BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ CÁC KHU VỰC ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NAM Á:<br />
THỰC TRẠNG VÀ CÁC VẤN ĐỀ TRONG TIẾP CẬN THÍCH ỨNG<br />
Trần Thọ Đạt và Lê Thu Hoa<br />
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân<br />
Tóm tắt<br />
<br />
Các khu vực đô thị là nơi tập trung dân cư và các hoạt động kinh tế, là nguồn quan trọng<br />
phát sinh khí nhà kính gây biến đổi khí hậu (BĐKH), đồng thời cũng là nơi chịu tác động<br />
mạnh của BĐKH và là nơi khởi nguồn của nhiều hoạt động ứng phó với BĐKH. Đông<br />
Nam Á (ĐNA) là khu vực đang trong quá trình đô thị hóa nhanh, cũng là khu vực cực kỳ dễ<br />
bị tổn thương bởi BĐKH. Bài viết này nhằm làm rõ một số dạng tác động chủ yếu của<br />
BĐKH đến các đô thị ĐNA như nước biển dâng, bão và áp thấp nhiệt đới, ngập lụt, nguy<br />
cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề an ninh lương thực và hiện<br />
tượng tị nạn môi trường. Bài viết cũng bàn về một số vấn đề và thách thức liên quan đến<br />
thích ứng về công nghệ, về hành vi của xã hội, của các cơ chế quản lý, các chính sách<br />
thích ứng, năng lực và quan điểm của các quốc gia ĐNA trong thích ứng với BĐKH. Trên<br />
cơ sở so sánh với bối cảnh của ĐNA, bài viết cũng chỉ ra một số hạn chế/khó khăn và hàm<br />
ý đối với chính sách thích ứng BĐKH ở đô thị Việt Nam.<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
<br />
Gia tăng đô thị hóa và biến đổi khí hậu (BĐKH) là hai hiện tượng phổ biến trên toàn cầu trong<br />
thế kỷ XXI. Hai hiện tượng này liên quan chặt chẽ với nhau, đã và đang tạo ra nhiều tác động<br />
đến đời sống kinh tế-xã hội trên thế giới nói chung, Đông Nam Á (ĐNA) và Việt Nam nói riêng.<br />
Vị trí địa lý đặc biệt của nhiều đô thị ĐNA khiến khu vực này đã và sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ<br />
bởi các hiện tượng liên quan đến BĐKH như: nước biển dâng, bão và áp thấp nhiệt đới, ngập lụt,<br />
nguy cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề an ninh lương thực và tị nạn<br />
môi trường...<br />
Trong thời gian gần đây, chiến lược thích ứng với BĐKH tại các đô thị ĐNA, trong đó có Việt<br />
Nam, đang thay đổi theo chiều hướng tăng cường áp dụng các kịch bản khí hậu ở quy mô vùng<br />
và các phương pháp dự báo bằng mô hình có phạm vi không gian lớn hơn, phạm vi thời gian dài<br />
hơn; từ đó, nhiều biện pháp thích ứng về công nghệ, kinh tế, hành vi xã hội, cơ chế quản lý và<br />
chính sách đã và đang được áp dụng.<br />
Đánh giá các tác động của BĐKH, phân tích những cách tiếp cận thích ứng với BĐKH để làm rõ<br />
những vấn đề hạn chế/khó khăn của các đô thị ĐNA, trên cơ sở đó đề xuất những gợi ý liên quan<br />
đến việc xây dựng và thực thi chính sách thích ứng với BĐKH của các đô thị Việt Nam sẽ góp<br />
phần cung cấp thông tin hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và quản lý đô thị trong quá trình ra<br />
quyết định nhằm chống chịu tốt hơn với những nguy cơ của BĐKH tại Việt Nam.<br />
<br />
