảm hạn chế phát triển chăn nuôi. Nhiệt độ tăng cùng với biến động về các yếu tố khí hậu và thời tiết khác có thể làm giảm s ức đ ề kháng c ủa v ật nuôi, đ ồng thời tạo môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển bùng phát, gây ra những đại dịch trên gia súc, gia cầm. Đa dạng sinh h ọc bị ảnh h ưởng m ạnh m ẽ c ủa BĐKH, thành phần và phân bố địa lý của các hệ sinh thái sẽ thay đổi. Vùng khô hạn và bán khô hạn sẽ trở lên khắc nghiệt hơn. Hầu hết các vùng đất cát ven biển miền Trung sẽ trở lên nóng và khô hạn hơn làm tình trạng sa mạc hoá di ễn ra tr ầm tr ọng. Đến năm 2070 các loại cây trồng có thể lên đến độ cao 550 m et và hướng lên phía ́ bắc 100-200 km so với hiện tại , cây á nhiệt đới giảm. Phân bố ranh giới các kiểu rừng nguyên sinh, thứ sinh có thể dịch chuyển, tăng nguy cơ tiệt chủng của động thực vật, nguồn gien quí hiếm. Nhiệt độ tăng làm nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá nhiệt đới (kém giá trị kinh tế trừ cá ngừ) tăng lên, các loài cá c ận nhi ệt đới (giá trị kinh tế cao) giảm , trữ lượng các loài hải sản kinh tế bị giảm sút . BĐKH tăng một số nguy cơ đối với sức khoẻ con người làm thay đổi đặc tính trong nhịp sinh học của con người. Sẽ xuất hiện nhiều bệnh mới lạ và đang "toàn cầu hóa" nhiều loại bệnh trước đây chỉ khu trú trong một khu vực địa lý nhỏ. Th ế giới đã ghi nhận 30 căn bệnh mới xuất hiện trong 3 thập kỷ qua, sự bùng nổ bệnh mới chưa từng thấy kể từ khi cuộc cách mạng công nghiệp đưa con người s ống t ập trung các đô thị. Theo WHO, trái đất nóng lên có th ể sẽ làm hơn 150.000 ng ười ch ết và 5 triệu người bị mắc các chứng bệnh khác nhau. Con số trên có thể sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030. Trước nguy cơ tiềm ẩn của BĐKH, loài người ph ải có các hành động thiết thực, cụ thể và khẩn trương để cứu lấy môi trường sống của chính mình. Các hoạt động giảm thiểu và thích ứng v ới BĐKH của ngành NN&PTNT s ẽ là bộ phận quan trọng của Chiến lược quốc gia về thích ứng và gi ảm thi ểu tác động BĐKH. Để phát triển bền vững ngành NN&PTNT trong bối cảnh BĐKH, v ấn đề xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình Hành động thích ứng và gi ảm thiểu BĐKH của ngành NN&PTNT là hết sức cần thiết. Đối với ngành chăn nuôi, đồng thời với sự phát triển ồ ạt các loại vật nuôi, cần phải có chi ến l ược gi ảm thiểu ô nhiễm môi trường, bởi vì chất thải chăn nuôi không được xử lý là một trong những “thủ phạm” gây biến đổi hiệu ứng nhà kính do các lo ại khí CO2, NH4… có trong phân và nước tiểu của động vật phát tán vào bầu khí quyển. Theo dự báo của Trung tâm Quốc tế về Quản lý Môi trường (ICEM), nhi ều vùng như Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, An Giang, Đồng Tháp, Ti ền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau... của Việt Nam sẽ ngập chìm từ 2- 4m trong vòng 100
- năm tới. Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP): Vi ệt Nam nằm trong top 5 nước đứng đầu thế giới dễ bị tổn thương nhất đối với biến đổi khí hậu và khi mực nước biển tăng 1 mét ở VN sẽ mất 5% diện tích đất đai, 11% người mất nhà cửa, giảm 7% sản lượng nông nghiệp (tương đương 5 triệu tấn thóc) và 10% thu nhập quốc nội GDP. Để xây d ựng m ột ch ương trình hành động chuẩn xác và đi đúng hướng, hầu hết các chuyên gia v ề môi tr ường cho r ằng: Cần phải xây dựng một kịch bản cho Việt Nam, bởi kết quả nghiên cứu c ủa các nhà khoa học trên thế giới về lĩnh vực này còn có nhiều sự khác bi ệt. C ụ th ể, Ngân hàng Thế giới (WB) tính toán mực nước biển sẽ dâng là 1m, nh ưng k ết quả nghiên cứu của Ủy ban liên chính phủ về Thay đổi khí h ậu (IPCC) m ực n ước bi ển dâng là 69cm kèm theo trong điều kiện băng tan không đột biến; sự tan băng ở các vùng cực của trái đất cũng khác nhau và vấn đề khí h ậu và bi ến đ ổi khí h ậu ở m ỗi qu ốc gia cũng có những diễn biến khác nhau. Hơn nữa, vấn đề biến đổi khí hậu không chỉ đơn giản là của ngành nông nghiệp mà nó còn liên quan đ ến nhi ều v ấn đ ề kinh t ế, xã hội khác nữa. Do vậy, các nhà khoa học phải chỉ rõ vùng nào của Việt Nam s ẽ chịu ảnh hưởng nhiều nhất của băng tan, phân tích cụ thể diện tích vùng bị ngập, vùng phải di chuyển và ảnh hưởng đến các vùng khác chưa được đề cập tới. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã xây d ựng chương trình hành động với cả hai kịch bản dự báo của WB và IPCC. Theo Th ứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đào Xuân Học: Cho dù là k ịch b ản nào thì vấn đề biến đổi khí hậu đã xảy ra và sẽ tác động mạnh mẽ đến n ước ta, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Bởi vì, Việt Nam có 74% di ện tích đ ất nông nghiệp, gần 80% người dân đang sinh sống ở vùng nông thôn và sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp. Song song với việc nghiên cứu, xây dựng chương trình hành động, Việt Nam vẫn cần tiếp tục tiến hành những việc liên quan đến giảm thi ểu tác động của biến đổi khí hậu như: trồng rừng, sử dụng công ngh ệ sạch, vấn đ ề giảm khí thải vào không khí... Dự kiến, đến tháng 6/2008, Bộ NN & PTNT s ẽ hoàn thành báo cáo trình lên Th ủ tướng Chính phủ cùng với các vấn đề biến đổi khí hậu chung của cả nước. Trên cơ sở đó, Việt Nam sẽ hình thành kinh phí và lộ trình thực hiện, trở thành chương trình hành động chung của cả nước. 3. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các tỉnh ven biển Việt Nam: Biến đổi khí hậu là mối đe doạ thực sự đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, đặc biệt, các vùng ven biển Việt Nam chịu ảnh hưởng nhiều nhất do BĐKH gây ra như hạn hán, bão, lũ lụt , gây thiệt hại rất lớn về người và của. Đây là nguyên nhân làm chậm tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực kém, tỷ lệ nghèo gia tăng, làm giảm khả năng ứng phó đối với các thiên tai do BĐKH gây ra. Việt Nam có lịch sử lâu dài đối phó với thiên tai và có nhiều biện pháp ứng phó khi có thiên tai xảy ra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, BĐKH khiến nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,1C/ thập kỷ, mực nước biển dâng cao,lượng mưa tăng vào mùa mưa gây nên lũ lớn đặc biệt và giảm vào mùa khô gây nên hạn hán, tần suất thiên tai ngày càng cao đã gây nhiều thiệt hại cho nhiều vùng ở Việt Nam.
- Các vùng ven biển Việt Nam có dân số khỏang 18 triệu người, chiếm gần ¼ dân số cả nước trong đó diện tích đất sử dụng chỉ chiếm 16% tổng diện tích cả nước. 58% dân cư vùng ven biển chủ yếu sống dựa và nông nghiệp và đánh bắt thuỷ sản, khoảng 480.000 người trực tiếp làm nghề đánh bắt hải sản, 10.000 người chế biến hải sản và 2.140.000 người cung cấp các dịch vụ liên quan đến nghề cá. BĐKH đã gây ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển kinh tế ở các cùng ven biển Việt Nam. Nuôi trồng thuỷ sản ở vùng ven biển được coi là ngành có tăng trưởng quan trọng, có giá trị xuất khẩu cao và cũng là ngành chịu nhiều thiệt hại nhất do BĐKH. Theo Bộ NN&PTNT, năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản đạt 3,2 tỷ USD và tính đến hết tháng 11/2007, tổng sản lượng thuỷ, hải sản xuất khẩu ước đạt 3.684 nghìn tấn, đạt 96,93% kế hoạch năm và tăng 7,96% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, sản lượng khai thác tăng 0,6%, đạt 1.898 nghìn tấn; sản lượng nuôi trồng đạt 1.786 nghìn tấn, tăng 17%. ước giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tháng 11 đạt 350 triệu USD, nâng tổng giá trị kim ngạch XKTS 11 tháng năm 2007 đạt 3.427 triệu USD, bằng 95,19% kế hoạch và tăng 11,8% so với cùng kỳ 2006. Mặc dù, đạt những kết quả như vậy, nhưng do ảnh hưởng của BĐKH như áp thấp nhiệt đới, bão, lũ lụt ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển của ngành nuôi trồng và chế biến thuỷ sản ở các vùng ven biển Việt Nam. Chỉ tính riêng năm 2006, hai cơn bão Chanchu và cơn bão Xangsane