intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bối cảnh quốc tế và trong nước của quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

3
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Bối cảnh quốc tế và trong nước của quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" với mong muốn chỉ ra các nhân tố quốc tế và trong nước tác động đến quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bối cảnh quốc tế và trong nước của quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nguyễn Nữ Đoàn Vy Trường Chính trị thành phố Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Nguyễn Nữ Đoàn Vy, email: doanvy1911@gmail.com Tóm tắt: Từ đầu thế kỷ XX đến nay, thế giới đã có rất nhiều thay đổi như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa… đã tác động rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội thế giới, đặc biệt là mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là một tổn thất lớn đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Tất cả điều này đã làm nảy sinh nhiều mô hình, nhiều nhận thức, lý luận khác nhau về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công cuộc đổi mới của nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử song vẫn còn không ít những hạn chế, khó khăn trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, những thành tựu và hạn chế này đã đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết với mong muốn chỉ ra các nhân tố quốc tế và trong nước tác động đến quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; xây dựng chủ nghĩa xã hội; bối cảnh quốc tế; đổi mới nhận thức; Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công hay thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, việc đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội rất quan tâm. Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. Bài viết đã đặt ra nhiệm vụ đối với toàn Đảng nói chung và đội ngũ làm công tác lý luận nói riêng là tăng 724
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” cường tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn nữa lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nhất là dưới tác động của các nhân tố thời đại và của thế giới hiện nay1. Chính vì thế, việc tìm hiểu bối cảnh quốc tế và trong nước của quá trình đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là rất cần thiết, góp phần hoàn thiện lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ Kể từ giữa thế kỷ XX cho đến nay, trên thế giới đã diễn ra những biến đổi to lớn và những biến đổi này có ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thứ nhất, toàn cầu hóa, cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức Bắt đầu xuất hiện từ những thập niên cuối của thế kỷ XIX và cho đến đầu thế kỷ XX, xu thế toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Về thực chất, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới, hay nói như C. Mác "là quá trình lịch sử biến thành lịch sử thế giới" (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995, 65-66). Toàn cầu hóa khởi đầu từ cách mạng công nghiệp, từ tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Chính sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã dẫn đến một xu hướng phát triển kinh tế mới trong lịch sử của nhân loại - kinh tế tri thức. Tất cả đã tác động rất lớn đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nhiều quốc gia và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Toàn cầu hóa, cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức có tác động hai mặt đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội của nhiều nước, vừa đem lại thời cơ và cả thách thức nhất là đối với các nước đang và chậm phát triển, trong đó có Việt Nam. Về mặt tích cực, toàn cầu hóa tạo ra sự liên kết, phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, trong quá trình đó, nước ta có cơ hội kế thừa, tiếp thu, sử dụng những 1Xem: (Mai Anh, 2021). 725
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là những thành quả của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; có điều kiện để học hỏi, tiếp thu, trao đổi, nâng cao trình độ, kinh nghiệm quản lý; thu hút vốn đầu tư nước ngoài; có cơ hội mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường, giải quyết việc làm, tham gia vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế; tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc; tạo điều kiện cho việc tiếp thu những thành tựu của văn hóa nhân loại cũng như phổ biến và khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc mình, đồng thời nó cũng tạo điều kiện cho việc hiện đại hóa và làm phong phú nền văn hóa của dân tộc… từ đó sẽ rút ngắn được quá trình phát triển. Bên cạnh đó, xu thế phát triển kinh tế tri thức cũng đặt ra cho nước ta nhiều thời cơ và thách thức. Với nền kinh tế tri thức, giá trị sản phẩm trong chuỗi giá trị toàn cầu sẽ tăng