85<br />
<br />
2. ĐÔ THỊ HÓA TRONG MỐI LIÊN QUAN TỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU: TÁC ĐỘNG VÀ TIÊU<br />
CHÍ ĐÁNH GIÁ<br />
<br />
Đô thị hóa là quá trình biến đổi và phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố<br />
trí dân cư, hình thành và phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, đồng thời<br />
phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu, trên cơ sở hiện đại hóa hệ thống hạ tầng và tăng quy mô<br />
dân số. Trong những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, đô thị hóa nhanh đã khiến các<br />
thành phố trở thành nơi sinh sống “chuẩn mực” của nhiều người trên toàn cầu. Phần lớn dân cư<br />
đô thị của thế giới hiện sống tại 408 thành phố có số dân trên 1 triệu người và 20 siêu đô thị với<br />
số dân trên 10 triệu người. Trong số 408 “thành phố trên 1 triệu dân”, có tới 377 thành phố thuộc<br />
các nước đang phát triển. Châu Á chiếm 67% trong số 377 thành phố đó. Thực tế là, tuy chỉ<br />
chiếm chưa đầy 1% diện tích bề mặt Trái đất, các thành phố là nơi sinh sống của trên 50% dân số<br />
thế giới, tiêu thụ 75% nguồn năng lượng, phát thải 78% lượng cacbon và tạo ra 75% lượng khí<br />
gây hiệu ứng nhà kính (WWF, 2009).<br />
Liên quan đến BĐKH, một trong những hiểm họa nghiêm trọng nhất đe dọa con người trong thế<br />
kỷ XXI, các khu vực đô thị: (i) là nơi tập trung dân cư, các hoạt động công nghiệp, giao thông và<br />
các nguồn thải khí gây hiệu ứng nhà kính, là nguyên nhân gây ra BĐKH; (ii) là nơi bị tác động<br />
mạnh bởi BĐKH, đặc biệt là các tác động đến môi trường và hệ thống hạ tầng kinh tế-xã hội; và<br />
(iii) là khởi nguồn quan trọng của các hoạt động ứng phó với BĐKH thông qua các sáng kiến,<br />
chính sách và hành động nhằm giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu.<br />
Theo Savage (2010), tác động của BĐKH tới các khu vực đô thị cần được xem xét từ hai khía<br />
cạnh: (i) tác động trực tiếp tới môi trường đô thị do các hiện tượng như bão và áp thấp nhiệt đới,<br />
nước biển dâng, mưa lớn và kéo dài; và (ii) tác động gián tiếp làm thay đổi các quá trình và hoạt<br />
động kinh tế-xã hội trong lòng các đô thị.<br />
Mức độ tác động của BĐKH và khả năng thích ứng với tác động của BĐKH đến môi trường đô<br />
thị phụ thuộc vào các biến số như: (i) đặc điểm dân số và mức độ đô thị hóa của quốc gia; (ii)<br />
quy mô dân số của đô thị - có thể thay đổi từ 10.000 đến một triệu người, năm đến mười triệu<br />
hoặc hơn; (iii) tốc độ tăng dân số tại các đô thị và loại hình tăng trưởng dân số (tăng tự nhiên, di<br />
dân cơ học hay cả hai); (iv) chất lượng cuộc sống trong đô thị (thu nhập bình quân đầu người) và<br />
các mức nghèo đô thị; và (v) thực trạng của hệ thống hạ tầng đô thị và tỷ lệ dân số được hưởng<br />
lợi từ hệ thống này.<br />
Khi đánh giá tác động của BĐKH đến đô thị, một số tiêu chí thường được sử dụng như:<br />
+ Khả năng bị tác động bởi BĐKH của đô thị (Climate Exposure - CE): là khả năng một đô thị<br />