đã ảnh hưởng trực tiếp và gây thiệt hại nặng nề cho ngành chế biến thuỷ sản các tỉnh ven biển miền Trung: 3.974 ha đầm nuôi cá, tôm bị ngập kéo theo 494 tấn cá tôm bị phá huỷ, 951 tầu thuyền đánh cá bị chìm, ước tính thiệt hại hàng nghìn tỷ đồng. Tháng 11/2007, do ảnh hưởng của bão số 7, áp thấp nhiệt đới trên biển Đông và ảnh hưởng của gió mùa đông bắc hoạt động mạnh đã làm hạn chế các hoạt động khai thác thuỷ sản. Tại các tỉnh miền Trung như Quảng Bình, Khánh Hoà, Phú Yên, đây là những nơi có sản lượng nuôi tôm thẻ chân trắng, tôm sú, cá biển, nhuyễn thể, cua, ghẹ lớn …Do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu thay đổi trong thời gian vừa qua, mưa nhiều khiến cho dịch bệnh phát triển, nguồn nước thay đổi nhanh khiến cho các đối tượng nuôi khác như tôm hùm, rong sụn tại một số địa phương như Khánh Hoà, Phú Yên bị chết, khiến cho nhiều bà con nông, ngư dân bỗng chốc trắng tay. Ngoài việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc nuôi trồng thuỷ sản của các vùng ven biển Việt Nam, BĐKH mà cụ thể là mực nước biển dâng cao còn làm cho tình trạng xâm mặn ở các vùng ven biển ngày càng trở nên nghiêm trọng hơn. Nó đã trở thành một trong những vấn đề nan giải tại một số địa phương. Đồng bằng sông Cửu Long với 1,77 triệu ha đất nhiễm mặn, chiếm 45% diện tích và đây là địa phương có diện tích đất nhiễm mặn lớn nhất. Nếu mực nước biển sẽ tiếp tục dâng cao lên 30cm theo kịch bản BĐKH năm 2050, tình trạng nước mặn kèm theo mất đất và xâm mặn ở đồng bằng sông cửu long và một số khu vực đồng bằng sông hồng, là những khu vực nông nghiệp quan trọng là nơi cung cấp một lượng gạo xuất khẩu lớn nhất cả nước. Nếu tình trạng này xảy ra, nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra, nếu mực nước biển dâng cao, các trại nuôi trồng thuỷ sản phải di dời và xâm mặn, diện tích rừng ngập mặn giảm sẽ làm mất nơi cư trú của các sinh vật nứơc ngọt. BĐKH khiến cho thiên tai như lũ lụt, bão xuất hiện với tần suất nhiều hơn, xâm mặn, hạn hán và bão, cả nền nông nghiệp lẫn các hệ sinh thái thiên nhiên chắc chắn còn bị ảnh hưởng do nhiệt độ tăng tối thiểu, số ngày có nhiệt độ dưới 20 C giảm đi (0-50 ngày vào năm 2070) và số ngày có nhiệt độ trên 25C tăng lên (0-80 ngày vào năm 2070). Sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng xấu đến các thời
- kỳ sinh trưởng, thời vụ và phân bố cây trồng, làm tăng hoạt động của sâu hại và vi- rút . Theo dự báo, BĐKH sẽ làm sản lượng lúa hè thu giảm từ 3 đến 6% vào năm 2070 so với giai đoạn 1960-1998, sản lượng vụ lúa đông xuân có thể giảm tới 17% vào năm 2070 đối với miền Bắc, giảm 8% vào năm 2070 đối với miền Nam, sản lượng ngô đông xuân có thể giảm 4% ở miền Trung và 9% ở miền Nam. BĐKH còn ảnh hưởng trực tiếp đến sức khảo của dân cư sống tai các vùng ven biển Việt Nam. Nhiệt độ tăng sẽ tạo điều kiện cho các vi rút, vật mang bệnh khác nhau sinh trưởng và phát triển làm cho tỷ lệ các bệnh truyền nhiễm như sốt rét, bệnh Denga cao hơn. Hơn nữa, thời tiết khắc nghiệt và tăng tần suất, tăng cường độ thiên tai như bão và lũ lụt, sẽ đe doạ tính mạng người dân và có thể dẫn đến nhiều tử vong hơn, nếu không áp dụng các biện pháp giảm thiểu và thích ứng quan trọng. Theo Báo cáo BĐKH và Phát triển con người ở Việt Nam, các vụ thiên tai lớn gần đây đã ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng kinh tế cũng như thiệt hại về con người. Cụ thể như tính từ năm 1996 đến năm 2005, các trận lũ ở Đồng bằng sông Hồng và ảnh hưởng của các cơn bão ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ đã làm chết gần 100 người, làm đổ và hư hỏng 197.696 căn nhà, gần 2,3 triệu ha lúa bị ngập úng, gần 67.000 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại, 830.000 ha tôm, cá nuôi trồng bị thiệt hại kéo theo gần 180 tấn cá, tôm bị thiệt hại. Ngoài ra, trong năm 2000-2001, các trận lũ ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm chết 874 người, làm sập và hư hỏng 1.240.737 căn nhà, 422.032 ha ruộng lúa bị ngập và phá huỷ, 87.106 ha đất nông nghiệp bị thiệt hại, 20.795 ha đầm nuôi tôm, cá bị ngập thiệt hại 3.453 tấn cá tôm. Thiệt hại nặng nề nhất do thiên tai gây ra phải kể đến các tỉnh Miền Trung chịu ảnh hưởng của cơn bão Chanchu và bão Xangsane năm 2006. Hai cơn bão này đổ bộ vào miền Trung làm 91 người chết, 349.348 ngôi nhà bị đổ và ngập, 5263 lớp học bị huỷ hoại, 21.548 ha lúa bị nhập và thiệt hại, 3.974 ha đầm nuôi cá tôm bị ngập, 494 tấn cá tôm bị phá huỷ và 951 tàu thuyền bị chìm… Việc nghiên cứu các tác động của BĐKH ở các vùng ven biển miền Trung và hai Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long gần đây đã được khởi xướng với nhiều dự án nghiên cứu bắt đầu triển khai. Các dự án thích ứng với BĐKH chủ yếu được áp dụng tại Miền Trung, nơi phải hứng chịu nhiều thiệt hại do thiên tai mang đến. Hầu hết các hoạt động của dự án tập trung ở cấp địa phương và được gắn kết hoặc lồng ghép với những dự án hỗ trợ đang được triển khai của các nhà tài trợ và các Tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế dành cho các thực thể quốc gia và các cộng đồng về lĩnh vực sẵn sàng và ứng phó với hạn hán, lũ lụt và bão. Gần đây, Uỷ ban châu Âu hỗ trợ, khuyến khích việc Việt Nam áp dụng các nguyên tắc chống chịu bão đối với các nhà ở hiện nay của nhân dân các vùng có nguy cao chịu ảnh hưởng của thiên tai ở miền Trung. Việt Nam từ lâu đã có hệ thống và các biện pháp để ứng phó với thiên tai như bão lụt, hạn hán. Các hoạt động quản lý rủi ro thiên tai chủ yếu do Ban Chống lụt bão Trung ương (CCFSC) điều phối và Bộ trưởng Bộ NN&PTNT làm trưởng ban. Các thành viên trong Ban gồm các bộ ngành liên quan, Cục chống lụt bão và quản lý đê điều, Trung tâm Quản lý thiên tai, Trung tâm Khí tượng thuỷ văn và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (VNRC). Đối tác giảm thiểu thiên tai (NDM-P) được xây dựng với sự tham gia của Chính phủ, các tổ chức NGO và các nhà tài trợ để khuyến khích đối thoại và thống nhất các cách thức hoạt động, hỗ trợ điều phối việc thực hiện
- Chiến lược quốc gia lần thứ hai và Kế hoạch hành động giảm thiểu và quản lý thiên tai. III. Những việc làm cấp thiết để ngăn ngừa và đối phó với sự biến đổi khí hậu: Cần lưu ý rằng các hiện tượng như đã nêu trên xảy ra còn có tác đ ộng c ủa nhi ều yếu tố, như lượng nước và phù sa của các lưu vực sông; hoạt động nâng, h ạ của kiến tạo địa chất hiện đại; tác động bất thuận chiều của các công trình nhân tạo, v.v... Vì vậy, càng rất cần được chú trọng nghiên cứu, xem xét. Vi ệt Nam c ần làm gì để ứng phó với hiểm họa đang được báo động ? Rất nhiều việc có tầm vóc và quy mô to lớn vừa trước mắt, vừa lâu dài cần được tính đến. Trước hết, Việt Nam cần tham gia một cách chủ động và tích cực vào các chương trình do Liên hiệp quốc chủ trì về biến đổi khí h ậu toàn c ầu. Các nhà khoa học, các nhà hoạch định chính sách và quy hoạch, chiến lược phát triển cần được tổ chức và huy động tham gia một chương trình nghiên cứu cấp quốc gia. Nhà nước cần đầu tư thích đáng cho chương trình này. Chương trình cần được kết nối với các chương trình quốc tế và khu vực để có thể tiếp nhận thành quả nghiên c ứu c ủa các tổ chức nghiên cứu có uy tín trên thế giới, tiếp nhận sự viện trợ, giúp đỡ quốc tế. Mặt khác, thông qua việc nghiên cứu thực tế và thực tiễn, Việt Nam có th ể đóng góp vào vấn đề đang được các tổ chức quốc tế bàn luận. Các vị lãnh đạo cao cấp nước ta cần dành thời gian, chủ động tham gia các hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc chủ trì về vấn đề này. Việc tham gia của chúng ta trong th ời gian qua rõ ràng là còn thụ động. Tôi cho rằng các nhà khoa học Việt Nam có th ể và c ần đ ược tổ chức tham gia nghiên cứu vấn đề hệ trọng này. Việt Nam, m ột nước đang phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, nằm