lên, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó, toàn cầu hóa, cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri thức còn có những tác động trái chiều, tạo ra những thách thức không nhỏ đối với những nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, như Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cuba. Mặc dù toàn cầu hóa là xu thế khách quan, song quan hệ sản xuất chi phối quá trình toàn cầu hóa vẫn là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa; các nước tư bản chủ nghĩa phát triển chiếm nhiều ưu thế trong quá trình toàn cầu hóa; các công ty xuyên quốc gia chi phối quá trình toàn cầu hóa, hơn nữa toàn cầu hóa lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội hiện thực đang lâm vào thoái trào, nên tác động tiêu cực của nó đến các nước phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa lại càng rõ rệt. Do đó có thể nói, toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ không đem lại sân chơi bình đẳng cho tất cả các quốc gia, các quốc gia đang và kém phát triển gặp nhiều thách thức, trong đó có các quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới (Nguyễn & Đỗ, 2012, 62). Về phương diện kinh tế, thách thức lớn nhất mà Việt Nam gặp phải đó là tăng sự phụ thuộc về kinh tế vào các quốc gia phát triển và nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Tụt hậu về kinh tế được biểu hiện trên rất nhiều mặt như thu nhập bình quân theo đầu người; năng suất lao động; năng lực cạnh tranh... Tất cả các mặt này chúng ta vẫn còn có nhiều hạn chế. Năng suất lao động vẫn còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, do nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào mô hình tăng trưởng theo chiều rộng. Thu nhập bình quân đầu người của nước ta tăng lên, chúng ta đã bước vào nhóm 726
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” các quốc gia có thu nhập trung bình nhưng vẫn còn khoảng cách lớn về thu nhập so với thế giới. Về năng suất lao động, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam năm 2020 là 5,4%, một mức khá cao khi so sánh với các quốc gia trong khu vực, nhưng chưa đủ nhanh để có thể thu hẹp khoảng cách với các quốc gia khác. Cụ thể, năng suất lao động của Việt Nam đạt 117,9 triệu đồng tương đương 5.081 đô la tính trên mỗi lao động, theo giá hiện hành năm 2020. Mức này thấp hơn 1,5 lần so với Philippines, 4 lần so với Malaysia, 1,6 lần so với Trung Quốc và 10 lần so với Singapore. Báo cáo 2020 của Tổ chức năng suất Châu Á (APO) cũng cho thấy, năng suất lao động Việt Nam năm 2018 chỉ tương đương với năng suất lao động của Nhật Bản năm 1960. Điều này có nghĩa nước ta đã chậm hơn họ khoảng 60 năm. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng tụt hậu khoảng 40 năm so với Malaysia và 10 năm so với Thái Lan2. Toàn cầu hóa cũng làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, từ đó có thể hạn chế, làm suy giảm sự độc lập tự chủ về kinh tế của các nước chậm và đang phát triển. Ngoài ra, toàn cầu hóa còn đem đến nguy cơ ô nhiễm môi trường sinh thái do sử dụng các công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển. Phụ thuộc về kinh tế sẽ dẫn đến phụ thuộc về chính trị, thông qua con đường trao đổi, hợp tác kinh tế, đầu tư, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hóa, tự do hóa tư sản, các nước phát triển đứng đầu là Mỹ đã áp đặt mô hình chính trị của mình vào các nước khác. Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng, toàn cầu hóa còn dẫn đến nguy cơ làm mai một bản sắc văn hóa dân tộc. Thông qua toàn cầu hóa, lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ nghĩa cá nhân, "văn hóa phẩm" độc hại dễ dàng được du nhập vào nước ta. Toàn cầu hóa, cách mạng khoa học - công nghệ đã đem lại những thời cơ, vận hội, đồng thời cũng làm xuất hiện cả những thách thức, nguy cơ thực sự đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Vì vậy, vấn đề cấp bách đặt ra hiện nay là việc nhận thức sâu sắc và tận dụng có hiệu quả những thời cơ này trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thứ hai, sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu Những năm 90 của thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết ở Liên Xô và Đông Âu. Đây là tổn thất to lớn đối với phong trào cách mạng và cộng sản thế giới. Thành trì của chủ nghĩa xã hội đã sụp 2Xem: (Điểm sáng kinh tế và nỗi quan ngại về chất lượng tăng trưởng, 2021). 727