bị tác động bởi BĐKH và các hiện tượng như nước biển dâng, bão, áp thấp nhiệt đới, hạn hán<br />
hay ngập lụt. Các thành phố có vị trí và điều kiện địa lý tự nhiên dễ bị tác động bởi thiên tai có<br />
hệ số CE cao hơn các thành phố khác.<br />
+ Mức độ nhạy cảm với BĐKH của đô thị (Climate Sensitivity - CS): là biến số phụ thuộc vào<br />
các yếu tố dân số, GDP, tầm quan trọng của kinh tế đô thị đối với nền kinh tế quốc gia. Các<br />
thành phố có đông dân số, GDP cao và có tầm quan trọng đối với kinh tế quốc gia sẽ có chỉ số<br />
mức độ nhạy cảm cao hơn.<br />
<br />
86<br />
<br />
+ Tính dễ bị tổn thương do BĐKH của đô thị (Climate Vulnerability - CV): là mức độ mà một<br />
đô thị dễ bị tác động bởi/hoặc không có khả năng đối phó với các tác động bất lợi của BĐKH,<br />
bao gồm cả những thay đổi của điều kiện khí hậu và những hiện tượng cực đoan. CV phụ thuộc<br />
vào các biến số về đặc điểm, cường độ và tốc độ của BĐKH mà đô thị bị tác động, mức độ nhạy<br />
cảm (CV) và năng lực thích ứng (Adaptative Capacity - AC) của đô thị.<br />
Thích ứng với BĐKH bao gồm các cách ứng phó, điều chỉnh và hành động của con người và<br />
thiên nhiên, nhằm chống chịu và/hoặc giảm thiệt hại có thể xảy ra, giảm khả năng bị tổn thương<br />
trước những tác động của BĐKH. Nói cách khác, đó là “kiểm soát những điều không thể tránh<br />
khỏi”. Năng lực thích ứng với BĐKH của đô thị liên quan đến: (i) sự nhận thức về tầm quan<br />
trọng, quy mô, phạm vi và tốc độ của BĐKH; (ii) sự thay đổi phong cách sống, chất lượng sống<br />
và cách tạo lập sinh kế; (iii) thay đổi về kinh tế và tiến bộ công nghệ; và (iv) điều chỉnh hệ thống<br />
hạ tầng trong thiết kế các đô thị sinh thái và các vấn đề quan hệ giữa đô thị với vùng ảnh hưởng<br />
và “dấu chân sinh thái” (Eco-footprint) của đô thị. Năng lực thích ứng với BĐKH của đô thị<br />
khác nhau từ cách ứng xử của các chủ thể đơn lẻ tới các cơ chế và hoạt động điều tiết vĩ mô của<br />
chính phủ, là kết quả của cả những ứng phó tức thì cũng như những biện pháp ứng phó mang<br />
tính dài hạn và phòng ngừa.<br />
3. ĐÔ THỊ HÓA VÀ MỘT SỐ TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỚI CÁC<br />
ĐÔ THỊ ĐÔNG NAM Á<br />
<br />
Đông Nam Á là khu vực đang trong quá trình đô thị hóa nhanh. Nếu năm 1950, chỉ có 15% dân<br />
số Đông Nam Á sinh sống tại các vùng đô thị, thì năm 2010, con số này là 41,8% (246,7 triệu<br />
người). Ước tính đến năm 2025, con số này sẽ là 49,7%, năm 2050 là 65,4% .<br />
Bảng 3.1. Tỷ lệ đô thị hóa ở các quốc gia Đông Nam Á qua các thời kỳ<br />
Quốc gia<br />
<br />
Năm 1950<br />
<br />
1975<br />
<br />
2000<br />
<br />
2025<br />
<br />
2050<br />
<br />
Brunây<br />
<br />
26,8<br />
<br />
62,0<br />
<br />
71,1<br />
<br />
80,9<br />
<br />
87,2<br />
<br />
Campuchia<br />
<br />
10,2<br />
<br />
4,4<br />
<br />
16,3<br />
<br />
26,3<br />
<br />
43,8<br />
<br />
Inđônexia<br />
<br />
12,4<br />
<br />
19,3<br />
<br />
42,0<br />
<br />
50,7<br />
<br />
65,9<br />
<br />
7,2<br />
<br />
11,1<br />
<br />
