Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
<br />
<br />
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA CÁC TỘC NGƯỜI THIỂU SỐ TỈNH HÀ GIANG<br />
TRONG BỐI CẢNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP HIỆN NAY*<br />
Nguyễn Thị Song Hà(1)<br />
<br />
H à Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây<br />
giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Bắc giáp nước Cộng<br />
hòa Nhân dân Trung Hoa. Điều kiện tự nhiên, khí hậu và địa hình có những yếu tố rất đặc thù đã hình<br />
thành nên cộng đồng các dân tộc thiểu số của Hà Giang mang sắc thái văn hóa đặc trưng của vùng<br />
Đông Bắc. Kể từ khi Đảng và Nhà nước ta thực hiện công cuộc Đổi mới đất nước (1986) đến nay, Hà<br />
Giang đã có nhiều bước “chuyển mình” trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh đổi<br />
mới và hội nhập quốc tế ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, văn hóa các dân tộc sinh sống trên mảnh<br />
đất Hà Giang đã có những thay đổi sâu sắc, song mỗi dân tộc vẫn mang trong mình những bản sắc<br />
văn hóa truyền thống riêng, tạo nên một bức tranh văn hóa đặc trưng đa dạng, nhiều màu sắc của<br />
một tỉnh vùng cao biên giới.<br />
Từ khóa: Các tộc người thiểu số tỉnh Hà Giang; biến đổi văn hóa; bản sắc văn hóa truyền thống.<br />
<br />
Theo thống kê của Ban Dân tộc tỉnh Hà Giang, của người Mông, Lô Lô, Pu Péo... với kiến trúc nhà<br />
hiện nay Hà Giang là nơi sinh sống của 19 dân tộc, đất trình tường 3 gian lợp ngói hoặc gianh; Đối với<br />
trong đó dân tộc Mông chiếm tỉ lệ đông nhất với vùng cao phía Tây thì một số cộng đồng trong đó<br />
32% dân số, dân tộc Tày là 23,3%, dân tộc Dao là phần lớn là người Dao đang có xu hướng chuyển từ<br />
15,1%, dân tộc Kinh 13%, dân tộc Nùng 9,9%, còn ngôi nhà trình tường đất sang ngôi nhà khung gỗ,<br />
lại là các dân tộc thiểu số khác. Trong những năm vách gỗ. Người Dao thường kết hợp ở cả 2 loại hình<br />
qua, đời sống văn hóa của các dân tộc tỉnh Hà Giang nhà sàn và nhà đất; Đối với đồng bào khu vực vùng<br />
có nhiều biến đổi để thích ứng với môi trường, xã núi thấp thì phổ biến là kiểu nhà sàn có nhiều nét<br />
hội, sự phát triển của địa phương ở những mức độ tương tự nhà sàn của người Tày. Nhà sàn có nhà sàn<br />
khác nhau trong từng thành tố văn hóa, trong mỗi bằng gỗ và nhà sàn bằng đất nhưng đối với người<br />
cộng đồng tộc người cụ thể, song vẫn thể hiện được Tày của Hà Giang thường làm bằng gỗ với kiến trúc<br />
sắc thái văn hóa riêng của tộc người. Có thể nói, sự độc đáo. Đặc trưng của ngôi nhà sàn ở đây là đều<br />
biến đổi văn hóa ấy được biểu hiện qua các thành được lợp lá cọ. Nhà sàn có diện tích sử dụng rất lớn,<br />
tố văn hóa sau: chia thành các gian và mỗi gian đều có chức năng<br />
1. Nhà ở riêng, một số gia đình, ở một số dân tộc lựa chọn<br />
nhà xây theo kiến trúc hiện đại, kết cấu và phân bố<br />
Đối với bất cứ dân tộc nào sinh sống trên đất không gian theo kiểu kiên trúc người Kinh1.<br />
nước ta, trong quan niệm truyền thống, nhà ở chính<br />
là nơi diễn ra các hoạt động, nghi lễ của gia đình, là Dưới sự tác động của hội nhập và toàn cầu hóa,<br />
nơi thực hành và lưu giữ nhiều dấu ấn văn hóa của nhà ở của các tộc người thiểu số trên địa bàn tỉnh<br />
tộc người. Mỗi một dân tộc ở những nhóm ngôn có nhiều biến đổi so với truyền thống, đặc biệt là<br />
ngữ khác nhau, ở các vùng miền khác nhau đều có ở khu vực thị trấn, khu vực vùng núi thấp. Sự thay<br />
cấu trúc nhà ở và các dạng thức sinh hoạt văn hóa đổi nhà ở cũng đã làm cho việc thay đổi cảnh quan,<br />
chứa đựng nhiều sắc thái khác nhau. Đối với ngôi không gian cư trú và bố trí mặt bằng, không gian<br />
nhà truyền thống của các tộc người Hà Giang có thể sinh hoạt, thực hành các tín ngưỡng trong từng cộng<br />
quy về hai loại hình cơ bản là nhà sàn như của các đồng. Chẳng hạn như là ngôi nhà sàn truyền thống<br />
tộc người Tày, Nùng, Giáy, Dao áo Dài, Cờ Lao, của một số tộc người như người Tày, Nùng… được<br />
La Chí...; nhà đất của các tộc người Mông, Lô Lô, chuyển mục đích sử dụng, đó không chỉ là không<br />
Pu Péo, Bố Y, Phù Lá, Dao đỏ, Pà Thẻn... Hiện nay, gian sinh hoạt của một gia đình mà còn phục vụ<br />
trên thực tế các loại hình nhà ở của các dân tộc ở một số mục đích khác như dùng để kinh doanh,<br />
tỉnh Hà Giang đã có nhiều thay đổi so với trước buôn bán nhỏ… Một số gia đình đã chuyển sang<br />
kia, bên cạnh nhà sàn và nhà đất, còn tồn tại loại nhà trệt nhưng vẫn làm một ngôi nhà sàn nhỏ ở bên<br />
nhà nửa sàn nửa đất. Theo đánh giá của Sở Văn hóa cạnh dành cho bố mẹ già với lý do các cụ già đã<br />
Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang, nhà ở của các sống gần trọn đời trong nhà sàn, không thích nghi<br />