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG đổ, chỗ dựa vững chắc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã không còn, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đứng trước thử thách khốc liệt do hệ quả của sự đổ vỡ đó để lại. Tuy nhiên, sự kiện Liên Xô và Đông Âu tan vỡ không chỉ là một tổn thất, mà còn là một sự kiện mang lại nhiều bài học quý báu cho các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam. Sự đổ vỡ này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Cả nguyên nhân trực tiếp, nguyên nhân gián tiếp; cả nguyên nhân khách quan, cả nguyên nhân chủ quan, ở đây, đề cập 3 nguyên nhân sâu xa, cơ bản: Nguyên nhân từ kinh tế, đó là việc duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quá lâu kể từ sau khi Lênin qua đời, chậm đổi mới về khoa học công nghệ để cải thiện tình trạng sản xuất và nâng cao năng suất lao động. Nguyên nhân chính trị, đó là sự sai lầm về hệ tư tưởng và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Liên Xô. Vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ XX, các Đảng Cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô đã mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức và cuối cùng là đi đến xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin, tự tuyên bố giải tán đảng, đổi tên đảng, hoặc chia thành nhiều đảng khác nhau, thừa nhận đa nguyên, đa đảng. Nguyên nhân từ công tác xây dựng Đảng, thể hiện thông qua việc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ; công tác cán bộ, tình trạng quan liêu, đặc quyền, đặc lợi và "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống… của cán bộ, đảng viên đặc biệt là người đứng đầu của Đảng Cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ. Những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu vào những năm 90 của thế kỷ XX là bài học quý báu đối với cách mạng Việt Nam, đối với nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trước hết, Đảng phải trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, đồng thời phải xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng, chính trị, tổ chức, đạo đức, coi công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Trong quá trình phát triển, để đạt được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" thì việc lựa chọn mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa 728
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” quyết định bởi vì sự đổ vỡ của Liên Xô và Đông Âu là minh chứng cho sự thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, nhân dân; phòng, chống có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, qua đó góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, của nhân dân vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Như vậy, ngoài việc đem lại những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, sự thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô viết còn tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội, về con đường, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thứ ba, chiến lược "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch Bản chất của “diễn biến hòa bình” là hoạt động của các thế lực đế quốc tư bản lớn và cường quyền nhằm vào các nước có chế độ chính trị mà họ coi là không phù hợp với lợi ích của họ, bằng tổng hợp các biện pháp chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao, an ninh... để chuyển hóa chế độ chính trị của các nước này theo quỹ đạo có lợi cho họ (Phùng et al., 2016, 372). Hiện nay, các thế lực thù địch ở phương Tây ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Chúng tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, với nhiều thủ đoạn chống phá hết sức tinh vi, thâm độc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, lý luận với mục tiêu nhằm phủ nhận bản chất khoa học, cách mạng nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của của Đảng và thành tựu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Việt Nam trong công cuộc đổi mới. Bằng "diễn biến hòa bình", chủ nghĩa đế quốc đã hậu thuẫn cho những lực lượng đối lập ở trong nước hòng từng bước làm cho các nước xã hội chủ nghĩa xa rời quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch lợi dụng chiêu bài "nhân quyền", "dân chủ", "quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo"… để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình đó, việc nhận thức rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam có giá trị tư tưởng quan trọng, là cơ sở phản bác một cách thuyết phục, đanh thép các luận điệu sai trái, thù địch; củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 729
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Thứ tư, sự phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc, Cuba, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên đã đạt được nhiều thành tựu đầy ấn tượng. Đặc biệt công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa mà điển hình là quá trình xây dựng "chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc" và cải cách ở nhiều nước khác cùng với khuynh hướng xây dựng "chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI" của khu vực Mỹ Latinh là những chuyển biến mới và tác động rất lớn đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội và lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Có thể kể đến thành tựu nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Trung