trong nhóm nước dễ bị tổn th ương bởi các vấn đề môi trường do biến đổi khí hậu gây ra, như lũ lụt, h ạn hán, bão ... Bên cạnh đó, với đường bờ biển dài, vấn đề mực nước biển dâng cao có thể làm mất 12,2% diện tích của lãnh thổ và đe dọa tới chỗ sinh sống của 17 triệu người. Chương trình quốc gia về biến động khí hậu toàn cầu tác động vào Việt Nam cần được tổ chức nghiên cứu, rà soát, kiểm định lại những kết quả nghiên cứu đã có từ trước tới nay, thực hiện một số đề tài nghiên cứu có mục tiêu h ướng t ới những kết luận khoa học tin cậy, dự báo được chiều h ướng biến động cả trước mắt cũng như ở tầm trung hạn, dài hạn (được hiểu theo nghĩa tính bằng th ập k ỷ và thế kỷ). Các kết luận khoa học phải trở thành cơ sở cho việc hoạch định các quy hoạch, chiến lược và chính sách vì sự nghiệp phát triển bền vững cho t ương lai đ ất nước, đặc biệt là quy hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật qu ốc gia, xây dựng các đô thị và vùng tập trung dân cư, các khu, cụm công nghiệp ... Trọng tâm của chương trình cần: tăng cường đầu tư, tổ chức các công tác điều tra cơ bản và mạng quan trắc sự biến đổi nhiệt độ, những biến động về quy luật vận đ ộng c ủa khí quyển và thủy quyển và về vận động kiến tạo hiện tại ở Việt Nam, áp dụng những thiết bị và công nghệ tiên tiến hiện nay. Dự án VinaSat sắp tới cũng ph ải tính đến yêu cầu này. Tích cực tham gia Nghị định thư Montreal về giảm khí th ải CFCs, Nghị định thư Kyoto về giảm khí thải CO2 và các khí thải gây hiệu ứng nhà kính, trước hết là phát huy kết quả và thúc đẩy mạnh mẽ việc th ực hiện ch ương trình quốc gia đã được triển khai về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, hạn ch ế tối đa tệ nạn cháy rừng, phục hồi nhanh chóng hệ sinh thái rừng ngập mặn đã bị tàn
- phá nặng nề. Đặc biệt, Việt Nam cần phải có một chiến lược đúng, đáp ứng nhu cầu gia tăng rất nhanh chóng về năng lượng, nhất là điện năng, ph ục vụ công nghiệp hóa đất nước. Nêu cao yêu cầu tiết kiệm năng lượng, hạn chế đến mức cần thiết việc sử dụng nguyên liệu hóa thạch (than, dầu mỏ, khí đốt), s ớm có k ế ho ạch phát triển năng lượng sạch. Một mặt, chúng ta chủ động, tích cực thực hiện phần trách nhiệm quốc gia của mình, mặt khác chúng ta cũng tích cực lên tiếng đòi các nước phát triển thực hi ện cam kết thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc và các Hiệp đ ịnh, Ngh ị đ ịnh th ư qu ốc t ế về bảo vệ môi trường Trái đất vì sự sống còn của nhân loại. Tổng kết, rút ra các kinh nghiệm thành công và chưa thành công của cha ông ta trong nhi ều th ế k ỷ qua, được đẩy mạnh trong thời cận hiện đại trong việc ứng phó với các lo ại “thiên tai” thường xuyên xảy ra ở các vùng đồng bằng thấp, vùng ven biển; xây dựng mạng kênh mương rộng lớn phục vụ việc tưới và tiêu nước cho đồng bằng; gia cố hệ thống đê điều; xây dựng các công trình hồ thủy điện - thủy lợi điều tiết ở thượng nguồn; từng bước xây dựng tuyến đê biển từ Bắc vào Nam kết hợp xây dựng các cống điều tiết thoát lũ và ngăn mặn ở các cửa sông; xây dựng các công trình kè b ờ chống sạt lở sông và biển; nạo vét dòng chảy cửa sông, luồng vào c ảng; b ơm thoát nước cưỡng bức đối với nạn úng, ngập sâu và ô nhiễm nặng t ại các vùng đ ất th ấp ở đồng bằng và ven biển. Đặc biệt, những h ệ th ống công trình có quy mô l ớn, xây dựng bền vững lâu dài, như hệ thống công trình “chung sống với lũ” ở đồng bằng Cửu Long, tuyến đê biển Bắc-Nam, cần được hoạch định có căn cứ khoa học về tuyến, về nền móng, để những công việc được thực hiện ngày nay còn được tiếp nối thuận lợi cho nhiều thế hệ mai sau. Cần lưu ý rằng, các giải pháp nh ư đã nêu trên không phải là không có những ý kiến khác nhau về mặt luận cứ khoa học. Những công việc đã làm cho thấy không phải chúng ta không có những kinh nghiệm nhất định trong việc ứng phó với tai biến do nước biển dâng. Nh ưng đó là việc