dân tộc tỉnh Hà Giang hiện nay phổ biến được phân được với nhà trệt, hoặc ngôi nhà sàn được làm nhỏ<br />
định theo các vùng cư trú. Chẳng hạn như đối với 1.<br />
Báo cáo Tham luận của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang tại<br />
các cộng đồng cư trú tại vùng cao phía Bắc thì ngôi Hội thảo: Thực trạng biến đổi văn hóa các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền<br />
núi phía Bắc – Những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian tới, Hà Giang<br />
nhà phổ biến là nhà đất trình tường kiểu giống nhà tháng 3 năm 2018.<br />
<br />
Ngày nhận bài: 4/5/2018; Ngày phản biện: 10/5/2018; Ngày duyệt đăng: 22/5/2018<br />
(1)<br />
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; e-mail: nguyensongha16@gmail.com<br />
87<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
hơn so với diện tích ban đầu để trở thành nhà bếp. âu phục và biến đổi trong trang phục ngay cả trong<br />
Việc thay đổi về ngôi nhà xuất phát từ nhiều nguyên thực hành nghi lễ hôn nhân, tang ma hay lễ hội cộng<br />
nhân như ảnh hưởng của môi trường sống, sự phát đồng. Và điều này không chỉ diễn ra ở các dân tộc<br />
triển kinh tế, xã hội, sự tiếp nhận và giao thoa văn của Hà Giang mà còn ở các tỉnh khác. Theo kết quả<br />
hóa với các tộc người xung quanh. Thực tế cho thấy điều tra tại thực địa ở khu vực Đông Bắc của tác giả<br />
hiện nay trong nhận thức của người dân, trước hết Vương Xuân Tình đã cho thấy: Trong số năm tộc<br />
là của lớp trẻ thì giá trị tinh thần của loại hình nhà người ở hai tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên thì việc<br />
truyền thống đã suy giảm rất nhiều, thậm chí còn giữ trang phục truyền thống của dân tộc rất ít, chỉ<br />
bị coi là lạc hậu, lỗi thời, không phù hợp với điều chiếm 14,1 % (24/170 hộ được hỏi), trong khi đó<br />
kiện hiện nay, đặc biệt là tầng lớp trung niên, thanh số hộ không còn giữ trang phục truyền thống chiếm<br />
niên. Nhiều người không thích sống trong nhà sàn, 85,9% và thường là nữ giới lưu giữ trang phục<br />
nhà đất theo kiểu truyền thống xưa mà thế hệ cha truyền thống nhiều hơn nam giới3. Tuy nhiên, so<br />
ông để lại và họ có xu hướng phá bỏ nó đi để làm với nghiên cứu của Vương Xuân Tình, Trần Hồng<br />
nhà trệt là loại hình nhà được cho là hiện đại, văn Hạnh ở các xã gần Trung tâm Thành phố nên mức<br />
minh, tân tiến hơn. Họ cho rằng, cuộc sống trong độ biến đổi trong trang phục của các tộc người có vẻ<br />
nhà bê tông văn minh hơn sống trong nhà sàn. Bên mạnh mẽ hơn so với Hà Giang. Theo thống kê cho<br />
cạnh đó, do địa bàn của một số huyện giáp ranh với thấy hiện tại nhiều dân tộc ở vùng cao như huyện<br />
Trung Quốc, nên một số dân tộc sinh sống ở các Đồng Văn, Mèo Vạc vẫn giữ được bộ trang phục<br />
huyện vùng cao lại tiếp nhận kiến trúc nhà ở, sử truyền thống của dân tộc mình như người Mông,<br />
dụng các vật liệu, nội thất và bài trí, sắp xếp theo Dao, song các tộc người Tày, Nùng, Lô Lô, Pu Péo,<br />
cách thức của người Trung Quốc do quá trình họ đi Pà Thẻn... thường chỉ sử dụng trang phục truyền<br />
lao động làm thuê tại Trung Quốc 2. thống trong các dịp hội hè, lễ tết. Một số cộng đồng<br />
2. Trang phục lại có xu hướng trang phục giống như cộng đồng<br />
chiếm đa số như người Bố Y trang phục giống<br />
Trang phục là một trong những yếu tố dễ nhận người Nùng, người La Chí, người Giáy trang phục<br />
biết nhất đến đặc điểm và bản sắc tộc người. Do giống người Tày, do quá trình sống cận cư với các<br />
các điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa mà mỗi tộc tộc người ấy. Đối với các tộc người, việc sử dụng<br />
người hay nhóm tộc người đều có trang phục riêng, trang phục truyền thống cũng có những thay đổi<br />
và thông qua trang phục đó, người ta dễ dàng nhận nhất định trong các trường hợp cụ thể. Chẳng hạn<br />
biết thành phần dân tộc của tộc người. Với các như ở người Mông, phụ nữ có một bộ phận người<br />
dân tộc thiểu số ở Hà Giang, trang phục của mỗi già mặc trang phục truyền thống, trẻ hơn, hoặc các<br />
tộc người, mỗi nhóm tộc người đều có kiểu dáng, em ở độ tuổi đi học mặc váy Mông nhưng lại mặc<br />
màu sắc và cách trang trí hoa văn khác nhau, mà áo sơmi theo kiểu người Kinh và phần lớn trang<br />
theo đồng bào thì mỗi bộ trang phục từ trang phục phục mặc hàng ngày được mua ở ngoài chợ. Những<br />
hàng ngày, trang phục trong ngày cưới, trong các bộ trang phục mang bản sắc dân tộc, do chính phụ<br />
nghi lễ tang ma, lễ hội, trong các hoa văn được thể nữ dân tộc tự may, thêu thùa chủ yếu chỉ được dùng<br />
hiện trên trang phục đã chứa đựng thế giới quan, trong ngày cưới, trong lễ hội cộng đồng.<br />