Quốc đã tác động mạnh đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đó là quan điểm "xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa", quan niệm này của Đảng Cộng sản Trung Quốc phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên và con người với con người trên nhiều lĩnh vực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Đây chính là tham khảo đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển bền vững. Những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới cả về lý luận và thực tiễn đã làm nảy sinh nhiều mô hình, loại hình, nhiều nhận thức, lý luận khác nhau về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả các nhân tố này một mặt giúp Việt Nam bổ sung, hoàn thiện nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và tìm tòi, sáng tạo con đường, cách đi, mô hình phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh đất nước, dân tộc mình, phù hợp với những biến đổi diễn ra trên thế giới. 2. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC Các yếu tố trong nước tác động đến nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta có thể khái quát ở một số điểm sau: Thứ nhất, những khuyết điểm, sai lầm trong thời kỳ trước đổi mới Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954), miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đến năm 1975, chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối do Đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra. 730
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Trong giai đoạn 1954 - 1975, chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Do bối cảnh lịch sử, vấn đề xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam lúc ấy cũng chưa đặt ra trực diện và gay gắt như sau này. Trong thời gian này, quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta chịu ảnh hưởng khá sâu của “mô hình kiểu Xô viết”. Lúc đó mô hình kiểu Xô viết được coi là tốt nhất. Mô hình ấy đã được hiện thực hóa ở hệ thống xã hội chủ nghĩa và ở miền Bắc nước ta. Đó là về mô hình chủ nghĩa xã hội, còn về đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng trong thời kỳ trước đổi mới cũng có sai lầm và điều này đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế xã hội cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ trước. Những sai lầm của Đảng ta trong thời kỳ trước đổi mới, có thể khái quát ở 4 điểm: Một là, chúng ta đối lập hoàn toàn chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung, bao cấp là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường (đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản). Trong lĩnh vực chính trị, do đồng nhất Nhà nước pháp quyền với Nhà nước tư sản nên đã không thừa nhận tính chất pháp quyền của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, không nhận thức đầy đủ yêu cầu, phát huy dân chủ trong xây dựng xã hội mới… Trên lĩnh vực quan hệ hợp tác đối ngoại, chủ yếu tiến hành quan hệ với các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa với nhau, đó là kiểu phát triển tuyến tính, đơn trị, không mở cửa hợp tác song phương, đa phương với các nước phương Tây. Chính vì thế, mặc dù công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta giai đoạn 1975 - 1985 đã đạt được những thành tựu to lớn: khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế, nhưng do nhận thức giáo điều, giản đơn và ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội nên đất nước đã rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng. 731
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Hai là, chưa nhận thức đúng và đầy đủ về “thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" Từ chỗ đối lập hoàn toàn chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, chúng ta đã chưa xác định rõ ràng đầy đủ "thực chất bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" là "bỏ qua cái gì", "không bỏ qua cái gì", bỏ qua như thế nào…, coi chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn xấu xa, hiểu luận điểm "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" một cách giản đơn, cứng nhắc theo kiểu phủ định sạch trơn, không tiếp thu, kế thừa những thành tựu nhân loại đã đạt được trong chủ nghĩa tư bản, bỏ qua tất cả những cái không thể bỏ qua giống như sai lầm ở các nước Liên Xô và Đông Âu trước đây. Ba là, chủ quan duy ý chí, không tuân thủ qui luật khách quan trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, trực tiếp nhất là qui luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng Khi nói về những lệch lạc, sai lầm chủ quan trong sự phát triển kinh tế của đất nước trước đổi mới, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI đã chỉ ra rằng, trong nhận thức cũng như hành động, chúng ta “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 23). Trước đổi mới, do chủ quan, nóng vội và nhận thức sai lầm nên chúng ta đã vội vàng xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trong khi lực lượng sản xuất chưa phát triển và không đồng đều giữa các vùng, miền, các ngành… chúng ta xóa bỏ các hình thức sở hữu tư nhân và chỉ chấp nhận hai hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tương ứng với một thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa với 2 bộ phận là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Điều này là trái với qui luật khách quan, vì trong 2 yếu tố: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định, lực lượng sản xuất phát triển và thay đổi đến đâu thì điều chỉnh quan hệ sản xuất đến đấy cho phù hợp, chúng ta thì làm ngược lại. Hậu quả là kinh tế nước ta một thời kỳ dài rơi vào khủng hoảng. Bốn là, chưa nhận thức được tính chất khó khăn, lâu dài và phức tạp của thời kỳ quá độ Tính chất khó khăn, lâu dài và phức tạp của thời kỳ quá độ đã được V.I.Lênin chỉ rõ và theo ông nó phụ thuộc vào xuất phát điểm từ những tiền đề về kinh tế, văn hóa, xã hội khi bước vào thời kỳ quá độ của mỗi quốc gia. Đối với các nước đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, việc thực hiện quá độ trực tiếp vốn 732
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đã rất khó khăn và phức tạp; đối với các nước lạc hậu, chưa kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm thấp thì tính phức tạp và sự khó khăn đó trong thời kỳ quá độ còn lớn gấp bội. Tuy nhiên, những tư tưởng quan trọng của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác- Lênin về vấn đề này chưa được chúng ta quán triệt, nhận thức và vận dụng đúng đắn trong thực tiễn. Với quan niệm giản đơn của chúng ta về thời kỳ quá độ đã ảnh hưởng đến biện pháp, cách đi, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất là tư tưởng nóng vội, chủ quan, muốn nhanh kết thúc thời kỳ quá độ. Chính vì thế, Đại hội VI Đảng ta đã chỉ rõ những sai lầm trong 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đòi hỏi Đảng ta phải có nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Thứ hai, những thành tựu và hạn chế của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội qua 35 năm đổi mới Công cuộc đổi mới đất nước, được tiến hành từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12/1986). Từ đó đến nay, sau 35 năm đổi mới và 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, với thế và lực ngày càng mạnh hơn bao giờ hết. Trước hết là những khuyết điểm, sai lầm trong thời kỳ trước đổi mới được khắc phục, nhất là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, vì thế vai trò lãnh đạo của Ðảng càng được tăng cường, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm3; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8% (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 8). Mặc dù năm 2020, năm 2021, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu vực, thế giới, là một trong số ít quốc gia có tốc độ tăng trưởng dương lần lượt là 2,91% (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2020) và 2,58% (Tổng cục thống kê Việt Nam, 2021). 3Xem: (Phát triển Kinh tế - Xã hội là nhiệm vụ trung tâm, 2021). 733
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750 USD/năm. Công tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu ấn tượng, tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993 xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều). Các thành tựu trên lĩnh vực văn hóa, xã hội của đất nước đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Nhiều chỉ số về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực... Theo khảo sát, đánh giá và xếp hạng của Liên hợp quốc về chỉ số phát triển bền vững của các quốc gia, các nền kinh tế, Việt Nam là 1 trong 10 nước chia sẻ kinh nghiệm về phát triển bền vững cho các nước trên thế giới. Năm 2016, chúng ta đứng thứ 88. Với những nỗ lực, cố gắng vượt bậc đến năm 2020, Việt Nam đã đứng thứ 49 về phát triển bền vững trên thế giới trong khi thu nhập bình quân đầu người còn ở hạng ngoài 100. Điều đó thể hiện sự ưu việt của chế độ và con đường phát triển mà Việt Nam đã lựa chọn. Bên cạnh đó, công tác xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao… Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nói: "Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay" (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 25). Các thành tựu này tạo tiền đề quan trọng để đất nước tiếp tục đổi mới, phát triển trong những năm tới; đồng thời khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, chúng ta còn có hạn chế, khuyết điểm. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học hoạch định đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn một số vấn đề cần phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội 734