biển dâng tiệm tiến. Vấn đề của báo động toàn cầu hi ện nay là có nhi ều kh ả năng biển sẽ dâng nhanh hơn và không loại trừ đột biến lớn, đưa đến hiểm họa hay thảm họa lớn cho nhân loại. Quả thật, nhận th ức và suy nghĩ của chúng ta v ề v ấn đề này còn quá ít. Để kết thúc, tôi thấy cũng cần nhắc đ ến nh ững kinh nghi ệm l ịch sử của nhân loại đã được các nhà nghiên cứu th ế giới đề cập t ừ lâu. Vì sao nh ững nền văn minh rực rỡ của nhân loại, như các nền văn minh L ưỡng Hà, Ai C ập ở Trung Cận Đông - Bắc Phi, các nền văn minh Maya và Inca ở Trung và Nam M ỹ b ị suy tàn, thậm chí biến mất một cách khó hiểu ? Nguyên nhân gốc rễ của các hiện tượng trên chắc chắn là hệ quả của sự biến đổi khí h ậu l ớn có tính toàn c ầu, bi ểu hiện cụ thể ở từng khu vực, lãnh thổ. Cũng không ph ải không có lý khi g ần đây xuất hiện các thông tin về việc Bộ Môi trường Nhật Bản cho bi ết s ẽ c ần h ơn 64,5 tỷ USD để đối phó với mực nước biển dâng cao do băng tan ở hai cực. Phía Nh ật Bản ước tính nếu mực nước biển tăng thêm 1 mét, 90% số bãi bi ển c ủa n ước này sẽ bị “nuốt chửng”, sản lượng lúa sẽ giảm 50% ... Các nguồn tin cũng cho bi ết Trung Quốc đang xem xét việc xây dựng hệ thống đê kiên cố dọc suốt bờ biển, một kế hoạch được coi là xây dựng một “Vạn lý trường thành mới”. Vi ệt Nam là n ước tham gia ký kết và tích cực thực hiện “Tuyên bố Thiên niên kỷ” của Liên hi ệp qu ốc năm 2000, trong đó vấn đề bảo vệ môi trường sống của hành tinh được nh ấn mạnh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần th ứ X (tháng 4/2006) đặc biệt coi trọng yêu cầu phát triển nhanh, song ph ải b ền v ững, trong đó có yếu tố bảo vệ môi trường sinh thái; Nghị quyết Ban Chấp hành Trung
- ương Đảng khóa X mới đây về chiến lược biển dài hạn cũng nhấn mạnh vấn đề bảo vệ môi trường gắn liền với khai thác nguồn lợi của biển. Rõ ràng vấn đề đặt ra vừa có yêu cầu bức xúc trước m ắt, vừa có t ầm quan tr ọng chiến lược lâu dài, cần có sự báo động và hành động trước khi quá muộn. Hậu quả, Việt Nam sẽ chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ sự biến đổi khí hậu (BÐKH) trái đất. Trong những năm tới, sự thay đổi về lượng mưa và giông bão, mực nước biển dâng cao thêm là nguyên nhân tác động trực tiếp tới vấn đề nước s ạch và v ệ sinh môi trường nông thôn. Số trận lũ lụt tại các vùng đất trũng ven biển cũng tăng lên. Mưa lũ liên tiếp xảy ra làm cho hệ thống đê bao, đê ngăn mặn, đê kè sông, đê biển, kênh mương nội đồng bị sạt lở, nhiều tuyến đường giao thông, công trình di tích lịch sử bị bùn đất vùi lấp. Ngập úng trong thời gian dài sẽ làm cho các loại phân bón, thuốc trừ sâu, chất thải từ nhà vệ sinh và chuồng trại chăn nuôi chảy xuống các ao, hồ, sông, làm tăng lượng chất thải gây ô nhiễm nguồn nước; các công trình cấp nước sạch tập trung hoặc hư hỏng hoặc do nguồn nước cấp từ sông ô nhiễm nặng gây khó khăn cho việc xử lý nước sinh hoạt. Sự xâm nhập mặn của nước biển sẽ ảnh hưởng các hệ sinh thái, làm mất cân bằng môi trường sống của nhiều loại thủy sinh nước ngọt. Ðiều đó có thể dẫn đến diện tích rừng ngập mặn giảm, nguồn thức ăn thực vật và dinh dưỡng của các loài sinh vật sống ở sông, biển cũng giảm. Nhiệt độ của nước tăng lên kéo theo sự thay đổi phân tầng nhiệt độ theo chiều sâu cột nước, gây ảnh hưởng đáng kể đến môi trường sống thủy sinh. Hơn nữa, tăng nhiệt độ nước vùng ven bờ sẽ dẫn đến tăng lắng đọng các chất khoáng và hữu cơ, gây ảnh hưởng chuỗi thức ăn, giảm số lượng cũng như chất lượng các loài thủy sản. Tại những vùng khô hạn, bán khô hạn, sự thay đổi nhỏ của nhiệt độ và nhịp điệu mưa có thể ảnh hưởng lớn tới đa dạng sinh học (ÐDSH). Những vùng đất khô hạn sẽ phải chịu nhiều áp lực của sự chuyển đổi nông nghiệp, sự nhập nội của các loài xâm lấn, sự thay đổi chế độ cháy và ô nhiễm. Vì thế, BÐKH ở những vùng đất khô hạn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với con người