22,0<br />
<br />
49,0<br />
<br />
68,0<br />
<br />
Malaixia<br />
<br />
20,4<br />
<br />
37,7<br />
<br />
62,0<br />
<br />
80,5<br />
<br />
87,9<br />
<br />
Myanma<br />
<br />
16,2<br />
<br />
23,9<br />
<br />
27,8<br />
<br />
44,4<br />
<br />
62,9<br />
<br />
Philipin<br />
<br />
27,1<br />
<br />
35,6<br />
<br />
48,0<br />
<br />
55,4<br />
<br />
69,4<br />
<br />
Xingapo<br />
<br />
99,4<br />
<br />
100,0<br />
<br />
100,0<br />
<br />
100,0<br />
<br />
100,0<br />
<br />
Thái Lan<br />
<br />
16,5<br />
<br />
23,8<br />
<br />
31,1<br />
<br />
42,2<br />
<br />
60,0<br />
<br />
Việt Nam<br />
<br />
9,9<br />
<br />
14,6<br />
<br />
24,3<br />
<br />
36,4<br />
<br />
54,9<br />
<br />
Timo Leste<br />
<br />
11,6<br />
<br />
18,8<br />
<br />
24,5<br />
<br />
40,5<br />
<br />
59,0<br />
<br />
Toàn Đông Nam Á<br />
<br />
15,5<br />
<br />
23,3<br />
<br />
38,2<br />
<br />
49,7<br />
<br />
65,4<br />
<br />
Lào<br />
<br />
Nguồn: UNDP, 2010.<br />
<br />
87<br />
<br />
Tỷ lệ đô thị hóa có sự khác biệt khá lớn giữa các quốc gia trong khu vực, thể hiện sự liên quan<br />
giữa đô thị hóa và phát triển kinh tế. Các quốc gia trong khu vực có thể được chia thành 3 nhóm:<br />
Nhóm thứ nhất gồm các quốc gia có tỷ lệ đô thị hóa cao (trên 65%) và mức độ phát triển kinh tế<br />
cao (thể hiện qua GDP bình quân đầu người): Xingapo, Brunây và Malaixia; Nhóm thứ hai gồm<br />
các nước có kinh tế ít phát triển hơn và tỷ lệ đô thị hóa thấp (dưới 34%): Campuchia, Timo<br />
Leste, Việt Nam, Lào và Myanma; Nhóm ở giữa gồm các quốc gia: Thái Lan, Inđônêxia và<br />
Philipin.<br />
Đông Nam Á tạo ra 12% (5.187 triệu tấn CO2-eq) khí thải gây hiệu ứng nhà kính toàn cầu<br />
(GHGs), chủ yếu do suy giảm trữ lượng sinh khối gây ra bởi việc chặt phá rừng. Trong số 5.187<br />
triệu tấn GHGs đó, 59% là từ Inđônêxia, 6% từ Thái Lan, 4% từ Philipin, 2% từ Việt Nam và 1%<br />
từ Xingapo. Lượng thải GHGs bình quân đầu người cao hơn so với mức trung bình toàn cầu,<br />
nhưng vẫn thấp hơn so với các nước phát triển (ADB, 2009).<br />
Biến đổi khí hậu là một thách thức rất lớn đối với các quốc gia Đông Nam Á trong thế kỷ XXI<br />
do đây là khu vực cực kỳ dễ bị tổn thương. Có thể thấy, BĐKH đã và đang tác động đến hầu như<br />
toàn bộ ĐNA, đặc biệt là các khu vực ven biển.<br />
Vị trí địa lý đặc biệt của ĐNA nói chung, các đô thị ven biển nói riêng, khiến khu vực này đã và<br />
sẽ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các hiện tượng liên quan đến BĐKH như: nước biển dâng, bão<br />
và áp thấp nhiệt đới, ngập lụt, nguy cơ khan hiếm nước, các hiện tượng thời tiết cực đoan, vấn đề<br />
an ninh lương thực và tị nạn môi trường... Các dạng tác động chủ yếu của BĐKH đến một số<br />
thành phố lớn của các quốc gia ĐNA được thể hiện trong Bảng 3.2.<br />
Khoảng 173.251 km đường bờ biển và sự tập trung đông dân số cũng như các hoạt động kinh tế<br />
tại khu vực ven biển sẽ chịu ảnh hưởng bởi mực nước biển dâng 0,6-2,0 mm hàng năm theo dự<br />
báo của ADB (ADB, 2009). Kịch bản “khiêm tốn” nhất cũng dự báo mực nước biển trong khu<br />
vực đến cuối thế kỷ XXI có thể tăng 40 cm so với hiện tại. Nhiều thành phố thủ đô của các quốc<br />
gia ĐNA nằm ở vị trí ven biển và phải đối mặt với tất cả các vấn đề của nước biển dâng.<br />
Các đô thị thuộc vùng đất thấp ven biển (LECZ) - những vùng đất trong phạm vi cách đường bờ<br />
biển 100 km, có độ cao nhỏ hơn hoặc bằng 10 m, chiếm 29,4% tổng diện tích các đô thị, là nơi<br />
sinh sống của 36% dân số toàn khu vực, tương đương 12,3% tổng dân số đô thị của vùng. Người<br />
nghèo (theo tiêu chí nghèo đa chiều - bao gồm sự thiếu thốn về thu nhập, giáo dục, nhà ở…) tại<br />
các đô thị này dường như chịu tỷ lệ ảnh hưởng cao hơn các nhóm người khác bởi họ thường<br />
sống ở các vùng đất rất thấp.<br />
Tại Xingapo, mực nước biển dâng 59 cm, có thể gây ra sự suy giảm đáng kể của rừng ngập mặn,<br />
xói mòn bờ biển, mất đất... Trong vài thập kỷ trở lại đây, Chính phủ Xingapo đã tiến hành mở<br />
diện tích quốc gia thông qua các biện pháp lấn biển khá tốn kém. Kết quả là trên 20% diện tích<br />
của đảo quốc này hiện nay là đất lấn biển. Với dự báo mực nước biển dâng từ 0,5 đến 1,5 m, các<br />
vùng đất lấn biển lại đang trong nguy cơ bị đe dọa. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng, chi phí<br />
để bảo vệ vùng ven bờ của Xingapo sẽ trong khoảng từ 0,3-5,7 tỷ USD vào năm 2050, từ 0,9 đến<br />
16,8 tỷ USD vào năm 2010.<br />
<br />
88<br />
<br />
Nguồn: Marwan Owaygen, 2010.<br />
Hình 3.1. Tính dễ bị tổn thương do các tác động của BĐKH ở khu vực Đông Nam Á<br />
Bảng 3.2. Các dạng tác động chủ yếu của biến đổi khí hậu tới một số thành phố Đông Nam Á<br />
Thành phố<br />
<br />
Diện tích<br />
đất bị ảnh<br />
hưởng<br />
<br />
Nước<br />
biển<br />
dâng<br />
<br />
Ngập<br />
lụt<br />
<br />
Khan<br />
hiếm<br />
nước<br />
<br />
Bandar Seri Begawan<br />
<br />
100,36<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Băng Cốc<br />
<br />
7.761,00<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
TP Hồ Chí Minh<br />
<br />
2.092,00<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Jakarta<br />
<br />
740,28<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Kuala Lumpur<br />
<br />
243,65<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Manila<br />
<br />
638,55<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Phnôm Pênh<br />
<br />
290,00<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Xingapo<br />
<br />
710,00<br />
<br />
<br />
<br />
598,00<br />
<br />
An ninh<br />
lương<br />
thực<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Viên Chăn<br />
Yangon<br />
<br />
Bão và<br />
áp thấp<br />
nhiệt đới<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nguồn: WWF, 2009.<br />
Nước biển dâng cùng với hiện tượng sạt lở đất do khai thác nước ngầm quá mức… sẽ làm đường<br />
bờ biển của Inđônêxia dịch chuyển vào trong và gia tăng nguy cơ ngập lụt. Đến năm 2050, nếu<br />
<br />
89<br />
<br />