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển còn thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn một số nhân tố, nguy cơ gây mất ổn định xã hội; đã có những biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác; công tác xây dựng Đảng còn nhiều vấn đề cần phải chỉnh đốn, nhất là tình trạng quan liêu, tham nhũng, hối lộ của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và làm giảm sút lòng tin của nhân dân… Tất cả những thành tựu và những hạn chế đó đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của Đảng ta, đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba, giai đoạn phát triển mới của cách mạng nước ta Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, nước ta hoàn toàn thống nhất và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước chuyển môi trường chiến tranh sang môi trường hòa bình, từ nhiệm vụ giành độc lập dân tộc sang nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng an ninh… đây chính là giai đoạn phát triển mới của cách mạng nước ta, bối cảnh này đã đưa đến những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế cùng với những tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự chống phá ráo riết của các thế lực thù địch, đòi hỏi phải có sự chuyển biến và đổi mới đồng bộ của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trên mọi phương diện. Trong đó, trước hết và trên hết, Đảng phải đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là sự đổi mới nhận thức về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức mới về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhận thức mới về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ động hội nhập quốc tế… Và còn rất nhiều vấn đề đặt ra trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng nước ta, tất cả những điều này tác động đến nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tất nhiên, không phải đến lúc này vấn đề phát triển nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội mới được đặt ra mà tại kỳ họp thứ nhất của Hội đồng lý luận Trung ương nhiệm kỳ 2006-2010, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã yêu cầu: "Hội nghị cần lưu ý tới một số 735
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vấn đề thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà công tác lý luận chưa giải đáp được" (Xuân Hồng, 2007). Chính vì thế, nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không thể làm ngơ trước những đòi hỏi của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. 3. KẾT LUẬN Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công hay thất bại phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên dù đã có nhiều công trình nghiên cứu lý luận về chủ nghĩa xã hội, nhưng hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung và phát triển. Đây cũng là quá trình phát triển, hoàn thiện tư duy về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng cộng sản. Có những biện pháp, cách đi phù hợp với quốc gia này nhưng không phù hợp với quốc gia khác; phù hợp trong giai đoạn này nhưng không phù hợp trong giai đoạn khác, chính vì thế, việc tìm hiểu, chỉ ra các nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam để từ đó chúng ta bổ sung lý luận về chủ nghĩa xã hội, xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội của riêng mình, mô hình đó vừa dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với đặc điểm cụ thể của Việt Nam và chứa đựng những yếu tố thời đại đồng thời đề ra biện pháp, con đường phù hợp để hiện thực hóa mô hình đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen. (1995). Toàn tập (Vol. 3). Chính trị quốc gia. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Chính trị Quốc gia - Sự thật. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. 736
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” [5]. Điểm sáng kinh tế và nỗi quan ngại về chất lượng tăng trưởng. (2021, January 15). Trường Đại học Kinh tế quốc dân. https://www.neu.edu.vn/vi/thong-tin-kinh- te/diem-sang-kinh-te-va-noi-quan-ngai-ve-chat-luong-tang-truong [6]. Nguyễn, Q. P., & Đỗ, T. T. (2012). Những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [7]. Phùng, H. P., Lê, H. N., Vũ, V. H., & Nguyễn, V. T. (2016). Một số vấn đề lý luận - Thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới. Chính trị quốc gia. [8]. Tổng cục thống kê Việt Nam. (2020, December 27). Báo cáo tình hình kinh tế - Xã hội quý IV và năm 2020. General Statistics Office of Vietnam. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2020/12/baocao-tinh- hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2020/ [9]. Tổng cục thống kê Việt Nam. (2021, December 29). Báo cáo tình hình kinh tế - Xã hội quý IV và năm 2021. General Statistics Office of Vietnam. https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/12/bao-cao-tinh- hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2021/ [10]. Xuân Hồng. (2007, March 24). Khai mạc Kỳ họp thứ nhất Hội đồng Lý luận Trung ương. Báo Điện tử Chính phủ. https://baochinhphu.vn/news-102470.htm 737
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0