nhân sinh quan, sắc thái văn hóa, lối sống của tộc<br />
người… Trang phục của nhiều dân tộc ở Hà Giang 3. Ẩm thực<br />
đã khiến cho sắc màu văn hóa của Hà Giang rực rỡ, Vốn xuất phát từ cư dân nông nghiệp, lại sinh<br />
ấn tượng, mang tính đặc trưng riêng của vùng Đông sống chủ yếu ở vùng núi với kinh tế tự cung tự cấp<br />
Bắc như trang phục của người Lô Lô, Pà Thẻn, Dao, là chủ yếu, nên về cơ bản bữa ăn truyền thống của<br />
Mông….Tuy nhiên, ngày nay dưới tác động của các dân tộc ở Việt Nam đều bắt nguồn từ gạo, ngô,<br />
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập rau, cá, còn các loại thịt được sử dụng rất hạn chế,<br />
thì trang phục là một trong những yếu tố biến đổi trừ vào các dịp lễ tết và săn bắn được thú rừng4. Với<br />
mạnh mẽ nhất. Qua quá trình khảo sát, điền dã tại các tộc người ở Hà Giang, trong sinh hoạt ẩm thực,<br />
địa phương, chúng tôi thấy biến đổi về trang phục trong cơ cấu lương thực, thực phẩm dùng trong bữa<br />
ở các tộc người thiểu số tỉnh Hà Giang chịu ảnh ăn thường phản ánh đầy đủ tình trạng kinh tế trong<br />
hưởng nhiều bởi điều kiện về địa lý, sự phát triển toàn vùng. Các tộc người vùng cao phía bắc chủ<br />
kinh tế - xã hội và sự giao thoa văn hóa với các tộc yếu sử dụng ngô, vùng cao phía tây dùng cả ngô, cả<br />
người sống cận cư. Sự biến đổi ấy cũng khác nhau gạo, vùng phía nam sử dụng lúa gạo làm lương thực<br />
ở từng dân tộc. Chẳng hạn như, các tộc người sống chính. Chế độ thực phẩm như các loại rau, thịt, cá...<br />
ở các khu vực trung tâm thị trấn, khu vực thành thị cho đến cách chế biến đều tương tự như nhau và<br />
và sống gần với người Kinh thường có xu hướng ăn đều phản ánh đặc điểm sản phẩm nuôi trồng mang<br />
mặc theo người Kinh như một số dân tộc Tày, Nùng, tính chất vùng.<br />
Dao … ở các huyện như Vị Xuyên, Bắc Quang và Hà Giang có nhiều sản vật tự nhiên và món<br />
ở lứa tuổi trên 50 tuổi ở khu vực vùng cao thì hay ăn độc đáo hấp dẫn như: Người Mông, Lô Lô nổi<br />
sử dụng trang phục truyền thống, còn thế hệ trẻ và tiếng với món thắng cố, cháo lảo và mèn mén, thịt<br />
những người sống gần thành phố thường hay mặc 3.<br />
Vương Xuân Tình, Trần Hồng Hạnh (2012), Phát triển bền vững văn hóa<br />
2.<br />
Báo cáo Tham luận của Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Hà Giang tại tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc, NXB. Khoa học Xã<br />
Hội thảo: Thực trạng biến đổi văn hóa các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền hội, Hà Nội, tr. 185.<br />
núi phía Bắc – Những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian tới, Hà Giang 4.<br />
Nguyễn Thị Song Hà (2015), Xu hướng biến đổi một số thành tố văn hóa<br />
tháng 3 năm 2018. của người Mường ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội<br />
<br />
<br />
88 Số 22 - Tháng 6 năm 2018<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
(trâu, bò, lợn) treo gác bếp; người Tày với món xôi bối cảnh đó, ngôn ngữ tộc người nhất là ngôn ngữ<br />
ngũ sắc, cá nướng, bún vịt; người Nùng với món tộc người có dân số ít dễ bị rơi vào tình trạng yếu<br />
đặc trưng là măng cuốn... Ngoài ra đồng bào còn thế và có nguy cơ bị tiêu vong6. Trong thời gian qua,<br />
tự chưng cất rượu từ ngô, thóc dùng men lá tự chế mặc dù Đảng và Nhà nước luôn có những chính<br />
(rượu thóc Nàng Đôn, Tùng Bá, rượu ngô Thanh sách khuyến khích phát triển và bảo tồn ngôn ngữ<br />
Vân). Mỗi món ăn có một hương vị độc đáo riêng dân tộc nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau,<br />
và thể hiện được độ tinh tế trong cách thể hiện riêng một số ngôn ngữ của các dân tộc có dân số ít ngày<br />
của mỗi dân tộc. càng bị mai một, bị thay thế bằng tiếng khu vực và<br />
Ngày nay, dưới sự tác động của quá trình hội phổ thông, hiện tượng sử dụng song ngữ, đa ngữ ở<br />
nhập, ẩm thực của đồng bào các tộc người thiểu số từng khu vực, làng bản và gia đình ngày càng trở<br />
đang có nhiều biến đổi. Chế độ ăn uống của các dân nên phổ biến 7, trong đó có tỉnh Hà Giang. Có thể<br />
tộc được thay đổi cả về lượng và chất. Về cơ cấu nói, trong những năm gần đây, dưới tác động của<br />
bữa ăn, do điều kiện kinh tế phát triển hơn trước quá trình HĐH và hội nhập, việc giao lưu, tiếp xúc<br />
nên phần lớn các hộ gia đình đã nâng từ 2 bữa ăn ngôn ngữ và sử dụng những ngôn ngữ có ưu thế<br />
lên thành 3 bữa ăn, thậm chí hơn nữa. Cơ cấu bữa trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra ở<br />
ăn, khẩu phần ăn ở những gia đình có điều kiện kinh khắp các làng bản, đặc biệt phổ biến hơn ở khu vực<br />
tế khá do kinh doanh, buôn bán hoặc công chức nhà thành thị. Việc sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình,<br />