và nền kinh tế. Trong hai năm 2004 - 2005, có tới 43% số hộ dân thuộc tỉnh Ninh Thuận thiếu nước ngọt sinh hoạt. Hiện có khoảng gần hai triệu người dân Ninh Thuận, Bình Thuận sống phụ thuộc trực tiếp vào những vùng đất khô hạn và bán khô hạn cho sinh kế hằng ngày của họ. Trong tình trạng BÐKH gia tăng, diện tích đất đang bị thoái hóa, hoang mạc hóa và bị nhiễm mặn ở những vùng đất khô hạn, bán khô hạn sẽ càng xảy ra nhanh hơn. BÐKH không chỉ ảnh hưởng nguồn nước, vệ sinh môi trường mà còn ảnh hưởng ÐDSH trong nông nghiệp. Chính sự BÐKH tác động mạnh đến sự phân bố, gia tăng tốc độ tuyệt chủng, làm thay đổi thời gian mùa phát triển của thực vật. ÐDSH góp phần hỗ trợ đắc lực cho các hệ sinh thái, điều hòa khí hậu, tạo ra ô-xy, giữ nguồn nước và cung cấp nước, chống xói mòn, bảo vệ đất đai. Nó có vai trò vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của thế giới sinh học, trong đó có con người. Vấn đề của Việt Nam: Việt Nam là nước đang phát triển, phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính ở mức độ còn thấp, nhưng lại phải hứng chịu nhiều tác động của BĐKH. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (2007), Việt Nam là một trong số các nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng của BĐKH và nước biển dâng, trong đó vùng đồng bằng
- sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long bị ngập chìm nhiều nhất. Nếu mực nước biển dâng 1m sẽ có 10% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp, tổn thất khoảng 10% GDP, nếu nước biển dâng 3m sẽ có khoảng 25% dân số bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 25% GDP. Để ứng phó, Chính phủ Việt Nam đã và đang tiến hành nhiều hoạt động như xây dựng thể chế, xây dựng Chương trình, Mục tiêu quốc gia, giao nhiệm vụ điều phối các hoạt động ứng phó với BĐKH cho các bộ/ngành. Đồng thời, Việt Nam mở rộng nhiều kênh thông tin về BĐKH trong cộng đồng và phối hợp, hợp tác với các tổ chức quốc tế, nhà tài trợ trên nhiều lĩnh vực về BĐKH. Nhà nước và nhiều địa phương đã phối hợp với các nhà tài trợ tạo lập được cơ chế khuyến khích sử dụng và phát triển năng lượng tái tạo như: năng lượng khí sinh học (biogas, phế thải trong nông nghiệp ở nông thôn); năng lượng mặt trời (thiết bị đun nước nóng, chiếu sáng bằng pin mặt trời), khí gas (bãi rác đô thị); năng lượng gió (phát điện, bơm nước vào ruộng muối ở vùng ven biển, hải đảo); thủy điện, đặc biệt là thủy điện nhỏ và cực nhỏ với công suất lắp đặt lên tới hàng nghìn MW (phát điện ở vùng sâu, vùng xa hoặc phối hợp điều tiết, cấp nước, tưới tiêu), ... Đặc biệt, một dự án thí điểm xây dựng chi trả hấp thụ các-bon trong lâm nghiệp đã được triển khai ở huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình, nhằm chuẩn bị cho việc tham gia thị trường các-bon của Việt Nam. Để ứng phó với BĐKH, Chính phủViệt Nam còn triển khai các dự án về sản xuất điện năng không thải CO2. Đó là dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở Việt Nam sẽ được khởi công vào năm 2015 ở Ninh Thuận. Đầu tháng 10-2008, tỉnh Ninh Thuận đã cấp phép đầu tư xây dựng nhà máy điện chạy bằng sức gió có công suất 50 MW. Đây là những bước ứng dụng công nghệ năng lượng mới phù hợp với điều kiện của Việt Nam mà không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, không gia tăng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những hoạt động mở đầu, chúng ta còn phải thực hiện ngay những hành động cụ thể như quy hoạch và tiến hành nâng cấp hệ thống đê biển, đê cửa sông bảo đảm chống được mức nước triều tần suất 5% ứng với gió bão cấp 9 (năm 2015) và cấp 10 (năm 2020) đối với các tỉnh từ Quảng Ninh đến Quảng Nam. Từng bước thực hiện bốn nhân tố chính là vấn đề buôn bán lượng khí thải, hợp tác kỹ thuật, giảm phá rừng, ứng phó với BĐKH nhằm đạt được những mục tiêu dài hạn để góp phần vào mục tiêu chung của toàn cầu. Dù còn nhiều thách thức nhưng đến nay những chương trình, kế hoạch đã được triển khai, nhất là công tác thông tin, truyền thông nâng cao nhận thức cộng đồng và đã tạo được nhiều giống cây trồng mới thích nghi với sự BĐKH. Cùng với sự quan tâm và hợp tác của các tổ chức
