intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

9
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Tác động của bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" đề cập đến những tác động của bối cảnh quốc tế đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI để từ đó thấy được những định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thế kỷ XXI. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của bối cảnh quốc tế đầu thế kỷ XXI đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ ĐẦU THẾ KỶ XXI ĐẾN SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nguyễn Thị Vâna, Quách Thành Longb a Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội b Trường Chính trị tỉnh Hòa Bình Tác giả liên hệ: Quách Thành Long, email: Quachthanhlong.hnue@gmail.com Tóm tắt: Chủ nghĩa xã hội được xây dựng trên cơ sở những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công làm cho chủ nghĩa xã hội từ lý luận đã trở thành hiện thực. Từ đó, Chủ nghĩa xã hội bắt đầu được mở rộng và phát triển mạnh mẽ. Năm 1945 khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa xã hội đã trở thành một hệ thống trên thế giới, trong đó Việt Nam cũng nằm trong khối các xã hội nước chủ nghĩa. Chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975 đã thống nhất được non sông, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Vượt qua những thử thách của thời đại, Việt Nam bước sang thế kỷ XXI với nhiều vận hội mới, nhất là khi chúng ta ở trong thời kỳ cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ với sự bùng nổ của công nghệ thông tin, công nghệ số,... Đây sẽ là động lực, là cơ hội để chúng ta xây dựng đất nước, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta vẫn còn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới có nhiều biến động mang tính tiêu cực, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, những cuộc chiến tranh, xung đột mang tính cục bộ ở nhiều nơi trên thế giới cùng với những mặt trái của nền kinh tế thị trường,… đã tác động rất lớn đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước sự tác động mạnh mẽ và gay gắt của thời cuộc, chúng ta vẫn hoàn toàn có thể tin tưởng vào thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong bài viết, chúng tôi đề cập đến những tác động của bối cảnh quốc tế đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đầu thế kỷ XXI để từ đó thấy được những định hướng của Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thế kỷ XXI. Từ khóa: bối cảnh quốc tế; thế kỷ XXI; chủ nghĩa xã hội; Việt Nam. 709
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 1. BỐI CẢNH QUỐC TẾ ĐẦU THẾ KỶ XXI Bắt đầu từ cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, trước sự bùng nổ mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên phạm vi toàn thế giới, có thể thấy, bộ mặt của các quốc gia trên thế giới có sự thay đổi vượt bậc so với những thời kỳ trước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trước sự bùng nổ của công nghệ thông tin, công nghệ số có nhiều bước nhảy vọt cả về chất lượng và số lượng. Công nghệ sinh học cũng có sự phát triển đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Những điều này đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và làm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế trên phạm vi toàn thế giới trong đó có Việt Nam. Kinh tế tri thức là một trong những đòi hỏi cấp thiết quyết định đến sự phát triển của các quốc gia, dân tộc. Quá trình quốc tế hoá sản xuất cùng với phân công lao động diễn ra ngày càng sâu rộng, toàn cầu hóa với vai trò ngày càng lớn của các công ty xuyên quốc gia tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với nhữmg tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen hết sức phức tạp. Kinh tế thị trường đang phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia trên thế giới nhưng vẫn tiếp tục tồn tại các mẫu thuẫn, khủng hoảng mang tính chu kỳ ở các quốc gia, đặc biệt ở các nước tư bản vẫn là một hiện tượng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của nó. Việc tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu đã trở thành yêu cầu đối với các nền kinh tế trên thế giới. Trong quan hệ quốc tế, quan hệ địa chính trị, cục diện đa cực, đa trung tâm ngày càng thể hiện rõ thay thế cho cục diện hai cực trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Quan hệ quốc gia, dân tộc và giữa các bộ phận, các nhóm dân cư... có nhiều sự thay đổi và ngày càng phức tạp. Hòa bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế lớn, bên cạnh đó vẫn tiếp tục diễn ra xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành vị thế, tầm ảnh hưởng của các quốc gia phát triển với những quốc gia đang và kém phát triển trên thế giới. Biến đổi khí hậu, các thảm họa thiên nhiên, dịch bệnh, tội phạm, khủng bố, bùng nổ dân số, đói nghèo... đặt ra cho các quốc gia trên thế giới một nhiệm vụ cấp 710
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” bách cần phải được giải quyết kịp thời để cùng phát triển, đó chính là vấn đề phát triển bền vững. Xung đột giữa các nền văn hóa cùng với giao lưu văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc đưa đến nhiều thuận lợi nhưng cũng chứa đựng nhiều thách thức trong vấn đề xây dựng, phát triển và bảo tồn văn hóa của các dân tộc. Các thế lực thù địch với những âm mưu, thủ đoạn thâm độc lợi dụng “diễn biến hòa bình” cùng với sự phát triển của chủ nghĩa dân túy trên thế giới mà đặc biệt là ở các quốc gia phương Tây đã làm cho tình hình xung đột ở nhiều quốc gia trên thế giới diễn biến phức tạp. Mặt khác, các thế lực thù địch liên tục có những hành động chống phá sự lãnh đạo của các Đảng Cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, gây mất đoàn kết, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, sử dụng chiêu bài tự do, dân chủ để có những hành động can thiệp gây xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chính từ những bối cảnh thế giới như vậy đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nói chung và Việt Nam nói riêng. 2. TÁC ĐỘNG CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ ĐẾN SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nhìn chung, chủ nghĩa xã hội hiện thực “hầu hết” ra đời từ những quốc gia lạc hậu, chậm phát triển và chưa trải qua chủ nghĩa tư bản, chưa có sự phát triển đầy đủ như mô hình sản xuất tư bản chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá quyết tâm xây dựng XHCN trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới với nhiều cơ hội cùng với đó là những thách thức. Trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI thì sự nghiệp xây dựng XHCN ở nước ta sẽ chịu rất nhiều tác động cả tích cực và tiêu cực. Một là, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Hợp tác, cạnh tranh, đấu tranh và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn ngày càng tăng. Từ sau chiến tranh thế giới thứ II đến kết thúc 711
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thời kỳ chiến tranh lạnh. Hậu quả của các cuộc chiến tranh, xung đột sắc tộc trên thế giới đã làm cho các quốc gia, dân tộc đều nhận thấy được tầm quan trọng của hòa bình, ổn định cùng phát triển. Không có quốc gia nào có thể phát triển trong tình trạng bất ổn về chính trị và quân sự, vì vậy hòa bình để phát triển đã trở thành nhu cầu bức thiết của các dân tộc trên thế giới. Các quốc gia bắt tay, hợp tác với nhau chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Việt Nam là một quốc gia đang trên con đường xây dựng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là quốc gia đã trải qua những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hơn ai hết, chúng ta hiểu rõ được giá trị của hòa bình, ổn định để có thể phát triển đất nước. Là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, Việt Nam sẵn sàng bắt tay với tất cả các quốc gia có thiện chí, yêu chuộng hòa bình để cùng phát triển. Chúng ta kiên định duy trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định nguyên tắc nền tảng và tư tưởng chỉ đạo của đối ngoại thời kỳ Đổi mới là: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng” (Song Hà, 2021). Đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng ta là động lực quan trọng cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hai là, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh. Toàn cầu hóa trở thành xu thế lớn thu hút hầu như tất cả các quốc gia, dân tộc tham gia với rất nhiều những cơ hội và thách thức lớn. Xu hướng mở rộng hợp tác, hội nhập quốc tế ngày càng được tăng cường, toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan. Bối cảnh mới đó buộc các quốc gia, dân tộc phải có sự định hướng mới mẻ trong tư duy về vấn đề phát triển, trong đó phát triển kinh tế trở thành mục tiêu hàng đầu. Toàn cầu hóa làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, mở ra kỹ thuật mới và nâng cao mức sống cho người dân. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, toàn cầu hóa cũng tấn công vào chủ quyền của các quốc gia, làm xói mòn nền văn hóa và truyền thống của các dân tộc, tạo ra khả năng quốc tế hóa các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội như buôn bán ma túy, mại dâm, các phong trào ly khai, nhập cư trái phép,… đe dọa 712
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” gây bất ổn định kinh tế - xã hội. Đồng thời khoảng cách giàu nghèo ngày cảng lớn kéo theo sự bất bình đẳng giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Việt Nam thực hiện hội nhập với quốc tế xuất phát từ những mục tiêu kinh tế - xã hội trong quá trình phát triển với sự lựa chọn chế độ xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Hội nhập quốc tế mang lại nhiều lợi ích đa dạng nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam. Thúc đẩy tiến trình cải cách kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử giữa các quốc gia, dân tộc, được hưởng lợi từ các ưu đãi khi mở cửa thị trường, thu hút vốn đầu tư và chuyển giao kỹ thuật công nghệ cao, nâng cao vị thế của Việt Nam, tăng cường thế và lực trong thương mại quốc tế. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế nước ta bắt đầu phát triển và phát triển mạnh mẽ, liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008,… Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD,…” (Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng, 2021, 22). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó chúng ta cũng phải đối mặt không ít khó khăn, thách thức. Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp nên sức cạnh tranh của cả nền kinh tế còn yếu kém, cơ chế thị trường ở nước ta còn đang trong quá trình hoàn thiện; hội nhập kinh tế quốc tế sẽ làm giảm tính độc lập tương đối trong việc triển khai thực hiện các chính sách kinh tế quốc gia hiện nay. Ba là, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin tiếp tục phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy sự phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia trong đó có Việt Nam. Việt Nam hiện nay đang chú trọng phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ coi đó là quốc sách hàng đầu, là một trong những động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công 713
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. “Khoa học và công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được tăng cường. Khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đóng góp tích cực hơn trong nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 25). Trong quá trình đổi mới đất nước chúng ta đã đạt được rất nhiều những thành tựu quan trọng trong nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất: “Khoa học cơ bản đạt được nhiều thành tựu, thể hiện qua các chỉ số xếp hạng, công bố quốc tế. Số lượng bài báo công bố quốc tế ISI của Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2020 tăng trung bình 20%. Riêng trong năm 2020, công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm 2019… Khoa học - công nghệ ứng dụng thể hiện những bước tiến rõ nét về trình độ công nghệ. Chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2% giai đoạn 2016 - 2020. Khoa học - công nghệ ngày càng đóng góp nhiều vào giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa…” (Lê, 2022). Tuy nhiên vẫn còn nhiều những hạn chế, yếu kém, khoa học công nghệ chưa thực sự trở thành động lực thúc đẩy, gắn kết với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, chưa gắn kết có hiệu quả giữa nghiên cứu với đào tạo và sản xuất kinh doanh, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu, chậm so với khu vực và quốc tế. Chính vì vậy, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định cần phải “Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Chú trọng phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học lý luận chính trị” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 60). Bốn là, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh, diễn biến rất phức tạp, khó lường, tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ, cạnh tranh ảnh hưởng địa chính trị giữa các quốc gia và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn 714
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh mạng, chiến tranh cục bộ,... tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Có thể thấy, tình hình chính trị - an ninh trên thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp, các tổ chức khủng bố mới ra đời làm ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế của các quốc gia đặc biệt là các nước Trung Đông và một số nước châu Âu. Các quốc gia nắm trong tay tiềm lực kinh tế và quân sự lớn đều ra sức tạo ảnh hưởng của mình về địa chính trị, sử dụng các công cụ về quân sự, kinh tế để tạo sức ép với các quốc gia khác, làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế, ổn định chính trị của nhiều quốc gia trên thế giới. Bằng các thủ đoạn và các chiêu bài của mình, các nước lớn có xu hướng muốn bành trướng và có nhiều hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia bằng cả quyền lực cứng và quyền lực mềm. Cùng với quá trình hội nhập quốc tế đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin nên tình hình an ninh mạng đã đặt ra cho các quốc gia nhiều thách thức. Việc kiểm soát bảo mật cùng với chống tin tặc đang là yêu cầu hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia. Nước ta nằm trong khu vực cửa ngõ của các vùng biển quốc tế, có vị trí địa lý chiến lược cả về kinh tế và quân sự, nhìn nhận một cách khách quan, vị trí chiến lược đó là cơ sở hết sức thuận lợi cho Việt Nam phát triển kinh tế, mở rộng giao lưu văn hoá trong điều kiện hoà bình nhưng cũng dễ biến Việt Nam thành mục tiêu, địa bàn diễn ra những “cuộc đụng độ lịch sử”. Ở Việt Nam cùng với quá trình hội nhập quốc tế đã đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề hết sức phức tạp mà đặc biệt là vấn đề quốc phòng - an ninh. Tình hình an ninh, chính trị luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, củng cố. An ninh được đảm bảo và Việt Nam được coi là một trong những quốc gia có tình hình an ninh, chính trị ổn định nhất trên thế giới hiện nay. Trước những đòi hỏi của thực tiễn luật An ninh mạng đã được thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc củng cố thêm hệ thống pháp luật Việt Nam, tạo hành lang pháp lý trong lĩnh vực công nghệ thông tin, đảm bảo an ninh mạng. Tạo cơ sở để chống lại các thế lực thù địch âm mưu dùng công nghệ thông tin để chống phá Đảng và Nhà nước gây mất đoàn kết trong quần chúng nhân dân. Phát biểu kết luận bế mạc hội thảo “Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng”, Bộ trưởng Tô Lâm nhấn mạnh cần phải “Tiếp tục tăng cường thực hiện các giải pháp bảo đảm an ninh mạng và đấu tranh phòng, chống tội phạm trên không gian mạng. Triển khai đồng bộ các giải pháp để bảo đảm an ninh mạng cho 715
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG hệ thống thông tin quan trọng về An ninh quốc gia; phát hiện, đấu tranh ngăn chặn sớm hoạt động tấn công mạng, gián điệp mạng, âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trên mạng” (Thu Thanh, 2021). Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng lực lượng quân đội từng bước chính quy, tinh nhuệ, hiện đại cũng được chú trọng, đây là cánh tay phải của Đảng để giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo vệ thành quả của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ XXI. Năm là, những vấn đề như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường đang ngày càng trở thành vấn đề toàn cầu chứ không chỉ riêng một quốc gia. Chúng ta đang đối mặt với tình trạng trái đất nóng dần lên, nước bị ô nhiễm và ngày càng cạn kiệt do khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên. Từ đó đã kéo theo vấn đề mất an ninh lương thực. Dân số thế giới đang ngày càng tăng. Tình hình dân số thế giới đang diễn biến hết sức phức tạp ảnh hưởng đến giải quyết nhu cầu của đời sống, đặc biệt là vấn đề lương thực và sinh thái. Tình trạng di dân từ nông thôn ra thành thị gây sức ép rất lớn về lao động đi liền với đó là tệ nạn xã hội tăng lên. Quỹ đất dần thu hẹp, đất sản xuất nhường chỗ cho các khu công nghiệp, sản xuất lương thực gặp khó khăn khi thiên tai, lũ lụt, và tình trạng hạn hán diễn ra thường xuyên và mức độ ngày càng nghiêm trọng đã dẫn đến tình trạng mất an ninh lương thực trên phạm vi toàn cầu. Đi liền với đó là dịch bệnh đang ngày càng phổ biến ở các quốc gia đặc biệt là chúng ta đang được chứng kiến đại dịch trên phạm vi toàn thế giới là đại dịch Covid-19 đã gây ra rất nhiều thiệt hại trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Mặt khác, ngày càng xuất hiện những loại bệnh lạ có khả năng lây lan cao mà chúng ta chưa có thuốc chữa. Ở một số quốc gia chậm và đang phát triển thì dịch vụ y tế còn lạc hậu chưa đủ khả năng để kiểm soát dịch bệnh nếu bùng phát trên diện rộng. Tình hình ô nhiễm môi trường và mất cân bằng sinh thái đang là vấn đề hết sức cấp bách của các quốc gia và quốc tế đòi hỏi phải có một chiến lược tổng thể để có thể phát triển bền vững. Những vấn đề này đã tác động rất lớn đến sự phát triển của các lĩnh vực đời sống xã hội ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong tình hình có nhiều phức tạp như vậy nhưng “Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, 716
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 9). Việt Nam qua 35 năm đổi mới đất nước luôn hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng thứ nhất là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước” (Tạ, 2021). Đây là lần đầu tiên, vấn đề “thể chế phát triển bền vững” được đặt ra trong một văn kiện đại hội Đảng. Sáu là, sự cạnh tranh về kinh tế, chính trị ở các quốc gia cũng tác động rất lớn đến chuỗi giá trị toàn cầu gây bất ổn về tài chính, giá cả. Giá các loại tài nguyên đặc biệt là dầu mỏ biến động sẽ gây ra những biến động trên thị trường tài chính, các nước lớn với những đồng tiền mạnh của mình nếu lâm vào khủng hoảng sẽ gây ra bất ổn về tài chính, giá cả trên toàn thế giới. Tình trạng nghèo đói ở các quốc gia chậm phát triển và đang phát triển gây ra tình trạng nợ công, không có khả năng chi trả các khoản vay quốc tế nên sẽ gây bất ổn về an ninh, chính trị, kinh tế của các quốc gia đó. Ngày nay, khi bước vào thế kỷ XXI, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đang có nhiều thay đổi. Hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam đều điều chỉnh chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới thể chế kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ để phát triển. Cạnh tranh kinh tế, thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, thị trường, công nghệ, nhân lực chất lượng cao giữa các nước ngày càng gay gắt, kinh tế tri thức. Xuất hiện nhiều hình thức liên kết kinh tế mới, các định chế tài chính quốc tế, khu vực, các hiệp định kinh tế song phương, đa phương thế hệ mới. Trong tình hình đó, Đảng ta chủ trương “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển quốc gia, các vùng, các ngành, lĩnh vực phù hợp với thực tiễn đất nước nhằm nâng cao tính tự chủ, khả năng thích ứng và sức chống chịu của nền kinh tế. Đẩy mạnh phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu 717
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vực, thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 101). Đây là bước đệm quan trọng sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, mạnh và bền vững trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bảy là, Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng trên thế giới. Đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có những yếu tố tiềm ẩn bất ổn. Tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông tiếp tục diễn ra gay gắt, phức tạp. ASEAN trở thành cộng đồng, tiếp tục phát huy vai trò quan trọng trong duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác, liên kết kinh tế trong khu vực, nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cả bên trong và bên ngoài. Đại hội XII của Đảng ta đã nhận định: “Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa lý - kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2019). Tình hình trên gây ảnh hưởng đa chiều đến các quốc gia, trước hết là các nước đang phát triển như Việt Nam. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước để trở thành một nước công nghiệp cơ bản theo hướng hiện đại, cùng với những thành tựu cơ bản trên các lĩnh vực thì Việt Nam cũng đang và sẽ đứng trước những thách thức phức tạp trên con đường phát triển và hội nhập quốc tế, nhất là từ sự tác động của những diễn biến còn phức tạp trên Biển Đông. Trong những năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN, WTO, TPP, và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn trong quá trình hội nhập quốc tế. Cần phải phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế, chú trọng đưa các quan hệ đối tác đã được thiết lập đi vào chiều sâu đồng thời xây dựng các mối quan hệ thực chất, ổn 718
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” định và lâu dài. Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những khó khăn, thách thức khi gia nhập các tổ chức quốc tế. Với sự quan tâm của các nước lớn đối với khu vực, Việt Nam có điều kiện phát triển quan hệ hợp tác với tất cả các nước lớn, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư mặt khác sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn cũng khiến Việt Nam phải có đường lối và chính sách ứng xử khéo léo, mềm dẻo để duy trì, củng cố quan hệ tốt đẹp với tất cả các nước, cả trên bình diện đa phương và song phương. Sự gia tăng hiện diện quân sự ở Biển Đông của một số nước lớn cũng gây thách thức khó lường về an ninh và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vai trò trung tâm của ASEAN bị thách thức cũng ảnh hưởng đến chỗ dựa của Việt Nam trong việc bảo vệ các lợi ích quan trọng như Biển Đông và nguồn nước sông Mê Công. Tám là, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, hiện nay, thế giới đã và đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế tri thức dựa trên sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các luồng văn hóa theo đó mà lan tỏa mạnh mẽ đến các quốc gia trong đó có cả những yếu tố tích cực và tiêu cực. Văn hóa đã trở thành nguồn lực trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa không chỉ có chức năng nhận thức và giáo dục xã hội mà có chức năng kinh tế, tham gia trực tiếp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Đất nước ta đang ở trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao.Trong thực tiễn, những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước ta đã đạt được qua 35 năm đổi mới đã chứng minh cho đường lối văn hóa đúng đắn của Đảng: “Chăm lo văn hóa là chăm 719
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998, 55). Để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế như tinh thần Đại hội lần thứ XIII của Đảng, cần phải nỗ lực “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021a, 336). Chín là, cùng với quá trình giao lưu, hội nhập quốc tế, các thế lực thù địch trong và ngoài nước trỗi dậy cùng với sự hậu thuẫn của nhiều tổ chức phản động trên thế giới bằng diễn biến hòa bình trong thời đại 4.0, lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội để chống phá gây chia rẽ dân tộc, bôi nhọ các anh hùng dân tộc, các vị lãnh tụ của Đảng dưới chiêu bài “xét lại lịch sử”, đánh vào tư tưởng của thế hệ trẻ cùng với những luồng văn hóa ngoại lai có tính chất phản động làm cho thế hệ trẻ mơ hồ về lịch sử dân tộc, có những nhận định, đánh giá sai lầm về sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà các thế hệ cha anh đã đánh đổi bằng cả xương máu mới có được hòa bình như ngày hôm nay. Các thế lực thù địch còn lợi dụng các trang mạng xã hội để tung ra những chiêu bài như xét lại lịch sử, đánh giá lại nhân vật lịch sử hoặc nói một nửa sự thật gây ra tình trạng mơ hồ về thông tin, gây hiểu nhầm hoặc dẫn đến kích động quần chúng gây ra tình trạng bạo loạn, lật đổ. Bên cạnh đó, những bài viết, những phát biểu, những bài nói mang tính chất “dân túy” xuất hiện ngày càng nhiều trên không gian mạng, các thế lực thù địch và bọn phản động đưa vào đó những nội dung chống đối Đảng và Nhà nước, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối phát triển kinh tế của đất nước đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên và một số những cá nhân thiếu hiểu biết, hoặc bất mãn với chế độ đã gây ra những hành vi chống đối, khủng bố mang tính chất cá nhân nhằm vào các cơ quan nhà nước hoặc tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước, bôi xấu, vu khống các vị lãnh tụ của Đảng, các lãnh đạo Đảng qua các thời kỳ. Các trang mạng xã hội được các thế lực thù địch tận dụng rất tốt để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với các cá nhân bất mãn với chế độ. Các blog, website như BBC News tiếng việt, Việt Tân, RFA Á Châu,… liên tục có những bài viết mang tính chất phản động, kích động, lấy những cán bộ thoái hóa, biến chất 720
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” trong bộ máy nhà nước để bôi xấu bộ máy công quyền,… Tất cả những điều đó đều hướng tới một mục đích đó là phá hoại thành tựu trên mọi lĩnh vực mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng, là phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chính là phá hoại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay. 3. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC ĐI LÊN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRƯỚC BỐI CẢNH QUỐC TẾ ĐẦU THẾ KỈ XXI Một là, kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đồng thời cần phải kiên định đường lối đổi mới của Đảng, các nguyên tắc xây dựng Đảng. Cần phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta. Hai là, cần đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước, bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội cần phải là trung tâm, công tác xây dựng Đảng là then chốt, đồng thời cần phải phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần, song song với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên. Ba là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nền văn hoá, con người Việt Nam; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất. Bốn là, tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm 721
  14. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG vụ. Đấu tranh với các luận điệu sai trái, thù địch, của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 4. KẾT LUẬN Thế kỷ XXI với những vận hội mới, thách thức mới của tình hình quốc tế ảnh hưởng, tác động mạnh mẽ đến quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chúng ta biết chắc rằng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội quanh co, phức tạp và không tránh khỏi những bước thụt lùi. Tuy nhiên, bằng trí tuệ, bằng bản lĩnh và bằng quyết tâm cũng như khát vọng của dân tộc ta thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời đại mới chắc chắn sẽ thành công. Điều này đã được lịch sử chứng minh bằng thành quả của 35 năm đổi mới đất nước như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021b, 10). Với khát vọng phát triển đất nước như Văn kiện Đại hội XIII đã nêu lên, chúng ta tin tưởng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ chèo lái con thuyền cách mạng đi đến chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ban Tuyên Giáo Trung ương Đảng. (2021). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự Thật. [2]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1998). Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII. Chính trị quốc gia. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2019, December 13). Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. https://dangcongsan.vn/tu-lieu-tham-khao-cuoc-thi-trac-nghiem-tim-hieu-90- nam-lich-su-ve-vang-cua-dang-cong-san-viet-nam/tu-lieu-cuoc-thi/nghi- quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xii-544856.html [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021a). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 2). Chính trị quốc gia Sự thật. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021b). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. 722
  15. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” [6]. Lê, X. Đ. (2022). Tạo đột phá để khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trở thành động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước nhanh, bền vững. Tạp chí Cộng sản. https://tapchicongsan.org.vn/media- story?p_p_id=101_INSTANCE_V8hhp4dK31Gf&p_p_lifecycle=0&p_p_state= normal&p_p_mode=view&p_p_col_id=column-1&p_p_col_count=2&_101 _INSTANCE_V8hhp4dK31Gf_struts_action=%2Fasset_publisher%2Fview_co ntent&_101_INSTANCE_V8hhp4dK31Gf_urlTitle=tao-dot-pha-de-khoa-hoc- cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-tro-thanh-dong-luc-chu-yeu-cho-tang- truong-kinh-te-va-phat-trien-dat-nuoc-nhanh-ben-vung [7]. Song Hà. (2021, December 21). Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập của Việt Nam. Báo Điện tử Quốc phòng thủ đô. http://quocphongthudo.vn/xa- hoi/tin-tuc/duong-loi-doi-ngoai-doc-lap-tu-chu-va-hoi-nhap-cua-viet- nam.html [8]. Tạ, N. T. (2021, May 16). Những nhận thức mới về định hướng phát triển trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng - Tạp chí Cộng sản. Tạp chí Cộng sản. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/thong-tin-ly-luan/- /2018/821908/nhung-nhan-thuc-moi-ve-dinh-huong-phat-trien-trong-van- kien-dai-hoi-xiii-cua-dang.aspx [9]. Thu Thanh. (2021, September 12). Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Tạp chí Cộng sản. https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/thong-tin-ly- luan/-/2018/824447/bao-dam-chu-quyen-quoc-gia-tren-khong-gian- mang.aspx 723
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0