nước cũng có sự thay đổi theo ngày, theo độ tuổi ngay cả ở những DTTS chiếm số đông, cũng đang<br />
(già, trẻ em, người ốm). Có thể thấy rằng, bữa ăn có xu hướng giảm đi. Việc sử dụng ngôn ngữ tộc<br />
của các dân tộc ngày càng được cải thiện. Nếu như người được thể hiện trong môi trường gia đình, nhà<br />
trước kia, các loại thịt lợn và gia cầm chỉ dành cho trường, cộng đồng và xã hội mà đòi hỏi phải có một<br />
ngày tết, lễ hội, việc cưới, việc tang hay cúng bái thì chính sách và cách thức thực hiện phù hợp nhằm<br />
ngày nay nhờ có thêm thu nhập bằng tiền mặt nên góp phần bảo tồn, duy trì tiếng nói và chữ viết bởi<br />
nhiều gia đình đã dùng số tiền đó mua thêm lương nó góp phần làm cho văn hóa tộc người được duy trì,<br />
thực, thực phẩm để cải thiện bữa ăn hàng ngày. Một phát triển. Qua một số nghiên cứu cho thấy mức độ<br />
hiện tượng phổ biến là hiện nay ở vùng đồng bào sử dụng ngôn ngữ tộc người có sự khác nhau giữa<br />
dân tộc thiểu số đã xuất hiện nhiều món ăn chế biến các dân tộc, các thành viên trong gia đình và các lứa<br />
sẵn, các món ăn ngoại nhập như pho mai, xúc xích, tuổi khác nhau, ở các khu vực cư trú khác nhau. Đối<br />
đồ hộp… song cũng ít gia đình đồng bào dân tộc với người Tày, Nùng, Dao, Mông, Lô Lô… việc sử<br />
thiểu số sử dụng vì giá cả còn đắt và không hợp dụng ngôn ngữ của dân tộc mình khá phổ biến trong<br />
khẩu vị. Thói quen muối thịt, muối mỡ vào dịp tết giao tiếp giữa hai vợ chồng, song lại có sự khác<br />
để ăn dần và để phòng khi mất mùa, thiên tai đã biệt giữa các dân tộc trong việc giao tiếp với con<br />
không còn phổ biến do kinh tế được cải thiện và sự cái trong gia đình. Ở người Tày, Nùng, Dao trong<br />
phát triển của mạng lưới chợ ở khu vực họ cư trú5. khu vực thành phố Hà Giang, huyện Vị Xuyên… đa<br />
Trong những dịp lễ tết đặc biệt, các dân tộc thiểu số phần con cái và bố mẹ trao đổi với nhau bằng tiếng<br />
đã chịu nhiều ảnh hưởng về ẩm thực và văn hóa của phổ thông, việc con cái nói chuyện với bố mẹ bằng<br />
người Kinh, chẳng hạn như món ăn trong đám cưới tiếng dân tộc ít hơn ở người Mông tại khu vực huyện<br />
và đám tang của các dân tộc không chỉ ngày càng Mèo Vạc, Đồng Văn. Việc sử dụng ngôn ngữ cũng<br />
được tăng về lượng mà còn được tăng về chất và thể có khác nhau và phụ thuộc vào đối tượng, mục đích.<br />
hiện sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc khá đặc Ví dụ, việc sử dụng ngôn ngữ nói chuyện ở trường<br />
sắc. Bên cạnh các món luộc truyền thống, còn có học, hội họp, phổ biến chủ trương chính sách tại<br />
một số món ăn như xào, rán, quay, hầm, nộm thập thôn, xã chủ yếu là sử dụng tiếng phổ thông. Khi<br />
cẩm. Trên nhiều mâm cỗ cưới còn có một số món ăn giao tiếp, trao đổi, mua bán ngoài chợ hoặc tham<br />
được mua sẵn ở chợ như giò, chả, nem.. Bên cạnh gia lễ hội thì sử dụng cả tiếng phổ thông và tiếng<br />
đó, đồ uống cũng có sự thay đổi so với trước đây, dân tộc, điều này còn tùy thuộc vào từng tộc người,<br />
các dân tộc thiểu số có truyền thống uống rượu tự từng khu vực. Nếu như ở địa bàn khu vực trung tâm,<br />
chế, rượu được nấu từ các nguyên liệu tự sản xuất huyện, thị trấn hoặc những nơi gắn với hoạt động du<br />
như (gạo, ngô, sắn) với men tự làm (cây lá rừng) lịch như Đồng Văn, Yên Minh, Vị Xuyên thì việc<br />
thì đến nay, cùng với loại rượu này còn mua ở chợ, sử dụng tiếng phổ thông được ưu tiên nhiều hơn,<br />
ngoài rượu trắng, họ còn sử dụng cả rượu màu, rượu còn ở huyện Mèo Vạc tiếng Mông lại được sử dụng<br />
vang cùng các loại đồ uống có ga (bia, nước ngọt). khá phổ biến. Có một điểm nhận thấy khá rõ ràng ở<br />
việc sử dụng ngôn ngữ tộc người giữa thế hệ già và<br />
4. Sử dụng ngôn ngữ thế hệ trẻ là có sự khác nhau ở đồng bào các dân tộc<br />
Ngôn ngữ, chữ viết tộc người có một vai trò rất thiểu số. Người già thường sử dụng tiếng nói của<br />
quan trọng trong đời sống tộc người, nhất là trong tộc người mình nhiều hơn, trong khi đó người trẻ<br />
giữ gìn và truyền tải các giá trị văn hóa. Dưới tác tuổi, đặc biệt là các em có độ tuổi từ học sinh phổ<br />
động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quan hệ thông trung học trở xuống lại thường sử dụng tiếng<br />
dân tộc, việc giao lưu, tiếp xúc ngôn ngữ và sử dụng<br />
những ngôn ngữ có ưu thế trong đời sống chính trị, Vương Xuân Tình, Trần Hồng Hạnh (2012), Phát triển bền vững văn hóa<br />
6.<br />
<br />
tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc, NXB. Khoa học Xã<br />
kinh tế, xã hội ngày càng trở nên phổ biến. Trong hội, Hà Nội, tr. 167<br />
7.<br />
Ngô Đức Thịnh (2008), Văn hóa truyền thống Tây Nguyên, tiềm năng, thực<br />
5.<br />
Nguyễn Thị Song Hà (2015), Xu hướng biến đổi một số thành tố văn hóa trạng và những vấn đề đặt ra trong vấn đề bảo tồn và phát huy, Tạp chí Khoa<br />
của người Mường ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội học Xã hội Miền Trung – Tây Nguyên, số 1.<br />
<br />
<br />
Số 22 - Tháng 6 năm 2018 89<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
phổ thông (tiếng Kinh) trong giao tiếp hàng ngày, một bàn dưới xử ca và đặt đồ lên cúng thì hiện nay,<br />
nhiều em không nói được tiếng của dân tộc mình. nhiều gia đình đã lập thành bàn thờ, có dùng bát<br />
Mặc dù có sự biến đổi về ngôn ngữ trong cuộc sống hương 10, một số người Mông theo đạo Tin Lành đã<br />
hàng ngày khá cao và có sự khác biệt giữa các tộc không còn thực hiện các phong tục như thờ cúng<br />
người, nhưng có một thực tế là các tộc người lại sử tổ tiên, không có nơi thờ xử ca và từ bỏ các nghi lễ<br />
dụng ở mức cao và tuyệt đối ngôn ngữ của dân tộc truyền thống vốn có của tộc người.<br />
mình trong hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, thờ cúng Đối với các tín ngưỡng, nghi lễ liên quan đến<br />
tổ tiên, trong tang ma, bởi họ cho rằng con người có làm nhà của các tộc người thiểu số dù ở trong loại<br />
tổ có tông, việc sử dụng ngôn ngữ tộc người mình hình nhà nào thì họ cũng đều duy trì và thực hiện<br />
là nhằm thể hiện niềm tôn kính đối với tổ tiên và tổ các tín ngưỡng liên quan đến việc làm nhà. Về cơ<br />
tiên sẽ không chấp nhận lễ cúng với lời cúng thuộc bản, các tộc người rất chú ý đến việc chọn đất và<br />
ngôn ngữ khác 8. Có lẽ đây cũng là một điểm khá hướng làm nhà, đối với một số tộc người như người<br />
tương đồng trong cách suy nghĩ của các tộc người Tày, Dao, Lô Lô có quan niệm đất dùng để làm nhà<br />
thiểu số ở Việt Nam mà không chỉ riêng các dân và hướng của ngôi nhà phải phù hợp với tuổi của<br />
tộc ở tỉnh Hà Giang. Trong quá trình công nghiệp chủ nhà. Ví dụ như, người Dao rất coi trọng hướng<br />
hóa, hiện đại hóa và hội nhập đang diễn ra mạnh nhà. Theo đồng bào thì nhà có thế dựa vào núi, cửa<br />
mẽ như hiện nay, dễ dàng nhận thấy xu hướng quan mở hướng đông – hướng đón mặt trời sẽ tạo sinh<br />
trọng trong sử dụng ngôn ngữ ở môi trường gia đình khí giúp gia đình luôn khỏe mạnh, thuận hòa, công<br />
và cộng đồng các tộc người là song ngữ (tiếng phổ việc làm ăn thuận lợi, con cháu học hành sáng dạ;<br />
thông và tiếng dân tộc của từng tộc người). Trong kiêng hướng mở cửa nhà nhìn thẳng về phái mặt trời<br />
thực tế, khi sử dụng ngôn ngữ lại có 2 mức độ. Mức lặn, xuôi theo dòng suối, phía trước có nhiều núi<br />
độ thấp là ngôn ngữ dân tộc mình, có vay mượn to, sắc nhọn… Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay,<br />
tiếng phổ thông để diễn giải những gì mà bản ngữ nhiều điểm nghiên cứu, địa bàn cư trú của người<br />
không thực hiện được, mức độ cao hơn là sử dụng được định cư do chính sách hạ sơn của Đảng và Nhà<br />
hẳn tiếng phổ thông để trao đổi và một số ít thành nước, thậm chí có nhiều ngôi nhà được dịch chuyển<br />
phần sử dụng được ngoại ngữ để giao tiếp, đặc biệt từ nơi được cho là tiện lợi cho việc đi rừng, ra đồng<br />
là ở các đối tượng là học sinh, cán bộ công chức và ruộng, lên nương trước kia ra những vị trí gần mặt<br />
người dân ở nơi phát triển du lịch. đường chính của thôn hay đường liên thông, liên xã<br />
5. Các nghi lễ trong gia đình để thuận lợi cho việc đi lại vì nhiều gia đình người<br />
Trong đời sống văn hóa các tộc người thì các Dao có xe máy 11. Hay như nghi lễ cúng vào nhà<br />
phong tục tập quán, các nghi lễ liên quan đến chu kì mới của nhiều gia đình đồng bào người Tày, Dao,<br />
vòng đời, các nghi lễ được tổ chức trong gia đình, Mông hay Lô Lô ngoài thực hiện các nghi thức vốn<br />
dòng họ được coi là yếu tố bảo lưu văn hóa tộc quy định từ lâu trong phong tục, tập quán của cộng<br />
người cơ bản nhất và chậm biến đổi nhất. Ở từng đồng thì nay còn mang nhiều yếu tố của lễ mừng<br />
tộc người, mức độ biến đổi các nghi lễ là có sự khác nhà mới như người Kinh, có nghĩa là mời dòng họ,<br />
nhau nhất định. Chẳng hạn đối với phong tục thờ làng xóm đến ăn uống và chúc mừng.<br />
cúng tổ tiên/ ma nhà phần lớn vẫn được thực hành Đối với các tín ngưỡng liên quan đến trồng trọt,<br />
ở các dân tộc và được tuân thủ khá nghiêm ngặt chăn nuôi ở Hà Giang hiện nay, phần lớn do áp dụng<br />
bởi đồng bào vẫn luôn tin vào sức mạnh của các vị khoa học kĩ thuật vào sản xuất như phân bón, thuốc<br />
thần, hay thần linh đối với cuộc sống của họ, tuy trừ sâu, giống mới… nên các tín ngưỡng, nghi lễ<br />
nhiên có sự thay đổi về cách thức và lễ vật. Theo liên quan đến trồng trọt đã không còn được coi là<br />
kết quả phỏng vấn sâu ở các tộc người được nghiên “cứu cánh” giúp cho một mùa màng bội thu, năng<br />