- quốc tế, các quốc gia trong khu vực và thế giới, Việt Nam sẽ ứng phó và thích ứng thành công với BĐKH, hạn chế thiên tai, phát triển bền vững. IV. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ: Theo nghiên cứu của các chuyên gia cho đến nay thì Trái Đất là hành tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có hiện diện sự sống. Thiên nhiên đã ban tặng cho con người những ngọn núi hùng vĩ, những dòng sông êm ả, và những cánh rừng bát ngát, một hệ động thực vật vô cùng phong phú và đa dạng phải trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài…tất cả tạo nên một hành tinh xanh….thế nhưng do sự khai thác sử dụng quá mức những món quà mà thiên nhiên ban tặng, cùng với sự phát triển và tham vọng của loài người, một loạt những hiện tượng thiên tai xảy ra như mưa acid, bão lũ, nạn hồng thủy, cháy rừng, hạn hán….mà chúng ta gọi đó là “ ảnh hưởng của biến đổi khí hậu”.Ngôi nhà chung của mọi loài sinh vật đang bị đe dọa mà trách nhiệm phục hồi nó thuộc về con người chúng ta. Những nỗ lực ngăn chặn các khí thải nhà kính, hạn chế khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo được, sử dụng những nhiên liệu không gây ô nhiễm môi trường,các nước tham gia Hội nghị, cùng bàn bạc về vấn đề biến đổi khí hậu đã cho thấy phần nào sự quyết tâm của chúng ta trong việc khắc phục hậu quả. Song bên cạnh đó, đây không chỉ là vấn đề của những nhà lãnh đạo cấp cao mà ngay đến một công dân bình thường cũng có thể góp phần vào việc bảo vệ Trái Đất, bảo vệ ngôi nhà chung bằng những hành động đơn giản dễ làm như tiết kiệm điện, tham gia trồng cây xanh,tự tìm hiểu và nâng cao nhận thức của mình trong thời đại “ Biến đổi khí hậu toàn cầu”.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
KỊCH BẢN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TRONG THẾ KỶ 21 Ở VIỆT NAM
24 p | 622 | 261
-
HIỂM HỌA CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TOÀN CẦU ĐỐI VỚI VIỆT NAM VÀ NHÌN TỪ VIỆT NAM
12 p | 261 | 102
-
Ứng phó với biến đổi khí hậu và biển dâng ở đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung
22 p | 292 | 78
-
Bài giảng Biến đổi khí hậu toàn cầu, khu vực và ở Việt Nam - GS TS. Trần Thục
29 p | 302 | 60
-
Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam trong bối cảnh mới của biến đổi khí hậu toàn cầu
17 p | 153 | 16
-
Tóm tắt kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam
34 p | 117 | 10
-
Biến đổi khí hậu và phát triển bền vững ở Việt Nam
18 p | 76 | 9
-
Bài giảng Biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Tổng quan và vấn đề cần nghiên cứu - GS. Trương Quang Học
60 p | 12 | 6
-
Nâng cao vai trò của truyền thông về nhân lực chống chịu trước biến đổi khí hậu
8 p | 129 | 6
-
Lượng giá tổn thất do biến đổi khí hậu toàn cầu đối với Hà Nội - TS. Bùi Đại Dũng
10 p | 81 | 6
-
Biến đổi khí hậu và những kiến thức đào tạo tập huấn viên: Phần 1
145 p | 14 | 5
-
Vai trò của các nước lớn ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu
9 p | 85 | 4
-
Biến đổi khí hậu toàn cầu: Giải pháp thích ứng ở nước ta
3 p | 85 | 4
-
Biến đổi khí hậu toàn cầu và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam
4 p | 34 | 3
-
Giáo dục kỹ năng ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu cho học sinh trung học phổ thông qua môn Địa lí
8 p | 58 | 3
-
Tiềm năng ứng dụng công nghệ nano trong các chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu
49 p | 32 | 3
-
Xói lở bờ biển Việt Nam và biến đổi khí hậu toàn cầu
8 p | 28 | 3
-
Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu lên tỉnh Thừa Thiên Huế
11 p | 89 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn