intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Biểu hiện của dấu ấn sinh học p16 trong tổn thương tế bào gai cổ tử cung và mối liên quan với HPV

Chia sẻ: ViAphrodite2711 ViAphrodite2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

51
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá biểu hiện của dấu ấn p16 trong các tổn thương tế bào gai cổ tử cung đồng thời xác định sự liên quan giữa các mức độ tổn thương tế bào gai cổ tử cung, HPV và dấu ấn sinh học p16.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Biểu hiện của dấu ấn sinh học p16 trong tổn thương tế bào gai cổ tử cung và mối liên quan với HPV

Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015<br /> <br /> <br /> BIỂU HIỆN CỦA DẤU ẤN SINH HỌC P16 TRONG TỔN THƯƠNG<br /> TẾ BÀO GAI CỔ TỬ CUNG VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI HPV<br /> Dương Ngọc Phú*, Đoàn Thị Phương Thảo**<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm đánh giá biểu hiện của dấu ấn p16 trong các tổn thương<br /> tế bào gai cổ tử cung đồng thời xác định sự liên quan giữa các mức độ tổn thương tế bào gai cổ tử cung,<br /> HPV và dấu ấn sinh học p16.<br /> Phương pháp: Phân tích hoá mô miễn dịch của dấu ấn sinh học p16 được thực hiện trên tất cả các<br /> mẫu, bao gồm tổn thương biểu mô gai độ thấp (LSIL) 29 trường hợp, chiếm 22,0%, tổn thương biểu mô gai<br /> độ cao (HSIL) 57 trường hợp, chiếm 43,1% (bao gồm CIN2 9,8%, CIN3 33,3%), carcinôm tế bào gai (SCC)<br /> 08 trường hợp, chiếm 6,1% và mô cổ tử cung chuyển sản gai 38 trường hợp, chiếm 28,8%. Trong nghiên<br /> cứu này, chúng tôi sử dụng xét nghiệm Cobas 4800 HPV phát hiện 14 chủng HPV nguy cơ cao (HR-HPV),<br /> trong đó có 12 chủng định danh chung (31, 33, 35, 39, 45, 51, 52, 56, 58, 59, 66, 68) và 2 chủng nguy cơ<br /> cao, thường gặp, được định danh riêng HPV16 và HPV18. HR-HPV được xác định bởi PCR chỉ có 72/132<br /> trường hợp được thực hiện xét nghiệm HPV trong dung dịch Thinprep với kết quả 55 trường hợp nhiễm<br /> HR-HPV chiếm 76,4% và 17 trường hợp không nhiễm 14 chủng HPV nguy cơ cao trên, chiếm 23,6%.<br /> Kết quả: Có 132 mẫu nghiên cứu thoả tiêu chí chọn mẫu, kết quả chẩn đoán mô bệnh học như sau:<br /> chuyển sản gai (CSG) 38 trường hợp (28,8%), LSIS 29 trường hợp (22%), HSIL 57 trường hợp (43,1%) và<br /> carcinôm tế bào gai (SCC) 08 trường hợp (6,1%). Tất cả trường hợp SCC có p16 (+), HSIL có p16(+) trong<br /> 50/57 trường hợp, nhưng chỉ có 14/29 trường hợp LSIL dương tính với p16. Đặc biệt, trong nhóm CSG có<br /> 4/38 trường hợp p16(+) trên mẫu chuyển sản gai không điển hình. 72/132 trường hợp được thực hiện xét<br /> nghiệm HPV với kết quả 55 trường hợp nhiễm HR- HPV chiếm 76,4% và 17 trường hợp không nhiễm HR-<br /> HPV chiếm 23,6%. Phần lớn các trường hợp tổn thương trong biểu mô và có HR-HPV(+) thì p16(+) mạnh<br /> và lan toả, ngược lại các tổn thương LSIL tỉ lệ p16(+) thấp. Nhóm CSG tuy có 12 trường hợp có HR- HPV<br /> (+) nhưng phần lớn p16(-), đặc biệt là p16 luôn luôn âm trên mẫu biểu mô chuyển sản gai điển hình, biểu<br /> mô gai và biểu mô tuyến cổ trong bình thường.<br /> Kết luận: Hạn chế của nghiên cứu này là mẫu không đủ lớn để kết quả có ý nghĩa thống kê, tuy nhiên,<br /> các bệnh nhân chọn vào mẫu nghiên cứu là ngẫu nhiên. Các kết quả cho thấy rằng P16(+) chuyên biệt cho<br /> các tân sinh trong biểu mô cổ tử cung, đặc biệt là carcinôm. P16(-) cũng không thể loại trừ tân sinh trong<br /> biểu mô. Mặc dù p16 hữu ích trong việc giúp xác định mức độ tổn thương cũng không có nghĩa là thay thế<br /> cho đặc điểm mô bệnh học. P16 có thể dung như xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán. P16 có thể là một dấu hiệu có<br /> thể thay thế cho xác định nhiễm HPV, do cơ chế giữa biểu hiện p16 và gen E7 của HR-HPV bất hoạt protein<br /> RB khi xâm nhập được vào tế bào đáy của cổ tử cung, cũng như là dấu ấn tiên đoán cho việc tổn thương tân<br /> sinh trong biểu mô có thể tiến triển hay thoái triển. Các hướng nghĩ trên chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu<br /> để xác định trong các nghiên cứu sau này với số lượng mẫu đủ lớn.<br /> Từ khoá: P16, Tân sinh trong biểu mô cổ tử cung, Hoá Mô Miễn dịch, Human papilloma virus<br /> <br /> <br /> <br /> * Khoa Giải Phẫu bệnh, Bệnh viện Hùng Vương<br /> ** Bộ Môn Giải Phẫu Bệnh Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh<br /> Tác giả liên lạc: TS. Đoàn Thị Phương Thảo ĐT: 0938008418 Email: thaodtp.dhyd@gmail.com<br /> <br /> <br /> 256<br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Số 5 * 2015 Nghiên cứu Y học<br /> <br /> ABSTRACT<br /> EXPRESSION STATUS OF P16 MARKER AND HUMAN PAPILLOMA VIRUS IN CERVICAL<br /> SQUAMOUS LESIONS<br /> Duong Ngoc Phu, Doan Thi Phuong Thao * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - No 5 - 2015: 256 - 262<br /> <br /> Objective: The goal of this study were to evaluate the expression of p16 biomarker in cervical<br /> squamous lesions and to determine any relationship between cervical squamous lesions, HPV infection and<br /> p16 staining characteristics.<br /> Methods: This study consider the presence of HPV infection by PCR, the expression of p16 in<br /> cervical squamous lesions and any correlation between HPV, p16 and grading cervical squamous<br /> lesions. IHC of p16 biomarker was performed on 132 tissue samples, include: low-grade squamous<br /> intraepithelial lesions: 29 cases, high-grade squamous intraepithelial lesions: 57 cases (CIN2 9,8%,<br /> CIN and carcinoma in situ 33,3%) squamous cell carcinoma: 08 cases and squamous metaplasia<br /> lesions: 38 cases. The staining pattern and intensity of p16 expression were assessed as positive><br /> 10% neoplastic cells, as negative
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2