cứu như Tày, Dao, Mông, Lô Lô cho thấy về mức suất, song không phải vì thế mà nó không còn được<br />
độ phổ biến thờ cúng tổ tiên, ma nhà được duy trì thực hành. Chẳng hạn như ở người Lô Lô, khá phổ<br />
khá cao ở người Tày, Mông… và việc thực hành biến là nghi lễ cầu mưa, vì thế vào dịp năm mới,<br />
các nghi lễ, tín ngưỡng này chủ yếu tập trung vào cộng đồng người Lô Lô vẫn mời thầy cúng cầu cho<br />
những người ở độ tuổi 35 trở lên, còn đối với các một năm mưa thuận, gió hòa, giúp người Lô Lô có<br />
gia đình trẻ, tuổi còn ít lại ít chú ý đến các nghi cuộc sống no đủ hơn.<br />
lễ, tín ngưỡng này. Với tín ngưỡng này, phần lớn Đối với hôn nhân, theo truyền thống, đám cưới<br />
các tộc người tiến hành vào các dịp lễ tết như Tết được coi như một dấu ấn mà tập thể, cộng đồng<br />
năm mới, Tết cơm mới…9 mục đích là để cầu an, công nhận tình yêu của đôi nam nữ, thì ngày nay<br />
cầu mùa màng bội thu và cầu lộc cho gia đình. Tuy bên cạnh đám cưới để công bố với dân làng còn<br />
nhiên so với truyền thống, các hoạt động liên quan được pháp luật công nhận và việc đăng ký kết hôn<br />
đến tín ngưỡng này cũng có sự thay đổi. Chẳng hạn trước chính quyền địa phương cũng rất quan trọng,<br />
như với người Mông, trước kia họ không có bàn thờ là cơ sở pháp lý đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ khi<br />
để thời tổ tiên mà chỉ có chỗ cắm hương, là ống tre đôi nam nữ thành vợ, thành chồng. Theo quy định<br />
được gài trên tường phía dưới xử ca. Khi cúng kê của pháp luật, trong đồng bào các dân tộc thiểu số ở<br />
8.<br />
Nguyễn Thị Song Hà (2015), Xu hướng biến đổi một số thành tố văn hóa<br />
10.<br />
Sầm Thị Dương (2014), Dòng họ của người Mông Trắng ở xã Sà Phìn,<br />
của người Mường ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sĩ Dân tộc học, lưu tại thư<br />
9.<br />
Vương Xuân Tình, Trần Hồng Hạnh (2012), Phát triển bền vững văn hóa viện Học viện Khoa học Xã hội.<br />
tộc người trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc, NXB. Khoa học Xã 11.<br />
Phạm Minh Phúc (2013), Nhà ở của người Dao Áo Dài tỉnh Hà Giang,<br />
hội, Hà Nội, tr. 221 NXB. Khoa học Xã hội, tr 235.<br />
<br />
<br />
90 Số 22 - Tháng 6 năm 2018<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
Hà Giang đã nâng độ tuổi kết hôn lên so với truyền thôn xóm có trách nhiệm phối hợp với gia đình tang<br />
thống, đã chủ động đến đăng kí kết hôn tại Ủy ban chủ phân công, bố trí, sắp xếp công việc, đồng thời<br />
nhân dân xã. Nếu như trước kia hôn nhân phần lớn cử mỗi gia đình đại diện một người, mang theo gạo,<br />
do sự tác động và quyết định của bố mẹ thì hiện củi, rượu đến giúp đỡ gia chủ chuẩn bị tang ma. Hầu<br />
nay, trai gái các dân tộc đã được chủ động và được hết các công việc đều được các tổ chức đoàn thể<br />
bố mẹ tôn trọng quyết định và sự lựa chọn của con của thôn xã, chính quyền địa phương trực tiếp tham<br />
cái. Các phong tục tập quán, tục thách cưới vốn xưa gia như đào huyệt, dựng mồ, giúp tang chủ chuẩn<br />
rất nặng nề khiến nhiều người không thể lấy vợ, lấy bị đồ cúng tế và cơm nước mỗi khi khách đến thăm<br />
chồng thì nay đã được hạn chế rất nhiều, thậm chí viếng…nhờ vậy các thành viên của gia đình có tang<br />
là có sự thống nhất, bàn bạc giữa hai bên gia đình. có thể tập trung vào những việc quan trọng cần sự<br />
Tuy nhiên, độ tuổi kết hôn, thách cưới vẫn còn theo hiện diện đầy đủ của các thành viên trong nhà.<br />
từng vùng cư trú và văn hóa tộc người. Chẳng hạn Trước đây quan tài hình tròn làm bằng thân cây<br />
như người Tày, người Dao ở huyện Vị Xuyên tuổi khoét rỗng được sử dụng phổ biến trong đồng bào<br />
kết hôn trung bình giữa nam và nữ cao hơn so với dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, khoảng chục năm trở<br />
người Mông, người Lô Lô ở huyện Mèo Vạc, Đồng lại đây, người ta bắt đầu sử dụng quan tài bằng ván<br />
Văn. Tình trạng hôn nhân cận huyết hoặc như trước đóng giống như của người Kinh. Ở những vùng sâu,<br />
đây, hôn nhân theo xu hướng chỉ thích kết hôn với vùng xa, quan tài có cấu trúc khá đơn giản, người ta<br />
người cùng đồng tộc, cùng xóm, cùng mường là chủ dùng gỗ xẻ, bào nhẵn và lấy đinh đóng lại theo hình<br />
yếu, thì hiện nay do những tác động của xu thế giao chữ nhật rộng dài tương xứng với thi thể của người<br />
lưu, hội nhập, sống xen kẽ nên đã có nhiều trường chết. Đối với vùng thị trấn, thị tứ và ven đường quốc<br />
hợp kết hôn khác tộc…Trong xã hội hiện đại, khi lộ, quan tài được làm công phu hơn, chú ý nhiều về<br />
các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội ngày càng mặt hình thức, thường sơn màu đỏ. Trên nắp quan<br />
mở rộng, biến đổi và phát triển nhanh chóng, thì tài, có một hình vuông được lắp kính trắng để mọi<br />
các dân tộc có điều kiện xích lại gần nhau, từ đó người đến phúng viếng có thể nhìn người chết lần<br />
nảy sinh quan hệ hôn nhân hỗn hợp là một điều tất cuối cùng. Ở một số tộc người, trước đây không có<br />
yếu, góp phần làm cho bức tranh văn hóa các dân tục để người chết trong quan tài như người Mông,<br />
tộc thêm phong phú và phát triển các mối quan hệ thì hiện nay do được vận động, bà con đã thay đổi<br />
tộc người tốt đẹp. dần thói quen, thi hài người chết được bỏ quan tài<br />
Đối với lĩnh vực tang ma thì ít thấy có sự biến và chôn cất cẩn thận…<br />
đổi nhất bởi nó gắn với niềm tin, nhân sinh quan và 6. Lễ hội<br />
thế giới quan của tộc người. Phần lớn đồng bào dân Lễ hội là một sinh hoạt văn hoá cộng đồng phổ<br />
tộc có quan niệm rằng, chết không phải là hết mà biến ở tất cả mọi tộc người. Hiện nay, ở Hà Giang<br />
là sự chuyển giao từ thế giới này sang một thế giới lễ hội chủ yếu là lễ hội dân gian truyền thống như:<br />
khác và thế giới của tổ tiên mới chính là cuộc sống Người Mông với lễ hội Gầu Tào, vỗ Mông; người<br />
đích thực của con người và cuộc sống ở trần gian Dao với lễ cúng hồn lúa, lễ cấp sắc; người Tày với<br />
như thế nào thì cuộc sống ở cõi âm cũng như vậy. lễ hội Lồng Tồng; người Nùng, Pu Péo với lễ cúng<br />
Trước đây, trong nghi thức tang ma thường diễn ra thần rừng; người Pà Thẻn với lễ hội nhảy lửa; người<br />
nhiều nghi lễ khác nhau, thời gian lại kéo dài và tốn Lô Lô với lễ cúng tổ tiên; người La Chí với lễ mừng<br />
kém vật chất cho gia chủ thì hiện nay các gia đình cơm mới... Các lễ hội, nghi lễ thường được diễn ra<br />
có người chết chủ động thực hiện nghi lễ tang ma quanh năm nhưng tập trung nhiều nhất vào những<br />
ngắn gọn và chôn cất thi thể không quá 48 tiếng ngày sau tết Nguyên Đán và thời gian thường kéo dài<br />
đồng hồ. Tuy nhiên, trên thực tế còn một số gia đình từ 3 đến 5 ngày. Các hoạt động trong lễ hội rất phong<br />
người Mông vẫn duy trì phong tục để xác chết lâu phú đa dạng bao gồm cả hát dân ca, dân vũ, chơi các<br />
ngày trong nhà, dẫn đến việc ô nhiễm môi trường. môn thể thao (ném pao, đánh sảng, tung còn...)<br />
Trong văn hóa của đồng bào, trong truyền thống<br />
thường có quy định khi bố mất đi, con cái phải cúng Trước kia các lễ hội thường được tổ chức ở quy<br />
nhiều lễ vật như trâu, bò, dê, lợn… nhưng hiện nay, mô cộng đồng của dân tộc thì nay có nhiều lễ hội<br />
điều này đã thay đổi nhiều, con cái cũng tùy thuộc không còn là của riêng một dân tộc nào đó nữa mà<br />
vào kinh tế của mình, không nhất thiết phải cúng có cả các dân tộc khác cùng tổ chức, cùng tham gia<br />
trâu, cúng bò, hoặc theo như quy định trước kia tất như lễ hội Lồng tồng của người Tày hiện nay tham<br />
cả các con, mỗi người đều phải có trâu bò cúng, thì gia lễ hội này còn có cả người Nùng, người Dao,<br />
nay có thể cùng chung nhau một con trâu, hoặc bò. người Giáy, người Kinh...; Lễ hội Chợ tình Khâu<br />
Hoặc như, trước đây việc quyết định làm ma, chay Vai người ta thấy có tất cả các cộng đồng khác nhau<br />
phụ thuộc rất nhiều vào ông trưởng họ, thầy cúng trong vùng gồm đồng bào Mông, Tày, Dao, Hoa, Lô<br />
thì ngày nay, bất cứ một thôn, xóm nào cũng đều có Lô, Nùng, Giáy, Kinh...<br />
Trưởng thôn, là người lo liệu, quán xuyến và điều 7. Một số giải pháp và kiến nghị về bảo tồn văn<br />
hành các công việc chung của thôn xóm, cũng là hóa tộc người trong bối cảnh hiện nay<br />
người đại diện của dân và do dân bầu lên, nên khi Trong quá trình hội nhập, yếu tố cư trú xen cài<br />
gia đình có tang ma, một người trong gia đình đến giữa các tộc người với nhau khiến cho văn hoá của<br />
báo cáo trưởng thôn hoặc cấp chính quyền của thôn, các tộc người đang nằm giữa truyền thống và hiện<br />
xóm đề nghị giúp đỡ. Trưởng thôn và chính quyền đại, vô hình chung tự nó đã tạo nên lỗ hổng, trong<br />
<br />
Số 22 - Tháng 6 năm 2018 91<br />
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN<br />
<br />
khi đó cái cũ còn một số điểm chưa phù hợp, cái quan, tìm hiểu, giao lưu văn hóa trong cộng đồng<br />
mới lại chưa hoàn thiện. Do vậy, muốn bảo tồn dân tộc. Bảo lưu ngôn ngữ, chữ viết, nhạc cụ, khôi<br />
được một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc thì phục lại các trò chơi, trò diễn, dân ca, dân vũ có giá<br />
trước hết cần phải đưa ra phương án để gìn giữ các trị; tổ chức “Ngày hội văn hoá các dân tộc của tỉnh”<br />
giá trị văn hoá được coi là tốt đẹp và còn phù hợp theo định kỳ....<br />
với thời đại. Cùng với đó là phải tạo niền tin và - Gắn việc bài trừ hủ tục với phong trào “Toàn dân<br />
lòng tự hào về truyền thống tốt đẹp của dân tộc với đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Chính quyền<br />
chính người dân nơi đây, tránh gây tâm lý mặc cảm địa phương chú trọng nâng cao chất lượng phong<br />
văn hoá đối với họ. Để làm được điều này, trước hết trào xây dựng gia đình văn hoá, làng bản văn hoá.<br />
các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương,<br />
trong đó tỉnh Hà Giang cần:<br />
- Tăng cường tổ chức liên hoan, hội diễn dân * Bài viết là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp<br />
ca, dân vũ, nhạc cụ, trình diễn trang phục dân tộc nhà nước: Biến đổi văn hóa của các dân tộc thiểu<br />
truyền thống nhằm quảng bá, tôn vinh giá trị văn số - những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian<br />
hóa truyền thống các dân tộc; tới, mã số: CTDT 11.17/16-20.<br />
- Tuyên truyền tới đông đảo các tầng lớp nhân Tài liệu tham khảo<br />
dân nhằm nâng cao nhận thức, lòng tự hào, ý thức [1] Nguyễn Thị Song Hà (2011), Nghi lễ trong<br />
dân tộc, từ đó có ý thức phát huy và bảo vệ các giá chu kỳ đời người của người Mường ở Hòa Bình,<br />
trị văn hóa truyền thống. NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội;<br />
- Có chính sách khuyến khích nghệ nhân người [2] Nguyễn Thị Song Hà (2015), Xu hướng biến<br />
dân tộc thiểu số (đặc biệt là các già làng, trưởng bản) đổi một số thành tố văn hóa của người Mường ở Việt<br />
sưu tầm, dàn dựng, bảo tồn và phát huy các giá trị Nam, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội;<br />
văn hoá truyền thống của đồng bào dân tộc ít người. [3] Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xu hướng biến đổi<br />
- Thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa các tộc người thiểu số ở Thừa Thiên Huế<br />
văn hoá nghệ thuật mang tính vùng miền, tạo sân trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân tộc học, số 3;<br />
chơi để các dân tộc được học tập cũng như quảng [4] Phạm Minh Phúc (2013), Nhà ở của người<br />
bá, giới thiệu những giá trị văn hoá tiêu biểu của<br />
dân tộc mình. Dao Áo Dài tỉnh Hà Giang, NXB. Khoa học Xã hội.<br />
- Tập trung củng cố xây dựng các đội văn nghệ [5] Vương Xuân Tình – Trần Hồng Hạnh,<br />
dân gian và thành lập Hội nghệ nhân dân gian tại (2012), Phát triển bền vững văn hóa tộc người<br />
các huyện, thành phố lựa chọn nghệ nhân tiêu biểu trong quá trình hội nhập ở vùng Đông Bắc, NXB.<br />
và có uy tín trong cộng đồng dân tộc. Khoa học Xã hội, Hà Nội;<br />
- Nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc [6] Ngô Đức Thịnh (2008), Văn hóa truyền<br />
thiểu số về các giá trị văn hoá đặc sắc, tiêu biểu của thống Tây Nguyên, tiềm năng, thực trạng và những<br />
dân tộc mình để hoà nhập vào cộng đồng các dân vấn đề đặt ra trong vấn đề bảo tồn và phát huy, Tạp<br />
tộc Việt Nam. Qua đó các giá trị văn hoá vật thể và chí KHXH Miền Trung – Tây Nguyên, số 1;<br />
phi vật thể cũng được bảo tồn và phát huy. [7] Tài liệu Hội thảo: Thực trạng biến đổi văn<br />
- Nghiên cứu, sưu tầm các giá trị văn hoá truyền hóa các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía<br />
thống gắn với phát triển du lịch, đa dạng các sản Bắc – Những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời<br />
phẩm du lịch đặc trưng, thu hút du khách đến tham gian tới, Hà Giang tháng 3 năm 2018.<br />
<br />
<br />
<br />
CULTURAL CHANGE OF ETHNIC MINORITIES IN HA GIANG PROVINCE<br />
IN THE CURRENT CONTEXT OF RENOVATION AND INTEGRATION<br />
Nguyen Thi Song Ha<br />
<br />
Abstract: Ha Giang is a province located in Northeastern Vietnam, it is bordered on Cao Bang Province<br />
to the East, Yen Bai and Lao Cai to the West, Tuyen Quang to the South, and bordered on the People’s<br />
Republic of China in the North. Ha Giang is a locality with characteristics of natural conditions, climate<br />
and topography, which has formed a community of ethnic minorities in the province with characterized<br />
cultural nuance of the Northeast region in particular and the whole country in general. Since our Party and<br />
the State implemented a renovation of the country (1986) till now, Ha Giang has taken many “changing<br />
vigorously” steps in economic, cultural and social life. In the context of renovation and international<br />
integration becoming stronger and stronger, the culture of ethnic minorities in Ha Giang has changed<br />
dramatically, but each ethnic minorities group still has its own traditional cultural identity, which creates a<br />
diversified and colorful picture of a highland border provinces.<br />
Keywords: Minorities in Ha Giang province; cultural change; traditional cultural identity.<br />
<br />
92 Số 22 - Tháng 6 năm 2018<br />